Book trailer

“Ellie yêu dấu” và nỗi đau của loài chim chích

Published

on

Trong thế giới tự nhiên, tu hú có lẽ là loài chim có tập tính sinh học kỳ lạ và tàn ác nhất mà ta từng biết tới. Vì chim non không thể chuyển hóa độc tính có trong thức ăn (thường là sâu bọ), nên những bà mẹ phải gửi con mình ở tổ khác – mà một trong số những loài chim được các bà mẹ tu hú yêu thích là loài chim chích. Để đảm bảo số trứng vẫn còn toàn vẹn (để bầy chim chích không phát hiện ra), thì trước khi giao phó nghĩa vụ thiêng liêng, bà mẹ tu hú nhà ta cũng kịp đánh chén một quả trứng non từ giống khác loài. Chim chích nuôi lớn tu hú non mà không hề biết rằng, sau khi nở ra từ lớp vỏ trứng, việc đầu tiên chim ta làm là đẩy những anh chị em không hề ruột rà lọt ra khỏi ổ để mà độc chiếm sự săn sóc. Khi chích oằn mình nuôi lớn con non có khi đã lớn gấp hai lần mình, thì vào một ngày chim ta sẽ vỗ cánh bay đi, không lời từ biệt hay báo đáp.

Trong tình huống này, khi người ta vẫn hay chú ý tới chính tội ác và sự kỳ lạ ở loài tu hú thì nỗi đau của chim chích mẹ khi phát hiện ra con mình đã bị đánh tráo, đã bị ăn thịt còn bản thân mình lại đi cung phụng một tên vong ân bạc nghĩa lại thường trôi qua tưởng như dĩ vãng. Tự nhiên luôn chứa những điều kỳ lạ tưởng chừng vô song, và để hoàn thiện bức tranh đau đớn đầy màu nước mắt; chí ít mẹ thiên nhiên cũng biến chim chích tỏ ra ngu ngơ trước sự nhận biết đứa con của mình – không như loài chim yến đâm đầu vào vách núi khi tổ đã bị dời đi. Thế nhưng, liệu có tồn tại trường hợp nào đó khi loài tu hú đóng vai điểu nhân, còn loài chim chích là một bà mẹ tưởng như bình thường nhưng bỗng sinh ra lại thêm đầu óc, thì nỗi đau ấy sẽ thành ra sao?

Đó chính là những gì Ellie yêu dấu cố gắng phác họa – về nỗi đau, mất mát, hy vọng và cả niềm tin khi bi kịch ập đến vào trong cuộc đời. Tác phẩm là câu chuyện kể về ba phụ nữ đứng trước bi kịch trong cuộc đời mình. Đó là Laurel, người mẹ trải qua bi kịch quá lớn khi cô con gái mình yêu thương nhất bỗng nhiên mất tích. Đó là Hana khi phải oằn mình gánh chịu cú sốc sau bi kịch ấy, khi bố mẹ ly thân còn chính mẹ mình chỉ ôm mãi bóng hình em gái. Còn là Noelle – một người phụ nữ thất bại ở mặt ngoại vi, người khao khát yêu đương từ trong bản chất và những đau đớn mà bất cứ một phụ nữ nào cũng không cần phải trải qua. Ba con người này đứng đó như ba nữ thần số mệnh đối với Ellie, những người sẽ một lần nữa quyết định chính số mệnh cô, chính vận mệnh cô mà không hề biết chính sự ích kỷ và nỗi tha hóa có thể biến con người ta tàn ác đến mức độ nào.

