Phía sau trang sách

Tuyết: Thứ tro trắng chôn lấp những hi vọng

Sau thành công vang dội của “Tên tôi là Đỏ”, Orhan Pamuk tiếp tục chứng tỏ ông là ứng cử viên sáng giá cho giải Nobel với “Tuyết” – tác phẩm được Margaret Atwood ca tụng là “cuốn sách không thể thiếu của thời đại chúng ta”.

Published

on

Tiểu thuyết tựa lối đi nhỏ xuyên qua bầu không khí mờ ảo được tuyết che phủ để tìm đến trái tim của những kẻ khắc khổ bị đóng băng từ tận bên trong. Những con người ấy, những người sống trong vòng tay của tuyết, ngày ngày đắm chìm vào cái lạnh buồn bã đẹp vô hạn, liệu họ thấy gì từ tinh thể sáu cạnh huyền ảo tinh khôi, hay chưa kịp chạm đến đã vỡ tan. Tôi cứ tưởng có thể bắt gặp cảnh tượng này ở mọi nơi có tuyết. Nhưng tôi phải chờ đến Kars, thành phố tuyết, khi cái đẹp và sự đổ vỡ cách nhau chỉ trong gang tất mới cảm nhận rõ ràng được. Và lắm lúc, Orhan Pamuk đẩy ranh giới đó về zero, biến mọi chuyện trở nên khó đoán sau bức màn trắng xóa. Tuyết hội tụ đủ các yếu tố làm nên tên tuổi Orhan Pamuk, mặt khác cũng chứa đựng những bí mật của riêng nó.

Tóm tắt tác phẩm:

Tiểu thuyết xoay quanh hành trình kiếm tìm hạnh phúc đích thực đời mình của thi sĩ Ka – một người sống lưu vong sau mười hai năm trở về quê nhà để gặp mặt người bạn học Ipek. Xen lẫn câu chuyện tình yêu là bức tranh chính trị đẫm mùi khói súng ở thành phố biên giới Kars diễn ra giữa các thế lực Hồi giáo cực đoan và nhà nước thế tục với những khát vọng khó hiểu của những kẻ lãnh đạo (Lam và Sunay Zaim). Điểm tô bức tranh rối rắm đó là tin đồn về những cô gái tự sát để phản đối lệnh cấm khăn trùm đầu cùng số phận bi thảm của những thiếu niên Hồi giáo trẻ trung vô tình trở thành nạn nhân hay bất đắc dĩ phải làm nhân chứng cho tấn thảm kịch. Tất cả diễn ra trên nền cơn bão tuyết suốt ba ngày ba đêm biến Kars thành một màu trắng chết chóc.

Giống như Patrick Modiano của những con phố Paris, Mạc Ngôn gắn bó với miền đất Cao Mật hay như Dublin qua ngòi bút James Joyce; Orhan Pamuk là nhà văn sinh ra từ một thành phố – đứa con của Istanbul. Những trang viết của ông thấm đẫm tình yêu và nỗi nhớ với cố đô văn hiến, trong gần như tất cả các tác phẩm của mình: từ tiểu thuyết lịch sử Pháo đài Trắng, hay như Cuốn sách Đen viết tại New York, cho tới dấu ấn nghệ thuật của Tên tôi là Đỏ, cùng câu chuyện tình yêu tại Bảo tàng Ngây thơ và đỉnh cao phải kể tới Istanbul – Hồi ức và thành phố. Ngay từ những trang đầu của Istanbul, Orhan Pamuk đã khẳng định:

Conrad, Nabokov, Naipaul – những nhà văn này được biết đến là do đã thành công trong việc thiên di giữa các ngôn ngữ, quốc tịch, văn hóa, xứ sở, đại lục, và ngay cả nền văn minh. Trí tưởng tượng của họ lấy dưỡng chất từ sự lưu vong, một sự nuôi dưỡng được chiết ra không phải từ gốc rễ, mà từ việc không có gốc rễ. Tuy nhiên, sự tưởng tượng của tôi đòi hỏi tôi phải ở lì trong cùng một thành phố, cùng một con đường, cùng một căn nhà, nhìn mãi vào một cảnh tượng. Số phận của Istanbul là số phận của tôi. Tôi gắn liền với thành phố này bởi vì nó đã làm cho tôi trở thành tôi như bây giờ.

Điều này biến Tuyết trở thành tác phẩm đặc biệt của ông, xét về mặt bối cảnh. Lần đầu tiên và cũng là lần duy nhất tính tới thời điểm hiện tại, Orhan Pamuk để cho câu chuyện không xảy ra ở Istanbul mà ở Kars. Kars là tên thành phố biên giới phía đông bắc của Thổ Nhĩ Kỳ, đồng thời trong tiếng Thổ, kar lại có nghĩa là tuyết. Kars có thể được coi như là nước Thổ thu nhỏ, với một cộng đồng đa sắc tộc gồm người Thổ, người Kurd, người Azerbaijan và cả người Armenia – đây đã từng là thủ đô của Armenia và cũng chính tại đây họ rơi vào cuộc thảm sát. Cùng một thời điểm, ở Kars luôn tồn tại các thế lực Hồi giáo chính trị mâu thuẫn với nhà nước thế tục lẫn một bộ phận nhỏ người dân theo đạo Cơ đốc. Bằng cách mượn tuyết để xóa đi các dấu vết đặc trưng của Kars, nhà văn biến Kars thành một thực thể sống nơi ông thỏa sức tạo nên các ý niệm của mình. Thành phố bị tuyết chia cắt bây giờ trông cứ như con rùa khổng lồ cõng trên lưng hòn đảo, làm cho hòn đảo tách biệt với đại dương. Nếu đồng nhất Orhan Pamuk với Istanbul, thì Kars sẽ là người bạn đặc biệt của ông, thành phố thổ lộ cho ông nhiều hơn vẻ bề ngoài của nó. Khi trở lại với vẻ bề ngoài, mặc dù nhà văn luôn phủ nhận mình là nhà hoạt động chính trị, nhưng Kars, với các đặc điểm kể trên, rõ ràng là mảnh đất màu mỡ cho những chính khách phô diễn tài năng. Orhan Pamuk không hề giấu diếm toàn cảnh bức tranh chính trị ấy, tuy vậy, lại chẳng dễ dàng để lần ra quan điểm của ông. Xét về nội dung, điểm này cũng đặc biệt không kém. Nhưng liệu chỉ có chính trị?

Không khó tìm thấy câu trả lời. Nó nằm ngay lối vào câu chuyện, những dòng miêu tả một người đàn ông giữa lúc say ngủ:

Ông sống lưu vong đã được mười hai năm bên Đức song chưa bao giờ bận tâm nhiều đến chính trị. Lòng đam mê đích thực, mọi suy nghĩ của ông, là đều dành cho thi ca.

