Phía sau trang sách

Bình địa trong lửa (Juan Rulfo): Một cõi đọa đày

Published

on

Bình địa trong lửa (Juan Rulfo)

Pedro Páramo là tác phẩm vĩ đại của văn chương Mỹ Latin, khi nó là cái nôi để thai nghén nên Trăm năm cô đơn và đồng thời là dấu mốc đưa Juan Rulfo trở thành một trong những người tiên phong mở khóa địa hạt văn chương còn nhiều bí ẩn này ra với thế giới. Nếu Pedro Páramo đã được chuyển ngữ từ những năm 1987, thì Bình địa trong lửa – tập truyện ngắn với tầm quan trọng không kém – chỉ gần đây mới được giới thiệu và xuất bản tại Việt Nam. Thời gian chờ đợi là một quãng dài, nhưng không hề phung phí cho một trước tác vô cùng tuyệt diệu.

Có thể nói, Bình địa trong lửa là một tác phẩm phản Páramo một cách toàn diện. Sinh thời chỉ cho ra mắt hai trước tác lớn trước khi cơn bĩ cực ập đến, nhưng cả hai tác phẩm của Juan Rulfo đều chiếm được vị thế vô cùng quan trọng. Trong khi Pedro Páramo tiếp cận người đọc bằng bầu không khí hiện thực kỳ ảo vô cùng mới lạ (ở thời điểm đó), thì Bình địa trong lửa là áng văn hiện thực sâu cay nhưng đầy chán chường vì nỗi tuyệt vọng. Trường nghệ thuật của hai tiểu thuyết này như hai tinh cầu song song trong một bối cảnh và mặt nội dung khá tương đồng, khi ta thấy được một Mexico vô cùng ngột ngạt như xứ địa ngục trần gian với những biến động chính trị – xã hội sục sôi âm ỉ, chìm ngập trong đó còn là thân phận con người bé nhỏ mà đầy tham vọng.

Nếu Pedro Páramo tiếp cận người đọc bằng bầu không khí hiện thực kỳ ảo vô cùng mới lạ (ở thời điểm đó), thì Bình địa trong lửa là áng văn hiện thực sâu cay nhưng đầy chán chường vì nỗi tuyệt vọng. 
Ảnh: Phanbook

Một cõi bình địa

Với hình thức một tập truyện ngắn, Bình địa trong lửa là lăng kính soi chiếu rất nhiều góc nhìn qua một đất nước Mexico khắc nghiệt và đầy gian truân. Đó có thể là chốn bình địa méo mó, cằn cõi và đã vôi hóa, nơi gió cũng không còn đủ để gom một cơn mưa bụi. Nhưng cũng đồng thời là xứ sở của mưa như trút làm hư đống mạch, giết chết gia súc, tan hoang cửa nhà.

Ở vùng được gọi là San Juan Luvina ấy, một cõi luyện ngục lần dò mở ra. Đó là vùng đất nơi chó cũng chết và không còn gì để sủa vào sự im lặng. Là nơi im lìm tồn tại mọi sự cô quạnh, nơi gió chỉ hút vào những tiếng động. Nơi cũng chỉ còn lại người già và những đứa trẻ chưa hề ra đời; nơi chỉ đàn bà ốm yếu, gầy guộc và da bọc xương. Nơi đàn ông có trời mới biết đi đâu về đâu mà khi trở lại chỉ với một bao thực phẩm và vừa kịp gieo thêm một đứa trẻ thành ra quy luật. Là nơi mà một buổi chiều đứa bé sinh ra, thì sáng hôm sau đã thành đàn ông kịp cầm cuốc xẻng.

Mexico đón người ta bằng cơn gió lạnh, những trận động đất, bằng làn sương giá. Như thế họ cho chúng tôi đất. Trên cái thứ nóng như vỉ nướng này họ muốn chúng tôi gieo hạt, bất cứ loại hạt nào, chỉ để xem nó có thể nảy mầm và sinh sôi. Nhưng mà sẽ chẳng có gì có thể sống được ở đây. Cứ thế một cõi đọa đày mở ra trong các nhân vật, khiến họ biến chất, không còn logic, tất cả chảy tràn trong họ là những dòng máu đã sủi bọt tăm của những tị hiềm, ganh ghét và đối nghịch.