*

Lisa Jewell xây dựng cuốn tiểu thuyết này theo motif trinh thám – dẫn đến tàn ngày để lại ở trong Ellie là những kỷ niệm, mà người nắm rõ nhất lại không ai khác ngoài mẹ của cô, bà Laurel, người nắm vai trò dẫn dắt toàn bộ cốt truyện. Với Laurel, Lisa Jewell đã xây dựng nên hình dáng bà mẹ điển hình hệt như Elizabeth Gilbert từng xây dựng trong Người đàn ông Mỹ cuối cùng. Đó là bà mẹ tất bật lo toan mọi chuyện trong một gia đình đông đúc bầy con và một ông chồng hờ hững không quan tâm mấy. Sau khi rơi vào bi kịch của sự mất tích, bà ngày càng trở nên bi quan và mỏi mệt với mớ mùi mẽ khó chịu và bầu không khí của căn nhà – trong một trạng thái kinh khủng, tuyệt vọng, khiếp hãi, hoảng loạn…  Từ một bà mẹ có vẻ chán chường nhưng vẫn còn đâu đó động lực thúc đẩy trong cuộc sống; nay mọi lý tưởng tắt ngấm, bà sống cho hết thời giờ, làm những công việc không quan trọng mấy và vẫn đi gặp những người bà từng không hề đoái hoài ở trong quá khứ.

Sự mất tích của cô con gái, mối quan hệ đi đến đường cùng của cuộc hôn nhân… tất cả khiến bà chìm dần vào sự vô hồn. Nhưng rồi bi kịch không dừng ở đó. Chúng trở đi trở lại và được mở ra những hướng khác nhau, tưởng chừng ta không thể ngờ.

Review sách: Ellie yêu dấu (Lisa Jewell)
Ảnh: AZ Việt Nam

Khi Laurel lâm vào buồn đau bởi đứa con bà yêu thương nhất không thể trở về thì Hana là đứa trẻ bỗng chốc đánh mất tuổi thơ bởi sự mất tích của cô em gái. Hình tượng Hana thật ra không hề hiếm thấy trong mọi gia đình. Khi một ngôi nhà có nhiều đứa con, sự sẻ chia tình cảm theo nhiều nấc thang gắn bó là điều hiển nhiên và là rõ ràng. Như A. S. Byatt từng viết trong Truyện trẻ con: “Tình cảm đó phụ thuộc vào khoảng cách tuổi giữa các đứa con, vào sức khỏe của cha mẹ, vào cái chết, vào việc đứa con nào có thể sống qua dịch bệnh hay tai nạn và đứa nào không.”

Hana là một đứa trẻ thiếu thốn tình thương, làm thành vách ngăn không thể lấp đầy giữa cô và mẹ. Việc có bạn trai, những rắc rối trong công việc, áp lực hay trách nhiệm tuổi trẻ; tất cả đều khó nắm bắt đối với bà mẹ kiểu như Laurel. Thay vì một sự gắn kết từ trong máu thịt, nay hai người họ dè chừng với nhau, không dám đặt trọn bàn chân vào trong lãnh địa ở nơi người kia – cộng thêm kết cấu gia đình ngày càng phức tạp – đã khiến mối quan hệ ấy lâm vào đường cùng.

Và không ai khác, người quan trọng nhất và chủ chốt nhất là Noelle – chị cả Atropos, người dùng cây kéo cắt đứt sợi tơ sinh mệnh của mọi sinh linh và vạn vật. Những dòng Lisa Jewell miêu tả về người phụ nữ đầy vẻ bí ẩn này vô cùng khó chịu, mang vẻ ngột ngạt. Phải thừa nhận rằng, đối với Ellie yêu dấu, tuy rằng được xây dựng với kết cấu của một tiểu thuyết trinh thám; nhưng điều hay nhất và thành công nhất mà Lisa Jewell làm được lại là khắc họa tâm lý, đặc biệt nhất ở những người phụ nữ. Một sự thấu cảm, một nỗi đồng điệu, dường như có lẽ?

