Chuyện người cầm bút

Trò chuyện với Orhan Pamuk: Nghệ thuật tiểu thuyết số 187 (Phần 1)

Published

on

Orhan Pamuk sinh năm 1952 tại Istanbul, nơi ông vẫn đang sống. Gia đình ông giàu lên từ việc xây dựng đường sắt trong buổi đầu nền Cộng hòa Thổ Nhĩ Kỳ; Pamuk theo học trường Robert College, nơi con cái giới thượng lưu ưu tú của thành phố được hưởng nền giáo dục thế tục theo kiểu phương Tây. Ông bộc lộ niềm đam mê với nghệ thuật thị giác từ sớm, nhưng sau khi đăng ký học kiến trúc tại đại học, ông lại muốn viết. Ông hiện là tác giả được đọc nhiều nhất tại Thổ Nhĩ Kỳ.

Tiểu thuyết đầu tay của ông, Cevdet Bey and His Sons, xuất bản năm 1982 và tiếp theo là The Silent House (1983), Pháo đài Trắng1 (1985/dịch ra tiếng Anh năm 1991), The Black Book (1990/1994), và The New Life (1994/1997). Năm 2003, Pamuk nhận Giải thưởng Văn học Quốc tế IMPAC Dublin cho Tên tôi là Đỏ2 (1998/2001), một vụ sát hại bí ẩn lấy bối cảnh Istanbul thế kỷ 16 và được thuật lại bằng nhiều giọng kể. Cuốn tiểu thuyết khai phá các đề tài trọng tâm trong văn chương của ông: bản sắc phức tạp của một quốc gia nằm giữa Đông và Tây, sự ganh đua ruột thịt, sự tồn tại của những người hai mang, giá trị của cái đẹp và độc bản, và nỗi khắc khoải về dấu ấn văn hóa. Tuyết3 (2002/2004), tập trung vào chủ nghĩa tôn giáo và chính trị cấp tiến, là cuốn tiểu thuyết đầu tiên của ông đương đầu với chủ nghĩa chính trị cực đoan ở Thổ Nhĩ Kỳ đương đại và nó khẳng định vị thế của ông ở nước ngoài, mặc cho chia rẽ quan điểm trong nước. Cuốn sách mới đây nhất của Pamuk là Istanbul: Hồi ức và thành phố4 (2003/2005), một bức chân dung kép về chính ông – thời thơ ấu và niên thiếu – và nơi ông ra đời.

Cuộc phỏng vấn với Orhan Pamuk được tiến hành trong hai phiên dài liên tục tại London và qua thư từ. Cuộc trò chuyện đầu tiên diễn ra vào tháng Năm năm 2004 trong thời điểm Tuyết được xuất bản ở Anh. Một căn phòng khác thường được chuẩn bị cho cuộc gặp – đèn ống chiếu sáng, máy lạnh ồn ào trong không gian văn phòng dưới tầng hầm khách sạn. Pamuk đến, mặc áo khoác vải nhung đen bên ngoài áo sơ mi màu xanh nhạt và quần dài sẫm màu, rồi nhận xét, “Chúng ta có thể chết ở đây và sẽ chẳng ai tìm thấy”. Chúng tôi lui về một góc sang trọng, yên tĩnh tại sảnh khách sạn nơi chúng tôi sẽ chuyện trò trong ba giờ đồng hồ, chỉ dừng lại để thưởng thức cà phê và săng-uých gà.

Tháng Tư năm 2005, Pamuk trở lại London để xuất bản cuốn Istanbul và chúng tôi ngồi vào cùng góc đó trong sảnh khách sạn nói chuyện trong hai giờ. Lúc đầu trông ông khá căng thẳng, và cũng có lý do cả. Hai tháng trước, trong một cuộc phỏng vấn với tờ báo Thụy Sĩ Der Tages-Anzeiger, ông đã nói về Thổ Nhĩ Kỳ, rằng “ba mươi ngàn người Kurd và một triệu người Armenia đã bị sát tại những vùng đất nọ và không ai ngoài tôi dám nói chuyện đó”. Phát ngôn này đã châm ngòi một chiến dịch trường kỳ chống lại Pamuk trên những tờ báo dân tộc chủ nghĩa Thổ. Rốt cuộc, chính phủ Thổ Nhĩ Kỳ vẫn kiên trì phủ nhận vụ diệt chủng người Armenia năm 1915 trên đất Thổ và áp đặt những điều luật giới hạn nghiêm ngặt việc thảo luận về cuộc xung đột với người Kurd đang diễn ra. Pamuk từ chối thảo luận về những tranh cãi xoay quanh bản thu âm công khai với hy vọng nó sẽ sớm đi vào dĩ vãng. Tuy vậy, vào tháng Tám, những phát biểu của ông trên tờ báo Thụy Sĩ khiến ông bị buộc tội theo Điều 301/1 Bộ luật hình sự Thổ Nhĩ Kỳ vì tội “công khai bôi nhọ” bản sắc Thổ – một tội danh có thể bị phạt tù tới ba năm. Mặc cho báo chí quốc tế giận dữ đưa tin về trường hợp của ông, cũng như những phản đối chính phủ mạnh mẽ bởi những thành viên của Nghị viện châu Âu và bởi PEN Quốc tế, khi tạp chí này được ấn hành trung tuần tháng 11, Pamuk vẫn dự kiến hầu tòa vào ngày 16 tháng 12 năm 2005.