Vài dòng đơn giản nhưng hàm chứa cả cuốn sách. Người đàn ông ấy tên Kerim Alakuşoğlu, vì không ưa cho lắm nên ông tự gọi mình là Ka. Một người đàn ông sống lưu vong song chưa bao giờ bận tâm chính trị, và suy nghĩ của ông hướng về thi ca. Thi ca, chính thi ca mới là điểm đích thực cần quan tâm chứ chẳng phải chính trị hay bất cứ điều gì khác. Như vậy, nhà văn không ngần ngại gợi ý cho chúng ta, những độc giả bị khung cảnh của Kars làm choáng ngợp, rằng chúng ta phải tiếp cận cuốn sách theo hướng văn chương, hãy tìm kiếm chất thơ đằng sau mỗi câu chuyện, chớ để vẻ ngoài chính trị kia đánh lừa mà vô tình ta biến thành người lưu vong ở Kars.

Ka quay về Kars nhằm kiếm tìm hạnh phúc sau những năm dài tha hương và cũng tại đây, nhà thơ bị kéo vào một cuộc đảo chính, bị kẹp vào giữa Hồi giáo chính trị và giới quân sự Thổ. Bi kịch xảy đến buộc một người Âu hóa như ông đối mặt với sự lựa chọn tâm linh. Ông đã phải đấu tranh nội tâm rất lâu giữa việc tin hay không tin vào Thượng đế. Cho đến lúc Ka chết, tôi tin cán cân vẫn chưa ngã hẳn về bên nào. Càng bất hạnh hơn khi không những không có được hạnh phúc, Ka còn chẳng thể quay về được thời điểm bất hạnh trước kia. Cuộc đời ông cứ trượt dài trong nỗi bế tắc. Vào những giây phút hạnh phúc ngắn ngủi của mình, Ka sống với nỗi âu lo bất hạnh thường trực nhưng tại những giờ khắc đen tối nhất nhà thơ lại cảm thấy hạnh phúc. Cảm xúc hỗn loạn đã đưa Ka vào thế giới đa chiều của tuyết – tinh thể sáu cánh trong suốt có tâm chính giữa với ba trục tưởng tượng xoay tròn nhiều vòng trong không trung trước khi chạm đất – niềm cảm hứng để lần đầu tiên sau bốn năm Ka mới viết được thơ, bài thơ đề tên Kar – Tuyết.

Để làm việc đó, ông vẽ ra một tinh thể tuyết riêng dựa theo hình các bông tuyết trong sách vở, sau đó ông xếp tất cả các bài thơ sáng tác ở Kars lên chỗ của chúng. Hệt như cấu trúc của cuốn thơ mới, tất cả những gì đã biến con người ông thành thi sĩ Ka, được vẽ lên tinh thể tuyết này. Theo quan điểm của ông, mỗi người phải có một bông tuyết như vậy, một dạng bản đồ tâm linh của cuộc đời. Các trục HỒI ỨC, LÝ TRÍ và TUỞNG TUỢNG Ka mô phỏng từ sơ đồ cây tri     thức con người của Bacon. Ông cũng viết rất cụ thể và tường tận về những nỗ lực của mình nhằm giải thích ý nghĩa của các điểm trên nhánh rẽ của hình lục lăng này.

Ảnh: listelist.com

Căn tính của Ka, cái chất làm nên con người ông cô đọng trong Tuyết thông qua những cái tên và những liên tưởng. Có lẽ vì vậy, định mệnh đã an bài cho Tuyết và Ka cùng một kết cục. Ông không thể hoàn thành được nó, dù sau khi trở lại Đức thời gian của ông còn nhiều. Số phận hay là Thượng đế mà ông chẳng thực lòng tin đã vĩnh viễn khép lại mong muốn hóa thân thành bông tuyết của Ka: là Ka chứ không phải là kar hay Kars, không phải là Tuyết. Trước khi kịp chạm đất, bông tuyết của ông bị cơn gió làm vỡ thành nhiều mảnh và ông sẽ mãi khuyết đi một phần của mình. Ông chẳng bao giờ tìm lại được phần linh hồn mất đi đó, bởi nó đã biến mất sau khi tuyết ở Kars tan chảy. Ôm theo sự mất mát ấy, Ka sống trong nỗi cô đơn những năm cuối đời, một cuộc đời dang dở Kars trao cho ông đồng thời lấy mất của ông. Cuối cùng tuyết sẽ lại tan. Rồi Ka chết.

Hà cớ gì Ka phải đi đến lựa chọn sống còn như vậy? Không chọn hay chọn cả hai có được chăng? Để trả lời câu hỏi này, chúng ta cần xoáy sâu vào đời sống ở Kars: Hồi giáo chính trị, nước Thổ thế tục, những chiếc khăn trùm đầu và cả về những số phận dở dang khác. Trước tiên là xung đột đức tin, và nói tới đức tin không thể thiếu Hồi giáo, thứ có vị trí đặc biệt quan trọng trong văn chương Orhan Pamuk, xuất hiện với tần suất gần như tuyệt đối. Nhưng phải tới Tuyết, tôn giáo này được đẩy lên cực độ, trở nên sống còn của toàn tiểu thuyết. Orhan Pamuk có một tình yêu đặc biệt với đất nước ông, nhà văn đưa Kars trở về màu sắc đặc trưng của Thổ Nhĩ Kỳ: cái ngã ba của thế giới, từ thành Troy cổ đại cho tới những Consantinople rồi Istanbul và những Erzurum, Kars; nơi suy nghĩ con người luôn chia làm hai như eo Bophorus vĩ đại. Tại đất nước này, người ta hoặc sống trong đức tin mãnh liệt về một Thượng đế chí tôn hoặc quay lưng lại với nó. Khi hai thái cực chẳng thể dung hòa, xung đột xảy ra và máu sẽ đổ. Cuộc đối đầu giữa hai nhân vật Lam và Sunay Zaim, những vụ khủng bố của phe Hồi giáo và những cuộc đảo chính của phe thế tục, là một ví dụ điển hình của nước Thổ. Lam và Sunay Zaim, gọi chung là nhà hoạt động chính trị, sẽ chẳng bao giờ hình dung ra hậu quả to lớn họ tạo ra từ lời nói con con. Rồi lúc bọn họ chết, thì đó là chết cho lý tưởng, cho những điều họ bảo vệ, không lâu sau sẽ trở thành những huyền thoại, tượng đài được tôn vinh kính ngưỡng. Vậy còn những người như Necip, Fazil thì sao? Đây mới là tầng lớp hứng chịu hậu quả nặng nề nhất. Cả hai chỉ là những học sinh tôn giáo trẻ trung đầy nhiệt huyết, đang sống những tháng ngày hồn nhiên nhất của cuộc đời. Ở cái tuổi ấy, Thượng đế mới manh nha tồn tại trong đức tin các cậu bé. Chẳng phải khi xưa chính Muhammad cũng phải tới bốn mươi tuổi mới nhận được thiên khải đó ư. Đoàng một phát, trái tim non nớt của Necip vỡ vụn, tôi cảm nhận được lúc ấy, tận sâu thẳm trong Fazil đã bắt đầu xuất hiện vết nứt. Chàng trai mãi mãi chẳng tìm thấy đức tin được nữa, vầng trăng lưỡi liềm chàng hằng ao ước thẫm một màu máu. Chàng gục ngã ngay trước cổng thiên đàng, thiên đàng màu trắng có bông tuyết nhỏ tan vào giữa con ngươi và Thượng đế của chàng biến mất khi còn chưa thành hình. Hỡi tuyết kia, ai cho ngươi rơi trên những ước vọng?