Noelle chất chứa trong mình nỗi dồn nén mà – như đã nói – không người đàn bà nào xứng đáng phải chịu. Với vẻ ngoài không hề cuốn hút, việc lớn lên trong một gia đình Ireland đầy vẻ ngoan đạo với phần nào đó có chút mục ruỗng, việc mất đi người em từ nhỏ và đau hơn hết là hai cái thai chết lưu với người đàn ông mà mình khao khát; Noelle và bà Laurel là hai hình tượng trái ngược hoàn toàn. Một bên cuốn hút với những đường cong, một bên khô khan như chính môn toán mà cô theo đuổi. Một bên hạnh phúc với ba người con, một bên không hạt giống nào có thể nảy mầm. Một bên tràn ngập tươi sáng được sống cuộc đời giản dị, một bên ngay từ ban đầu đã phải oằn mình với tới được hai chữ “bình thường”. Hai người họ là hình bóng của một chiếc gương, họ soi chiếu lẫn nhau, thể hiện vị thế của hai phụ nữ ở hai địa hạt – một người với những giá trị truyền thống và người kia vật lộn từ chủng tộc khác, từ miền đất khác; mong muốn hòa nhập, được sống hết mình.

*

Để hỏi trong ba người họ ai đau đớn nhất, ai đáng thương nhất, thì không một ai nhiều hơn ai cả. Cả ba người họ như đang đứng trên ba đỉnh một tam giác đều – soi chiếu lẫn nhau, lặn vào trong nhau. Có cái tổn thương từ trong tuổi thơ của Hana, có cái mất mát trong bà Laurel và cái đáng thương trở thành động cơ rất khó chấp nhận ở trong Noelle. Cả ba người họ đều tuôn trào ra một sự đáng thương nhưng cũng đáng trách. Lisa Jewell thành công khi lột tả được bước đi sóng đôi của trạng thái này, để từ trong đó ta dễ thấy được nạn nhân hay là kẻ thù cũng đau như nhau, có chăng là khác ở mặt động cơ hay là mức độ.

Lisa Jewell, bằng những nút thắt đầy tính gợi mở trong một kết cấu tiểu thuyết trinh thám cùng sự thấu hiểu tâm lý vô cùng nổi trội, đã tạo nên được cuốn sách của những bi kịch đầy cảm động mà xót xa. Điểm nổi bật nhất của cuốn sách này, như đã nói trên, là những nhân vật tưởng như bình thường bỗng chốc bị lôi ra khỏi dòng sống thường ngày một cách kịch tích mà đầy khó hiểu. Để sau những bi kịch ấy; hy vọng, tình thương, tha thứ là cuộc phục hưng từ trong đời sống của mỗi người họ, để vượt qua mất mát, buông bỏ, kinh hoàng, khiếp hãi. Một cuốn trinh thám tâm lý vô cùng đáng đọc, và nhất là cho những người phụ nữ của đời sống này.

Hết.


Đọc tất cả bài viết của bí


Book trailer

Bi cảm cái đẹp và cái chết trong tiểu thuyết Người đẹp ngủ mê của văn hào Kawabata Yasunari

Published

on

Người đẹp ngủ mê – tiểu thuyết kinh điển của cố nhà văn Nhật Bản Kawabata Yasunari vừa được Phương Nam Book tái bản phát hành – khắc họa thái độ phản tỉnh của một người thực hành thiền định để đi đến giác ngộ về dục tính của chính mình và ý nghĩa của nhân sinh.

Người đẹp ngủ mê được Kawabata Yasunari viết và xuất bản vào năm 1961 khi ông 62 tuổi. Tác phẩm này dựa trên một kịch bản sân khấu kabuki với nhan đề Những mỹ nữ của Eguchi, công diễn khoảng thế kỷ 17 ở Nhật Bản.

Ông lão Eguchi 67 tuổi và nỗi lòng cô đơn trống trải

Tác phẩm kể về những lần ghé thăm của ông lão Eguchi, 67 tuổi, đến ngôi nhà đặc biệt với những trinh nữ xinh đẹp, tuổi chưa đến hai mươi, được gây mê bằng thuốc ngủ liều cao, hoàn toàn khỏa thân trong tình trạng ngủ say. “Nếu chỉ cần lay nhẹ mà cô gái đã thức dậy thì ngôi nhà này đâu còn gì bí ẩn nữa. Các vị khách đến đây ‘giống như ngủ với một ông Bụt vô hình’. Đối với các ông già, ngủ với một người đẹp không khi nào tỉnh thức là một mối cám dỗ, một cuộc phiêu lưu, một niềm vui thú mà họ tin mình còn thực hiện được.”

