Chuyện người cầm bút

Trò chuyện với Orhan Pamuk: Nghệ thuật tiểu thuyết số 187 (Phần 2)

Published

on

Orhan Pamuk sinh năm 1952 tại Istanbul, nơi ông vẫn đang sống. Gia đình ông giàu lên từ việc xây dựng đường sắt trong những ngày đầu của Cộng hòa Thổ Nhĩ Kỳ; Pamuk theo học trường Robert College, nơi con cái giới thượng lưu ưu tú của thành phố được hưởng nền giáo dục thế tục theo kiểu phương Tây. Ngay từ đầu, ông đã bộc lộ niềm đam mê với nghệ thuật thị giác, nhưng sau khi đăng ký học kiến trúc tại đại học, ông lại muốn viết. Ông hiện là tác giả được đọc nhiều nhất tại Thổ Nhĩ Kỳ.

Đọc phần 1 của cuộc phỏng vấn tại đây

*

ÁGQ: Khi còn trẻ, ông muốn trở thành họa sĩ. Tình yêu hội họa nhường chỗ cho niềm yêu thích viết lách từ khi nào?

OP: Ở tuổi hai mươi hai. Từ khi lên bảy, tôi đã muốn trở thành họa sĩ, và gia đình tôi ưng thuận. Họ đều nghĩ rằng tôi sẽ là một danh họa. Nhưng rồi vài thứ xảy ra trong đầu tôi – tôi nhận ra rằng một chiếc đinh vít đã bị lỏng – và tôi ngừng vẽ rồi ngay lập tức bắt đầu viết cuốn tiểu thuyết đầu tay của mình.

ÁGQ: Một con vít lỏng?

OP: Tôi không thể nói lý do tôi làm điều đó. Gần đây tôi đã xuất bản một cuốn sách tên là Istanbul. Một nửa trong đó là cuốn tự truyện của tôi đến thời điểm kia và nửa còn lại là một bài luận về Istanbul, hay chính xác hơn, ánh nhìn của một đứa trẻ về Istanbul. Cuốn sách là kết hợp giữa suy nghĩ về hình ảnh và phong cảnh, cũng như cấu trúc hóa học của thành phố và nhận thức của đứa trẻ về thành phố đó và cuốn tự truyện của đứa trẻ đó. Câu cuối cùng của cuốn sách như sau, “‘Tôi không muốn trở thành một họa sĩ,’ Tôi nói. ‘Tôi sẽ trở thành một nhà văn.’” Và không có lời giải thích. Mặc dù đọc toàn bộ cuốn sách có thể lý giải phần nào.

ÁGQ: Gia đình ông có hài lòng về quyết định này không?

OP: Mẹ tôi khó chịu. Cha tôi phần nào hiểu hơn vì hồi trẻ ông muốn trở thành nhà thơ và dịch Válery sang tiếng Thổ, nhưng bỏ cuộc khi bị giới thượng lưu xung quanh, nơi ông thuộc về nhạo báng.

ÁGQ: Phải chăng gia đình chấp nhận ông trở thành họa sĩ, chứ không phải tiểu thuyết gia?

OP: Vâng, bởi họ không nghĩ tôi sẽ là họa sĩ toàn thời gian. Gia đình có truyền thống làm kỹ sư xây dựng. Ông tôi là một kỹ sư xây dựng đã kiếm được bộn tiền từ việc làm đường ray. Các chú và cha tôi để mất chúng, song đều học cùng một trường kỹ thuật, Đại học Kỹ nghệ Istanbul. Tôi dự định sẽ đến đó rồi nói, Được rồi, Tôi sẽ đến. Nhưng vì là nghệ sĩ trong gia đình, nên tôi quan niệm rằng mình nên trở thành kiến trúc sư. Dường như đó là giải pháp làm hài lòng mọi người. Vì vậy tôi đã theo học ngôi trường ấy, nhưng đang giữa học trình kiến trúc, tôi đột ngột bỏ hội họa và bắt đầu viết tiểu thuyết.

ÁGQ: Ông đã có cuốn tiểu thuyết đầu tiên trong đầu khi quyết định bỏ nghề chưa? Đó có phải lý do ông bỏ nghề kiến trúc?

OP: Theo tôi nhớ, tôi muốn trở thành tiểu thuyết gia trước khi tôi biết mình phải viết cái gì. Thực tế ra, khi bắt đầu viết tôi đã có hai hoặc ba lần khởi đầu lệch hướng. Tôi vẫn còn giữ mấy cuốn ghi chú. Song sau khoảng sáu tháng, tôi bắt đầu một dự án tiểu thuyết chính yếu sau cùng được xuất bản với tên gọi Cevdet Bey and His Sons.

ÁGQ: Cuốn đó vẫn chưa được dịch sang tiếng Anh.

OP: Về cơ bản nó là một sử thi gia đình, giống kiểu Forsyte Saga hay Gia đình Buddenbrook5 của Thomas Mann. Không lâu sau khi hoàn thành nó, tôi hối hận vì đã viết một thứ quá lỗi thời, một tiểu thuyết của thế kỷ XIX. Tôi hối hận bởi vì, khoảng năm hăm lăm hay hăm sáu tuổi, tôi bắt đầu áp đặt cho bản thân ý nghĩ mình nên trở thành một nhà văn hiện đại. Vào thời điểm cuốn tiểu thuyết cuối cùng cũng được xuất bản, khi tôi ba mươi, việc viết lách của tôi đã dần dà thể nghiệm hơn nhiều.