Ángel Gurría-Quintana


Người phỏng vấn (ÁGQ): Ông cảm thấy thế nào khi phỏng vấn?

Pamuk (OP): Đôi khi tôi cảm thấy lo lắng vì nói ra những câu trả lời ngu ngốc cho một số câu hỏi có phần vô nghĩa. Chuyện đó xảy đến trong cả tiếng Thổ lẫn tiếng Anh. Tôi nói một thứ tiếng Thổ tệ hại và thốt ra những câu ngu xuẩn. Tôi đã bị tấn công ở Thổ Nhĩ Kỳ vì các cuộc phỏng vấn nhiều hơn là vì những cuốn sách. Các chính ủy viên và bình luận viên tại Thổ Nhĩ Kỳ không đọc tiểu thuyết.

ÁGQ: Nhìn chung sách của ông nhận được phản hồi tích cực ở Châu Âu và Hoa Kỳ. Đâu là sự tiếp nhận then chốt của ông tại Thổ Nhĩ Kỳ?

OP: Những năm tốt đẹp đã qua rồi. Khi tôi xuất bản những cuốn sách đầu tiên của mình, thế hệ tác giả đi trước đang lụi tàn, vì vậy tôi được đón nhận vì tôi là một tác giả mới.

ÁGQ: Khi ông nói thế hệ trước, ý ông là những ai?

OP: Những tác giả cảm thấy có trách nhiệm xã hội, những nhà văn cho rằng văn chương phục vụ đạo đức và chính trị. Họ theo chủ nghĩa hiện thực phẳng lì, không hề thể nghiệm. Giống như những nhà văn ở các nước nghèo, họ phí hoài tài năng vào nỗ lực phục vụ mẫu quốc. Tôi không muốn như họ, bởi ngay khi còn trẻ tôi đã yêu thích Faulkner, Virginia Woolf, Proust – tôi chưa bao giờ khao khát hình mẫu hiện thực xã hội kiểu Steinbeck và Gorky. Văn chương ra đời trong những năm sáu mươi và bảy mươi đã trở nên lỗi thời, vì vậy tôi được chào đón như một tác gia thế hệ mới.

Sau đến giữa những năm chín mươi, khi sách của tôi bắt đầu bán được con số mà không ai ở Thổ Nhĩ Kỳ từng mơ đến, những năm trăng mật của tôi với báo chí và trí thức Thổ chấm dứt. Kể từ đó, đón nhận chủ yếu trong giới phê bình nằm ở phản ứng với việc quảng bá và bán sách, hơn là nội dung trong sách. Thật không may, giờ đây tôi lại khét tiếng với những bình luận chính trị – hầu hết trong số đó được lọc ra từ các cuộc phỏng vấn quốc tế và bị một số nhà báo dân tộc chủ nghĩa Thổ định hướng trơ trẽn để khiến tôi trông có vẻ cấp tiến và ngu xuẩn về chính trị so với thực tế.

ÁGQ: Vậy ra có phản ứng thù địch với sự nổi tiếng của ông?

OP: Quan điểm cứng rắn của tôi thì đó là một hình phạt cho doanh số bán sách và bình luận chính trị của mình. Nhưng tôi không muốn tiếp tục chủ đề này, bởi nghe như tôi đang biện hộ. Có thể tôi đang bóp méo bức tranh tổng thể.

ÁGQ: Ông viết ở đâu?

OP: Tôi luôn nghĩ nơi anh ngủ hoặc sẻ chia với bạn đời nên tách biệt với nơi anh viết. Các lề thói và tình hình trong nước phần nào giết chết óc tưởng tượng. Họ giết chết con quỷ trong tôi. Những lề thói nhạt nhẽo hằng ngày trong nước làm cho niềm khao khát về phía bên kia, nơi trí tưởng tượng cần để vận hành, mờ nhạt đi. Vì vậy trong nhiều năm tôi luôn có một văn phòng hoặc một nơi nho nhỏ bên ngoài nhà để làm việc. Tôi luôn có những căn hộ khác nhau.

Nhưng một lần tôi dành nửa học kỳ ở Hoa Kỳ lúc vợ cũ đang lấy bằng tiến sĩ tại Đại học Columbia. Chúng tôi sống trong một căn hộ dành cho những sinh viên đã kết hôn và chẳng có không gian nào khác, vì vậy mà tôi ngủ và viết cùng một chỗ. Những điều nhắc nhớ về đời sống gia đình ở khắp chung quanh. Chuyện đó làm tôi khó chịu. Sáng ngày ra tôi chào tạm biệt vợ như người đi làm. Tôi sẽ rời nhà, tản bộ quanh vài khu và quay trở lại như người đang đến văn phòng.

Mười năm trước tôi tìm thấy một căn hộ trông ra eo biển Bosphorus với tầm mắt hướng về thành cổ. Có lẽ nó là một trong các cảnh quan đẹp nhất Istanbul. Nó cách nơi tôi sống hai mươi lăm phút đi bộ. Nó chứa đầy sách và bàn của tôi nhìn ra quang cảnh ấy. Trung bình mỗi ngày tôi dành mười giờ đồng hồ ở đó.