Nhân gian đảo ngược

Cũng chính trong cái ngột ngạt của vùng đất ấy, cộng thêm chế độ chính trị luôn luôn chông chênh thì giá trị con người cũng kịp lăn xuống đến mức thấp nhất. Bình địa trong lửa quét qua khoảng dài lịch sử từ khi Mexico oằn mình dưới thời quá độ cách mạng chống địa chủ, cùng lúc chế độ độc tài đang còn thị oai; thì cảnh lầm than vẫn luôn chồng chất. Trong tập truyện ngắn này ta đã bắt gặp không chỉ một lần những cảnh chém giết đầu rơi máu chảy, đạn nã sâu hoắm vào những thân người từ trong cuộc chiến, một cách vật lý hay là vô hình cũng dễ nhận ra.

Đó có thể là những tàn dư trong cách mạng ruộng đất khi giới địa chủ lại một lần nữa ngoi lên cái tua dài rộng cướp bóc những thương vụ lớn như nhà Toricco. Mà cũng có thể chì vì lũ lụt mất đi chú bò hồi môn dẫn con người ta vào đời đĩ đượm do đã quá nghèo. Đó cũng có thể là những hằn thù hay nỗi tị hiềm để rồi ganh ghét trở nên bạo tàn, đến mức họ còn giết hết cả một gia đình để rồi dằn vặt vì sự ghê tởm của bản thân mình “phải vác hết sức nặng của người thứ ba lên lung không đáng chút nào. Người chết nặng hơn người sống; nó sẽ đè bẹp ta mất”.

Chính trị biến động càng làm tăng thêm sự điên cuồng ấy. Truyện ngắn Bình địa trong lửa khắc họa những cuộc đối đầu giữa quân chính phủ, quân liên bang và quân cách mạng đã thể hiện điều này trực diện nhất. Chính sự tàn bạo trong dòng giống người đã đẩy người ta đến một mức độ tàn sát lẫn nhau, quây sân đấu bò để mà giết lính đi theo phe khác. Họ như trở về thời La Mã cổ, họ treo người chết để chim ó ăn đi hết nội tạng và rồi chết mục như Prometheus của Hy Lạp cổ. Chiến tranh tang tóc, chiến tranh đau thương biến con người ta đui mù mà không nhận ra một điều gì khác.


Thế nhưng không chỉ ở trong cuộc chiến, bi kịch gia đình cũng luôn là thứ chứa đựng biết bao những sự xấu xa còn luôn ẩn giấu. Đó có thể là những tình cảnh cha giết con, con giết cha không thể thoát ra; là những đồng chí sát cánh bên nhau nay giết chết nhau chỉ vì bãi cỏ chăn bầy gia súc. Đó cũng có thể là ngã tuyệt vọng khi dắt dìu nhau trên đường chữa bệnh, để người anh trai và cô em dâu nảy sinh tình cảm, là người cha già cõng con trai mình dù cho chính y đã giết chết đi người vợ ông yêu…

Những mối quan hệ không có đường thoát giữa cha – con trai xuyên qua bóng hình người mẹ chết trẻ luôn luôn trở lại trong các sáng tác của Juan Rulfo. Từ Pedro Páramo là chuyến hành trình đi tìm người cha, cho đến con trai giết cha ở trong cuộc chiến vì sự căm ghét ông dành cho cậu là những bi kịch không thể vượt thoát. Ở đó còn là hôn phối cận huyết cha và con gái – người cha lầm lạc nhưng luôn hiển hiện là một vị thánh, là gã điền chủ với cô cháu gái còn rất ngu ngơ…

Địa hạt khô khốc, tâm tính mục ruỗng được Juan Rulfo dồn nén vào đây như một quả cầu trở nên nặng nề bởi sự tàn bạo. Đó còn có thể là sự vô luân của nền độc tài khi ngài thống đốc đến ngay sau cơn động đất, mà việc ông làm không có gì hơn là ăn gà tây mút hết cả xương, bánh tortilla, một trận chè chén với suối rượu punch khi khăn trải bàn đã nhuộm đỏ thẫm. Trên chính vùng đất đã bị tàn phá bởi cơn động đất không thể lường trước, ngài đã để lại khoản nợ 4000 peso bằng sự gia ân chuyến viếng thăm đó. Một vùng tàn suy, con người nhỏ bé; xứ Mexico vang lên đớn hèn.