ÁGQ: Khi ông nói mình muốn trở nên hiện đại hơn, mang tính thể nghiệm, ông có nghĩ đến hình mẫu nào đó không?

OP: Thời điểm đó, những nhà văn vĩ đại đối với tôi không còn là Tolstoy, Dostoyevsky, Stendhal hay Thomas Mann. Những người hùng của tôi là Virginia Woolf và Faulkner. Giờ đây tôi thêm Proust và Nabokov vào danh sách.

ÁGQ: Câu mở đầu của The New Life là “Một ngày nọ, tôi đọc một cuốn sách và toàn bộ cuộc đời tôi đã thay đổi”. Có cuốn sách nào có ảnh hưởng tương tự với ông không?

OP: Âm thanh và cuồng nộ6 vô cùng quan trọng với tôi khi tôi hăm mốt, hăm hai. Tôi mua một ấn bản của Penguin. Nó rất khó hiểu, đặc biệt là với vốn tiếng Anh kém cỏi của tôi. Nhưng có một bản dịch tuyệt vời của cuốn sách sang tiếng Thổ, vì vậy tôi đặt bản tiếng Thổ và tiếng Anh cạnh nhau trên bàn và đọc nửa đoạn từ một cuốn rồi quay lại cuốn kia. Quyển sách đó để lại dấu ấn trong tôi. Phần còn lại dần dà là giọng văn của tôi. Tôi sớm bắt đầu viết ở ngôi thứ nhất số ít. Đa phần tôi cảm thấy tốt hơn khi mạo danh ai đó thay vì viết ở ngôi thứ ba.

ÁGQ: Có phải ông nói rằng mất nhiều năm để cuốn tiểu thuyết đầu tiên của mình được xuất bản?

OP: Ở tuổi đôi mươi tôi không có bất kỳ người bạn văn nào; tôi không thuộc bất kỳ hội nhóm văn chương nào ở Istanbul. Cách duy nhất để xuất bản cuốn sách đầu tiên của tôi là gởi nó đến một cuộc thi văn học dành cho các bản thảo chưa được xuất bản ở Thổ Nhĩ Kỳ. Tôi đã làm thế và thắng giải, có nghĩa là được một nhà xuất bản lớn, tốt xuất bản. Vào thời điểm đó, nền kinh tế Thổ Nhĩ Kỳ đang ở trong tình trạng tồi tệ. Họ nói, Ừ, chúng tôi sẽ gởi cho anh một hợp đồng, song họ đã trì hoãn xuất bản cuốn tiểu thuyết.

ÁGQ: Tiểu thuyết thứ hai của ông có dễ dàng – nhanh chóng hơn không?

OP: Cuốn thứ hai là một cuốn sách mang màu sắc chính trị. Không phải tuyên truyền. Tôi đã viết nó trong khi chờ đợi cuốn đầu tiên xuất hiện. Tôi dành khoảng hai năm rưỡi cho nó. Đột nhiên, một đêm xảy ra đảo chính quân sự. Đó là năm 1980. Hôm sau nhà xuất bản đáng lẽ sẽ xuất bản cuốn sách đầu tiên, Cevdet Bey, nói rằng ông ta sẽ không xuất bản nó mặc cho hợp đồng giữa chúng tôi. Tôi nhận ra ngay cả khi hoàn thành cuốn thứ hai – cuốn sách có yếu tố chính trị – vào những ngày đó, tôi sẽ không thể xuất bản nó trong năm hoặc sáu năm vì quân đội không cho phép. Vì vậy dòng suy nghĩ của tôi diễn ra như sau: Tuổi đôi mươi tôi nói rằng mình sẽ trở thành tiểu thuyết gia và viết trong bảy năm với hy vọng xuất bản được cái gì đó ở Thổ Nhĩ Kỳ… và rồi chẳng có gì. Giờ đây gần ba mươi tuổi và tôi chẳng có thể xuất bản bất cứ thứ gì. Tôi vẫn còn giữ hai trăm năm mươi trang của cuốn tiểu thuyết chính trị còn dang dở đó trong một ngăn kéo của mình.

Ngay sau cuộc đảo chính quân sự, vì không muốn nản lòng, tôi bắt đầu viết cuốn sách thứ ba – cuốn anh đang nói đến, The Silent House. Đó là những điều tôi đã làm vào năm 1982 khi cuốn tiểu thuyết đầu tiên cuối cùng cũng được xuất bản. Cevdet được đón nhận nồng nhiệt, có nghĩa là tôi có thể xuất bản tiếp cuốn sách đang viết. Vì vậy nên cuốn thứ ba tôi viết là cuốn thứ hai được xuất bản.

ÁGQ: Điều gì làm cho cuốn tiểu thuyết của ông không được xuất bản dưới chính quyền quân sự?

OP: Những nhân vật là giới thượng lưu trẻ tuổi theo chủ nghĩa Marx. Cha mẹ họ sẽ tới các khu nghỉ dưỡng mùa hè, và họ có những ngôi nhà rộng rãi khang trang và rồi say đắm trở thành những người Marxist. Họ sẽ đánh nhau rồi ghen tuông với nhau rồi âm mưu nổ tung thủ tướng.

ÁGQ: Có phải là một cuộc cách mạng được tô bóng?

