Phía sau trang sách

Nàng Tóc Đỏ: Thế giằng co giữa muôn vạn hướng

Published

on

Xứ này chúng ta ai cũng có nhiều cha. Tổ quốc, Allah, quân đội, Mafia… Ở đây đừng ai không có cha.

Phải thú thật rằng, đây là lần đầu tiên tôi đọc văn chương của Orhan Pamuk. Với những độc giả mê văn chương nói chung và những người mộ điệu ông nói riêng, Orhan Pamuk dường như là một trong những nhà văn đoạt giải Nobel – vốn vẫn mặc định là giải thưởng khó đọc – được in nhiều nhất ở Việt Nam, một thị trường đọc non trẻ và rất khó đoán. Nếu Tuyết, Pháo đài trắng, Istanbul hay Những màu khác đến nay đã trở thành những bảo vật hiếm, những cuốn sách được nâng giá gấp nhiều lần và may thay cho những ai sở hữu nó; thì Tôi tên là Đỏ hay Bảo tàng ngây thơ với việc liên tục được tái bản từ năm này sang năm khác đã như dấu chỉ cho thành công của riêng tác giả, tác phẩm, dù cho bản dịch không từ nguyên tác. Và với phông nền những điều như thế, tôi đọc Nàng Tóc Đỏ với tâm thế mong chờ một chuyến hành trình dẫn mình vào chốn u huyền nào đó, chốn tôi nương thân cùng với người đọc, với cộng-đồng-người đã yêu mến ông, khiến sách của ông trở nên quý hiếm và khiến ông trở thành một hiện tượng mà mỗi khi nghe đến tên sách sắp được xuất bản người ta lại háo hức chờ đón.

Nhưng điều gì đã đến với tôi trong cuốn tiểu thuyết thứ 10 này của ông? Mặc cho cả hai đều có yếu tố màu sắc giống nhau – cùng một màu đỏ, nhưng Tên tôi là Đỏ dày cộm như những cuốn của Umberto trong khi Nàng Tóc Đỏ có một thời lượng vô cùng khiêm tốn. Cùng với đó, điều tôi nhận ra sau khi gấp lại cuốn sách ở lần đọc thứ hai không hơn gì một dòng sông êm ả, phẳng lặng về sự giao tranh, về thói giằng co giữa cũ và mới, giữa trẻ và già, giữa Đông và Tây, giữa những hiện đại và truyền thống trong một giọng kể nhẹ nhàng, chậm rãi nhưng điêu luyện. Có người nói, mục đích chính của Orhan Pamuk khi viết Nàng Tóc Đỏ là để nói về trò chơi định mệnh; nhưng với riêng tôi, câu chuyện định mệnh ấy chỉ như vỏ ngoài của loài cua ẩn sĩ – ốc mượn hồn, để Orhan Pamuk viết về cái tâm bản thể là những ngột ngạt, đè nén; những ảo ảnh xếp chồng, những đổ vỡ của Thổ Nhĩ Kỳ, của Istanbul, của người con đế quốc Ottoman lừng lẫy một thời nay bị giằng co giữa những giá trị giữa cũ và mới. Và còn đó là những giao thoa khuếch đại, những sụp đổ cộng hưởng trong nền móng bật gốc từ lâu vốn được lưu truyền từ những điển tích. Và tôi nhìn nhận Nàng Tóc Đỏ như một phiên bản hồi ký dưới dạng văn chương tiếp nối của Istanbul, một bản hùng ca của những giằng co, đè nén thời đại.

*

Lưu ý: Nội dung dưới đây tiết lộ nhiều tình tiết quan trọng của tác phẩm Nàng Tóc Đỏ.

Sơ qua một chút về cuốn sách này. Nàng Tóc Đỏ kể về câu chuyện của Cem – cậu con trai với gia cảnh đổ nát: có người cha bỏ nhà theo cánh tả Cách mạng và người mẹ bạc nhược nương theo số phận. Cậu nuôi mộng trở thành nhà văn trong sự ngấm ngầm phản đối của mẹ, và vì sự bỏ đi của cha, cậu theo mẹ về lại vùng quê khi cuộc sống trở nên khó khăn. Vì cần tiền để học luyện thi, cậu lên giúp việc tại hiệu sách Deniz và sau này theo thầy Mahmut để học đào giếng. Trong thời gian nở rộ của những vụ đào đất xây giếng trước thời cơ giới hóa, thầy Mahmut và cậu đến Öngören để đào cho một xí nghiệp dệt, và cũng từ đây câu chuyện mở ra theo một hướng khác.

