Phía sau trang sách

Bình địa trong lửa (Juan Rulfo): Một cõi đọa đày

Published

on

Bình địa trong lửa (Juan Rulfo)

Pedro Páramo là tác phẩm vĩ đại của văn chương Mỹ Latin, khi nó là cái nôi để thai nghén nên Trăm năm cô đơn và đồng thời là dấu mốc đưa Juan Rulfo trở thành một trong những người tiên phong mở khóa địa hạt văn chương còn nhiều bí ẩn này ra với thế giới. Nếu Pedro Páramo đã được chuyển ngữ từ những năm 1987, thì Bình địa trong lửa – tập truyện ngắn với tầm quan trọng không kém – chỉ gần đây mới được giới thiệu và xuất bản tại Việt Nam. Thời gian chờ đợi là một quãng dài, nhưng không hề phung phí cho một trước tác vô cùng tuyệt diệu.

Có thể nói, Bình địa trong lửa là một tác phẩm phản Páramo một cách toàn diện. Sinh thời chỉ cho ra mắt hai trước tác lớn trước khi cơn bĩ cực ập đến, nhưng cả hai tác phẩm của Juan Rulfo đều chiếm được vị thế vô cùng quan trọng. Trong khi Pedro Páramo tiếp cận người đọc bằng bầu không khí hiện thực kỳ ảo vô cùng mới lạ (ở thời điểm đó), thì Bình địa trong lửa là áng văn hiện thực sâu cay nhưng đầy chán chường vì nỗi tuyệt vọng. Trường nghệ thuật của hai tiểu thuyết này như hai tinh cầu song song trong một bối cảnh và mặt nội dung khá tương đồng, khi ta thấy được một Mexico vô cùng ngột ngạt như xứ địa ngục trần gian với những biến động chính trị – xã hội sục sôi âm ỉ, chìm ngập trong đó còn là thân phận con người bé nhỏ mà đầy tham vọng.

Nếu Pedro Páramo tiếp cận người đọc bằng bầu không khí hiện thực kỳ ảo vô cùng mới lạ (ở thời điểm đó), thì Bình địa trong lửa là áng văn hiện thực sâu cay nhưng đầy chán chường vì nỗi tuyệt vọng. 
Ảnh: Phanbook

Một cõi bình địa

Với hình thức một tập truyện ngắn, Bình địa trong lửa là lăng kính soi chiếu rất nhiều góc nhìn qua một đất nước Mexico khắc nghiệt và đầy gian truân. Đó có thể là chốn bình địa méo mó, cằn cõi và đã vôi hóa, nơi gió cũng không còn đủ để gom một cơn mưa bụi. Nhưng cũng đồng thời là xứ sở của mưa như trút làm hư đống mạch, giết chết gia súc, tan hoang cửa nhà.

Ở vùng được gọi là San Juan Luvina ấy, một cõi luyện ngục lần dò mở ra. Đó là vùng đất nơi chó cũng chết và không còn gì để sủa vào sự im lặng. Là nơi im lìm tồn tại mọi sự cô quạnh, nơi gió chỉ hút vào những tiếng động. Nơi cũng chỉ còn lại người già và những đứa trẻ chưa hề ra đời; nơi chỉ đàn bà ốm yếu, gầy guộc và da bọc xương. Nơi đàn ông có trời mới biết đi đâu về đâu mà khi trở lại chỉ với một bao thực phẩm và vừa kịp gieo thêm một đứa trẻ thành ra quy luật. Là nơi mà một buổi chiều đứa bé sinh ra, thì sáng hôm sau đã thành đàn ông kịp cầm cuốc xẻng.

Mexico đón người ta bằng cơn gió lạnh, những trận động đất, bằng làn sương giá. Như thế họ cho chúng tôi đất. Trên cái thứ nóng như vỉ nướng này họ muốn chúng tôi gieo hạt, bất cứ loại hạt nào, chỉ để xem nó có thể nảy mầm và sinh sôi. Nhưng mà sẽ chẳng có gì có thể sống được ở đây. Cứ thế một cõi đọa đày mở ra trong các nhân vật, khiến họ biến chất, không còn logic, tất cả chảy tràn trong họ là những dòng máu đã sủi bọt tăm của những tị hiềm, ganh ghét và đối nghịch.