Với sự thật đau buồn này, tôi tin rằng Orhan Pamuk đang muốn cho cả thế giới, đặc biệt là thế giới phương Tây thấy rằng: Hồi giáo không phải tà giáo, và vẫn còn đó rất nhiều cậu trai như Necip, những người không bao giờ bị bạo lực vấy bẩn.

Nếu có một điểm tương đồng được tất cả những người ngồi đầu và giữa phòng     thống nhất, thì Necip nhận ra có đạn thật sau loạt súng thứ ba, song cậu lại hiểu sự kiện đó theo một hướng riêng.

Hai giây trước khi trúng đạn, cậu đứng dậy và nói đủ to để nhiều người nghe thấy (tuy không được thu vào băng video):“Dừng lại, đừng bắn! Súng có đạn thật đấy!”

Những gì mọi người trong phòng đến lúc này đã cảm thấy bằng trái tim nhưng lý trí vẫn cố cưỡng lại, thế là đã được nói ra.

Phía bên kia thành phố là Kadife và cuộc chiến giữa những chiếc khăn trùm đầu. Khác với những bạn bè đồng trang lứa của mình, Kadife không chọn cách tự tử để phản đối. Cô ví việc mình tháo khăn trùm đầu như là biểu tượng đấu tranh. Những người phụ nữ, đặc biệt những cô bé như Kadife chẳng còn có thể sống đời bình thường được nữa. Họ sống trong sự dở dang do cái bóng quá lớn của chiếc khăn tạo ra. Họ trở thành quả bóng mà dù Hồi giáo chính trị hay Nhà nước thế tục đều muốn đá về cầu môn đối phương. Chẳng ai đứng ra nhận lấy trách nhiệm về những thiếu nữ tự tử cả, chỉ toàn đổ lỗi lẫn nhau. Kadife, có lẽ cô cũng không nhận ra mình cũng chỉ là quả bóng. Cứ cho rằng cô là quả bóng gai góc đi nữa, thì điều cô làm được bất quá làm xước chân các nhà hoạt động chính trị. Cuối cùng rồi cô sẽ bị đá đi. Nếu may mắn, cô giữ được cuộc sống. Còn không, quả bóng xì hơi và xẹp xuống. Nó muôn đời nằm đó trên sân, đừng mơ có ai nhặt lấy, suy cho cùng ai lại muốn quả bóng xẹp chứ. Cho tới khi một đợt tuyết mới rơi xuống, lấp đi cái hố quả bóng tạo ra, và làm mọi thứ đều trông trăng trắng giống nhau. Dưới lớp tuyết dày, tôi tưởng chừng không thể bắt kịp những phụ nữ ấy, tuyết làm cho họ bí ẩn hơn và đẹp hơn, nhưng điều đó chỉ làm cho đàn ông say đắm họ hơn. Ka đã yêu họ, tôi cũng yêu họ.

“Ông xem xét cuộc đời quá đỗi đơn giản,” Kadife bác lại. “Thay cho tự sát vì tình, người ta chỉ cần đợi ít lâu là tình yêu sẽ không còn giằng xé. Nghèo đói cũng không phải nguyên nhân thực thụ. Những người không chịu nổi đòn roi có thể lấy trộm ít tiền của chồng rồi bỏ trốn, như thế giản dị hơn nhiều.”

“Thôi được vậy lý do thực sự là gì?”

“Tất nhiên lý do thực sự của mọi cuộc tự sát là lòng kiêu hãnh. Ít nhất thì với    đàn bà.”

“Vì lòng kiêu hãnh của họ bị tổn thương trong tình yêu?”

“Ông không hiểu gì hết!” Kadife đáp. “Phụ nữ không tự sát vì lòng kiêu hãnh của họ bị tổn thương, mà để chứng tỏ họ kiêu hãnh chừng nào.”

Như một nguyên lý nhị nguyên tất yếu, tình yêu ở Kars ra đời từ sự chia rẽ và cùng lúc sự chia rẽ làm tình yêu càng thêm mãnh liệt. Với những người phụ nữ và những người đàn ông đặc biệt như thế, dễ dàng nhận ra tình yêu giữa sẽ không đi theo logic thông thường. Đó không phải là thứ tình cảm theo kiểu phương Tây mà cũng chẳng phải ngôn tình phương Đông, nó mang màu sắc nước Thổ rõ rệt. Tại Kars, tính cách Thổ phát lộ hơn bao giờ hết trong mối tình của Ka, Ipek, Lam và Kadife.


Nếu buộc phải mô tả tình yêu ở Kars, tôi không có cách nào tốt hơn mượn bông tuyết của Ka. Trong bông tuyết của tôi, cũng có ba trục toạ độ: Lý trí, Tưởng tượng và Hồi ức; những tình cảm, những câu chuyện trên ba trục sẽ ảnh hưởng lẫn nhau tuỳ theo mức độ liên quan xa gần. Tình yêu, sẽ là tâm của bông tuyết. Nó giữ cho tinh thể trong suốt ấy xoay vòng trong không trung đủ để các trục giao thoa với nhau nhưng không đủ để xoá bỏ các trục. Sau đó nó sẽ hoặc tan chảy hoặc hoà vào tầng tầng lớp lớp các bông tuyết ngày đêm phủ lấy Kars. Kết quả tạo ra thật mỹ mãn, bức tranh tình yêu trở nên trắng và lạnh, đẹp và mờ ảo hơn bao giờ hết. Cuối cùng, khi tuyết ngừng rơi, tình yêu không biến mất mà chuyển vào những dạng hình khác bí ẩn không kém trong vòng tuần hoàn của tuyết. Rất khó duy trì một cân bằng xúc cảm tinh tế đến như vậy suốt cuốn tiểu thuyết, và Orhan Pamuk lần nữa chứng minh tài năng của ông.