Phong cách Juan Rulfo

Một điểm nổi bật trong suốt tập truyện ngắn là ta có thể nhìn nhận những cốt truyện này theo hai hướng nhìn: một rất thực tế và một của những tưởng tượng. Nếu trong Họ cho chúng tôi đất, Juan Rulfo tập trung viết về những điều bất công, những sự vô luân của chính quyền ấy khi phân chia đất đằng sau cách mạng; thì đồng thời một mặt nào đó, ta cũng thấy được là những điềm báo ông đã đoán định trong những hình tượng của truyện ngắn này. Từ dáng hình của những ngôi nhà, làn khói xa xa do gió mang đến cho tới hạt mưa đơn côi mong trận mưa rào… Nhưng rồi mây tan không còn gì cả, còn nhà còn làng ở tít đằng xa chỉ như dự đoán cho một tương lai đầy cảnh đẹp đẽ chỉ là huyễn hoặc.

Ảnh: COLETTE URBAJTEL 

Hơn nữa, Juan Rulfo hầu như dửng dưng trong suốt những bi kịch kể lại. Ông xem những điều đang dâng trước mắt như lẽ hiển nhiên, như đời tầm thường; để rồi từ đó ông viết chính về cái chết, về cái vô luân, cái vô đạo đức vô cùng nhẹ nhàng mà đầy mục ruỗng. Lạnh tanh và thiếu sức sống, ông kết hầu hết những truyện ngắn này bằng câu đầy sức mạnh, như thể “Nơi Bình địa mà họ cho chúng tôi còn ở xa phía trước” hay “Như thể bất thình lình chúng bắt đầu nảy nở để mang em gần hơn vào kiếp đọa đày này”. Những câu bỏ lửng mà lạ lùng thay, lại rất thâm sâu và nặng tình nhất.

*

Trong một bài phỏng vấn vào năm 1978, Juan Rulfo từng nói rằng tuổi thơ của mình rất bất hạnh và khắc nghiệt khi sống ở một đất nước nơi sự tàn phá lan tràn xứ sở. Ông chưa bao giờ hiểu được logic của những hành động tàn ác, bạo lực trong suốt thời kì cách mạng dẫn đến cái chết của từng người một trong gia đình mình – và Bình địa trong lửa cũng chính là lời tự bạch những tội ác ấy, những mất mát ấy khi chúng vẫn đang lan ra quê hương bé mọn.

Với Bình địa trong lửa, một Rulfo lạ lẫm mà đầy khắc khoải hiện ra trước mắt người đọc. Ở đó, ta thấy được một xứ hoang tàn ở nơi tận cùng thế giới với đất hoang hóa, tự nhiên khắc nghiệt, nơi con người ta vẫn đang rủa xả chém giết lẫn nhau trong cuộc cách mạng tranh giành những điều vô lý. Phản Páramo nhưng cũng quan trọng không kém; một đời ngắn ngủi nhưng hai trước tác thực sự vĩ đại.

Hết.

Ngô Thuận Phát

*

Pedro Páramo: Tác phẩm viết về và viết bởi cái chết

Phía sau trang sách

Cánh cửa mở vào nội tâm của Maupassant

Published

on

By

Cùng với Chekhov, Guy de Maupassant từ lâu đã được suy tôn là “bậc thầy của thể loại truyện ngắn”. Điều này không chỉ bởi văn phong độc đáo, mà còn nằm ở sự đa dạng về thể loại. Trong đó Horla và những truyện ngắn khác ra mắt gần đây chính là minh chứng cho nhận định này.

Tuy chỉ viết trong vỏn vẹn có 4 thập kỷ, nhưng những di sản mà Maupassant để lại là tương đối lớn. Ông nổi tiếng nhất với các tiểu thuyết cũng như truyện ngắn mang tính hiện thực, hài hước, lãng mạn, như những tập truyện Sáng trăng, Nơi nhà người bạn

Nhà văn nổi tiếng Guy de Maupassant

Nhưng ít người biết ông cũng bén duyên với thể loại kinh dị, và nó cũng truyền cảm hứng cho nhiều tác giả sau này, trong đó có H.P.Lovecraft với Lời hiệu triệu của Cthulhu. Vừa mới ra mắt trong thời gian qua, Horla và những truyện ngắn khác tập hợp 5 tác phẩm có màu sắc kinh dị, siêu nhiên, được Maupassant viết trải dài từ năm 1875 – 1890.