Với việc bỏ đi của cha và sự tận tình dẫn dắt của thầy Mahmut, Cem từ đây cảm thấy một sự phân tách giữa vai trò của thầy và cha trong cậu ở thời gian này. Cùng lúc đó, vào những tối xuống thị trấn, cậu bắt gặp Nàng Tóc Đỏ trong lều diễn của Nàng, với nét đẹp của đôi mắt u huyền, bí ẩn và đôi môi vành vạnh làm cậu mê mẫn. Cậu sống những ngày mơ tưởng về Nàng và cho đến một hôm được ngủ với Nàng trong sự bức rức bởi tự nhận thức về sự lừa dối của mình. Trong khi ấy, thời gian đào giếng đã vượt quá những ngày dự tính, chủ đất đã ngừng trả tiền cho công việc; nhưng thầy Mahmut với quyết tâm sắt đã vẫn tiếp tục đào và đòi hỏi niềm tin nơi người con, người học trò như cậu. Một ngày khi đã quá mệt, cậu sơ ý làm đổ xô đất ra khỏi guồng quay, rớt xuống giếng và không còn gì hơn ngoài sự im lặng vang lên dưới đó.

Những tưởng đã hại chết thầy, cậu nhanh chóng đóng gói vali và trở về nhà, nuôi trong mình nỗi hoài nghi vì có hay không cái chết của thầy. Thời gian trôi đi, cậu lớn lên và bởi những bởi ám ảnh tội lỗi bị nhốt kín trong thân xác, thay vì trở thành nhà văn như đã dự tính, cậu bẻ ngoặc và trở thành kĩ sư địa chất, lấy vợ và lãnh đạo tập đoàn riêng lớn mạnh. Khi Thổ Nhĩ Kỳ bắt gặp làn sóng đầu tư và đô thị hóa ngày càng khuếch trương tới tận cốt lõi; công ty của Cem bắt gặp mảnh đất ở Öngören và cũng chính bởi dấu mốc này, cậu trở về nơi hơn 30 năm trước đã từng đào giếng. Cùng với câu chuyện tái ngộ nơi mảnh đất ấy với những con người đã từng một thời chứng kiến giai đoạn lớn lên của cậu; một bi kịch khác đã dần thành hình, biến dạng và cuối cùng kết thúc như đúng giai thoại từ Đông sang Tây từ từ trở nên bất diệt.

*

Về những giằng co, có thể thấy ở đây Orhan Pamuk mở rộng biên độ của tình trạng này, từ nội hàm tâm tính của riêng mỗi người đến những biến động vĩ mô, địa lý của vùng Istanbul quê ông. Đầu tiên dễ kể là tình trạng phân tâm trong trí óc Cem về vai trò của cha và thầy Mahmut. Một bên là người cưới mẹ ông, một kẻ cánh tả bỏ đi chạy theo chính trị; một bên là người kể chuyện cổ tích hằng đêm, một người quan tâm lúc tắm, một người hỏi han động viên… Tất cả nhập nhoạng ào vào trong cậu như những lớp sóng, để những khi thầy mắng, cậu lại nhớ đến cha; và ngược lại, khi cảm thấy sự quan tâm từ thầy, cậu lại thấy giận cha, và có cảm giác nó khô lại trở thành vết sẹo ở mãi. “Thầy Mahmut để tâm đến cuộc sống của tôi hơn ba nhiều: ông kể tôi nghe những câu chuyện và dạy tôi nhiều bài học, ông không bao giờ quên hỏi tôi có ổn không, tôi có đói không, có mệt không. Có phải vì vậy tôi rất giận khi bị ông mắng? Vì nếu ba mà làm vậy, tôi lại hiểu ý ông, thấy hối lỗi, rồi quên hết. Nhưng không hiểu sao, việc thầy Mahmut trách mắng dường như để lại một vết sẹo, và tôi sẽ ôm lòng giận ông dù vẫn nghe theo lời ông chỉ dẫn.

Ngoài ra chính tình trạng thiếu vắng tình cảm ấy đã khiến nội tâm Cem xáo trộn và từ trong đó, một thân thể lộn xộn của cậu hiện lên, và đó là lời lý giải rõ ràng cho việc vì sao cậu lại mê đắm Nàng Tóc Đỏ. Giữa một bên là người mẹ bạc nhược, người luôn muốn giữ cậu cho riêng mình và phục tùng những ý nghĩa truyền thống; và một bên là Nàng Tóc Đỏ, người phụ nữ hớp hồn cậu, người phóng khoáng đi theo những gánh hát dân gian rày đây mai đó, không được lựa chọn muốn phục vụ ai, hàng đêm sáng đèn dưới lời thóa mạ của bọn lính canh đòi Nàng thoát y. Nàng Tóc Đỏ là hiện thân của tự do, của cơn cuồng dại tuổi trẻ, của mặc sức giải thể bản thân; Nàng ở độ tuổi không già không trẻ, vừa là người mẹ, người chị, người tình – Nàng là tổng hợp giữa cách tân hiện đại và kịch truyền thống. Nàng làm cậu say mê, làm cậu ghen tị khi thầy Mahmut băng núi để xem vở kịch, và làm cậu đau đớn vì cha cậu đã ngủ với Nàng. Cũng rất có thể, Nàng là thế lực kì bí nào đó khiến cậu đánh rơi chiếc xô, như cuốn sách này một lần kể lại.