Ka luôn luôn trải nghiệm một khoảnh khắc hạnh phúc trong kinh sợ, cốt để sự bất hạnh nối tiếp không quá lớn. Do vậy mà lúc này trong khi ôm Ipek – vì tình yêu thì ít mà vì nỗi sợ sinh ra từ đó thì nhiều – ông tin rằng cô sẽ khước từ ông, rằng sự gần gũi đang nảy nở sẽ đột ngột tan vỡ, và niềm hạnh phúc không xứng đáng của ông sẽ biến thành sự khước từ và tủi hổ xứng đáng, song cũng nhờ thế mà ông sẽ tìm được thanh thản cho mình.

Chỉ một mảnh ghép nữa là bức tranh hoàn chỉnh: Orhan – người kể chuyện. Cũng giống nhiều tiểu thuyết khác của mình, Orhan Pamuk lại xuất hiện trong Tuyết khi cơn bão đã tan, khi mọi việc đi đến hồi kết. Nhưng như vậy không có nghĩa là vai trò của ông không quan trọng. Nhà văn duy trì bản thể của mình ở lằn ranh giữa cái bên trong và bên ngoài, giữa thế giới tiểu thuyết và thế giới thực. Việc dung hòa hai thái cực dẫn tôi tới câu hỏi lớn về sự tồn tại: liệu một nhà văn sẽ làm đến mức nào để giữ hay loại bỏ sự hiện diện của mình đối với độc giả? Nếu ở Tên tôi là Đỏ, tiếng nói của cậu bé Orhan yếu ớt chỉ có thể cảm thán mà không thế thay đổi câu chuyện thì tại Tuyết, bóng dáng người kể chuyện Orhan Pamuk dường như có mặt trong cả tiểu thuyết mặc dù thứ ông tạo ra được chỉ là những dòng tự sự từ ký ức của thi sĩ Ka bạn ông. Điều này tạo cho tôi một nghi ngờ liệu rằng đó có phải là Ka hay là Op (rút gọn theo cách của Ka) hay phải chăng Ka chính là Op. Tuy vậy, tôi không cố đào sâu tìm hiểu chân tướng vì đó có thể là cạm bẫy hay lối cụt mà một khi dấn bước, tôi sẽ tìm thấy con người khác không chỉ của Ka hay Op mà còn của tôi. Tôi càng nghi ngờ hơn và càng không dám nghi ngờ. Tôi chấp nhận rằng cũng như tôi, Op đã bỏ một phần của ông ấy lại ở Kars.

Ảnh: IMDb.com

Để kết thúc, tôi xin mượn lời Fazil nói với Orhan ở cuối tác phẩm:

“Nếu ông để tôi xuất hiện trong một cuốn tiểu thuyết nói về Kars thì tôi muốn nói với độc giả rằng họ không nên tin những gì ông viết về tôi, về tất cả chúng tôi. Không ai hiểu được chúng tôi khi xa cách như thế.”

Vì vậy bạn cũng đừng tin tôi mà hãy dấn thân vào Tuyết để tìm niềm tin của riêng mình.

Hết.

3V

Xem tất cả những bài viết của 3V tại đây.


Phía sau trang sách

Kawabata Yasunari và “cây cầu” nối với thế giới

Published

on

By

“Trong tác phẩm của Kawabata, sự tinh tế gắn liền với cái mềm dẻo, sự nền nã và các nhận thức về chiều sâu bản chất con người… Chúng vừa hiện đại nhưng cũng đồng thời được truyền cảm hứng từ các triết lý tịch lặng của những tu sĩ Nhật Bản xa xưa… 

“Đối với nhiều nhà văn hiện đại, những tuyên bố về truyền thống và mong muốn thiết lập cầu nối với các nền văn học mới đã tỏ ra gần như không thể. Tuy nhiên Kawabata bằng trực giác của một nhà thơ, đã vượt qua mâu thuẫn này và đạt được sự cân bằng kỳ lạ… Tôi rất vinh dự khi được giới thiệu ông, người hơn bất kỳ nhà văn Nhật Bản nào khác, thực sự xứng đáng với giải Nobel Văn chương.” Mishima Yukio đã viết những dòng này cho Viện Hàn lâm Thụy Điển vào năm 1961, chính thức đề cử “thầy” mình cho giải thưởng này. Tuy nhiên phải mất thêm 7 năm nữa thì Kawataba mới giành chiến thắng vào năm 1968, vì “khả năng tường thuật điêu luyện, thể hiện một cách hết sức nhạy cảm bản chất của tâm hồn người Nhật”.

Kawabata Yasunari 1938. Ảnh: wikipedia.org

Có thể thấy rằng Kawabata đã có rất nhiều tác phẩm được chuyển ngữ sang các ngôn ngữ khác nhau, thế nhưng việc làm nói trên luôn không dễ dàng, bởi ngôn ngữ khác thường có xu hướng trở thành “bộ lọc thô thiển”, phá đi rất nhiều sắc thái tinh tế, ngôn ngữ biểu cảm… mà chỉ tiếng Nhật mới có thể có. Thế nhưng không thể phủ nhận chính việc dịch thuật đã cho hậu thế cách nhìn tương đối đầy đủ về nhà văn này. 

Trong diễn từ nhận giải Nobel, ông cũng đề cập đến vấn đề trên: “Trước sự phức tạp do các khác biệt về mặt ngôn ngữ, và vì thực tế là các tác phẩm của tôi […] phải được trải nghiệm qua việc dịch thuật, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn, sự tôn trọng sâu sắc và bất diệt của mình đối với nỗ lực của các viện sĩ thuộc Viện Hàn Lâm. Tôi tin rằng giải thưởng đầu tiên dành cho người phương Đông sau 55 năm này sẽ gây ấn tượng sâu sắc đối với Nhật Bản, và có lẽ cũng là đối với các quốc gia châu Á khác, cũng như đối với tất cả quốc gia có nền ngôn ngữ ít được biết đến.”

Nói chuyện với giới truyền thông Nhật Bản, Kawabata thậm chí còn thẳng thắn hơn: “Nếu các Viện sĩ có thể đọc tác phẩm của tôi bằng tiếng Nhật thì sẽ rất tốt, nhưng… thực tế là tôi mắc nợ dịch thuật rất nhiều”. Thái độ yêu/ghét - hay chính xác hơn là không muốn/không tin tưởng - của Kawabata đối với dịch thuật được thể hiện theo rất nhiều cách. Theo tất cả các tài liệu còn ghi chép lại, ông thể hiện trạng thái tích cực trong quá trình dịch thuật, thế nhưng nó không nhất thiết là sự hài lòng của bản thân ông. 