Trí tưởng tượng phong phú

Trong tập truyện Horla và những truyện ngắn khác, bạn đọc có thể thấy rõ 2 giai đoạn mà Maupassant tiến hành tiếp cận thể loại kinh dị. Trong 3 truyện ngắn được viết sớm nhất là Bàn tay bị lột da (1875), Hắn? (1883) và Nỗi sợ (1884), ta đơn thuần thấy đây là một tác phẩm ẩn chứa yếu tố siêu nhiên mà vị tác giả cố gắng khai thác.

Chúng đơn giản xoay quanh những nỗi ám ảnh mà các cá nhân yếu bóng vía hay là nhạy cảm thường cảm nhận được. Chẳng hạn như trong truyện Hắn?, một người đàn ông vì bị ám ảnh bởi một bóng ma trong căn phòng của mình mà đã cưới lấy một người vợ mới, hay ở Nỗi sợ, chỉ vì trên tuyến tàu lửa khi nhìn thấy có 2 người đàn ông xuất hiện trong khu rừng vắng, mà nhân vật chính bỗng dưng cảm thấy trong mình trỗi dậy nỗi sợ chỉ vì không thể lý giải được động cơ của câu chuyện ấy…

Horla và những truyện ngắn khác là tác phẩm mới từ Maupassant

Đây đều là các nhân vật hoàn toàn tỉnh táo, họ nhận thức được những gì xảy ra và khó có thể nói họ có vấn đề riêng về tâm lý. Và vì tính hiện thực đó, Maupassant qua các tác phẩm cũng gửi gắm được bài học của mình. Chẳng hạn trong truyện Bàn tay bị lột da, thông qua nhân vật Pierre B. – một sinh viên trường luật, người xuất thân từ một trong những gia đình danh giá nhất xứ Normandie – ông đã cho thấy chỉ vì chính thói hư vinh cũng như trưởng giả mà y đã mạo phạm đến một phần thân thể của vị phù thủy, từ đó phải chịu cái chết có phần đau đớn.

Hay trong Nỗi sợ, Maupassant cũng khẳng định “cùng với những điều siêu nhiên, nỗi sợ hãi đích thực đã biến mất khỏi hành tinh này, bởi con người ta chỉ thực sự sợ những gì nằm ngoài tầm hiểu biết của mình”. Câu nói này như đại diện cho tất cả những gì ông muốn nhắm tới, về sự nhỏ bé và đầy mông muội của con người với những kỳ bí chưa được lý giải.

Như vậy những tác phẩm này đều được viết bởi một Maupassant khách quan, đứng ở bên ngoài, từ đó đưa ra những lời lý giải hoàn toàn hợp lý. Thế nhưng ở 2 truyện sau là Horla viết năm 1887 và Ai mà biết được? viết năm 1890, thì ta lại thấy có phần ngược lại, khi chính nhà văn dường như không thể thoát được cái bóng của bản thân mình.

Bi kịch của Maupassant

Hai truyện ngắn này có được điểm chung khi nhân vật chính đều là người đàn ông rơi vào loạn trí. Nhân vật chính này đã từng không dưới một lần thừa nhận chính mình như có đến 2 bản thể cùng nhau tồn tại. Một bên kêu gào giữ lại lý trí, trong khi phía còn lại đòi hỏi rất nhiều hành động mang tính tàn phá.

Sự chia đôi này gợi ta nhớ đến trường hợp của bác sĩ Jekyll và ông Hyde tương đối kinh điển trong tác phẩm nổi tiếng của Stevenson. Như vậy chủ đề của Maupassant đã chuyển từ những nỗi sợ tương đối hữu hình thành ra vô hình và khó lý giải, khi được bao bọc bởi những vấn đề có liên quan đến thần kinh cũng như tinh thần.

Tình tiết của những câu chuyện cũng khó nắm bắt. Ở Ai mà biết được?, đó là một người gần như điên loạn bởi sự xuất hiện và rồi biến mất của những vật dụng ngay trong nhà mình một cách liên tục. Còn ở Horla, đó là một sinh vật gần như trong suốt, thứ được nuôi sống bằng sữa và nước, luôn luôn theo dõi vật chủ mà nó bám theo, từ đó khiến họ “sống không bằng chết”.