Orhan Pamuk một cách sâu sắc đã họa nên những đối lập trong tâm hồn Cem của những ngày này. Vào hôm sau khi đã ngủ với Nàng, tình trạng cật vấn bản thân đã dần xuất hiện, cậu vừa buông thả vừa kìm chặt, rằng “Trong cơn say, tôi lục óc tìm đủ cách để miễn tội và chứng tỏ với mình rằng tôi không phải kẻ phản bội xấu xa, hai mặt. Dù gì Turgay nào phải bạn lâu năm – mình gặp anh ta chỉ ba bốn lần, tôi lý luận. Hơn nữa, người thuộc những gánh hát rong không quê quán nhảy nhót rất khêu gợi và kể chuyện tục tĩu để mua vui cho lính tráng không hẳn cổ xúy những giá trị gia đình lành mạnh. Biết đâu được, có khi chính Turgay cũng không chung thủy với vợ mà theo những người đàn bà khác.” Xuất phát từ buổi tối hôm ấy, những ngã hai ngã ba của đường lựa chọn luôn ám ảnh cậu: giữa việc thành nhà văn hay kĩ sư địa chất, giữa việc liệu thầy Mahmut còn sống hay đã chết, giữa việc chọn đến thăm Cha hay không, giữa việc vì sao mãi không có con… Cem đến cuối rồi thì, thứ tạo nên cậu không phải là xương là máu, mà là ngổn ngang vỡ nát, là phân chia đường hướng mãi không dừng lại.

Và những giao lộ định mệnh ấy như được hợp nhất từ truyện dân gian, về những kết cục báo trước; giữa điển tích phương Tây – Hi Lạp – về Oedipus vô tình giết cha và ngủ với mẹ; và phương Đông – Ba Tư – khi Rustam ra tay giết chết Sohrab – con trai mình mà không hề biết. Lại một lần nữa ở hai phía ngược nhau như bị phân tách bởi hai châu lục, Istanbul hợp nhất trong câu chuyện đầy bi kịch gia đình, về người cha giết con hay con trai giết cha, chẳng ai biết được. Dấu chỉ đầu tiên vào đêm cậu ngủ với Nàng – 20 năm trước chính là nhân tình của Cha – ngang vai mẹ cậu; dấu chỉ thứ hai là khi chiếc xô rơi xuống nghiền nát Thầy Mahmut – người trong những nhập nhoạng cậu xem là Cha. Nhưng không, cả hai dấu chỉ ấy chỉ như những linh tính ngầm, bởi Nàng không phải mẹ thật và thầy không phải cha thật. Cái kết hợp nhất chỉ đến 30 năm sau, khi cậu bị giết bởi chính con trai mình – mầm mống vào đêm cậu ngủ với Nàng. Đấy, rõ ràng, một Istanbul ảo ảo thật thật, một bi kịch mờ mờ pha lẫn bởi những bi kịch khác. Orhan Pamuk một cách khéo léo dựng lên một bi kịch mới, bi kịch nơi đất nước nằm ngáng giữa những ngã đường, giữa những lựa chọn. Người đọc bị lôi từ Oedipus như lời ứng nghiệm giết thầy để rồi nhận ra, bi kịch Rustam mới là sau cuối.

Và cũng từ trong những lớp bi kịch ấy, một Istanbul bị xâu xé thành những phân mảnh hiện lên như cơn sóng ngầm vận động trong toàn tiểu thuyết. Nếu 30 năm trước khi Cem đến đào giếng, Öngören đã oằn mình ngăn Đức chiếm ngã Balkan còn Nga qua ngã Bulgaria thì 30 năm sau, nó đã là loài sâu thay vỏ, để thời mà người dân còn tin vào những trò mê tín và cư xử cung kính với người đào giếng nhường cho thời luyện kim máy móc hiện đại. Istanbul đứng đó giữa những ranh giới va chạm địa tầng, giữa bi kịch Đông – Tây, giữa hiện đại – cổ điển, giữa muôn ngã giằng co.

Và cái kết sau cuối, cái chết khi Cem bị giết chứ không giết con trai của mình, mặc dù khẩu súng được ông phòng bị, như có người nói, đại diện cho việc phương Tây vẫn luôn bao hàm chiếm hữu Istanbul. Nhưng ở mặc khác, nó còn đại diện cho những thế hệ tiếp nối, đại diện cho những mơ ước dang dở một thời – trở thành nhà văn, nhà thơ, làm chủ công ty… tất cả rồi đây lại được Enver – con trai của anh và Nàng – tiếp nối. Không nằm ngoài những mạch vận động ngoài luồng, Istanbul dù bị xâu xé những vẫn vận động, tiến lên, dịch chuyển; chỉ là khác đi những giá trị cũ.