OP: Những thanh niên thượng lưu trẻ tuổi với lề thói của người giàu, vờ như mình rất cấp tiến. Song tôi không phán xét đạo đức về chuyện đó. Đúng hơn, theo cách nào đó tôi đang lãng mạn hóa tuổi trẻ của mình. Ý tưởng ném một quả bom vào thủ tướng là quá đủ khiến cuốn sách bị cấm.

Vậy nên tôi không thể hoàn thành nó. Và anh thay đổi khi anh viết sách. Anh không thể khoác nhân vật đó lên lần nữa. Anh không thể tiếp tục như trước. Mỗi cuốn sách đại diện cho một giai đoạn phát triển của tác giả. Một cuốn tiểu thuyết có thể được coi như một cột mốc trong quá trình phát triển tinh thần của tác giả. Vì vậy anh không thể quay trở lại được nữa. Một khi tiểu thuyết mất đi tính đàn hồi, không thể suy suyển nó lần nữa.

AGQ: Khi đang thử nghiệm các ý tưởng, cách ông chọn hình thức của tiểu thuyết như thế nào? Có phải ông bắt đầu từ một hình ảnh, một câu văn đầu tiên?

OP: Không có công thức hằng định nào cả. Nhưng tôi cho rằng mình không viết hai cuốn tiểu thuyết theo cùng một phương thức. Tôi cố gắng thay đổi mọi thứ. Đó là lý do tại sao nhiều độc giả nói với tôi, Tôi thích cuốn tiểu thuyết này của ông, thật tiếc là ông không viết mấy cuốn khác giống như thế, hoặc là, Tôi chưa bao giờ thích bất kỳ cuốn nào cho đến khi ông viết cuốn đó – đặc biệt khi tôi nghe họ nói về The Black Book. Thực ra tôi ghét nghe mấy điều đó. Viết như vậy thú vị, và cũng là thách thức khi thử nghiệm với hình thức và phong cách, và ngôn ngữ và tâm trạng và nhân vật cũng như suy nghĩ về mỗi cuốn sách theo một cách khác nhau.

Chủ đề của từng cuốn sách có thể đến với tôi từ nhiều nguồn khác biệt. Với Tên tôi là Đỏ, tôi muốn viết về tham vọng trở thành họa sĩ của mình. Tôi có khởi đầu lệch hướng; tôi bắt đầu viết một cuốn chuyên khảo tập trung vào họa sĩ. Sau đó tôi chuyển nghề họa sĩ thành nhiều họa sư riêng biệt cùng làm việc trong một xưởng. Điểm nhìn cũng thay đổi, vì giờ đây có nhiều họa sĩ khác nhau chuyện trò. Lúc đầu tôi nghĩ sẽ viết về họa sĩ đương đại, nhưng sau đó tôi nghĩ họa sĩ người Thổ đó có thể phái sinh quá mức, quá ảnh hưởng bởi phương Tây, vì vậy tôi quay ngược thời gian viết về những nhà tiểu họa. Đó là cách tôi tìm thấy chủ đề của mình.

Một số chủ đề cũng phần nào yêu cầu đổi mới hình thức và chiến lược kể chuyện. Chẳng hạn, đôi khi anh vừa xem hoặc đọc một thứ gì đó, hay xem một bộ phim, đọc một bài báo và sau đó anh nghĩ rằng, Mình sẽ tạo ra một giọng khoai tây, hay chó, hay cây. Một khi có được ý tưởng anh sẽ nghĩ về sự đối xứng và liên tục của tiểu thuyết. Và anh cảm thấy, Tuyệt vời, chưa ai từng làm điều này trước đây.

Cuối cùng, tôi nghĩ về những điều đó trong nhiều năm. Có thể tôi có những ý tưởng và kể nó cho những người bạn thân của mình. Tôi giữ rất nhiều sổ ghi chú cho những cuốn tiểu thuyết khả dĩ tôi có thể viết. Đôi khi tôi không viết chúng, nhưng nếu tôi mở một cuốn ghi chú và bắt đầu ghi chép, rất có thể tôi sẽ viết cuốn tiểu thuyết đó. Vậy nên khi hoàn thành một tiểu thuyết trái tim tôi có lẽ đặt vào trong dự án đó; và hai tháng sau khi kết thúc một cái tôi bắt đầu viết cái kia.

ÁGQ: Nhiều tiểu thuyết gia sẽ không bao giờ bàn luận về một tác phẩm đang được tiến hành. Ông cũng giữ bí mật như thế chứ?

OP: Tôi không bao giờ bàn về nó. Vào những dịp chính thức, khi người ta hỏi tôi đang viết gì, tôi có sẵn một câu trả lời: Một tiểu thuyết lấy bối cảnh Thổ Nhĩ Kỳ. Tôi ít khi cởi mở với ai và chỉ khi tôi biết họ sẽ không làm tôi tổn thương. Những gì tôi làm là vài mánh lới – tôi sẽ cho một đám mây nói chuyện, chẳng hạn như vậy. Tôi thích xem phản ứng của mọi người. Giống như trò trẻ con. Tôi làm như thế nhiều lần khi viết Istanbul. Tâm trí tôi hồ như một đứa trẻ nghịch ngợm, cố gắng cho cha nó thấy mình thông minh nhường nào.

ÁGQ: Từ mánh lới mang hàm nghĩa tiêu cực.

OP: Anh bắt đầu bằng một mánh, nhưng nếu anh tin vào khía cạnh văn học và đạo đức nghiêm túc của nó, đến cuối cùng nó sẽ biến thành một sáng kiến văn học nghiêm túc. Nó trở thành một tuyên cáo văn chương.