Sách Người đẹp ngủ mê, tác phẩm kinh điển của Kawabata Yasunari vừa được Phương Nam Book tái bản phát hành.

Các vấn đề tương tự cũng có thể thấy trong thư từ giữa Kawabata với Mishima Yukio, đã được xuất bản vào năm 1997 với tên Kawabata Yasunari/Mishima Yukio: Ōfuku Shokan (nguyên tác:『川端康成・三島由紀夫往復書簡』). Theo đó ngay từ năm 1951, Kawabata đã hỏi Mishima tên của “người Mỹ đã dịch cuốn Lời thú tội của chiếc mặt nạ” vì ông muốn xin lời khuyên của người này với tư cách là “người nước ngoài hiện đang sinh sống ở Nhật và đọc văn học Nhật”. Theo đó ông muốn tham khảo rằng mình nên gửi truyện ngắn nào tới các tạp chí văn chương Mỹ.

(Người dịch thực tế trong thư hồi đáp mà Mishima tiết lộ là Meredith Weatherby, thế nhưng tác giả của Kim Các Tự cũng đã thể hiện một số nghi ngại vào thời điểm đó. Ông đã phúc đáp “Ông ấy là một cựu quan chức ngoại giao không có chỗ đứng trong giới văn chương Mỹ”. Mishima cũng nói thêm rằng các cuộc đàm phán liên quan đến việc chuyển ngữ Lời thú tội của chiếc mặt nạ đã rơi vào trong bế tắc sau thời gian dài, vì Ivan Morris – một dịch giả khác của Mishima, bày tỏ nghi ngờ về khả năng của Weatherby.)

Năm 1956, Kawabata viết thư cho Mishima xin lỗi vì ở mặt sau ấn bản tiếng Anh của Xứ Tuyết, ông được ghi nhận là người “phát hiện cũng như bảo trợ cho những nhà văn trẻ đáng chú ý như Yukio Mishima”. Ông viết: “Có lẽ quan niệm sai lầm mang tính tâng bốc rằng tôi “phát hiện ra anh” sẽ là tất cả những gì gắn liền tên tôi với lịch sử văn học”. Mishima sau đó cũng đã phản hồi với lời chúc mừng của mình cho phiên bản tiếng Anh, và chia sẻ suy nghĩ về cách nhìn của độc giả nước ngoài với Kawabata: “Người Mỹ không phải là những kẻ ngốc, và trò nghĩ rằng họ sẽ hiểu thôi. Thực sự là người nước ngoài đã quá cứng nhắc và kém hiểu biết về sự linh hoạt của văn học Nhật. Thầy có nghĩ vậy không?”

Kawabata Yasunari nhận giải Nobel Văn học năm 1968. Ảnh: nippon.com

Một phần mối quan tâm chung về dịch thuật và sự tiếp nhận ở nước ngoài đối với các tiểu thuyết của Kawabata rõ ràng là lợi ích cá nhân về mặt nghệ thuật, tuy nhiên nó cũng ẩn chứa nhiều điều hơn thế. Sự chiếm đóng của Hoa Kỳ đã khiến Nhật Bản tràn ngập những người ngoại quốc có thể nói và đọc tiếng Nhật, cũng như các tác giả địa phương mong muốn cháy bỏng được cộng đồng quốc tế công nhận. 

Về phần mình, lúc đó Kawabata là chủ tịch của Hội Văn Bút Nhật Bản (PEN Nhật Bản) từ năm 1948 - 1965, nên việc quảng bá văn học Nhật Bản ra với quốc tế cũng là một phần công việc của ông. Vào năm 1959, ông đã viết thư cho Mishima để chúc mừng về ấn bản tiếng Anh của Kim Các Tự và nhận xét: “Từ lâu, tôi nghĩ rằng cuốn sách này rất phù hợp để dịch sang các ngôn ngữ khác và rất kỳ vọng vào sự đón nhận của nó ở nước ngoài,” Ở đây ta có thể thấy ông không nói chuyện chỉ để đãi bôi, mà ý thức về chiến lược dài hạn đã được hiện lên tương đối rõ ràng. Và vì vậy khi Mishima viết bức thư gửi Viện Hàn lâm Thụy Điển được trích dẫn ở đầu bài viết, thì thực chất đó là theo lời yêu cầu của Kawabata. Có cảm giác chung chung rằng đã đến lúc “mùa xuân” của văn học thời hậu chiến Nhật Bản nhận được sự chú ý của giải Nobel, và Kawabata dường như là ứng cử viên sáng giá nhất.

Bản thân Kawabata được cho là đã cảm thấy các nhà văn trẻ - chẳng hạn như Mishima - có nhiều khả năng nhận được sự tán đồng hơn. Ngay cả sau khi Kawabata nhận được tin về việc lựa chọn mình, ông vẫn hoài nghi về quyết định này. Ibuki Kazuko, biên tập viên của ông vào thời điểm đó, kể rằng ông đã nói với bà: “Không phải tôi là người nhận giải Nobel đâu, chỉ đơn giản là đến lượt Nhật Bản thôi”.

Có lẽ vì thế mà trong diễn từ nhận giải Nobel, Kawabata ít nói về mình mà dành phần lớn thời lượng để nói về những khía cạnh tư tưởng của người Nhật mà ông cảm thấy cộng đồng phương Tây ít có khả năng hiểu được. Khi đề cập các tác phẩm của mình, ông đã nhắc đến những quan niệm sai lầm tiềm ẩn: “Việc coi tiểu thuyết Ngàn cánh hạc của tôi như sự gợi lên vẻ đẹp trang trọng và tinh thần của trà đạo là một cách hiểu sai. Đây là một tác phẩm tiêu cực, thể hiện sự hoài nghi và cảnh báo về sự thô tục mà trà đạo đã và nhiều khả năng có thể rơi vào”.

Kawabata với vợ Hideko ở bên trái và cô em gái Kimiko ở bên phải năm 1930. Ảnh: wikipedia.org

Ngay cả tiêu đề Utsukushii Nihon no watashi của diễn từ này cũng rất mơ hồ. Tính chất này cũng rất đáng nghiên cứu, nhưng có một cách dịch thoát là “Tôi của Nhật Bản xinh đẹp”. Đó là tuyên bố không thể tách rời khỏi truyền thống hàng nghìn năm mà Kawabata đã công nhận, từ đó gián tiếp thể hiện rằng ông từ chối hòa nhập vào cộng đồng quốc tế như sự bổ sung thêm điều kỳ lạ cho thế giới quan của châu Âu, và thay vào đó là yêu cầu văn học Nhật Bản phải được hiểu theo một cách riêng biệt.