*

Khép lại cuốn sách, trải nghiệm đầu tiên với văn chương của Orhan Pamuk mang đến cho tôi một sự hài lòng. Đầu tiên là cách viết nhẹ nhàng, bình thản; nó êm đềm chảy suốt như một lòng sông. Không lên gân, kiểu cách; bằng cách thấu hiểu tâm lý nhân vật và việc sử dụng giai thoại một cách khéo léo; ông đã dựng nên trò chơi số phận kịch tích lồng trong một Istanbul vẫn mãi nằm giữa những luồng xung động. Không hùng tráng cũng không tầm thường; vừa phải, nhã nhặn và truyền đi đúng thông điệp mà tác giả muốn, Nàng Tóc Đỏ là một ghi chép thật sự về sự mất kết nối, về Istanbul hay Thổ Nhĩ Kỳ giao thoa giữa muôn vàn lãnh địa.

Hết.


Đọc tất cả bài viết của bí.


Phía sau trang sách

Cánh cửa mở vào nội tâm của Maupassant

Published

on

By

Cùng với Chekhov, Guy de Maupassant từ lâu đã được suy tôn là “bậc thầy của thể loại truyện ngắn”. Điều này không chỉ bởi văn phong độc đáo, mà còn nằm ở sự đa dạng về thể loại. Trong đó Horla và những truyện ngắn khác ra mắt gần đây chính là minh chứng cho nhận định này.

Tuy chỉ viết trong vỏn vẹn có 4 thập kỷ, nhưng những di sản mà Maupassant để lại là tương đối lớn. Ông nổi tiếng nhất với các tiểu thuyết cũng như truyện ngắn mang tính hiện thực, hài hước, lãng mạn, như những tập truyện Sáng trăng, Nơi nhà người bạn

Nhà văn nổi tiếng Guy de Maupassant

Nhưng ít người biết ông cũng bén duyên với thể loại kinh dị, và nó cũng truyền cảm hứng cho nhiều tác giả sau này, trong đó có H.P.Lovecraft với Lời hiệu triệu của Cthulhu. Vừa mới ra mắt trong thời gian qua, Horla và những truyện ngắn khác tập hợp 5 tác phẩm có màu sắc kinh dị, siêu nhiên, được Maupassant viết trải dài từ năm 1875 – 1890.

Trí tưởng tượng phong phú

Trong tập truyện Horla và những truyện ngắn khác, bạn đọc có thể thấy rõ 2 giai đoạn mà Maupassant tiến hành tiếp cận thể loại kinh dị. Trong 3 truyện ngắn được viết sớm nhất là Bàn tay bị lột da (1875), Hắn? (1883) và Nỗi sợ (1884), ta đơn thuần thấy đây là một tác phẩm ẩn chứa yếu tố siêu nhiên mà vị tác giả cố gắng khai thác.

Chúng đơn giản xoay quanh những nỗi ám ảnh mà các cá nhân yếu bóng vía hay là nhạy cảm thường cảm nhận được. Chẳng hạn như trong truyện Hắn?, một người đàn ông vì bị ám ảnh bởi một bóng ma trong căn phòng của mình mà đã cưới lấy một người vợ mới, hay ở Nỗi sợ, chỉ vì trên tuyến tàu lửa khi nhìn thấy có 2 người đàn ông xuất hiện trong khu rừng vắng, mà nhân vật chính bỗng dưng cảm thấy trong mình trỗi dậy nỗi sợ chỉ vì không thể lý giải được động cơ của câu chuyện ấy…

Horla và những truyện ngắn khác là tác phẩm mới từ Maupassant

Đây đều là các nhân vật hoàn toàn tỉnh táo, họ nhận thức được những gì xảy ra và khó có thể nói họ có vấn đề riêng về tâm lý. Và vì tính hiện thực đó, Maupassant qua các tác phẩm cũng gửi gắm được bài học của mình. Chẳng hạn trong truyện Bàn tay bị lột da, thông qua nhân vật Pierre B. – một sinh viên trường luật, người xuất thân từ một trong những gia đình danh giá nhất xứ Normandie – ông đã cho thấy chỉ vì chính thói hư vinh cũng như trưởng giả mà y đã mạo phạm đến một phần thân thể của vị phù thủy, từ đó phải chịu cái chết có phần đau đớn.

Hay trong Nỗi sợ, Maupassant cũng khẳng định “cùng với những điều siêu nhiên, nỗi sợ hãi đích thực đã biến mất khỏi hành tinh này, bởi con người ta chỉ thực sự sợ những gì nằm ngoài tầm hiểu biết của mình”. Câu nói này như đại diện cho tất cả những gì ông muốn nhắm tới, về sự nhỏ bé và đầy mông muội của con người với những kỳ bí chưa được lý giải.