ÁGQ: Mười giờ một ngày?

OP: Đúng, tôi là một người làm việc chăm chỉ. Tôi thích điều đó. Mọi người nói rằng tôi có nhiều tham vọng và có lẽ cũng có phần đúng. Nhưng tôi yêu những gì tôi làm. Tôi thích ngồi vào bàn giống như một đứa trẻ với đồ chơi của nó. Về căn bản, đó là công việc, nhưng nó thú vị và trò chơi cũng vậy.

ÁGQ: Orhan, người trùng tên với ông và là người dẫn chuyện trong Tuyết, tự mô tả mình là một thư ký luôn ngồi xuống vào cùng thời điểm trong ngày. Ông có cùng kỷ luật viết lách như thế không?

OP: Tôi đã nhấn mạnh rằng bản chất giáo sĩ của tiểu thuyết gia trái ngược với bản chất của nhà thơ, những người có uy tín rất cao theo truyền thống Thổ. Trở thành một nhà thơ là điều phổ biến và được trọng vọng. Hầu hết các quốc vương và chính khách Ottoman là nhà thơ. Nhưng không phải theo cách hiểu của chúng ta về các nhà thơ thời nay. Trong hàng trăm năm, đó là cách giúp anh trở thành một trí thức. Hầu hết những người này tập hợp các bài thơ của họ trong bản thảo gọi là divan. Thực tế, thơ cung đình Ottoman gọi là thơ divan. Một nửa chính khách Ottoman tạo ra divan. Đó là cách viết mọi thứ tinh vi và có học thức, với nhiều quy tắc cùng lễ nghi. Rất thường và lặp đi lặp lại. Sau khi những ý tưởng phương Tây truyền đến Thổ Nhĩ Kỳ, di sản này kết hợp cùng ý niệm lãng mạn và hiện đại làm cho nhà thơ thành người bùng cháy vì sự thật. Nó gia tăng sức nặng vào uy tín của nhà thơ. Mặt khác, một tiểu thuyết gia về bản chất là người lấp đầy khoảng trống bằng sự kiên nhẫn của anh ta, chầm chậm như một con kiến. Một tiểu thuyết gia tạo ấn tượng với chúng ta không phải bằng khải tượng ma mị và lãng mạn, mà bởi sự kiên nhẫn của anh ta.

ÁGQ: Ông có từng làm thơ chưa?

OP: Người ta thường hỏi tôi như vậy. Năm mười tám tuổi tôi từng làm thơ và xuất bản một số bài thơ ở Thổ Nhĩ Kỳ, nhưng rồi tôi bỏ. Tôi thanh minh rằng tôi nhận ra nhà thơ là người mà thông qua đó Chúa cất giọng. Anh ta bị ám bởi thi ca. Tôi đã thử sức với thơ, nhưng sau một thời gian tôi nhận ra Chúa chẳng nói gì với tôi. Tôi tiếc nuối và tưởng tượng – nếu Chúa có nói với tôi, thì ngài sẽ nói điều gì? Tôi bắt đầu viết rất tỉ mỉ, chậm rãi, cố tìm ra điều này. Đó là viết văn xuôi, viết tiểu thuyết. Vì thế nên tôi làm việc y như giáo sĩ. Một số nhà văn khác cho rằng cách diễn đạt này hơi xúc phạm. Nhưng tôi chấp nhận điều đó – tôi làm việc như một giáo sĩ.

ÁGQ: Ông có cho rằng theo thời gian viết văn đã trở nên dễ dàng hơn với mình không?

OP: Không đâu. Đôi khi tôi cảm thấy nhân vật của mình nên bước vào một căn phòng và tôi vẫn không biết làm cách nào khiến anh ta bước vào. Có lẽ tôi tự tin hơn, sự tự tin này đôi lúc tỏ ra hữu ích vì khi đó không cần thử nghiệm, anh cứ thế viết những gì chảy ra trên đầu bút. Tôi đã viết tiểu thuyết trong ba mươi năm qua, vậy nên tôi nghĩ mình đã tiến bộ hơn đôi chút. Tuy nhiên thi thoảng tôi vẫn đi vào ngõ cụt ở những chỗ tôi nghĩ mình không bao giờ bị. Một nhân vật không thể bước vào phòng và tôi không biết phải làm sao. Vẫn như thế! Sau ba mươi năm.

Chia một cuốn sách thành các chương rất quan trọng đối với cách suy nghĩ của tôi. Khi viết một cuốn tiểu thuyết, nếu tôi biết trước toàn bộ mạch truyện – hầu như là vậy – tôi chia nó thành từng chương và nghĩ ra chi tiết về những gì xảy ra trong mỗi phần. Tôi không nhất thiết phải bắt đầu với chương một và phải viết tất cả các chương khác theo thứ tự. Khi tôi bị chặn lại, chuyện đó chẳng quan trọng với tôi, tôi tiếp tục với bất cứ thứ gì tôi thích. Tôi có thể viết từ chương đầu tiên tới chương thứ năm, sau đó nếu không thích nó, tôi chuyển sang chương số mười lăm và tiếp tục từ điểm này.