Mỗi chương truyện là những lần ông lão Eguchi ghé thăm ngôi nhà đặc biệt này. Mỗi lần, ông lại ngủ với những cô gái khác nhau. Màn đêm tối buông xuống, hơi thở êm dịu của những cô gái, gió thỉnh thoảng thổi qua mái nhà, tiếng sóng biển ầm ầm đập vào vách đá, Eguchi có những hồi tưởng, những hoài niệm khắc khoải khác nhau về những người đàn bà đã đi qua đời ông. Một ẩn dụ rõ ràng về sự tiếc nuối những văn hóa, những vẻ đẹp xưa kia ở Nhật Bản chỉ có thể gợi nhớ lại qua những khung cảnh, những hình ảnh tương tự, gần giống như thế.

Việc ngủ cạnh những cô gái trong ngôi nhà đặc biệt đã khiến tâm tưởng ông lão Eguchi tìm ra những cung bậc cảm xúc hết sức khác thường trong khi vẫn tôn trọng quy định của ngôi nhà. “Nàng ngủ, nàng không nói, nàng chẳng thấy khuôn mặt ông, chẳng nghe giọng nói ông... Và số phận ông nàng cũng chẳng mảy may biết đến”. Hơn hết, nhân vật chính cô đơn trong chính tâm thức của mình. “Một nỗi cô đơn buồn bã trào lên. Nhưng hơn cả nỗi cô đơn hay nỗi buồn rầu, chính là nỗi cô chiếc tuyệt vọng của tuổi già như thể đông lạnh hẳn trong ông”.

Điểm cốt lõi của tiểu thuyết Người đẹp ngủ mê bắt nguồn từ nhân vật chính tự chiêm nghiệm về chính con người thực sự của mình. Ở hành trình đó, tác giả Kawabata Yasunari đã tạo ra các cuộc gặp gỡ, sự quan sát của ông lão Eguchi về vẻ đẹp thể xác của các cô gái. Tác phẩm không chỉ đơn thuần tràn ngập những mỹ từ như “bàn tay mịn và đẹp, mái tóc trinh trắng, đôi má ửng đỏ, cổ và vai trông tươi và trẻ…”, mà là sự suy tưởng về quy luật của thời gian, sự sống và cái chết, nỗi hoài niệm quá khứ, khao khát tương lai, lãng quên cuộc sống hiện tại. Phải chăng, hình ảnh của một đời sống xã hội đầy tổn thương khiến con người ta dễ rơi vào tâm trạng cô đơn, nỗi tiếc nhớ xót xa những tháng ngày chưa sống mà đã qua đi.

Bi cảm cái đẹp và cái chết

Càng về sau, tác giả Kawabata Yasunari đi sâu vào bản thể và ký ức xa xăm nhất của nhân vật chính, Eguchi tìm lại được những cảm xúc tinh thần thuần túy. Ông lão tin rằng, ở trong ngôi nhà đặc biệt này, chắc có những lão già không những buồn rầu nhìn lại thời trai trẻ nay đã xa xưa mà còn tìm cách lãng quên những điều xấu xa, những việc độc ác đã làm dọc theo chiều dài cuộc đời họ. Nhìn từ khía cạnh này, Eguchi nhiều lần xuất hiện cảm giác rằng những người đẹp ngủ mê phải chăng là sự hiện thân của một vị Bụt nào đó, trong các truyền thuyết xưa cũ.