Như vậy những tác phẩm này đều được viết bởi một Maupassant khách quan, đứng ở bên ngoài, từ đó đưa ra những lời lý giải hoàn toàn hợp lý. Thế nhưng ở 2 truyện sau là Horla viết năm 1887 và Ai mà biết được? viết năm 1890, thì ta lại thấy có phần ngược lại, khi chính nhà văn dường như không thể thoát được cái bóng của bản thân mình.

Bi kịch của Maupassant

Hai truyện ngắn này có được điểm chung khi nhân vật chính đều là người đàn ông rơi vào loạn trí. Nhân vật chính này đã từng không dưới một lần thừa nhận chính mình như có đến 2 bản thể cùng nhau tồn tại. Một bên kêu gào giữ lại lý trí, trong khi phía còn lại đòi hỏi rất nhiều hành động mang tính tàn phá.

Sự chia đôi này gợi ta nhớ đến trường hợp của bác sĩ Jekyll và ông Hyde tương đối kinh điển trong tác phẩm nổi tiếng của Stevenson. Như vậy chủ đề của Maupassant đã chuyển từ những nỗi sợ tương đối hữu hình thành ra vô hình và khó lý giải, khi được bao bọc bởi những vấn đề có liên quan đến thần kinh cũng như tinh thần.

Tình tiết của những câu chuyện cũng khó nắm bắt. Ở Ai mà biết được?, đó là một người gần như điên loạn bởi sự xuất hiện và rồi biến mất của những vật dụng ngay trong nhà mình một cách liên tục. Còn ở Horla, đó là một sinh vật gần như trong suốt, thứ được nuôi sống bằng sữa và nước, luôn luôn theo dõi vật chủ mà nó bám theo, từ đó khiến họ “sống không bằng chết”.

Maupassant và những ám ảnh tâm trí của bản thân mình

Theo Charlotte Mandell – dịch giả của truyện ngắn này cho nhà xuất bản Melville House, thì “horla” là từ ghép của “hors” (“bên ngoài”), và “la” (“ở đó”). Vì vậy “horla” có nghĩa là “người ngoài cuộc”, “người bên ngoài”, và có thể được dịch theo nghĩa đen là “cái gì ở ngoài đó”. Thế nhưng cũng có những lý giải khác, khi nhiều người xem đây là một sự kết hợp của cụm “hors-la-loi” (tức “ngoài vòng pháp luật”) và “horsain” (có nghĩa là “thứ lạ lùng”).

Thế nhưng dù có là gì, thì Maupassant như đang cảm nhận những nỗi ám ảnh đến từ sâu hơn và khó lý giải hơn. Xét về bối cảnh của chính tác giả, thì những truyện này tương đối trùng khớp với thời kỳ mà ông có những dấu hiệu đầu tiên của chứng điên loạn, khi ông xuất hiện nhân cách kép và ngày càng gặp nhiều ảo giác do bệnh giang mai. Một năm sau đó, vào năm 1891, ông có dấu hiệu của chứng hoang tưởng.

Có thể là bởi xuất phát từ những trải nghiệm chính ông kinh qua, nên 2 truyện này trở nên chân thật và đầy ám ảnh đối với người đọc. Nếu được viết từ một người tỉnh táo, thì đây chính là tài năng của sự tưởng tượng. Nhưng với Maupassant thì đó là nỗi đau và sự sợ hãi mà bản thân ông mong muốn giải bày thông qua việc viết.

Như vậy đi từ mục đích sáng tạo ở buổi ban đầu, Maupassant dần dần chuyển sang hành động kể lại điều đã trải qua, và làm sáng tỏ chứng bệnh tâm lý mà thời kỳ đó còn bị che khuất bởi những định kiến mà những quan điểm mang tính thủ cựu. Có thể nói Horla và những truyện ngắn khác không chỉ mở ra cánh cửa khám phá một Maupassant rất khác, mà có thể nói cũng đã góp phần giúp ta hiểu được những gì đã từng xảy đến với một trong những nhà văn lớn của nhân loại.

Anh Đoàn

Đọc bài viết

Phía sau trang sách

Tư duy tích cực tạo thành công: Chìa khóa dẫn đến sự thịnh vượng

Published

on

Tác phẩm Tư duy tích cực tạo thành công của Napoleon Hill và William Clement Stone là một cẩm nang hữu ích cho bất kỳ ai muốn đạt được thành công trong cuộc sống. Cuốn sách không chỉ cung cấp những nguyên tắc và chiến lược hiệu quả để phát triển bản thân mà còn truyền cảm hứng giúp người đọc có một thái độ tích cực hơn trong cuộc sống.