Maupassant và những ám ảnh tâm trí của bản thân mình

Theo Charlotte Mandell – dịch giả của truyện ngắn này cho nhà xuất bản Melville House, thì “horla” là từ ghép của “hors” (“bên ngoài”), và “la” (“ở đó”). Vì vậy “horla” có nghĩa là “người ngoài cuộc”, “người bên ngoài”, và có thể được dịch theo nghĩa đen là “cái gì ở ngoài đó”. Thế nhưng cũng có những lý giải khác, khi nhiều người xem đây là một sự kết hợp của cụm “hors-la-loi” (tức “ngoài vòng pháp luật”) và “horsain” (có nghĩa là “thứ lạ lùng”).

Thế nhưng dù có là gì, thì Maupassant như đang cảm nhận những nỗi ám ảnh đến từ sâu hơn và khó lý giải hơn. Xét về bối cảnh của chính tác giả, thì những truyện này tương đối trùng khớp với thời kỳ mà ông có những dấu hiệu đầu tiên của chứng điên loạn, khi ông xuất hiện nhân cách kép và ngày càng gặp nhiều ảo giác do bệnh giang mai. Một năm sau đó, vào năm 1891, ông có dấu hiệu của chứng hoang tưởng.

Có thể là bởi xuất phát từ những trải nghiệm chính ông kinh qua, nên 2 truyện này trở nên chân thật và đầy ám ảnh đối với người đọc. Nếu được viết từ một người tỉnh táo, thì đây chính là tài năng của sự tưởng tượng. Nhưng với Maupassant thì đó là nỗi đau và sự sợ hãi mà bản thân ông mong muốn giải bày thông qua việc viết.

Như vậy đi từ mục đích sáng tạo ở buổi ban đầu, Maupassant dần dần chuyển sang hành động kể lại điều đã trải qua, và làm sáng tỏ chứng bệnh tâm lý mà thời kỳ đó còn bị che khuất bởi những định kiến mà những quan điểm mang tính thủ cựu. Có thể nói Horla và những truyện ngắn khác không chỉ mở ra cánh cửa khám phá một Maupassant rất khác, mà có thể nói cũng đã góp phần giúp ta hiểu được những gì đã từng xảy đến với một trong những nhà văn lớn của nhân loại.

Anh Đoàn

Đọc bài viết

Phía sau trang sách

Tư duy tích cực tạo thành công: Chìa khóa dẫn đến sự thịnh vượng

Published

on

Tác phẩm Tư duy tích cực tạo thành công của Napoleon Hill và William Clement Stone là một cẩm nang hữu ích cho bất kỳ ai muốn đạt được thành công trong cuộc sống. Cuốn sách không chỉ cung cấp những nguyên tắc và chiến lược hiệu quả để phát triển bản thân mà còn truyền cảm hứng giúp người đọc có một thái độ tích cực hơn trong cuộc sống.

Tư duy tích cực tạo thành công là một tác phẩm kinh điển về chủ đề phát triển bản thân, đã truyền cảm hứng cho hàng triệu người trên khắp thế giới kể từ khi xuất bản lần đầu tiên vào năm 1959, khẳng định vị trí là một trong những tác phẩm self-help bán chạy nhất mọi thời đại. Cuốn sách vén màn bí mật về sức mạnh của tư duy tích cực, giúp người đọc khai phá tiềm năng bản thân và đạt được những thành tựu phi thường trong mọi lĩnh vực của cuộc sống.

Tìm kiếm hình mẫu thành công làm ngọn đuốc soi sáng

Để có thêm động lực và định hướng rõ ràng cho bản thân, tác giả gợi ý rằng người đọc có thể xây dựng cho riêng mình một hình mẫu thành công từ những câu chuyện về người thật, việc thật trong sách báo. Khi dành thời gian tìm hiểu về hành trình của họ, những khó khăn họ đã trải qua và cách họ vượt qua những thử thách đó, ta sẽ có thể biến kinh nghiệm của họ trở thành ngọn đuốc soi sáng cho con đường của chính mình.