Nhân gian đảo ngược

Cũng chính trong cái ngột ngạt của vùng đất ấy, cộng thêm chế độ chính trị luôn luôn chông chênh thì giá trị con người cũng kịp lăn xuống đến mức thấp nhất. Bình địa trong lửa quét qua khoảng dài lịch sử từ khi Mexico oằn mình dưới thời quá độ cách mạng chống địa chủ, cùng lúc chế độ độc tài đang còn thị oai; thì cảnh lầm than vẫn luôn chồng chất. Trong tập truyện ngắn này ta đã bắt gặp không chỉ một lần những cảnh chém giết đầu rơi máu chảy, đạn nã sâu hoắm vào những thân người từ trong cuộc chiến, một cách vật lý hay là vô hình cũng dễ nhận ra.

Đó có thể là những tàn dư trong cách mạng ruộng đất khi giới địa chủ lại một lần nữa ngoi lên cái tua dài rộng cướp bóc những thương vụ lớn như nhà Toricco. Mà cũng có thể chì vì lũ lụt mất đi chú bò hồi môn dẫn con người ta vào đời đĩ đượm do đã quá nghèo. Đó cũng có thể là những hằn thù hay nỗi tị hiềm để rồi ganh ghét trở nên bạo tàn, đến mức họ còn giết hết cả một gia đình để rồi dằn vặt vì sự ghê tởm của bản thân mình “phải vác hết sức nặng của người thứ ba lên lung không đáng chút nào. Người chết nặng hơn người sống; nó sẽ đè bẹp ta mất”.

Chính trị biến động càng làm tăng thêm sự điên cuồng ấy. Truyện ngắn Bình địa trong lửa khắc họa những cuộc đối đầu giữa quân chính phủ, quân liên bang và quân cách mạng đã thể hiện điều này trực diện nhất. Chính sự tàn bạo trong dòng giống người đã đẩy người ta đến một mức độ tàn sát lẫn nhau, quây sân đấu bò để mà giết lính đi theo phe khác. Họ như trở về thời La Mã cổ, họ treo người chết để chim ó ăn đi hết nội tạng và rồi chết mục như Prometheus của Hy Lạp cổ. Chiến tranh tang tóc, chiến tranh đau thương biến con người ta đui mù mà không nhận ra một điều gì khác.


Thế nhưng không chỉ ở trong cuộc chiến, bi kịch gia đình cũng luôn là thứ chứa đựng biết bao những sự xấu xa còn luôn ẩn giấu. Đó có thể là những tình cảnh cha giết con, con giết cha không thể thoát ra; là những đồng chí sát cánh bên nhau nay giết chết nhau chỉ vì bãi cỏ chăn bầy gia súc. Đó cũng có thể là ngã tuyệt vọng khi dắt dìu nhau trên đường chữa bệnh, để người anh trai và cô em dâu nảy sinh tình cảm, là người cha già cõng con trai mình dù cho chính y đã giết chết đi người vợ ông yêu…

Những mối quan hệ không có đường thoát giữa cha – con trai xuyên qua bóng hình người mẹ chết trẻ luôn luôn trở lại trong các sáng tác của Juan Rulfo. Từ Pedro Páramo là chuyến hành trình đi tìm người cha, cho đến con trai giết cha ở trong cuộc chiến vì sự căm ghét ông dành cho cậu là những bi kịch không thể vượt thoát. Ở đó còn là hôn phối cận huyết cha và con gái – người cha lầm lạc nhưng luôn hiển hiện là một vị thánh, là gã điền chủ với cô cháu gái còn rất ngu ngơ…

Địa hạt khô khốc, tâm tính mục ruỗng được Juan Rulfo dồn nén vào đây như một quả cầu trở nên nặng nề bởi sự tàn bạo. Đó còn có thể là sự vô luân của nền độc tài khi ngài thống đốc đến ngay sau cơn động đất, mà việc ông làm không có gì hơn là ăn gà tây mút hết cả xương, bánh tortilla, một trận chè chén với suối rượu punch khi khăn trải bàn đã nhuộm đỏ thẫm. Trên chính vùng đất đã bị tàn phá bởi cơn động đất không thể lường trước, ngài đã để lại khoản nợ 4000 peso bằng sự gia ân chuyến viếng thăm đó. Một vùng tàn suy, con người nhỏ bé; xứ Mexico vang lên đớn hèn.