Tư duy tích cực tạo thành công là một tác phẩm kinh điển về chủ đề phát triển bản thân, đã truyền cảm hứng cho hàng triệu người trên khắp thế giới kể từ khi xuất bản lần đầu tiên vào năm 1959, khẳng định vị trí là một trong những tác phẩm self-help bán chạy nhất mọi thời đại. Cuốn sách vén màn bí mật về sức mạnh của tư duy tích cực, giúp người đọc khai phá tiềm năng bản thân và đạt được những thành tựu phi thường trong mọi lĩnh vực của cuộc sống.

Tìm kiếm hình mẫu thành công làm ngọn đuốc soi sáng

Để có thêm động lực và định hướng rõ ràng cho bản thân, tác giả gợi ý rằng người đọc có thể xây dựng cho riêng mình một hình mẫu thành công từ những câu chuyện về người thật, việc thật trong sách báo. Khi dành thời gian tìm hiểu về hành trình của họ, những khó khăn họ đã trải qua và cách họ vượt qua những thử thách đó, ta sẽ có thể biến kinh nghiệm của họ trở thành ngọn đuốc soi sáng cho con đường của chính mình.

Bên cạnh đó, người đọc còn có thể chọn một bức ảnh có ý nghĩa đặc biệt với mình để đặt câu hỏi khi nhìn bức ảnh đó rồi lắng nghe câu trả lời từ chính tâm thức bật ra. Bức ảnh ấy có thể là hình ảnh về mục tiêu ta muốn đạt được, về một giá trị sống mà ta trân trọng, hoặc đơn giản là một khoảnh khắc đẹp trong cuộc sống. Chẳng hạn, nếu người đọc muốn mua nhà nhưng chưa có đủ tài chính thì có thể chọn bức ảnh về một mái ấm khang trang để ngắm nhìn và tự đặt câu hỏi rằng mình phải làm gì để đạt được số tiền sở hữu căn nhà đó. Không phải lúc nào câu trả lời cũng đến ngay lập tức, nhưng việc cụ thể hóa mục tiêu bằng một hình ảnh rõ ràng sẽ giúp người đọc tăng cường ý chí nỗ lực.

Ngoài ra, niềm tin chính là nguồn động lực mạnh mẽ giúp mỗi người vượt qua mọi khó khăn và chinh phục mục tiêu. Trong Tư duy tích cực tạo thành công, có một công thức thường được lặp lại nhiều lần để người đọc ghi nhớ là: “Khi con người người nghĩ đến và tin tưởng vào điều gì, họ sẽ có thể đạt được điều đó với thái độ tích cực.” Đây cũng là một biện pháp tự truyền cảm hứng.

Hai mặt của tình thế bức bách: Thành công hay tội ác?

Tư duy tích cực tạo thành công nhấn mạnh tầm quan trọng của tính lương thiện trong hành trình chinh phục thành công. Cuốn sách khẳng định rằng thành công đích thực không chỉ dựa trên kết quả mà còn phải dựa trên phương tiện đạt được kết quả đó. Một người có thể đạt được thành công bằng mưu mô, thủ đoạn, nhưng đó chỉ là thành công giả tạo, thiếu bền vững và không mang lại hạnh phúc thực sự.

Ngoài ra, tác giả cũng bàn về vai trò của tình thế bức bách: nó như một con dao hai lưỡi, có thể đưa con người đến đỉnh cao thành công hoặc vực sâu tội ác. Tình thế bức bách là phép thử cho bản lĩnh, đạo đức và thái độ của mỗi cá nhân. Khi đó, thành công hay thất bại đều tùy thuộc vào thái độ:

Thái độ tích cực: Khi đối mặt với nghịch cảnh, người có thái độ tích cực sẽ biến nó thành cơ hội để học hỏi, rèn luyện và phát triển bản thân. Họ kiên trì nỗ lực, tìm kiếm giải pháp sáng tạo và không bao giờ bỏ cuộc. Nhờ vậy, họ có thể vượt qua mọi khó khăn và gặt hái thành công.

Thái độ tiêu cực: Ngược lại, người có thái độ tiêu cực sẽ dễ dàng gục ngã trước nghịch cảnh. Họ chìm trong lo âu, sợ hãi, nghi ngờ bản thân và tìm kiếm lối thoát bằng những hành vi sai trái. Hậu quả là họ đánh mất bản thân, vướng vào vòng xoáy tội ác và tự hủy hoại cuộc đời.

Từ đó, cuốn sách đưa ra hai công thức đơn giản nhưng đầy ý nghĩa:

Tình thế bức bách + Thái độ tích cực = Thành công
Tình thế bức bách + Thái độ tiêu cực = Tội ác.