Cũng trong tác phẩm này, Kawabata nhận định: “Trên thế gian không có gì cao quý bằng con người. Trong loài người không có gì vinh dự bằng thân thể trong trắng của người nữ. Tuy nhiên, để chiếm đoạt, sở hữu nó người ta phải phá hủy sự trinh khiết đó”Người đẹp ngủ mê chính là thứ cảm giác không thể nhầm lẫn mách bảo ta rằng Kawabata đã khéo léo sử dụng vẻ đẹp của ngôn từ cần thiết cho tác phẩm. Đỉnh điểm, ông đã khắc họa thành công cái đẹp của tấm thân trần – nó dường như trở thành biểu tượng cao quý của tính nữ vĩnh hằng, dù có được sở hữu trong tay thì vẫn muôn đời là bí mật.

Tác phẩm Người đẹp ngủ mê đã giúp cho tác giả Kawabata Yasunari trở thành tiểu thuyết gia người Nhật đầu tiên và người châu Á thứ ba đoạt giải Nobel Văn học năm 1968 với lời ca ngợi của Viện Hàn Lâm Thụy Điển rằng: “Ông là người tôn vinh cái đẹp hư ảo và hình ảnh u uất của hiện hữu trong đời sống thiên nhiên và trong định mệnh con người”.

Một điểm đặc biệt, ở chương cuối, ông lão Eguchi trong cơn mộng mị nửa tỉnh nửa mê đã gợi nhớ về hình ảnh người mẹ của mình. Người đàn bà đầu tiên: “Mẹ”. Ý nghĩ này bất ngờ xẹt qua đầu ông như tia chớp. “Không phải mẹ thì ai vào đấy nữa”. Ý thức và lý trí ông đã tê liệt, và hình như nước mắt ứa ra từ khóe mắt già nua. Ông chỉ còn nhớ được đã mò mẫm tìm vú mẹ rồi lăn ra ngủ những ngày thơ ấu. Cũng giống như ông lão Eguchi nhớ về mẹ, đứa con dù lớn vẫn là con của mẹ. Có lẽ, cảm thức cô đơn trong chính tác phẩm văn chương của Kawabata thường phản ánh từ chính cuộc sống thời thơ ấu mồ côi từ năm 2 tuổi và cái tuổi trẻ thấm đẫm nước mắt của chính tác giả.

Sau tất cả, tiểu thuyết Người đẹp ngủ mê đem lại những cảm xúc thẩm mỹ độc đáo, đồng thời để lại nhiều khoảng trống, nhiều băn khoăn để độc giả tự khám phá bằng trình độ thưởng thức của mình. Người đẹp ngủ mê chứa đựng nhiều đối cực: tuổi già – tuổi trẻ, cái đẹp – cái chết, tội lỗi – trong sạch, tha hoá – nguyên sơ… Vì vậy, Kawabata Yasunari dẫn dắt độc giả qua tầng tầng lớp lớp ngữ nghĩa vận động không ngừng, tạo nên sự khác biệt trong cảm nhận khi đọc tác phẩm.

Nếu một vài độc giả cảm thức tác phẩm thanh hay tục đều xuất phát từ hình tượng nghệ thuật phức tạp, ngôn từ đa nghĩa. Đôi khi, độc giả sẽ có những cảm xúc kinh hãi vì những suy nghĩ xấu xa của ông già Eguchi. Hay bạn sẽ thương xót cho vẻ đẹp của thân xác những người đẹp ngủ mê đang bị làm ô uế… Song dù sao, người đọc cần một trí tuệ sáng suốt, thấy đúng, thấy rõ những sai lầm của nhân vật chính để từ đấy lĩnh hội được các giá trị đích thực chân – thiện – mỹ của tác phẩm.

Trích đoạn

“Ngay vào thời điểm này trong năm, hai hay ba hoa mẫu đơn mùa đông nở dưới mặt trời ấm áp bên chân hàng rào cao bằng đá của một tu viện cổ ở Yamato. Những đóa trà hoa trắng nở trong vườn gần mái hiên ngôi nhà Shisendo. Vào mùa xuân, ra đời những chùm hoa đậu tía, những đóa đỗ quyên trắng ở thành phố Nara và ở Đền Trà Hoa ở Kyoto, những cánh hoa trà rụng đầy vườn.”