ÁGQ: Các nhà phê bình thường mô tả tiểu thuyết của ông là hậu hiện đại. Tuy vậy, đối với tôi, có vẻ như ông rút ra các mẹo kể chuyện của mình từ nguồn truyền thống. Chẳng hạn, ông trích dẫn từ Nghìn lẻ một đêm7và các văn bản cổ điển khác trong truyền thống Đông phương.

OP: Chuyện anh nói bắt đầu với The Black Book, mặc dù tôi có đọc Borges và Calvino trước đó. Tôi cùng vợ đến Hoa Kỳ năm 1985 và ở đó lần đầu tiên tôi bắt gặp sự nổi trội và phong phú vô cùng của văn hóa Mỹ. Là một người Thổ đến từ Trung Đông, cố khẳng định mình với cương vị một nhà văn, tôi cảm thấy bị đe dọa. Vì vậy tôi rút lui, quay trở lại với “cội rễ” của mình. Tôi nhận ra rằng thế hệ của mình phải sáng tạo ra một nền văn học dân tộc hiện đại.

Borges và Calvino đã giải phóng tôi. Nội hàm của văn học Hồi giáo truyền thống quá phản động, quá chính trị và được những người bảo thủ sử dụng theo những cách cổ hủ và ngu xuẩn đến nỗi chưa bao giờ tôi nghĩ mình có thể làm được gì từ chất liệu đó. Nhưng lần ở Hoa Kỳ khiến tôi nhận ra rằng tôi có thể quay trở lại chất liệu đó kèm với một khung suy nghĩ kiểu Calvino hay Borges. Tôi phải bắt đầu bằng cách tách biệt rõ ràng giữa hàm nghĩa tôn giáo và văn chương trong văn học Hồi giáo để tôi có thể dễ dàng bỏ túi cơ man những trò chơi, mánh lới và dụ ngôn của nó. Thổ Nhĩ Kỳ có một truyền thống vi tế về những phục sức tao nhã thượng hạng trong văn chương. Nhưng rồi các nhà văn bị xã hội ràng buộc đã vứt bỏ đi phần đổi mới sáng tạo trong văn chương của chúng ta.

Có nhiều câu chuyện ngụ ngôn lặp đi lặp lại trong các tập quán truyền miệng khác nhau – tại Trung Hoa, Ấn Độ, Ba Tư. Tôi quyết định sử dụng và đặt chúng vào Istanbul đương đại. Đó là một thử nghiệm – ghép mọi thứ lại với nhau giống như trường phái Dada; The Black Book mang phẩm chất đó. Đôi khi tất cả các nguồn kết hợp với nhau và cái gì đó mới mẻ ló dạng. Vì vậy tôi đặt tất cả những chuyện viết lại này ở Istanbul, thêm vào cốt truyện trinh thám, và The Black Book ra đời. Song nguồn gốc của nó là toàn bộ sức nặng trong văn hóa Mỹ và khao khát trở thành nhà văn thể nghiệm nghiêm túc của tôi. Tôi không thể viết nghị luận xã hội về các vấn đề của Thổ Nhĩ Kỳ – tôi bị đe dọa. Vì vậy, tôi phải thử một cái gì đó khác.

– Còn tiếp –

Đọc phần 3 của cuộc phỏng vấn tại đây

3V

Dịch từ bài viết gốc Paris Review – The Art of Fiction No. 187 (theparisreview.org)

Chú thích:

5, 6, 7: Đối với các sách đã được dịch sang tiếng Việt, người dịch sử dụng tên tiếng Việt cho thông dụng. Các sách vẫn chưa có bản dịch tiếng Việt người dịch tạm dùng tên tiếng Anh trong bài viết gốc.

Chuyện người cầm bút

Elvis Phương: Âm nhạc là sự lựa chọn duy nhất của tôi từ năm 16 tuổi

Ở tuổi này mà Elvis Phương còn nhớ và thuộc gần 100 bài hát thì cuộc đời, kỉ niệm của chính mình làm sao mà quên được.

Published

on

By

Dòng đời là những trang viết trải lòng của danh ca Elvis Phương về chính cuộc đời mình. Hơn 60 năm ca hát, Elvis Phương đã trải qua nhiều thăng trầm để được thành danh và đứng vững trên sân khấu cho đến tận ngày nay. Để giúp bạn đọc hiểu rõ hơn về những tâm tư của danh ca Elvis Phương xoay quanh Dòng đời, Bookish đã có buổi phỏng vấn độc quyền với nam danh ca.

Trong quyển hồi ký Dòng đời, Elvis Phương có nhắc đến việc cha mình cấm cản đi theo nghiệp ca hát. Vậy đến thời điểm nào, cha ông nguôi ngoai và chấp nhận việc ông theo đuổi ước mơ ca hát?

Hai năm sau khi Elvis Phương bị ba mình đuổi ra khỏi nhà thì một buổi tối sau khi đi hát xong, lúc trở về nhà nơi Elvis Phương đang mướn và ở cùng với ban nhạc thì thấy má của Elvis Phương ngồi sẵn trong nhà và bà nói: “Ba nói nhớ Phương và muốn con về nhà.” Thế là được trở về nhà. Vui sướng vô cùng vì biết rằng mình sẽ được tiếp tục hát để theo đuổi ước mơ dù má chả nói những điều như mình đã tự nghĩ nhưng cho trở về nhà là chắc cho đi hát rồi…

Được biết, ông là ca sĩ đầu tiên về nước, thời gian đầu, Elvis Phương nhận được tình cảm, sự đón nhận từ khán giả như thế nào? Ông có thể chia sẻ kỷ niệm ấn tượng với khán giả khi về Việt Nam?