Cân bằng cảm xúc, rèn luyện tư duy và đặt mục tiêu hiệu quả

Cảm xúc và lý trí đóng vai trò quan trọng trong cuộc sống, mỗi người cần học cách cân bằng hai yếu tố này để đưa ra những quyết định sáng suốt. Đôi khi, ta cũng nên lắng nghe tiếng nói con tim và hành động theo những gì mình mong muốn. Chẳng hạn, khi phải lựa chọn giữa một công việc ổn định và theo đuổi đam mê, ta cần cân nhắc kỹ lưỡng cả hai yếu tố cảm xúc và lý trí: ta thường dùng lý trí để đánh giá khả năng thực tế của bản thân, nhưng cũng đừng quên lắng nghe tiếng nói con tim.

Bên cạnh đó, tác giả cho rằng mỗi ngày, chúng ta chỉ cần dành 1% thời gian để nghiên cứu, suy nghĩ, lập kế hoạch là đã có nhiều cơ may tạo ra sự khác biệt để vươn đến thành công. Theo ước tính, một ngày có 1440 phút, 1% sẽ tương ứng với 14 phút. Trong 14 phút đó, nếu ta chú tâm suy nghĩ kế hoạch cho những gì mình muốn làm, ta sẽ dần hình thành được thói quen có thể suy nghĩ sáng tạo mọi lúc, mọi nơi: khi rửa chén, lúc ngồi trên xe bus, hay thậm chí là khi đang tắm.

Ngoài ra, đặt mục tiêu là bước đầu tiên và quan trọng nhất trên kế hoạch chinh phục thành công. Mục tiêu rõ ràng sẽ giúp bạn tập trung nỗ lực, đưa ra quyết định sáng suốt và duy trì động lực để đạt được ước mơ. Tuy nhiên, không phải ai cũng biết cách đặt mục tiêu hiệu quả. Dưới đây là bốn điều quan trọng cần ghi nhớ khi đặt mục tiêu:

1. Viết mục tiêu ra giấy: Khi viết mục tiêu ra giấy, bạn sẽ buộc bản thân phải suy nghĩ cẩn thận về những gì mình muốn đạt được. Việc này giúp bạn tập trung và ghi nhớ mục tiêu tốt hơn.

2. Đặt mốc thời gian: Mốc thời gian giúp bạn chia mục tiêu lớn thành những mục tiêu nhỏ hơn, dễ quản lý hơn. Việc này giúp bạn có động lực để hoàn thành từng bước và tiến đến mục tiêu cuối cùng.

3. Đặt tiêu chuẩn thật cao: Khi đặt tiêu chuẩn cao, bạn sẽ buộc bản thân phải nỗ lực hết mình và phát huy tiềm năng tối đa.

4. Đặt mục tiêu cao: Mục tiêu cao sẽ giúp bạn có tầm nhìn xa và thúc đẩy bạn không ngừng phát triển.

Nhìn chung, Tư duy tích cực tạo thành công đã mang đến cho người đọc những bài học quý giá về sức mạnh của tư duy tích cực trong việc gặt hái thành công và hạnh phúc. Hãy nhớ rằng, thành công không phải là đích đến mà là hành trình. Hành trình chinh phục thành công bắt đầu từ việc nuôi dưỡng tư duy tích cực. Ta cần tin tưởng vào bản thân và những điều kỳ diệu mà cuộc sống có thể mang lại. Từ đó, ước mơ sẽ thành hiện thực bằng chính những hành động mà ta lựa chọn ngay từ hôm nay.

Hoàng Đức Nhiên

Đọc bài viết

Phía sau trang sách

Tình yêu đích thực từ góc nhìn của Thiền sư Thích Nhất Hạnh

Published

on

Trong vô vàn những định nghĩa về tình yêu, quan điểm của Thiền sư Thích Nhất Hạnh về “tình yêu đích thực” được trình bày trong cuốn tiểu luận True Love đã mang đến một sự giản dị, mộc mạc nhưng lại ẩn chứa sức mạnh lay động tâm hồn sâu sắc.

Tình yêu là một trong những chủ đề muôn thuở của nhân loại, luôn ẩn chứa sức hút mãnh liệt và khơi gợi những cảm xúc dạt dào. Nhưng không phải ai cũng hiểu được bản chất của tình yêu. Trong True Love, Thiền sư Thích Nhất Hạnh đã kể lại câu chuyện Thiếu phụ Nam Xương, rồi từ đó rút ra một kết luận mà thoạt nghe sẽ có vẻ vô cùng đơn giản nhưng càng ngẫm nghĩ thì ta càng thấy sự đơn giản ấy chính là vẻ đẹp của minh triết.

Thông điệp ý nghĩa từ ba câu khẳng định trong tình yêu

Đối với thầy, câu chuyện Thiếu phụ Nam Xương có kết cuộc đau lòng là vì người chồng đã không chịu lắng nghe người vợ, anh cứ gạt phăng lời vợ nói, cơn nóng giận đã che mờ tình yêu và cả lí trí. Vợ anh cũng đã không cố gắng hơn để giải thích rõ ràng cho anh hiểu. Chính vì vậy, cả hai người đều không thực sự hiện diện khi ở trước mặt đối phương, họ ở đó nhưng không thực sự ở đó, mà ở trong khoảnh khắc khác, trong những chiều không gian khác. Bi kịch của họ đơn giản chỉ là như thế.