“Cô gái ngủ mê man như chết nhưng thời gian sinh tồn của nàng đâu có ngưng chảy, vậy nàng có giữ được thời gian đó không hay là nó chảy tuột vào một vực sâu không đáy? Nàng không phải là một búp bê sống, vì không thể có búp bê sống trên thế gian này; nàng được biến thành một đồ chơi sống, để các cụ già đã mất năng lực đàn ông không bị cảm thấy xấu hổ. Không, không phải một đồ chơi: đối với các cụ, nàng chính là cuộc sống. Một cuộc sống người ta có thể sờ mó được, một cách tự tin”.

“Dù say ngủ, nàng vẫn sống, nói cách khác, ý thức nàng bị vùi sâu trong giấc ngủ đậm đặc nhưng thân xác nàng vẫn sinh động trong nữ tính của mình.”

Về tác giả

Chân dung văn hào Nhật Bản Kawabata Yasunari năm 1969

Kawabata Yasunari (1899–1972) sinh ra ở Osaka, mồ côi năm lên 2 tuổi. Từ đó, ông và chị sống lần lượt cùng ông bà ngoại và gia đình người dì. Kawabata Yasunari là tiểu thuyết gia người Nhật đầu tiên và người châu Á thứ ba đoạt giải Nobel Văn học (năm 1968).

Những sáng tác văn chương, những tiểu luận mỹ học và phê bình văn học của Kawabata Yasunari, qua thời gian vẫn luôn đem lại hấp lực mạnh mẽ đối với nhiều nhà phương Đông học trên khắp các châu lục, có sức lôi cuốn rộng rãi độc giả trên thế giới, phản ánh nhiều phương diện của văn hóa Nhật cũng như những rung cảm đầy đam mê mà tinh tế của tâm hồn Nhật.

Đọc bài viết

Giới thiệu sách

Lớn lên trên đảo vắng – Cuộc phiêu lưu kịch tính của gia đình Robinson

Published

on

Lớn lên trên đảo vắng

Trên đường sang châu Mỹ lập nghiệp, gia đình Robinson không may bị đắm tàu và trôi dạt vào một hoang đảo. Tại đây, họ đã phải bắt đầu một cuộc sống mới đầy gian khó, khi phải tự làm nhà, săn bắn, trồng trọt, thuần hóa thú hoang… Mỗi ngày với họ đều là một chuyến phiêu lưu kỳ thú nhưng cũng không kém phần nguy hiểm. Với sự ưu đãi của thiên nhiên và tinh thần kiên cường vượt qua nghịch cảnh, gia đình Robinson không chỉ sống sót mà sau nhiều năm lưu lạc trên đảo vắng, họ còn xây dựng được cho mình một cơ ngơi đáng kể.

Dưới ngòi bút miêu tả chân thực của tác giả Johann David Wyss, Lớn lên trên đảo vắng không chỉ bày ra trước mắt độc giả vẻ đẹp của một thế giới tự nhiên hoang sơ, trù phú mà còn là lời ca ngợi những đức tính tuyệt vời của con người. Đó là tinh thần phiêu lưu dũng cảm, sự thông minh tài trí, tính cần cù chăm chỉ và lòng tốt, sự quan tâm giữa các thành viên trong gia đình với nhau. Nhờ vậy mà đây đã trở thành một trong những tác phẩm được yêu thích nhất của trẻ em trên toàn thế giới, còn nhiều lần được dựng thành phim cũng như chuyển thể thành truyện tranh và trò chơi điện tử.

Johann David Wyss (28/5/1743 - 11/1/1818) sinh ra ở Bern, Thụy Sĩ. Ông vốn là mục sư nhưng sau này đã trở thành một tác giả nổi tiếng. Được truyền cảm hứng từ tác phẩm Robinson Crusoe của Daniel Defoe, nhưng Wyss muốn viết một câu chuyện chứa đựng những bài học thú vị, bổ ích về cuộc sống thiên nhiên hoang dã dành riêng cho trẻ em, nên đã cho ra đời tiểu thuyết Lớn lên trên đảo vắng. Tác phẩm được xuất bản lần đầu tiên bằng tiếng Đức năm 1812, và sau đó hai năm, đã được dịch sang tiếng Anh, rồi lần lượt là nhiều thứ tiếng khác.