Elvis Phương là một trong những ca sĩ về nước rất sớm; từ 1996 rồi 1998 để quay hai cuốn video nhưng mãi đến 2000 mới được hát live lần đầu vào ngày 20 và 21 tháng 5 năm 2000. Cả hai đêm hát đều sold out nhưng điều đáng nói nhất là tình cảm của khán thính giả dành cho Elvis Phương là động lực duy nhất khiến Elvis Phương quyết định mua nhà để được ở lâu dài và mãi đến tận hôm nay. Elvis Phương nhớ và nhớ rất rõ dư âm của hai đêm hát tại nhà hát Bến Thành lúc đó và sự yêu thương của khán thính giả đã làm Elvis Phương choáng ngợp sung sướng; có nhiều gia đình cả ba thế hệ đều đi xem Elvis Phương hôm đó. Sự bày tỏ lòng yêu thương của khán thính giả là một kỉ niệm đẹp cho lần trở về đầu tiên và được hát tại Việt Nam của Elvis Phương.

Ông từng mổ tim, cơn thập tử nhất sinh vào năm 1998, lúc đó ông cũng đã 53 tuổi. Nhưng tại sao, ông không lựa chọn cuộc sống an dưỡng mà tiếp tục sự nghiệp ca hát, hầu như ngày nào cũng đi hát?

Đối với Elvis Phương hát cũng giống như thở và mình phải cần thở mới được sống. Đúng vào tháng 5 năm 1998 Elvis Phương đã trải qua một cuộc giải phẫu tim phải nói là thập tử nhất sinh lúc đó. Elvis Phương đúng 53 năm tuổi mà dòng họ của mình từ ông nội, đến ba và người chú – em của ba – đều mất vào tuổi 53.

Phải nói là cuộc giải phẫu mười phần nguy hiểm nhưng khi được bình phục. Elvis Phương cảm thấy mình như được hồi sinh và niềm khao khát được hát lại cháy bỏng như những ngày đầu… Thế là hát và hát mãi đến tận bây giờ. Sự lựa chọn duy nhất của Elvis Phương từ lúc 16 tuổi đến ngày hôm nay: còn sống là còn hát.  

Sự nghiệp ca hát hơn 62 năm - một quãng đường dài và đồ sộ, khi viết cuốn hồi ký Dòng đời, làm sao ông có thể nhớ lại hết chi tiết cụ thể chuyện nhiều năm đã qua, sau đó xây dựng cấu trúc nội dung mạch lạc, tường thuật cho độc giả?

Elvis Phương không những nhớ một chuyện, mà cả trăm, cả nghìn câu chuyện. Vợ Elvis Phương hay đùa “phải chi Bố nhớ và giữ được tiền như những câu chuyện của đời Bố dù bao nhiêu năm đã trôi qua thì tốt biết mấy.”

Tài liệu và hình ảnh thì còn giữ được nhiều vô số kể. Bây giờ những lúc rảnh rỗi ngoài giờ đi hát thì Elvis Phương lại viết, lại ghi lại. Viết ra để làm gì? Chỉ biết viết vì kỉ niệm cả một đời đi hát thì nhiều quá; có những điều càng nhớ và viết ra thì thấy thú vị vô cùng. Ở tuổi này mà Elvis Phương còn nhớ và thuộc gần 100 bài hát thì cuộc đời, kỉ niệm của chính mình làm sao mà quên được.

Cuộc đời của ông trải qua nhiều thăng trầm. Khi viết xong quyển hồi ký Dòng đời và nhìn lại tất cả một cách hệ thống, ông cảm nhận điều gì là quan trọng nhất trong cuộc sống và sự nghiệp của mình? Chặng đường nào đối với ông là đáng nhớ nhất?

Đáng nhớ nhất là phải nhớ tất cả, vì cuộc đời ca hát của Elvis Phương thật là có quá nhiều thăng trầm. Đọc đi đọc lại Dòng đời, Elvis Phương vẫn thấy, vẫn cảm nhận trong cuộc sống và sự nghiệp của mình, tất cả những chặng đường đã trải qua đều quan trọng.

Có thăng, có trầm mới có Elvis Phương ngày hôm nay. Elvis Phương chưa bao giờ cảm thấy là mình không muốn hát và còn hát thì còn nhớ. Nhớ tất cả để cảm thấy cuộc đời mình còn thật nhiều may mắn. Điều gì cần nhớ thì phải nhớ thôi. Nhất là âm nhạc và những bài hát đã đi theo mình cả cuộc đời…

Cảm ơn những chia sẻ chân tình từ danh ca Elvis Phương. Chúc ông có thật nhiều sức khỏe dồi dào để tiếp tục thăng hoa với âm nhạc.

Danh ca Elvis PhươngMC Minh Đức tại buổi giao lưu, ra mắt sách Dòng đời ngày 9.9.2023
Danh ca Elvis Phương kí tặng bạn đọc tại buổi giao lưu, ra mắt sách Dòng đời ngày 9.9.2023
Đọc bài viết

Chuyện người cầm bút

Lê Nguyễn Nhật Linh: Chiến thắng vẻ vang nhất là khi ta vượt qua chính mình

Việc gì mình muốn làm thì hãy làm và làm với lòng nhiệt huyết hết sức có thể, đừng chờ đợi kết quả vì nhiều khi kết quả còn hơn cả mong đợi của mình. Có lòng, dốc sức thì sẽ được toại nguyện.