Bên cạnh đó, người đọc còn có thể chọn một bức ảnh có ý nghĩa đặc biệt với mình để đặt câu hỏi khi nhìn bức ảnh đó rồi lắng nghe câu trả lời từ chính tâm thức bật ra. Bức ảnh ấy có thể là hình ảnh về mục tiêu ta muốn đạt được, về một giá trị sống mà ta trân trọng, hoặc đơn giản là một khoảnh khắc đẹp trong cuộc sống. Chẳng hạn, nếu người đọc muốn mua nhà nhưng chưa có đủ tài chính thì có thể chọn bức ảnh về một mái ấm khang trang để ngắm nhìn và tự đặt câu hỏi rằng mình phải làm gì để đạt được số tiền sở hữu căn nhà đó. Không phải lúc nào câu trả lời cũng đến ngay lập tức, nhưng việc cụ thể hóa mục tiêu bằng một hình ảnh rõ ràng sẽ giúp người đọc tăng cường ý chí nỗ lực.

Ngoài ra, niềm tin chính là nguồn động lực mạnh mẽ giúp mỗi người vượt qua mọi khó khăn và chinh phục mục tiêu. Trong Tư duy tích cực tạo thành công, có một công thức thường được lặp lại nhiều lần để người đọc ghi nhớ là: “Khi con người người nghĩ đến và tin tưởng vào điều gì, họ sẽ có thể đạt được điều đó với thái độ tích cực.” Đây cũng là một biện pháp tự truyền cảm hứng.

Hai mặt của tình thế bức bách: Thành công hay tội ác?

Tư duy tích cực tạo thành công nhấn mạnh tầm quan trọng của tính lương thiện trong hành trình chinh phục thành công. Cuốn sách khẳng định rằng thành công đích thực không chỉ dựa trên kết quả mà còn phải dựa trên phương tiện đạt được kết quả đó. Một người có thể đạt được thành công bằng mưu mô, thủ đoạn, nhưng đó chỉ là thành công giả tạo, thiếu bền vững và không mang lại hạnh phúc thực sự.

Ngoài ra, tác giả cũng bàn về vai trò của tình thế bức bách: nó như một con dao hai lưỡi, có thể đưa con người đến đỉnh cao thành công hoặc vực sâu tội ác. Tình thế bức bách là phép thử cho bản lĩnh, đạo đức và thái độ của mỗi cá nhân. Khi đó, thành công hay thất bại đều tùy thuộc vào thái độ:

Thái độ tích cực: Khi đối mặt với nghịch cảnh, người có thái độ tích cực sẽ biến nó thành cơ hội để học hỏi, rèn luyện và phát triển bản thân. Họ kiên trì nỗ lực, tìm kiếm giải pháp sáng tạo và không bao giờ bỏ cuộc. Nhờ vậy, họ có thể vượt qua mọi khó khăn và gặt hái thành công.

Thái độ tiêu cực: Ngược lại, người có thái độ tiêu cực sẽ dễ dàng gục ngã trước nghịch cảnh. Họ chìm trong lo âu, sợ hãi, nghi ngờ bản thân và tìm kiếm lối thoát bằng những hành vi sai trái. Hậu quả là họ đánh mất bản thân, vướng vào vòng xoáy tội ác và tự hủy hoại cuộc đời.

Từ đó, cuốn sách đưa ra hai công thức đơn giản nhưng đầy ý nghĩa:

Tình thế bức bách + Thái độ tích cực = Thành công
Tình thế bức bách + Thái độ tiêu cực = Tội ác.

Cân bằng cảm xúc, rèn luyện tư duy và đặt mục tiêu hiệu quả

Cảm xúc và lý trí đóng vai trò quan trọng trong cuộc sống, mỗi người cần học cách cân bằng hai yếu tố này để đưa ra những quyết định sáng suốt. Đôi khi, ta cũng nên lắng nghe tiếng nói con tim và hành động theo những gì mình mong muốn. Chẳng hạn, khi phải lựa chọn giữa một công việc ổn định và theo đuổi đam mê, ta cần cân nhắc kỹ lưỡng cả hai yếu tố cảm xúc và lý trí: ta thường dùng lý trí để đánh giá khả năng thực tế của bản thân, nhưng cũng đừng quên lắng nghe tiếng nói con tim.

Bên cạnh đó, tác giả cho rằng mỗi ngày, chúng ta chỉ cần dành 1% thời gian để nghiên cứu, suy nghĩ, lập kế hoạch là đã có nhiều cơ may tạo ra sự khác biệt để vươn đến thành công. Theo ước tính, một ngày có 1440 phút, 1% sẽ tương ứng với 14 phút. Trong 14 phút đó, nếu ta chú tâm suy nghĩ kế hoạch cho những gì mình muốn làm, ta sẽ dần hình thành được thói quen có thể suy nghĩ sáng tạo mọi lúc, mọi nơi: khi rửa chén, lúc ngồi trên xe bus, hay thậm chí là khi đang tắm.