ÁGQ: Ý ông là mình đã vạch ra trước toàn bộ cuốn sách?

OP: Mọi thứ. Ví dụ Tên tôi là Đỏ, có nhiều nhân vật và tôi chỉ định cho mỗi nhân vật số chương nhất định. Khi viết, đôi khi tôi muốn tiếp tục “trở thành” một trong các nhân vật. Vậy nên khi kết thúc một trong các chương của Shekure, có lẽ là chương bảy, tôi đã nhảy tới chương mười một, là chương của cô ấy. Tôi thích trở thành Shekure. Nhảy từ một nhân vật hay một nhân cách tới nhân vật khác có thể khiến bạn chán nản.

Nhưng chương kết thúc tôi luôn viết cuối cùng. Đó là điều chắc chắn. Tôi thích tự trêu mình, tự hỏi bản thân rằng cái kết nên như thế nào. Tôi chỉ có thể viết đoạn kết một lần. Càng về cuối, trước khi kết thúc, tôi tạm dừng và viết lại phần lớn các chương đầu.

ÁGQ: Có khi nào có ai đó đọc trong lúc ông viết?

OP: Tôi luôn đọc tác phẩm của mình cho người cùng tôi sẻ chia cuộc sống. Tôi luôn biết ơn nếu người đó nói, Cho em xem, hoặc, Cho em thấy anh đã làm được gì hôm nay. Điều đó không chỉ tạo ra một chút áp lực cần thiết mà còn giống như việc cha mẹ vỗ nhẹ vào lưng anh và nói, Làm tốt lắm. Đôi khi, người đó sẽ nói, Xin lỗi, em sẽ không mua nó. Chuyện này tốt thôi. Tôi thích nghi thức này.

Tôi luôn nhớ đến Thomas Mann, một trong những hình mẫu của mình. Ông ấy từng mang cả gia đình đến ở cùng nhau, người vợ cùng sáu đứa con. Ông thường đọc cho cả gia đình sum vầy của mình. Tôi thích điều đó. Người cha kể câu chuyện.

– Còn tiếp –

Đọc phần 2 của cuộc phỏng vấn tại đây

3V

Dịch từ bài viết gốc Paris Review – The Art of Fiction No. 187

Chú thích:

1, 2, 3, 4: Đối với các sách đã được dịch sang tiếng Việt, người dịch sử dụng tên tiếng Việt cho thông dụng. Các sách vẫn chưa có bản dịch tiếng Việt người dịch tạm dùng tên tiếng Anh trong bài viết gốc.

Chuyện người cầm bút

Elvis Phương: Âm nhạc là sự lựa chọn duy nhất của tôi từ năm 16 tuổi

Ở tuổi này mà Elvis Phương còn nhớ và thuộc gần 100 bài hát thì cuộc đời, kỉ niệm của chính mình làm sao mà quên được.

Published

on

By

Dòng đời là những trang viết trải lòng của danh ca Elvis Phương về chính cuộc đời mình. Hơn 60 năm ca hát, Elvis Phương đã trải qua nhiều thăng trầm để được thành danh và đứng vững trên sân khấu cho đến tận ngày nay. Để giúp bạn đọc hiểu rõ hơn về những tâm tư của danh ca Elvis Phương xoay quanh Dòng đời, Bookish đã có buổi phỏng vấn độc quyền với nam danh ca.

Trong quyển hồi ký Dòng đời, Elvis Phương có nhắc đến việc cha mình cấm cản đi theo nghiệp ca hát. Vậy đến thời điểm nào, cha ông nguôi ngoai và chấp nhận việc ông theo đuổi ước mơ ca hát?

Hai năm sau khi Elvis Phương bị ba mình đuổi ra khỏi nhà thì một buổi tối sau khi đi hát xong, lúc trở về nhà nơi Elvis Phương đang mướn và ở cùng với ban nhạc thì thấy má của Elvis Phương ngồi sẵn trong nhà và bà nói: “Ba nói nhớ Phương và muốn con về nhà.” Thế là được trở về nhà. Vui sướng vô cùng vì biết rằng mình sẽ được tiếp tục hát để theo đuổi ước mơ dù má chả nói những điều như mình đã tự nghĩ nhưng cho trở về nhà là chắc cho đi hát rồi…

Được biết, ông là ca sĩ đầu tiên về nước, thời gian đầu, Elvis Phương nhận được tình cảm, sự đón nhận từ khán giả như thế nào? Ông có thể chia sẻ kỷ niệm ấn tượng với khán giả khi về Việt Nam?

Elvis Phương là một trong những ca sĩ về nước rất sớm; từ 1996 rồi 1998 để quay hai cuốn video nhưng mãi đến 2000 mới được hát live lần đầu vào ngày 20 và 21 tháng 5 năm 2000. Cả hai đêm hát đều sold out nhưng điều đáng nói nhất là tình cảm của khán thính giả dành cho Elvis Phương là động lực duy nhất khiến Elvis Phương quyết định mua nhà để được ở lâu dài và mãi đến tận hôm nay. Elvis Phương nhớ và nhớ rất rõ dư âm của hai đêm hát tại nhà hát Bến Thành lúc đó và sự yêu thương của khán thính giả đã làm Elvis Phương choáng ngợp sung sướng; có nhiều gia đình cả ba thế hệ đều đi xem Elvis Phương hôm đó. Sự bày tỏ lòng yêu thương của khán thính giả là một kỉ niệm đẹp cho lần trở về đầu tiên và được hát tại Việt Nam của Elvis Phương.