Published

on

Sáng ngày 27.8, tại Đường Sách TP. Hồ Chí Minh đã diễn ra buổi giao lưu cùng tác giả Lê Nguyễn Nhật Linh – chị đã có ba tựa sách do NXB Trẻ phát hành được tái bản nhiều lần: Đến Nhật Bản học về cuộc đời, Nín đi con, Giá ngày tháng ấy có người hiểu tôi.  

Nhắc đến Lê Nguyễn Nhật Linh, bạn đọc hẳn sẽ thường nhớ đến tác phẩm Đến Nhật Bản học về cuộc đời của chị. Quyển sách này đến nay đã đạt đến con số gần 30.000 bản in. Bên cạnh đó, chị Lê Nguyễn Nhật Linh còn là một nhà thiết kế kim hoàn rất thành công.

Quyết tâm trở thành người tốt vì đã được gặp nhiều người tốt

Tại buổi giao lưu, Nhật Linh không chỉ chia sẻ về những trải nghiệm xoay quanh tập tản văn Đến Nhật Bản học về cuộc đời mà còn có những chia sẻ sâu sắc về cuộc sống, tâm lý, con đường lập nghiệp và sáng tác. Một số bạn đọc đến tham dự tại buổi giao lưu chia sẻ rằng những dòng chị viết cả trên sách lẫn trên mạng xã hội đã đem lại những giá trị tích cực, trở thành nguồn động viên lớn với những ai đang trải qua giai đoạn khó khăn trong cuộc đời.

Ở phần chia sẻ những cảm nhận về nước Nhật, Nhật Linh cho biết, đối với chị, năng lượng của nước Nhật là hòa khí. Năm 16 tuổi, lần đầu tiên đến Nhật, chị đã có một ước mơ và quyết tâm: chị muốn mình trở thành người tốt vì đã gặp được rất nhiều người tốt ở Nhật; tuy có những người chị chỉ có cơ hội được gặp họ một lần, nhưng chị vẫn nhớ mãi sự tử tế và ấm áp ở họ. Giai đoạn ấy, chị đã dốc hết lòng phấn đấu vì: “Khi đại diện cho một quốc gia đến một quốc gia khác, bạn sẽ muốn nỗ lực cố gắng nhiều hơn; bởi lẽ khi đó, sự phát triển của bản thân sẽ trở thành sự phát triển của quốc gia.”

Trước câu hỏi tại sao những trang viết của Nhật Linh chắt lọc rất nhiều trải nghiệm sâu sắc về cuộc sống, có phải là do cuộc đời chị đã quá chông chênh, Nhật Linh chia sẻ rằng sự chông chênh đó không phải là câu chuyện của riêng chị. Bất cứ một người trẻ tự lập nào bước vào hành trình cuộc đời thì con đường đều sẽ có ít nhiều chông gai. Bản thân chị đã từng có những cột mốc nghĩ rằng mình trầm cảm. Vào năm đầu tiên học đại học, khi phải xa cha mẹ, quê hương – sự thay đổi môi trường đột ngột khiến chị chông chênh. Giai đoạn thứ hai là khi chị đi du học ở nước Nhật. Đây cũng là sự thay đổi môi trường nhưng ở mức độ tàn khốc hơn. Sự mất thăng bằng thường xuyên khiến chị cạn kiệt về năng lượng. Bây giờ – khi đã vượt qua và nhìn lại thời điểm đó – chị nhận ra rằng mỗi độ tuổi có một áp lực khác nhau và ta phải chiến đấu với nó. Nếu muốn sống một cuộc đời như mơ thì phải nỗ lực, mà bản thân sự nỗ lực vốn dĩ đã không phải là một điều đơn giản. “Khi chúng ta chiến đấu với chính mình và chiến thắng thì đó mới là chiến thắng vẻ vang nhất,” chị chia sẻ.  

Có lòng, dốc sức thì sẽ được toại nguyện

Bên cạnh Đến Nhật Bản học về cuộc đời, Lê Nguyễn Nhật Linh còn có một tác phẩm khác cũng đặc biệt không kém là Giá ngày tháng ấy có người hiểu tôi với đề tài về trầm cảm. Chị Linh cho rằng khi phải thường xuyên ở trong tình trạng không ai hiểu mình, người ta sẽ dễ mắc bệnh trầm cảm. Bất kì ai cũng có thể rơi vào giai đoạn phải đối mặt với cảm giác không được thấu hiểu này. Nguyên nhân chỉ đơn giản là vì ta không thể chia sẻ với người khác. Khi cứ để tình trạng này tiếp diễn thì nếu ở mức độ nhẹ nhàng, ta sẽ thấy nó chỉ là một khối đá; còn nếu ở mức độ nặng nề, nó sẽ trở thành khối u. Và nếu không tìm cách thay đổi, ta sẽ rơi xuống đáy. Mỗi người lại có một cái đáy khác nhau. Ta phải luôn quan sát những cảm xúc của bản thân để ý thức được rằng những điều ấy có ổn không.