Ngoài ra, đặt mục tiêu là bước đầu tiên và quan trọng nhất trên kế hoạch chinh phục thành công. Mục tiêu rõ ràng sẽ giúp bạn tập trung nỗ lực, đưa ra quyết định sáng suốt và duy trì động lực để đạt được ước mơ. Tuy nhiên, không phải ai cũng biết cách đặt mục tiêu hiệu quả. Dưới đây là bốn điều quan trọng cần ghi nhớ khi đặt mục tiêu:

1. Viết mục tiêu ra giấy: Khi viết mục tiêu ra giấy, bạn sẽ buộc bản thân phải suy nghĩ cẩn thận về những gì mình muốn đạt được. Việc này giúp bạn tập trung và ghi nhớ mục tiêu tốt hơn.

2. Đặt mốc thời gian: Mốc thời gian giúp bạn chia mục tiêu lớn thành những mục tiêu nhỏ hơn, dễ quản lý hơn. Việc này giúp bạn có động lực để hoàn thành từng bước và tiến đến mục tiêu cuối cùng.

3. Đặt tiêu chuẩn thật cao: Khi đặt tiêu chuẩn cao, bạn sẽ buộc bản thân phải nỗ lực hết mình và phát huy tiềm năng tối đa.

4. Đặt mục tiêu cao: Mục tiêu cao sẽ giúp bạn có tầm nhìn xa và thúc đẩy bạn không ngừng phát triển.

Nhìn chung, Tư duy tích cực tạo thành công đã mang đến cho người đọc những bài học quý giá về sức mạnh của tư duy tích cực trong việc gặt hái thành công và hạnh phúc. Hãy nhớ rằng, thành công không phải là đích đến mà là hành trình. Hành trình chinh phục thành công bắt đầu từ việc nuôi dưỡng tư duy tích cực. Ta cần tin tưởng vào bản thân và những điều kỳ diệu mà cuộc sống có thể mang lại. Từ đó, ước mơ sẽ thành hiện thực bằng chính những hành động mà ta lựa chọn ngay từ hôm nay.

Hoàng Đức Nhiên

Đọc bài viết

Phía sau trang sách

Tình yêu đích thực từ góc nhìn của Thiền sư Thích Nhất Hạnh

Published

on

Trong vô vàn những định nghĩa về tình yêu, quan điểm của Thiền sư Thích Nhất Hạnh về “tình yêu đích thực” được trình bày trong cuốn tiểu luận True Love đã mang đến một sự giản dị, mộc mạc nhưng lại ẩn chứa sức mạnh lay động tâm hồn sâu sắc.

Tình yêu là một trong những chủ đề muôn thuở của nhân loại, luôn ẩn chứa sức hút mãnh liệt và khơi gợi những cảm xúc dạt dào. Nhưng không phải ai cũng hiểu được bản chất của tình yêu. Trong True Love, Thiền sư Thích Nhất Hạnh đã kể lại câu chuyện Thiếu phụ Nam Xương, rồi từ đó rút ra một kết luận mà thoạt nghe sẽ có vẻ vô cùng đơn giản nhưng càng ngẫm nghĩ thì ta càng thấy sự đơn giản ấy chính là vẻ đẹp của minh triết.

Thông điệp ý nghĩa từ ba câu khẳng định trong tình yêu

Đối với thầy, câu chuyện Thiếu phụ Nam Xương có kết cuộc đau lòng là vì người chồng đã không chịu lắng nghe người vợ, anh cứ gạt phăng lời vợ nói, cơn nóng giận đã che mờ tình yêu và cả lí trí. Vợ anh cũng đã không cố gắng hơn để giải thích rõ ràng cho anh hiểu. Chính vì vậy, cả hai người đều không thực sự hiện diện khi ở trước mặt đối phương, họ ở đó nhưng không thực sự ở đó, mà ở trong khoảnh khắc khác, trong những chiều không gian khác. Bi kịch của họ đơn giản chỉ là như thế.

Từ đó, Thiền sư Thích Nhất Hạnh rút ra kết luận là tình yêu thực sự chỉ đơn giản nằm gói gọn trong ba câu sau đây: “Anh ở đây. Em ở đây. Và anh ở đây vì em.” (I’m here. You’re here. And I’m here for you.)