Ông từng mổ tim, cơn thập tử nhất sinh vào năm 1998, lúc đó ông cũng đã 53 tuổi. Nhưng tại sao, ông không lựa chọn cuộc sống an dưỡng mà tiếp tục sự nghiệp ca hát, hầu như ngày nào cũng đi hát?

Đối với Elvis Phương hát cũng giống như thở và mình phải cần thở mới được sống. Đúng vào tháng 5 năm 1998 Elvis Phương đã trải qua một cuộc giải phẫu tim phải nói là thập tử nhất sinh lúc đó. Elvis Phương đúng 53 năm tuổi mà dòng họ của mình từ ông nội, đến ba và người chú – em của ba – đều mất vào tuổi 53.

Phải nói là cuộc giải phẫu mười phần nguy hiểm nhưng khi được bình phục. Elvis Phương cảm thấy mình như được hồi sinh và niềm khao khát được hát lại cháy bỏng như những ngày đầu… Thế là hát và hát mãi đến tận bây giờ. Sự lựa chọn duy nhất của Elvis Phương từ lúc 16 tuổi đến ngày hôm nay: còn sống là còn hát.  

Sự nghiệp ca hát hơn 62 năm - một quãng đường dài và đồ sộ, khi viết cuốn hồi ký Dòng đời, làm sao ông có thể nhớ lại hết chi tiết cụ thể chuyện nhiều năm đã qua, sau đó xây dựng cấu trúc nội dung mạch lạc, tường thuật cho độc giả?

Elvis Phương không những nhớ một chuyện, mà cả trăm, cả nghìn câu chuyện. Vợ Elvis Phương hay đùa “phải chi Bố nhớ và giữ được tiền như những câu chuyện của đời Bố dù bao nhiêu năm đã trôi qua thì tốt biết mấy.”

Tài liệu và hình ảnh thì còn giữ được nhiều vô số kể. Bây giờ những lúc rảnh rỗi ngoài giờ đi hát thì Elvis Phương lại viết, lại ghi lại. Viết ra để làm gì? Chỉ biết viết vì kỉ niệm cả một đời đi hát thì nhiều quá; có những điều càng nhớ và viết ra thì thấy thú vị vô cùng. Ở tuổi này mà Elvis Phương còn nhớ và thuộc gần 100 bài hát thì cuộc đời, kỉ niệm của chính mình làm sao mà quên được.

Cuộc đời của ông trải qua nhiều thăng trầm. Khi viết xong quyển hồi ký Dòng đời và nhìn lại tất cả một cách hệ thống, ông cảm nhận điều gì là quan trọng nhất trong cuộc sống và sự nghiệp của mình? Chặng đường nào đối với ông là đáng nhớ nhất?

Đáng nhớ nhất là phải nhớ tất cả, vì cuộc đời ca hát của Elvis Phương thật là có quá nhiều thăng trầm. Đọc đi đọc lại Dòng đời, Elvis Phương vẫn thấy, vẫn cảm nhận trong cuộc sống và sự nghiệp của mình, tất cả những chặng đường đã trải qua đều quan trọng.

Có thăng, có trầm mới có Elvis Phương ngày hôm nay. Elvis Phương chưa bao giờ cảm thấy là mình không muốn hát và còn hát thì còn nhớ. Nhớ tất cả để cảm thấy cuộc đời mình còn thật nhiều may mắn. Điều gì cần nhớ thì phải nhớ thôi. Nhất là âm nhạc và những bài hát đã đi theo mình cả cuộc đời…

Cảm ơn những chia sẻ chân tình từ danh ca Elvis Phương. Chúc ông có thật nhiều sức khỏe dồi dào để tiếp tục thăng hoa với âm nhạc.

Danh ca Elvis PhươngMC Minh Đức tại buổi giao lưu, ra mắt sách Dòng đời ngày 9.9.2023
Danh ca Elvis Phương kí tặng bạn đọc tại buổi giao lưu, ra mắt sách Dòng đời ngày 9.9.2023
Đọc bài viết

Chuyện người cầm bút

Lê Nguyễn Nhật Linh: Chiến thắng vẻ vang nhất là khi ta vượt qua chính mình

Việc gì mình muốn làm thì hãy làm và làm với lòng nhiệt huyết hết sức có thể, đừng chờ đợi kết quả vì nhiều khi kết quả còn hơn cả mong đợi của mình. Có lòng, dốc sức thì sẽ được toại nguyện.

Published

on

Sáng ngày 27.8, tại Đường Sách TP. Hồ Chí Minh đã diễn ra buổi giao lưu cùng tác giả Lê Nguyễn Nhật Linh – chị đã có ba tựa sách do NXB Trẻ phát hành được tái bản nhiều lần: Đến Nhật Bản học về cuộc đời, Nín đi con, Giá ngày tháng ấy có người hiểu tôi.  