Để tháo gỡ cảm giác đó, chị Linh cho rằng rất khó đúc kết thành vài từ khóa ngắn gọn. Mỗi chúng ta là những thế giới khác nhau. Có những người chỉ vài ngày thôi là đã đi qua được một biến cố. Nhưng có những người lại mất cả vài tháng, hay thậm chí là vài năm. Không có một công thức chung nào cả, nhưng nếu chúng ta cố gắng giữ ý thức thấu hiểu bản thân thì sẽ tìm được cách tháo gỡ. Bước đầu tiên là phải đặt câu hỏi cho bản thân – đây là một hình thức tự trò chuyện với chính mình để tìm giải pháp. Nếu như đến chính ta còn không muốn nói chuyện với ta thì làm sao có thể trông mong người khác sẽ đến giúp ta giải quyết vấn đề.

Hãy đặt thật nhiều câu hỏi khi chúng ta mắc kẹt trong những vấn đề của bản thân. Nhưng cách đặt câu hỏi rất quan trọng. Khi biết cách đặt câu hỏi đúng thì ta mới có thể tìm được câu trả lời then chốt. Những câu hỏi nên có sự cân bằng giữa lí trí và cảm xúc; nếu là chuyện liên quan đến người khác thì cần tránh suy diễn mà cố gắng trực tiếp hỏi đối phương. Khi đã đến cái đích của sự rõ ràng, ta sẽ tránh được tình trạng rối tung rối mù. Sau đó là đến giai đoạn quyết định. Mọi quyết định của chúng ta đều có thể sai và đúng, không thể lúc nào cũng đúng được. Nhưng nếu đã quyết định sai thì hãy cố gắng học nhiều nhất từ cái sai đó. Quá trình này sẽ giúp ta hiểu được nhiều hơn về bản thân. Và một khi đã hiểu bản thân, ta sẽ có thể học được cách hiểu và giúp đỡ người khác.

Cuối buổi giao lưu, Nhật Linh bật mí rằng Đến Nhật Bản học về cuộc đời sẽ được dịch sang tiếng Nhật, dự kiến xuất bản ở Nhật vào cuối năm nay. Chị cũng đưa ra lời khuyên cho những bạn trẻ từ kinh nghiệm nghề nghiệp của mình rằng: “Việc gì mình muốn làm thì hãy làm và làm với lòng nhiệt huyết hết sức có thể, đừng chờ đợi kết quả vì nhiều khi kết quả còn hơn cả mong đợi của mình. Có lòng, dốc sức thì sẽ được toại nguyện. Nếu không đặt trái tim mình vào công việc đã lựa chọn mà chỉ làm hời hợt qua loa thì sẽ không có kết quả như ý.”

Hoàng Đức Nhiên

Đọc bài viết

Chuyện người cầm bút

Kazuo Ishiguro: Lộ trình đọc cho người mới bắt đầu

Published

on

Nhà văn người Anh gốc Nhật Kazuo Ishiguro là một trong những tác giả Anh ngữ được giới chuyên môn đánh giá cao nhất hiện nay: cây bút 68 tuổi này đã hai lần được vinh danh trên tạp chí Granta chuyên đề Những tiểu thuyết gia trẻ nổi bật nhất ở Anh năm 1983 và 1993; và sau đó, hành trang của ông lần lượt có thêm giải Booker, Nobel, và tước hiệp sĩ.

Đối diện với văn nghiệp đồ sộ của Kazuo Ishiguro, hẳn không ít người băn khoăn nên bắt đầu đọc từ tác phẩm nào trước. Bài viết dưới đây được dịch từ The Guardian sẽ cung cấp cho người đọc một lộ trình hợp lí để khám phá thế giới của Kazuo Ishiguro.

Điểm xuất phát

Hai cuốn tiểu thuyết đầu tiên của Ishiguro là Cảnh đồi mờ xámMột họa sĩ phù thế đều có mối liên hệ trực tiếp đến gốc gác Nhật Bản vốn ít nhiều đã trở nên xa lạ với nhà văn – gia đình ông chuyển đến nước Anh khi ông mới năm tuổi và ông không về thăm lại Nhật Bản trong suốt gần 30 năm, dù đến thời điểm đó ông đã là một tác giả có tiếng tăm. Cả hai cuốn tiểu thuyết đều khai thác góc nhìn của Ishiguro về những con người chiêm nghiệm lại cuộc đời mình trong nỗi hoang mang, tiếc nuối, để lại cho độc giả nhiều suy ngẫm.

Cả hai đều là tác phẩm chất lượng, cuốn sau có sự cải thiện so với cuốn đầu tiên, nhưng chính ở cuốn tiểu thuyết thứ ba cũng có cùng chủ đề mới thực sự đúng nghĩa là điểm khởi đầu để tiếp cận văn nghiệp của ông: tiểu thuyết Tàn ngày để lại.

Tàn ngày để lại kể câu chuyện về Stevens – một quản gia người Anh với tất cả mọi hàm nghĩa của từ này: tận tụy, chỉn chu, trung thành, và trên hết, luôn luôn có một ý thức mãnh liệt về phẩm giá nghề nghiệp. Mong muốn cải thiện chất lượng phục vụ tại dinh thự và chấm dứt những sa sút hiện tại, Stevens dấn thân vào một cuộc hành trình đi qua Miền Tây nước Anh. Mỗi chặng trên cuộc hành trình mở ra một cánh cửa nối về quá khứ, và dần dà hành trình ấy làm hé lộ những mất mát và nuối tiếc theo sau những ảo tưởng của một đời người.