Đọc bài viết

Giới thiệu sách

Năm tuần trên khinh khí cầu – Chuyến du lịch độc đáo xuyên qua châu Phi hoang dã

Published

on

Năm tuần trên khinh khí cầu

Năm tuần trên khinh khí cầu kể câu chuyện về ba người Anh với tham vọng băng qua châu Phi, từ Đông sang Tây, trên một chiếc khinh khí cầu. Tiến sĩ Samuel Fergusson, nhà khoa học thông tuệ, là trưởng đoàn, đồng hành cùng ông có người hầu cận trung thành Joe và anh bạn thợ săn thiện xạ Dick Kennedy. Bộ ba dấn thân vào biết bao cuộc phiêu lưu hấp dẫn và không kém phần kỳ lạ: chạm trán với người bản địa và những loài động vật nguy hiểm, gặp sự cố với khinh khí cầu, đồng thời phải vật lộn với những bất lợi về thời tiết. 

Xuyên suốt cuốn sách Năm tuần trên khinh khí cầu, tác giả Jules Verne đã mô tả một cách sinh động những đặc điểm về hệ thực vật, động vật, địa lý và con người châu Phi qua con mắt của thế kỷ XIX. Được xuất bản lần đầu vào năm 1863, Năm tuần trên khinh khí cầu là sự kết hợp tuyệt vời của các yếu tố như nhân vật thông minh, sáng tạo, những kiến thức khoa học và công nghệ đi trước thời đại, đặc biệt là cốt truyện đầy hấp dẫn hé lộ viễn cảnh về một thế giới chưa được biết tới, tất cả đã làm nên chất phiêu lưu đặc trưng và tạo tiền đề cho những tác phẩm sau này của Jules Verne.

Tác phẩm văn học Năm tuần trên khinh khí cầu. Ảnh: Đinh Tị Books

Ngày 31/1/1863, Năm tuần trên khinh khí cầu chính thức ra mắt và ngay lập tức nổi tiếng khắp nước Pháp và sau đó là toàn thế giới. Mọi người đều hết sức kinh ngạc khi độc giả có cảm giác được trải nghiệm thực tế những điều trong sách. Một độc giả còn gửi thư tới nhà xuất bản để hỏi: “Tôi rất mong nhận được một câu trả lời từ ngài, Tiến sĩ Samuel Fergusson thật sự có thể ngồi trên khinh khí cầu để bay xuyên qua châu Phi ư…”

Năm tuần trên khinh khí cầu do Đinh Tị Books phát hành. Bản dịch đầy đủ từ dịch giả Ngụy Thanh Tuyên giúp truyền tải trọn vẹn tinh thần của bản gốc. Bởi, dịch giả Ngụy Thanh Tuyên đã có kinh nghiệm chuyển ngữ thành công rất nhiều tác phẩm cả kinh điển, trong số đó có thể kể đến Hai vạn dặm dưới đáy biển 80 ngày vòng quanh thế giới.

Trích đoạn

“Samuel thân mến ạ!” Người thợ săn nói. “Dự án gì đó của anh thật điên rồ! Nó không khả thi! Nó chẳng có vẻ gì là nghiêm túc hay thực tế hết!”

“Tại sao lại không?”

“Chà, vì rủi ro, vì trở ngại đủ kiểu.”

“Về chuyện trở ngại,” Fergusson nghiêm giọng nói. “Trở ngại tồn tại là để ta vượt qua. Còn rủi ro và nguy hiểm ư? Ai dám tự vỗ ngực tuyên bố ta đây chẳng bao giờ gặp nguy? Chúng ta chỉ nên thấy hiện tại qua tương lai mà thôi, vì tương lai chẳng qua chỉ là hiện tại xa hơn một chút.”

Đọc bài viết

Cafe sáng