Nhắc đến Lê Nguyễn Nhật Linh, bạn đọc hẳn sẽ thường nhớ đến tác phẩm Đến Nhật Bản học về cuộc đời của chị. Quyển sách này đến nay đã đạt đến con số gần 30.000 bản in. Bên cạnh đó, chị Lê Nguyễn Nhật Linh còn là một nhà thiết kế kim hoàn rất thành công.

Quyết tâm trở thành người tốt vì đã được gặp nhiều người tốt

Tại buổi giao lưu, Nhật Linh không chỉ chia sẻ về những trải nghiệm xoay quanh tập tản văn Đến Nhật Bản học về cuộc đời mà còn có những chia sẻ sâu sắc về cuộc sống, tâm lý, con đường lập nghiệp và sáng tác. Một số bạn đọc đến tham dự tại buổi giao lưu chia sẻ rằng những dòng chị viết cả trên sách lẫn trên mạng xã hội đã đem lại những giá trị tích cực, trở thành nguồn động viên lớn với những ai đang trải qua giai đoạn khó khăn trong cuộc đời.

Ở phần chia sẻ những cảm nhận về nước Nhật, Nhật Linh cho biết, đối với chị, năng lượng của nước Nhật là hòa khí. Năm 16 tuổi, lần đầu tiên đến Nhật, chị đã có một ước mơ và quyết tâm: chị muốn mình trở thành người tốt vì đã gặp được rất nhiều người tốt ở Nhật; tuy có những người chị chỉ có cơ hội được gặp họ một lần, nhưng chị vẫn nhớ mãi sự tử tế và ấm áp ở họ. Giai đoạn ấy, chị đã dốc hết lòng phấn đấu vì: “Khi đại diện cho một quốc gia đến một quốc gia khác, bạn sẽ muốn nỗ lực cố gắng nhiều hơn; bởi lẽ khi đó, sự phát triển của bản thân sẽ trở thành sự phát triển của quốc gia.”

Trước câu hỏi tại sao những trang viết của Nhật Linh chắt lọc rất nhiều trải nghiệm sâu sắc về cuộc sống, có phải là do cuộc đời chị đã quá chông chênh, Nhật Linh chia sẻ rằng sự chông chênh đó không phải là câu chuyện của riêng chị. Bất cứ một người trẻ tự lập nào bước vào hành trình cuộc đời thì con đường đều sẽ có ít nhiều chông gai. Bản thân chị đã từng có những cột mốc nghĩ rằng mình trầm cảm. Vào năm đầu tiên học đại học, khi phải xa cha mẹ, quê hương – sự thay đổi môi trường đột ngột khiến chị chông chênh. Giai đoạn thứ hai là khi chị đi du học ở nước Nhật. Đây cũng là sự thay đổi môi trường nhưng ở mức độ tàn khốc hơn. Sự mất thăng bằng thường xuyên khiến chị cạn kiệt về năng lượng. Bây giờ – khi đã vượt qua và nhìn lại thời điểm đó – chị nhận ra rằng mỗi độ tuổi có một áp lực khác nhau và ta phải chiến đấu với nó. Nếu muốn sống một cuộc đời như mơ thì phải nỗ lực, mà bản thân sự nỗ lực vốn dĩ đã không phải là một điều đơn giản. “Khi chúng ta chiến đấu với chính mình và chiến thắng thì đó mới là chiến thắng vẻ vang nhất,” chị chia sẻ.  

Có lòng, dốc sức thì sẽ được toại nguyện

Bên cạnh Đến Nhật Bản học về cuộc đời, Lê Nguyễn Nhật Linh còn có một tác phẩm khác cũng đặc biệt không kém là Giá ngày tháng ấy có người hiểu tôi với đề tài về trầm cảm. Chị Linh cho rằng khi phải thường xuyên ở trong tình trạng không ai hiểu mình, người ta sẽ dễ mắc bệnh trầm cảm. Bất kì ai cũng có thể rơi vào giai đoạn phải đối mặt với cảm giác không được thấu hiểu này. Nguyên nhân chỉ đơn giản là vì ta không thể chia sẻ với người khác. Khi cứ để tình trạng này tiếp diễn thì nếu ở mức độ nhẹ nhàng, ta sẽ thấy nó chỉ là một khối đá; còn nếu ở mức độ nặng nề, nó sẽ trở thành khối u. Và nếu không tìm cách thay đổi, ta sẽ rơi xuống đáy. Mỗi người lại có một cái đáy khác nhau. Ta phải luôn quan sát những cảm xúc của bản thân để ý thức được rằng những điều ấy có ổn không.

Để tháo gỡ cảm giác đó, chị Linh cho rằng rất khó đúc kết thành vài từ khóa ngắn gọn. Mỗi chúng ta là những thế giới khác nhau. Có những người chỉ vài ngày thôi là đã đi qua được một biến cố. Nhưng có những người lại mất cả vài tháng, hay thậm chí là vài năm. Không có một công thức chung nào cả, nhưng nếu chúng ta cố gắng giữ ý thức thấu hiểu bản thân thì sẽ tìm được cách tháo gỡ. Bước đầu tiên là phải đặt câu hỏi cho bản thân – đây là một hình thức tự trò chuyện với chính mình để tìm giải pháp. Nếu như đến chính ta còn không muốn nói chuyện với ta thì làm sao có thể trông mong người khác sẽ đến giúp ta giải quyết vấn đề.