Hai năm sau khi Kawabata nhận giải Nobel, Mishima đã gây chấn động văn đàn bởi cái chết của mình. Bốn năm sau đó, Kawabata cũng tiếp bước theo trong một vụ việc mà được ngầm hiểu là do tự sát. Ngày nay, những sự kiện này giống như đoạn kết nghiệt ngã, mang tính quyết định cho hai thập kỷ đầu tiên của văn học Nhật Bản thời hậu chiến, với những tuyên bố của các nghệ sĩ thấy mình đã đạt đến mức cực hạn sáng tạo. Đó chính là những tuyên ngôn gây sửng sốt của Mishima; cũng như khó tin và đầy mơ hồ của Kawabata.

“Đôi khi chúng ta quá nhạy cảm về sự tinh tế, thanh lịch hay cảm nhận về cái đẹp của mình… Đôi khi chúng ta cảm thấy mệt mỏi với điều đó. Đôi khi chúng ta cần sự bùng nổ để mà thoát ra”. - Mishima

Chuyển ngữ từ bài nghiên cứu của Matt Treyvaud

Đọc bài viết

Phía sau trang sách

Một góc nhìn khác về Đà Nẵng

Published

on

By

Sau Trường Sa 1988 – Hồ sơ một sự kiện lịch sử ra mắt vào năm 2021 cung cấp những tư liệu quý về chủ quyền biển đảo, mới đây nhà nghiên cứu Võ Hà cũng đã giới thiệu tác phẩm mới nhất Đà Nẵng ngày tháng cũ.

Gồm 10 bài viết gồm các vấn đề của Đà Nẵng trước năm 1975, những biên khảo này đã cho ta thấy một góc nhìn khác về “đô thị biển” và “đô thị sân bay” từ trong quá khứ. Ngoài ra, rất nhiều vấn đề có sự tương quan giữa Đà Nẵng và đô thị miền Nam Việt Nam vẫn còn sống động cho đến ngày nay cũng được khảo sát một cách kỹ lưỡng, nghiêm túc, để thấy rằng những chuyện quá khứ cũng có khả năng giải quyết, định hướng tương lai. Nhân dịp này, tác giả Võ Hà đã chia sẻ về nhiều vấn đề xoay quanh cuốn sách.

Thưa anh Võ Hà, Gắn với Đà Nẵng thường có một câu cách ngôn “nhượng địa vẫn hoàn nhượng địa”. Đâu là khởi nguồn của nó, thưa anh?

Có một thông tin lịch sử mà chúng ta ít để ý là khi Đà Nẵng trở thành nhượng địa của thực dân Pháp theo Sắc lệnh ngày 1/10/1888 có đề cập đến “phạm vi giới hạn các vùng nhượng địa sẽ được xác định bằng các sơ đồ của bản phụ lục”. Tuy nhiên, trên thực tế không có một sơ đồ nào đính kèm theo sắc lệnh này. Điều này cho ta thấy rằng, chính quyền thuộc địa Pháp đang cố gắng tạo ra sự mập mờ trong các văn bản pháp lý để chiếm dụng các phần diện tích đất tại các khu vực nhượng địa theo hướng mở rộng ra gấp nhiều lần.

Bản quy hoạch nhượng địa Đà Nẵng được chính quyền thuộc địa Pháp đưa ra ở thời điểm năm 1889, mở rộng trên tất cả các vùng phía Tây và phía Nam của cửa biển Đà Nẵng. Tất nhiên là nó bao gồm cả bán đảo Sơn Trà (cùng với 8 làng trong bản kế hoạch cũ, bản kế hoạch mới bổ sung thêm 18 làng và nâng tổng số lên thành 26 làng bao gồm luôn cả bán đảo Sơn Trà; phạm vi của bản đồ quy hoạch mới cũng lớn hơn bản đồ cũ đến 10 lần, thậm chí là 12 lần) mà triều đình nhà Nguyễn không chấp nhận. Diện tích nhượng địa Đà Nẵng trở nên quá lớn và câu chuyện quy hoạch này sau đó trong thời kỳ Quốc gia Việt Nam được lặp lại bằng quy hoạch sân bay Đà Nẵng II bên hữu ngạn sông Hàn, với diện tích gần như bao trọn bán đảo Sơn Trà - và đó cũng là câu chuyện “nhượng địa lại hoàn nhượng địa”.

Bản đồ Đà Nẵng năm 1969. Ảnh: Tư liệu

Điều này cho thấy, bắt đầu từ những năm 1880 đến đến năm 1954 thì chính quyền Pháp ở Đông Dương luôn xuyên suốt về ý tưởng muốn nắm lấy nhượng địa Đà Nẵng với một không gian rộng lớn hơn nhiều (giống như không gian Đà Nẵng hiện nay) nhằm dễ bề tổ chức hoạt động kinh tế ở thuộc địa, đảm bảo an ninh và chia cắt, chống phá các hoạt động của chính quyền cách mạng.

Có vị trí tương tự Hongkong, thế nhưng theo anh vì sao Đà Nẵng lại không thể vươn lên về mặt thương mại như “xứ Cảng Thơm”?

Đà Nẵng và Hong Kong có tính chất tương đồng về sinh thái học lịch sử (cùng là cảng biển, là một điểm tập kết hàng hóa). Tuy nhiên, về lịch sử, điều kiện địa chính trị thì có sự khác nhau cơ bản, nhất là trong thời kỳ thế giới bước vào hội nhập quốc tế, thì Đà Nẵng rơi vào chiến tranh, trở thành một căn cứ liên hiệp quân sự của Mỹ và đồng minh ở miền Nam Việt Nam.

Nghiên cứu về một vùng đất luôn không thoát khỏi các cuộc khảo sát về nhân khẩu học và dân tộc học. Trong tác phẩm này, anh thấy người Đà Nẵng đóng vai trò gì trong lịch sử của đô thị này?

Việc mở rộng sân bay Đà Nẵng được chính quyền đương thời thực hiện dưới sự tác động mạnh mẽ, căn bản của thực dân Pháp, sau đó là Mỹ. Trong đó, có ba yếu tố tạo ra sự bất hòa của người dân, đó là: 1) Mặc dù có một sự đền bù khi di dời làm sân bay Đà Nẵng I (sân bay Đà Nẵng hiện nay) nhưng thực hiện một cách thiếu công khai, chèn ép, với sự bất nhất của chính quyền. 2) Bắt người dân tham gia công trường với giá rẻ mạt. 3) Riêng đối với sân bay Đà Nẵng II (ở Sơn Trà) thì luôn trong trạng thay quy hoạch treo, khiến đời sống nhân dân luôn bi đát. Đó là một trong những lý do người dân đứng dậy phản kháng chính quyền đương thời, cùng với sự vận động linh hoạt, sáng tạo của chính quyền cách mạng để đòi các quyền lợi chính đáng của mình.