Phong cách Juan Rulfo

Một điểm nổi bật trong suốt tập truyện ngắn là ta có thể nhìn nhận những cốt truyện này theo hai hướng nhìn: một rất thực tế và một của những tưởng tượng. Nếu trong Họ cho chúng tôi đất, Juan Rulfo tập trung viết về những điều bất công, những sự vô luân của chính quyền ấy khi phân chia đất đằng sau cách mạng; thì đồng thời một mặt nào đó, ta cũng thấy được là những điềm báo ông đã đoán định trong những hình tượng của truyện ngắn này. Từ dáng hình của những ngôi nhà, làn khói xa xa do gió mang đến cho tới hạt mưa đơn côi mong trận mưa rào… Nhưng rồi mây tan không còn gì cả, còn nhà còn làng ở tít đằng xa chỉ như dự đoán cho một tương lai đầy cảnh đẹp đẽ chỉ là huyễn hoặc.

Ảnh: COLETTE URBAJTEL 

Hơn nữa, Juan Rulfo hầu như dửng dưng trong suốt những bi kịch kể lại. Ông xem những điều đang dâng trước mắt như lẽ hiển nhiên, như đời tầm thường; để rồi từ đó ông viết chính về cái chết, về cái vô luân, cái vô đạo đức vô cùng nhẹ nhàng mà đầy mục ruỗng. Lạnh tanh và thiếu sức sống, ông kết hầu hết những truyện ngắn này bằng câu đầy sức mạnh, như thể “Nơi Bình địa mà họ cho chúng tôi còn ở xa phía trước” hay “Như thể bất thình lình chúng bắt đầu nảy nở để mang em gần hơn vào kiếp đọa đày này”. Những câu bỏ lửng mà lạ lùng thay, lại rất thâm sâu và nặng tình nhất.

*

Trong một bài phỏng vấn vào năm 1978, Juan Rulfo từng nói rằng tuổi thơ của mình rất bất hạnh và khắc nghiệt khi sống ở một đất nước nơi sự tàn phá lan tràn xứ sở. Ông chưa bao giờ hiểu được logic của những hành động tàn ác, bạo lực trong suốt thời kì cách mạng dẫn đến cái chết của từng người một trong gia đình mình – và Bình địa trong lửa cũng chính là lời tự bạch những tội ác ấy, những mất mát ấy khi chúng vẫn đang lan ra quê hương bé mọn.

Với Bình địa trong lửa, một Rulfo lạ lẫm mà đầy khắc khoải hiện ra trước mắt người đọc. Ở đó, ta thấy được một xứ hoang tàn ở nơi tận cùng thế giới với đất hoang hóa, tự nhiên khắc nghiệt, nơi con người ta vẫn đang rủa xả chém giết lẫn nhau trong cuộc cách mạng tranh giành những điều vô lý. Phản Páramo nhưng cũng quan trọng không kém; một đời ngắn ngủi nhưng hai trước tác thực sự vĩ đại.

Hết.

Ngô Thuận Phát

*

Pedro Páramo: Tác phẩm viết về và viết bởi cái chết

Phía sau trang sách

Có một thời ở Chợ Lớn: Những gam màu ký ức

Published

on

Có một thời ở Chợ Lớn là một trong hai tác phẩm mới nhất của nhà báo Phạm Công Luận do Phương Nam Book liên kết xuất bản dịp năm mới Ất Tỵ 2025. Chỉ một thời gian ngắn sau khi phát hành, sách sớm nhận được tình cảm của độc giả và lọt vào top sách bán chạy trong tuần tại Nhà Sách Phương Nam. Bên cạnh bản thân tác giả Phạm Công Luận, góp phần vào sự thành công của Có một thời ở Chợ Lớn không thể không kể đến họa sĩ Phạm Công Tâm với nhiều hình ảnh minh họa đẹp và đầy tinh tế, cũng như đội ngũ Phương Nam Book đã biên tập, thiết kế nhằm đưa tác phẩm đến tay độc giả theo cách chỉn chu nhất.

Chịu trách nhiệm thiết kế bìa và trình bày sách Có một thời ở Chợ Lớn là họa sĩ t.hờ. Trong bài phỏng vấn hôm nay, Bookish sẽ cùng anh t.hờ chia sẻ với bạn đọc về quá trình "lên đồ" cho Có một thời ở Chợ Lớn cũng như những câu chuyện bên lề thú vị trong quá trình sản xuất cuốn sách này.

  • Bookish: Anh có thể chia sẻ điều gì đã dẫn đến quyết định lựa chọn hình ảnh chùa Ôn Lăng và chợ Bình Tây làm ảnh bìa sách ở 2 phiên bản bìa mềm và bìa cứng?

Họa sĩ t.hờ: Nhắc đến Chợ Lớn, chắc hẳn 9 trên 10 người trong chúng ta sẽ nghĩ ngay đến hình ảnh của chùa bà Ôn Lăng và chợ Bình Tây – hai công trình kiến trúc đặc trưng nhất của mảnh đất Chợ Lớn Sài Thành.