Lạ lùng thay, Tàn ngày để lại vừa bi vừa hài, “vừa đẹp đẽ vừa tàn nhẫn,” như lời nhận xét của Salman Rushdie. Tác phẩm này đã thắng giải Booker và bản phim chuyển thể với sự góp mặt của ngôi sao Anthony Hopkins và Emma Thompson cũng được đánh giá là thành công khi có đến tám đề cử Oscar.

Ishiguro thừa nhận rằng ông đã viết cùng một cuốn tiểu thuyết đến những ba lần, để ngày càng tiệm cận hơn đến điều ông muốn truyền tải. Kết quả là một cuốn sách hoàn hảo về mọi mặt đã ra đời.

Chặng thử thách

Sau khi đã đạt được thành công với chủ đề vừa nêu trên, ở cuốn tiểu thuyết kế tiếp, nhân vật chính của Ishiguro không phải là một người nhìn về quá khứ nữa, mà đang ở giữa nguồn cơn hoang mang. Tiểu thuyết The Unconsoled kể về nhạc công Ryder, anh đến một vùng nào đó ở trung tâm châu Âu để tham dự một buổi hòa nhạc, nhưng rồi mọi thứ xung quanh anh lại biến hóa khôn lường. Nếu so sánh với ba tác phẩm đầu tiên của Ishiguro thì có thể nhận thấy cuốn tiểu thuyết này vận hành theo nguyên tắc của một giấc mơ vì thời gian, không gian và nhân dạng thường xuyên thay đổi. Những người đầu tiên đọc quyển sách này đã phải thất kinh, James Wood – cây bút phê bình của tờ The Guardian cũng nằm trong số đó – nhận xét rằng quyển sách này đã “tự mở ra một thể loại tồi tệ”. Nhưng đây cũng chính là tác phẩm thể hiện rõ ràng nhất quan điểm sâu sắc của Ishiguro về việc không ai trong chúng ta thực sự biết cuộc đời mình sẽ đi về đâu; điều đó khiến nó càng mang dáng dấp của một kiệt tác hơn, với bầu không khí Kafka thời đương đại.

Tiểu thuyết ở giai đoạn hậu Nobel

Khi thắng giải Nobel năm 1948, nhà thơ TS Eliot từng phát biểu rằng: “Giải Nobel là một tấm vé tiễn người ta đến thẳng huyệt mộ của mình. Chẳng có ai làm thêm được gì cả sau khi nhận giải.” Ishiguro thắng giải Nobel Văn chương năm 2017; lúc đó, ông đã viết một bài diễn văn nhận giải dễ thương, khiêm tốn có nhan đề là My Twentieth Century Evening and Other Small Breakthroughs (Tạm dịch: Buổi xế chiều trong thế kỉ thứ hai mươi của tôi và những bước đột phá nho nhỏ khác). Năm kế tiếp sau đó, ông được phong tước hiệp sĩ.

Tiểu thuyết Klara and the Sun (Tạm dịch: Klara và Mặt trời) xuất bản năm 2021 không có dấu hiệu nào cho thấy rằng Ishiguro đã trở thành một người hữu danh vô thực hay một nhà hiền triết đạo mạo. Người kể chuyện lần này (toàn bộ tiểu thuyết của Ishiguro đều được viết ở ngôi thứ nhất) là Klara, một AI hoạt động dựa trên nguồn năng lượng mặt trời, cô ngây thơ nhưng trung thành, được mua về để dốc hết lòng chăm sóc cho một cô bé. Giống như những tác phẩm khác của Ishiguro, tiểu thuyết này cũng có văn phong trung tính, điềm tĩnh, không bao giờ đi thẳng vào những sự kiện được đề cập; tuy nhiên, chúng ta vẫn có thể cảm nhận rõ những sự kiện ấy và thấy đau lòng. Một lần nữa, nó tạo ra dư chấn theo lối khác thường mà không một tiểu thuyết gia nào làm được ngoài Ishiguro.

Nếu như bạn chỉ có thể đọc một tác phẩm, đó sẽ là…  

Thoạt đọc qua nội dung, tiểu thuyết Mãi đừng xa tôi có vẻ như thuộc thể loại khoa học viễn tưởng: tác phẩm kể về những bản sao vô tính, được tạo ra chỉ với mục đích duy nhất là để hiến tạng cho đến chết. Tuy nhiên, câu hỏi cốt lõi được đặt ra là tất cả chúng ta phải chọn cách sống như thế nào khi đều biết rằng thời gian của ta là giới hạn và không ai thoát được án tử.

Kathy, Ruth và Tommy xuất thân từ một ngôi trường đặc biệt: trường nội trí Hailsham. Những con người ở đó đều có chung một số phận được định đoạt. Họ chấp nhận số phận, nhưng vẫn khát khao trì hoãn. Với giọng điệu bình thản như mặt biển sóng ngầm, câu chuyện kể về một hiện thực đáng sợ diễn ra trong một thế giới “giả tưởng”, nhưng cũng không xa lắm thế giới “thật tưởng” mà chúng ta đang sống. Câu chuyện ám ảnh chúng ta bởi tiếng kêu đau đớn đến xé lòng về tình yêu và hạnh phúc. Nó buộc chúng ta phải suy nghĩ lại về giá trị Người của chính mình.

Hoàng Đức Nhiên dịch

Đọc bài viết

Cafe sáng