LCU1476 thả các phương tiện và thiết bị của thủy quân lục chiến trên bãi biển Đỏ gần căn cứ không quân Đà Nẵng vào sáng ngày 8-3-1965. Ảnh chính thức của Thủy quân lục chiến Hoa Kỳ. Nguồn ảnh: mcu.usmc.mil/historydivision.

Còn về vấn đề đối với chủ quyền quần đảo Hoàng Sa ra sao, thưa anh? Được biết ngay từ rất sớm người dân Đà Nẵng, Quãng Nam cũng đã tự nguyện giữ vững chủ quyền biển đảo?

Đối với quần đảo Hoàng Sa, từ năm 1954, chính quyền Việt Nam Cộng hòa đã kế tục, tăng cường kiện toàn tổ chức quản lý hành chính, đẩy mạnh các hoạt động kinh tế, quân sự cũng như công tác ngoại giao để khẳng định ý chí chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa. 

Bản đồ sáp nhập xã Định Hải (quần đảo Hoàng Sa) vào xã Hòa Long, huyện Hòa Vang, tỉnh Quảng Nam (1969). Bản đồ kèm theo Nghị định số 709-BNV/HCĐP/26 ngày 21-10-1969 của Tổng trưởng Nội vụ về việc sáp nhập xã Định Hải vào xã Hòa Long, Hòa Vang, Quảng Nam. Nguồn ảnh: Hồ sơ 8654. Phông Phủ Thủ tướng Việt Nam Cộng hòa. Trung tâm Lưu trữ Quốc gia II.

Trong đó, Đà Nẵng có một ý nghĩa đặc biệt, nhất là đứng lên phản đối, bảo vệ chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ khi Trung Quốc dùng vũ lực xâm chiếm toàn bộ quần đảo Hoàng Sa năm 1974. Người Đà Nẵng không chỉ là hòa chung vào cuộc đấu tranh với các địa phương khác ở miền Nam lúc bấy giờ mà còn là sự thể hiện tình cảm về việc quần đảo Hoàng Sa là một bộ phận lãnh thổ của xã Hòa Long, quận Hòa Vang, tỉnh Quảng Nam lúc bấy giờ (nay thuộc thành phố Đà Nẵng).

Ngoài các vấn đề xoáy vào Đà Nẵng, thì tập sách này cũng mở rộng thêm có chủ đề có liên quan đến Đà Nẵng tại miền Nam Việt Nam như bảo tồn nhà rường, thay đổi giờ giấc sinh hoạt... Anh tìm đến những chủ đề này thế nào?

Lịch sử là lịch sử, đồng thời lịch sử không hẳn là lịch sử, lịch sử nó cũng có đời sống ở hiện tại và cả tương lai theo một mức độ nào đó. Nghiên cứu lịch sử vừa đi tìm các thông tin sát thực với quá khứ, vừa xem “đời sống” của nó ở hiện tại, dự báo trong tương lai, và khuyến cáo cần ứng xử như thế cho cho thỏa đáng.

Đình Hòa Bình trong Công trường Quách Thị Trang (năm 1968-1969)

Trong tập sách này, riêng câu chuyện đề xuất phục hưng nhà rường Việt Nam cho ta biết rằng, trong quá khứ trước năm 1975, các nhân sĩ, trí thức có tấm lòng với văn hóa dân tộc đã suy nghĩ về phục hưng văn hóa Việt Nam trong bối cảnh của chiến tranh, bất ổn xã hội. Bởi khi có sự suy tàn nào đó về văn hóa đương thời thì ta cần phục hưng nó, để nó trở thành một động lực mới cho sự phát triển. Nếu độc giả để ý sẽ thấy ngay rằng, việc này sau năm 1975 khi Việt Nam trải qua thời kỳ quản lý đất nước quan liêu bao cấp, chuyển dần sang đổi mới, hội nhập quốc tế thì câu chuyện này bắt đầu lại được quan tâm, đề cập trở lại và có những động thái rõ nét. Đây chính là một ví dụ về “đời sống” của lịch sử trong hiện tại và tương lai.

Hay câu chuyện thay đổi giờ sinh hoạt của hai miền Bắc - Nam giai đoạn 1954-1975 cũng có lắm điều thú vị. Trong đó, quy chung rằng việc thay đổi giờ này đồng thời xuất phát từ hai nguyên nhân chính: đặc thù thời tiết (là một nước nhiệt đới nên giờ giấc sinh hoạt cần phù hợp với đồng hồ sinh học, để đảm bảo sức khỏe người dân) và ý chí của chính quyền đương thời (dựa vào mục tiêu lớn nhất là phải làm gì để điều chỉnh giờ giấc cho phù hợp với mục tiêu đó). Ở đây cho thấy trong việc đổi giờ, thì ở miền Nam dựa trên lập luận nhằm phát triển kinh tế, nhất là du lịch; trong khi đó ở miền Bắc chủ yếu dựa trên lập luận về tình hình chiến sự - có sự nối tiếp về việc quy định múi giờ khác nhau giữa các khu vực chiến sự kể từ sau năm 1945.

Tháp (có đồng hồ) của chợ Bến Thành năm 1920. Ảnh: Tư liệu.

Tôi nghĩ rằng, qua câu chuyện này, để có tính biểu tượng và ý thức thời gian, tại các thành phố lớn của Việt Nam hiện nay, ở khu vực trung tâm nên xây dựng một đồng hồ công cộng lớn, có thể là đồng hồ số, đồng hồ kim, đồng hồ nói… hoặc có sự kết hợp các loại với nhau và tạo nên một thời khắc “tâm lý”, như một sự dừng chân, “hiện hữu” để mỗi người nhìn về mình trong sự xô bồ của cuộc sống hiện đại.

Nhìn nhận một cách thẳng thắn, theo anh, có thể nói rằng trước năm 1975 thì miền Nam cũng có tương đối chính sách tiến bộ không? Như cho khai thác phân chim ở Hoàng Sa cũng là một cách bảo vệ lãnh thổ, hay chính sách khuyến khích tiêu dùng trong nước, trồng các cây gòn để gia tăng kinh tế…?