Đối với chùa bà Ôn Lăng, đây có thể coi là công trình mang đậm nét đặc trưng của kiến trúc Trung Hoa nhất giữa lòng Sài Gòn. Không chỉ là nơi chiêm bái của người dân địa phương và du khách gần xa, chùa bà Ôn Lăng còn là nơi tổ chức các hoạt động văn hóa và tôn giáo như lễ hội Đoan Ngọ, lễ hội Trung Thu, lễ hội Thanh Minh, lễ hội Tết Nguyên Đán,… Chùa bà Ôn Lăng là một trong những ngôi chùa có ý nghĩa lịch sử và văn hóa quan trọng của Thành phố Hồ Chí Minh nói chung và mảnh đất Chợ Lớn nói riêng.

Còn về chợ Bình Tây, đây không chỉ là một ngôi chợ sở hữu lối kiến trúc độc đáo mang đậm dấu ấn văn hoá Á Đông của người châu Á ở đất Sài Thành, mà còn là nơi được biết tới là nơi trao đổi đồ cổ và buôn bán sỉ lớn nhất của người dân gốc Hoa ở Chợ Lớn. Dù hiện tại chợ Bình Tây đã có nhiều sự thay đổi về cơ sở hạ tầng nhưng những giá trị tinh thần, lịch sử và văn hoá vẫn còn được lưu giữ cho đến ngày nay.

Chính vì lẽ đó, chùa bà Ông Lăng và chợ Bình Tây đã được mình chọn lựa để đưa lên 2 phiên bản bìa của Có một thời ở Chợ Lớn.

  • 2 ấn bản bìa mềm và bìa cứng có sự khác biệt gì về hình ảnh minh họa trong sách không?

Để đảm bảo sự chính xác về thông tin của các bài viết thì phần hình ảnh và nội dung bên trong của 2 phiên bản không có gì thay đổi.

  • Liệu có ẩn ý nào phía sau việc sử dụng 2 tông màu nóng - lạnh cho 2 phiên bản bìa sách?

Nhắc đến Chợ Lớn, người ta sẽ nghĩ ngay đến những tone màu rực rỡ như chính sắc màu chủ đạo trong cuộc sống của người dân nơi này – màu đỏ rực của những chiếc đèn lồng gốc Hoa, màu đỏ thẫm của những lớp mái ngói vươn màu thời gian hay màu đỏ tươi của những chú lân trong các lễ hội,… Bên cạnh đó, ta không thể không nhắc tới sắc vàng của những bức tường vững chải chạy dọc các con phố, của những món đồ trang trí bóng bẩy mỗi dịp Tết đến xuân về.

Thế nhưng, không vì thế mà Chợ Lớn vắng đi những phút giây lắng đọng. Dạo quanh Chợ Lớn, người ta vẫn có thể dễ dàng bắt gặp những tòa chung cư lâu đời trên đại lộ Trần Hưng Đạo hay từ chính trong nét kiến trúc phương Đông được tạo nên từ kỹ thuật xây dựng của Tây phương trong lối kiến trúc độc đáo của ngôi chợ Bình Tây xuất hiện trên bản bìa mềm.

  • Có câu chuyện ngoài lề nào thú vị trong quá trình thiết kế cho cuốn sách này mà anh ấn tượng không?

Mình cho rằng đó là một “bài học” thú vị nhiều hơn.

Như các bạn cũng biết, trước khi “Có một thời ở Chợ Lớn” ra đời, tác giả Phạm Công Luận đã từng cho ra mắt một quyển sách cùng chủ đề đó là “Hồi ức Phú Nhuận”. Do cả 2 quyển một chủ đề nên với vai trò là người thiết kế bìa cho cả hai, mình mong muốn tạo được nét tương đồng trên bìa khi 2 quyển sách được đặt cạnh nhau để nhấn mạnh “tính chất văn hóa” của 2 quyển sách này. Chính vì vậy, mình đã chủ đích đem cái gần gũi, thân thương nhưng cũng mang trong mình những lắt cắt lịch sử mà mình từng thể hiện trong bìa của”Hồi ức Phú Nhuận” mang vào quyển “Có một thời ở Chợ Lớn” lần này.