Câu khẳng định đầu tiên mang hàm ý rằng anh đang ở đây ngay giây phút này khi đối diện với em, bằng trăm phần trăm con người anh, không hề có sự tản mác, phân mảnh đi bất cứ nơi đâu. Một điều tưởng chừng đơn giản nhưng thực ra trong cuộc sống bộn bề lo toan này, việc một người có thể tập trung hoàn toàn tinh lực của mình khi đối diện trước một người mà không bị vướng bận tâm trí bởi điều gì khác cũng thật khó khăn.

Câu khẳng định thứ hai là sự tiếp nối ý từ câu đầu tiên. Anh ở đây, và em cũng đang ở đây. Anh ghi nhận sự tồn tại của em, em ghi nhận sự tồn tại của anh. Vì em cũng đang ở đây cùng anh trong giây phút này nên em không cô đơn, em không tản mác, em không phân mảnh.

Câu khẳng định cuối cùng là một sự quả quyết mạnh mẽ: Anh ở đây, anh dành hết trăm phần trăm sự tồn tại của mình ở đây là vì chính em, không vì ai khác cả. Vậy nên, em có thể yên tâm mà thổ lộ tất cả mọi điều với anh, vì trong giây phút này, hai ta đều cùng hiện diện.

Thông qua đó, ba câu khẳng định này có thể diễn dịch lại thành thông điệp phổ quát như sau:

“I’m here”: Khẳng định sự hiện diện trọn vẹn của bản thân, tập trung toàn bộ sự chú ý và tinh thần vào người mình yêu thương. Trong cuộc sống bận rộn, việc dành trọn vẹn tâm trí cho đối phương là điều không dễ dàng, nhưng lại vô cùng quan trọng để xây dựng một mối quan hệ bền vững.

“You’re here”: Ghi nhận sự tồn tại của đối phương, trân trọng và thấu hiểu cảm xúc, suy nghĩ của họ. Khi cả hai cùng “ở đây”, họ sẽ cảm nhận được sự kết nối sâu sắc, chia sẻ và đồng hành trong từng khoảnh khắc.

“And I’m here for you”: Thể hiện sự cam kết, dành trọn vẹn tình yêu và sự quan tâm cho người mình yêu thương. Lời khẳng định này mang đến sự an toàn, tin tưởng và là động lực để cả hai cùng vượt qua mọi khó khăn trong cuộc sống.

Ba câu khẳng định tưởng chừng đơn giản nhưng lại là chìa khóa cho một tình yêu đích thực. Khi cả hai cùng thực hiện được điều này, họ sẽ tạo dựng được một mối quan hệ bền chặt, hạnh phúc và viên mãn.

Chìa khóa cho một mối quan hệ tốt đẹp

Để thực sự “ở đây”, mỗi người cần học cách chánh niệm, tập trung vào hiện tại, gạt bỏ những lo toan, phiền muộn và dành trọn vẹn sự chú ý cho đối phương. Khi ta thực sự “ở đây”, ta sẽ cảm nhận được trọn vẹn vẻ đẹp của người mình yêu thương, thấu hiểu những cảm xúc và suy nghĩ của họ. Tình yêu đích thực không chỉ là những khoảnh khắc lãng mạn, mà còn là sự cam kết và hy sinh cho nhau. Khi yêu thương ai đó, ta sẵn sàng dành thời gian, tâm sức và cả những hy sinh để cùng nhau xây dựng hạnh phúc.

Giao tiếp là yếu tố quan trọng trong bất kỳ mối quan hệ nào. Lắng nghe cởi mở và thấu hiểu là cách để hai người kết nối tâm hồn, chia sẻ những cảm xúc, suy nghĩ và vun đắp tình cảm ngày càng sâu sắc.

Tình yêu đích thực không phải là điều viển vông hay khó kiếm tìm. Nó ẩn chứa trong chính những khoảnh khắc bình dị của cuộc sống, chỉ cần ta biết trân trọng và gìn giữ. Ba câu khẳng định của Thiền sư Thích Nhất Hạnh là lời nhắc nhở nhẹ nhàng nhưng sâu sắc về cách để vun đắp và nuôi dưỡng một tình yêu thương bền chặt, viên mãn.

Hoàng Đức Nhiên

Đọc bài viết

Cafe sáng