Từ đó, Thiền sư Thích Nhất Hạnh rút ra kết luận là tình yêu thực sự chỉ đơn giản nằm gói gọn trong ba câu sau đây: “Anh ở đây. Em ở đây. Và anh ở đây vì em.” (I’m here. You’re here. And I’m here for you.)

Câu khẳng định đầu tiên mang hàm ý rằng anh đang ở đây ngay giây phút này khi đối diện với em, bằng trăm phần trăm con người anh, không hề có sự tản mác, phân mảnh đi bất cứ nơi đâu. Một điều tưởng chừng đơn giản nhưng thực ra trong cuộc sống bộn bề lo toan này, việc một người có thể tập trung hoàn toàn tinh lực của mình khi đối diện trước một người mà không bị vướng bận tâm trí bởi điều gì khác cũng thật khó khăn.

Câu khẳng định thứ hai là sự tiếp nối ý từ câu đầu tiên. Anh ở đây, và em cũng đang ở đây. Anh ghi nhận sự tồn tại của em, em ghi nhận sự tồn tại của anh. Vì em cũng đang ở đây cùng anh trong giây phút này nên em không cô đơn, em không tản mác, em không phân mảnh.

Câu khẳng định cuối cùng là một sự quả quyết mạnh mẽ: Anh ở đây, anh dành hết trăm phần trăm sự tồn tại của mình ở đây là vì chính em, không vì ai khác cả. Vậy nên, em có thể yên tâm mà thổ lộ tất cả mọi điều với anh, vì trong giây phút này, hai ta đều cùng hiện diện.

Thông qua đó, ba câu khẳng định này có thể diễn dịch lại thành thông điệp phổ quát như sau:

“I’m here”: Khẳng định sự hiện diện trọn vẹn của bản thân, tập trung toàn bộ sự chú ý và tinh thần vào người mình yêu thương. Trong cuộc sống bận rộn, việc dành trọn vẹn tâm trí cho đối phương là điều không dễ dàng, nhưng lại vô cùng quan trọng để xây dựng một mối quan hệ bền vững.

“You’re here”: Ghi nhận sự tồn tại của đối phương, trân trọng và thấu hiểu cảm xúc, suy nghĩ của họ. Khi cả hai cùng “ở đây”, họ sẽ cảm nhận được sự kết nối sâu sắc, chia sẻ và đồng hành trong từng khoảnh khắc.

“And I’m here for you”: Thể hiện sự cam kết, dành trọn vẹn tình yêu và sự quan tâm cho người mình yêu thương. Lời khẳng định này mang đến sự an toàn, tin tưởng và là động lực để cả hai cùng vượt qua mọi khó khăn trong cuộc sống.

Ba câu khẳng định tưởng chừng đơn giản nhưng lại là chìa khóa cho một tình yêu đích thực. Khi cả hai cùng thực hiện được điều này, họ sẽ tạo dựng được một mối quan hệ bền chặt, hạnh phúc và viên mãn.

Chìa khóa cho một mối quan hệ tốt đẹp

Để thực sự “ở đây”, mỗi người cần học cách chánh niệm, tập trung vào hiện tại, gạt bỏ những lo toan, phiền muộn và dành trọn vẹn sự chú ý cho đối phương. Khi ta thực sự “ở đây”, ta sẽ cảm nhận được trọn vẹn vẻ đẹp của người mình yêu thương, thấu hiểu những cảm xúc và suy nghĩ của họ. Tình yêu đích thực không chỉ là những khoảnh khắc lãng mạn, mà còn là sự cam kết và hy sinh cho nhau. Khi yêu thương ai đó, ta sẵn sàng dành thời gian, tâm sức và cả những hy sinh để cùng nhau xây dựng hạnh phúc.

Giao tiếp là yếu tố quan trọng trong bất kỳ mối quan hệ nào. Lắng nghe cởi mở và thấu hiểu là cách để hai người kết nối tâm hồn, chia sẻ những cảm xúc, suy nghĩ và vun đắp tình cảm ngày càng sâu sắc.

Tình yêu đích thực không phải là điều viển vông hay khó kiếm tìm. Nó ẩn chứa trong chính những khoảnh khắc bình dị của cuộc sống, chỉ cần ta biết trân trọng và gìn giữ. Ba câu khẳng định của Thiền sư Thích Nhất Hạnh là lời nhắc nhở nhẹ nhàng nhưng sâu sắc về cách để vun đắp và nuôi dưỡng một tình yêu thương bền chặt, viên mãn.

Hoàng Đức Nhiên

Đọc bài viết

Cafe sáng