Hãy đặt thật nhiều câu hỏi khi chúng ta mắc kẹt trong những vấn đề của bản thân. Nhưng cách đặt câu hỏi rất quan trọng. Khi biết cách đặt câu hỏi đúng thì ta mới có thể tìm được câu trả lời then chốt. Những câu hỏi nên có sự cân bằng giữa lí trí và cảm xúc; nếu là chuyện liên quan đến người khác thì cần tránh suy diễn mà cố gắng trực tiếp hỏi đối phương. Khi đã đến cái đích của sự rõ ràng, ta sẽ tránh được tình trạng rối tung rối mù. Sau đó là đến giai đoạn quyết định. Mọi quyết định của chúng ta đều có thể sai và đúng, không thể lúc nào cũng đúng được. Nhưng nếu đã quyết định sai thì hãy cố gắng học nhiều nhất từ cái sai đó. Quá trình này sẽ giúp ta hiểu được nhiều hơn về bản thân. Và một khi đã hiểu bản thân, ta sẽ có thể học được cách hiểu và giúp đỡ người khác.

Cuối buổi giao lưu, Nhật Linh bật mí rằng Đến Nhật Bản học về cuộc đời sẽ được dịch sang tiếng Nhật, dự kiến xuất bản ở Nhật vào cuối năm nay. Chị cũng đưa ra lời khuyên cho những bạn trẻ từ kinh nghiệm nghề nghiệp của mình rằng: “Việc gì mình muốn làm thì hãy làm và làm với lòng nhiệt huyết hết sức có thể, đừng chờ đợi kết quả vì nhiều khi kết quả còn hơn cả mong đợi của mình. Có lòng, dốc sức thì sẽ được toại nguyện. Nếu không đặt trái tim mình vào công việc đã lựa chọn mà chỉ làm hời hợt qua loa thì sẽ không có kết quả như ý.”

Hoàng Đức Nhiên

Đọc bài viết

Chuyện người cầm bút

Kazuo Ishiguro: Lộ trình đọc cho người mới bắt đầu

Published

on

Nhà văn người Anh gốc Nhật Kazuo Ishiguro là một trong những tác giả Anh ngữ được giới chuyên môn đánh giá cao nhất hiện nay: cây bút 68 tuổi này đã hai lần được vinh danh trên tạp chí Granta chuyên đề Những tiểu thuyết gia trẻ nổi bật nhất ở Anh năm 1983 và 1993; và sau đó, hành trang của ông lần lượt có thêm giải Booker, Nobel, và tước hiệp sĩ.

Đối diện với văn nghiệp đồ sộ của Kazuo Ishiguro, hẳn không ít người băn khoăn nên bắt đầu đọc từ tác phẩm nào trước. Bài viết dưới đây được dịch từ The Guardian sẽ cung cấp cho người đọc một lộ trình hợp lí để khám phá thế giới của Kazuo Ishiguro.

Điểm xuất phát

Hai cuốn tiểu thuyết đầu tiên của Ishiguro là Cảnh đồi mờ xámMột họa sĩ phù thế đều có mối liên hệ trực tiếp đến gốc gác Nhật Bản vốn ít nhiều đã trở nên xa lạ với nhà văn – gia đình ông chuyển đến nước Anh khi ông mới năm tuổi và ông không về thăm lại Nhật Bản trong suốt gần 30 năm, dù đến thời điểm đó ông đã là một tác giả có tiếng tăm. Cả hai cuốn tiểu thuyết đều khai thác góc nhìn của Ishiguro về những con người chiêm nghiệm lại cuộc đời mình trong nỗi hoang mang, tiếc nuối, để lại cho độc giả nhiều suy ngẫm.

Cả hai đều là tác phẩm chất lượng, cuốn sau có sự cải thiện so với cuốn đầu tiên, nhưng chính ở cuốn tiểu thuyết thứ ba cũng có cùng chủ đề mới thực sự đúng nghĩa là điểm khởi đầu để tiếp cận văn nghiệp của ông: tiểu thuyết Tàn ngày để lại.

Tàn ngày để lại kể câu chuyện về Stevens – một quản gia người Anh với tất cả mọi hàm nghĩa của từ này: tận tụy, chỉn chu, trung thành, và trên hết, luôn luôn có một ý thức mãnh liệt về phẩm giá nghề nghiệp. Mong muốn cải thiện chất lượng phục vụ tại dinh thự và chấm dứt những sa sút hiện tại, Stevens dấn thân vào một cuộc hành trình đi qua Miền Tây nước Anh. Mỗi chặng trên cuộc hành trình mở ra một cánh cửa nối về quá khứ, và dần dà hành trình ấy làm hé lộ những mất mát và nuối tiếc theo sau những ảo tưởng của một đời người.