Những chính sách nêu trên dưới thời chính quyền Ngô Đình Diệm là một cố gắng đáng ghi nhận trong việc thực thi chủ quyền của Việt Nam Cộng hoà ở quần đảo Hoàng Sa; trong việc muốn phát huy nội lực để phát triển đất nước mà cả giai đoạn trước đó và cả những năm ngay sau đó (tính trước năm 1975) không có được. Qua đây, cũng xin nói thêm rằng, nếu nghiên cứu về miền Nam Việt Nam giai đoạn 1954-1975 thì thời kỳ dưới thời Ngô Đình Diệm có những chính sách kinh tế, nhất là về văn hoá để lại nhiều dấu ấn rõ nét.

Xin cám ơn anh về cuộc trao đổi này!

Đọc bài viết

Phía sau trang sách

Họ đã làm ra cảnh quay nổi tiếng trong ‘Hàm cá mập’ như thế nào?

Published

on

Phim Hàm cá mập (tựa tiếng Anh: Jaws) của đạo diễn Steven Spielberg là tác phẩm mang tính "thách thức" khán giả, vì đây là một trong những phim về loài thủy quái biển sâu tạo hiệu ứng rền vang ngay từ buổi chiếu thử.

Nói về độ nổi tiếng của Hàm cá mập đối với dân mê phim là "múa rìu qua mắt thợ", nhưng có lẽ nói về chuyện hậu trường của phim, nhất là một trong những cảnh phim chết chóc, lạnh vai gáy trong tác phẩm này hẳn sẽ rất thú vị. Khi bản dịch tiếng Việt của cuốn Khán giả học - Người xem thử nghiệm đã xoay chuyển các bộ phim bom tấn như thế nào? (tựa gốc tiếng Anh: Audience-ology: How Moviegoers Shape the Films We Love) của hai tác giả Kevin Goetz và Darlene Hayman ra mắt độc giả Việt, nhiều câu chuyện hậu trường về quá trình làm phim của Hàm cá mập dần được hé lộ, nhưng không phải dưới góc nhìn thuần "kể lể" dài dòng văn tự mà đi sâu mổ xẻ qua câu chuyện chiếu thử. Vì các tác giả là những người có thâm niên trong lĩnh vực này.

Cảnh trên phim trường Hàm cá mập năm 1975. Ảnh: UNIVERSAL

Buổi chiếu thử phim Jaws ra đời khi mà "giữa những năm 1970, ngành công nghiệp điện ảnh trải qua một số thay đổi giúp việc nghiên cứu chiếu thử được áp dụng rộng khắp và buộc quy trình này trở nên nghiêm ngặt và có nguyên tắc hơn". Steven Spielberg lúc đó chỉ mới 28 tuổi, hầu như vô danh, nhưng công ty MCA Universal đã trao dự án vào tay nhà làm phim trẻ và họ lên kế hoạch quảng bá rầm rộ. Buổi chiếu thử vào "một chiều mưa ướt sũng mùa xuân năm 1975" khiến dàn lãnh đạo MCA đứng ngồi không yên, và "phút thứ 90", họ quyết định cho chiếu thử tác phẩm.

Tuy đã chạy chiến dịch quảng bá qua đài phát thanh địa phương trước đó, thế nhưng khi đến buổi chiếu thử, lãnh đạo của MCA không ngờ có cả một hàng người rồng rắn trước rạp để được vào xem suất đầu của Jaws. Thành công ngoài mong đợi! Khán giả la hét, choáng váng, có người bỏ ra khỏi rạp để ổn định tinh thần, có người thậm chí nôn mửa suốt quá trình các nhân vật chiến đấu với con cá mập vô cùng khát máu trên màn ảnh. Thế nhưng có một cảnh mà cả rạp "nhảy dựng ra khỏi ghế", thế nhưng ê-kíp lại cảm thấy chưa thật sự đẩy lên đến "đỉnh" của nỗi sợ, đó là cảnh một nhân vật lặn dọc thân tàu, rọi đèn pin tìm kiếm và bất ngờ đầu của thuyền trưởng trồi ra lềnh bềnh. Để "nâng cấp" cảnh này, Steven Spielberg và cộng sự đã quyết định ghi hình lại ngay ngày hôm sau, nhưng do tiết kiệm chi phí, họ đã quay ở một hồ bơi. Sau khi chỉnh sửa, ê-kíp cho cập nhật bản phim mới, mở buổi chiếu thử thứ hai. Cũng ở cảnh lặn dọc theo mạn tàu đáng sợ ấy, nhân vật "phát hiện ra vết rạch sâu trên thân tàu và rọi đèn pin vào lỗ trống ấy. Máy quay dừng lại một lát trong bóng tối bao trùm. Rồi, bất thình lình, cái đầu xuất hiện trên màn ảnh với một con mắt lồi ra trong sự sợ hãi chết chóc, con mắt còn lại thì mất tiêu, hốc mắt đầy cua cáy. Cả rạp bùng nổ". 

Sách Khán giả học dịch tốt, là quyển sách về điện ảnh đọc hấp dẫn, có nhiều thông tin bổ ích cho "mọt phim". Ảnh: Nhà sách Phương Nam

Hàm cá mập đã thành công vang dội tại phòng vé năm đó, trở thành phim ăn khách bậc nhất lịch sử điện ảnh, cho đến khi tác phẩm sử thi không gian Star Wars ra mắt sau đó 2 năm và "soán ngôi" của phim. Jaws được đề cao về kỹ thuật dựng phim và hiệu ứng âm thanh. Buổi chiếu thử đã giúp các nhà làm phim đi đến việc thay đổi bản phim hiện tại nhằm làm tác phẩm tốt hơn, sống lâu hơn ở rạp, và hơn thế, sống lâu hơn trong lòng công chúng. 

Là cây bút quan sát, nghiên cứu về Hollywood trong hơn 30 năm, Kevin Goetz đã đưa ra những phân tích sắc sảo, mang tính chiêm nghiệm trong suốt thời gian dài về quy trình chiếu thử - tuy chỉ mang tính sơ khởi, thăm dò phản ứng của khán giả về bản dựng chưa hoàn chỉnh của phim nhưng lại quyết định sự sống còn của tác phẩm. Thậm chí, Kevin Goetz còn cho biết việc chiếu thử còn được tính toán cẩn thận đến mức, nếu xét về nhân khẩu học trong việc xem phim, quy trình chiếu thử sẽ có những quy tắc vô cùng nghiêm ngặt của nó. Và điểm nhìn của Kevin Goetz đưa ra xuyên suốt quyển Khán giả học càng chắc chắn hơn khi tác giả có thâm niên làm việc đáng ngưỡng mộ với dàn lãnh đạo của các hãng phim lớn, lâu đời ở Hollywood. 

Nguồn: Báo Thanh Niên Online I Thế Sang

Đọc bài viết

Cafe sáng