Lạ lùng thay, Tàn ngày để lại vừa bi vừa hài, “vừa đẹp đẽ vừa tàn nhẫn,” như lời nhận xét của Salman Rushdie. Tác phẩm này đã thắng giải Booker và bản phim chuyển thể với sự góp mặt của ngôi sao Anthony Hopkins và Emma Thompson cũng được đánh giá là thành công khi có đến tám đề cử Oscar.

Ishiguro thừa nhận rằng ông đã viết cùng một cuốn tiểu thuyết đến những ba lần, để ngày càng tiệm cận hơn đến điều ông muốn truyền tải. Kết quả là một cuốn sách hoàn hảo về mọi mặt đã ra đời.

Chặng thử thách

Sau khi đã đạt được thành công với chủ đề vừa nêu trên, ở cuốn tiểu thuyết kế tiếp, nhân vật chính của Ishiguro không phải là một người nhìn về quá khứ nữa, mà đang ở giữa nguồn cơn hoang mang. Tiểu thuyết The Unconsoled kể về nhạc công Ryder, anh đến một vùng nào đó ở trung tâm châu Âu để tham dự một buổi hòa nhạc, nhưng rồi mọi thứ xung quanh anh lại biến hóa khôn lường. Nếu so sánh với ba tác phẩm đầu tiên của Ishiguro thì có thể nhận thấy cuốn tiểu thuyết này vận hành theo nguyên tắc của một giấc mơ vì thời gian, không gian và nhân dạng thường xuyên thay đổi. Những người đầu tiên đọc quyển sách này đã phải thất kinh, James Wood – cây bút phê bình của tờ The Guardian cũng nằm trong số đó – nhận xét rằng quyển sách này đã “tự mở ra một thể loại tồi tệ”. Nhưng đây cũng chính là tác phẩm thể hiện rõ ràng nhất quan điểm sâu sắc của Ishiguro về việc không ai trong chúng ta thực sự biết cuộc đời mình sẽ đi về đâu; điều đó khiến nó càng mang dáng dấp của một kiệt tác hơn, với bầu không khí Kafka thời đương đại.

Tiểu thuyết ở giai đoạn hậu Nobel

Khi thắng giải Nobel năm 1948, nhà thơ TS Eliot từng phát biểu rằng: “Giải Nobel là một tấm vé tiễn người ta đến thẳng huyệt mộ của mình. Chẳng có ai làm thêm được gì cả sau khi nhận giải.” Ishiguro thắng giải Nobel Văn chương năm 2017; lúc đó, ông đã viết một bài diễn văn nhận giải dễ thương, khiêm tốn có nhan đề là My Twentieth Century Evening and Other Small Breakthroughs (Tạm dịch: Buổi xế chiều trong thế kỉ thứ hai mươi của tôi và những bước đột phá nho nhỏ khác). Năm kế tiếp sau đó, ông được phong tước hiệp sĩ.

Tiểu thuyết Klara and the Sun (Tạm dịch: Klara và Mặt trời) xuất bản năm 2021 không có dấu hiệu nào cho thấy rằng Ishiguro đã trở thành một người hữu danh vô thực hay một nhà hiền triết đạo mạo. Người kể chuyện lần này (toàn bộ tiểu thuyết của Ishiguro đều được viết ở ngôi thứ nhất) là Klara, một AI hoạt động dựa trên nguồn năng lượng mặt trời, cô ngây thơ nhưng trung thành, được mua về để dốc hết lòng chăm sóc cho một cô bé. Giống như những tác phẩm khác của Ishiguro, tiểu thuyết này cũng có văn phong trung tính, điềm tĩnh, không bao giờ đi thẳng vào những sự kiện được đề cập; tuy nhiên, chúng ta vẫn có thể cảm nhận rõ những sự kiện ấy và thấy đau lòng. Một lần nữa, nó tạo ra dư chấn theo lối khác thường mà không một tiểu thuyết gia nào làm được ngoài Ishiguro.

Nếu như bạn chỉ có thể đọc một tác phẩm, đó sẽ là…  

Thoạt đọc qua nội dung, tiểu thuyết Mãi đừng xa tôi có vẻ như thuộc thể loại khoa học viễn tưởng: tác phẩm kể về những bản sao vô tính, được tạo ra chỉ với mục đích duy nhất là để hiến tạng cho đến chết. Tuy nhiên, câu hỏi cốt lõi được đặt ra là tất cả chúng ta phải chọn cách sống như thế nào khi đều biết rằng thời gian của ta là giới hạn và không ai thoát được án tử.

Kathy, Ruth và Tommy xuất thân từ một ngôi trường đặc biệt: trường nội trí Hailsham. Những con người ở đó đều có chung một số phận được định đoạt. Họ chấp nhận số phận, nhưng vẫn khát khao trì hoãn. Với giọng điệu bình thản như mặt biển sóng ngầm, câu chuyện kể về một hiện thực đáng sợ diễn ra trong một thế giới “giả tưởng”, nhưng cũng không xa lắm thế giới “thật tưởng” mà chúng ta đang sống. Câu chuyện ám ảnh chúng ta bởi tiếng kêu đau đớn đến xé lòng về tình yêu và hạnh phúc. Nó buộc chúng ta phải suy nghĩ lại về giá trị Người của chính mình.

Hoàng Đức Nhiên dịch

Đọc bài viết

Cafe sáng