Nhưng rồi mình nhận ra, mỗi vùng đất sẽ mang trong mình một vẻ đẹp riêng. Nếu như Phú Nhuận là mảnh đất của những ký ức tuổi thơ thân thương, của những giai kỳ hào nhoáng của một Sài Thành hoa lệ, thì Chợ Lớn sẽ là những đất của những khu mua sắm xa hoa, của những quán ăn nức tiếng, và của sự hào sảng, phóng khoáng của người dân Chợ Lớn Sài Gòn.

Vậy nên, mình cho rằng đó là bài học mình của bản thân mình: Để nhấn mạnh, nếu không thể tương-đồng thì chúng ta có thể chọn tương-phản.

Bookish xin cảm ơn họa sĩ t.hờ vì đã dành thời gian chia sẻ. Chúc anh nhiều sức khỏe và đạt được thành công trong năm mới Ất Tỵ 2025.

Đọc bài viết

Phía sau trang sách

Sứ đoàn Iwakura và những người phụ nữ đầu tiên rời khỏi Nhật Bản

Published

on

Sứ đoàn Iwakura là một phái đoàn ngoại giao quan trọng của Nhật Bản được thành lập vào năm 1871, nhằm mục đích tìm hiểu về các quốc gia phương Tây, thu thập kiến thức về công nghệ, khoa học, và hệ thống chính trị của các quốc gia này để áp dụng vào việc cải cách Nhật Bản.

Phái đoàn này được tổ chức dưới sự lãnh đạo của Iwakura Tomomi, một quan chức cao cấp của chính phủ Minh Trị. Được đánh giá là một trong những sự kiện lớn nhất của lịch sử châu Á cuối thế kỷ 19, sứ mệnh Iwakura chủ trương “Bunmei kaika” (văn minh khai sáng) đã chuyển sức mạnh của lưỡi gươm samurai sang năng lực của trí tuệ. Sứ đoàn gồm khoảng 100 thành viên, trong đó có nhiều nhân vật chính phủ cao cấp. Ngoài số kể trên còn có các du học sinh phục vụ cho việc thông dịch, thông tin. Họ đã đi thăm Hoa Kỳ và hàng chục các quốc gia châu Âu khác nhau như Anh, Pháp, Đức, Áo, Ý, Bỉ, Hà Lan, Đan Mạch, Thụy Sĩ, Thụy Điển và Nga.

Bản đồ quãng đường đã đi của sứ đoàn Iwakura. Ảnh: Digital museum of the history of Japanese in New York.

Đoàn cũng có nhiều nữ sinh trẻ tuổi theo du học, phục vụ cho việc giáo dục phụ nữ sau này. Trong số những người thuộc sứ đoàn có năm cô gái rất trẻ tham gia vào chuyến đi. Chuyến công du này đã thay đổi vận mệnh của từng người trong số họ nói riêng và cả dân tộc Nhật Bản nói chung.

Năm cô gái đồng hành cùng Sứ đoàn Iwakura gồm: Tsuda Umeko, Nagai Shigeko, Yoshimasu Ryoko, Yamakawa Sutematsu và Ueda Teiko. Trong đó, nhỏ nhất là Tsuda Umeko, lúc đó chỉ mới 6 tuổi, lớn nhất là Ueda Teiko và Yoshimasu Ryoko, 14 tuổi. Trong chuyến công du này, họ không có quyền quyết định theo ý mình mà phải nghe theo sự sắp xếp của cha mẹ và gia đình để đến một vùng đất xa lạ, gánh trên vai trách nhiệm lớn lao với nước nhà.

Trước khi được đưa sang Mỹ, họ không được học tiếng Anh hay văn hóa để thích nghi với môi trường sống ở nước ngoài. Đặt chân lên đất khách, họ bị báo chí bủa vây và gọi là "những cô công chúa kỳ lạ đến từ phương Đông". Những cô gái trẻ cảm thấy lạc lõng, cô đơn và sợ hãi khi tiếp nhận nền văn minh mới. Tệ hơn, sau đó họ phải tách nhau ra và được gửi đến các nhà nuôi dưỡng khác nhau. Sau một thời gian, hai người chị lớn tuổi nhất dần không chịu được cuộc sống ở nơi đất khách quê người và được đưa trở lại về quê nhà. Ba cô gái còn lại bao gồm Yamakawa Sutematsu, Nagai Shigeko và Tsuda Umeko đã kiên cường trụ lại, chăm chỉ nỗ lực học tập và làm nên lịch sử. Họ chính là ba trong số năm người phụ nữ đầu tiên rời khỏi Nhật Bản và cũng là những người phụ nữ thành công nhất thời Minh Trị.

Tsuda Umeko

Tsuda Umeko sinh ra trong một gia đình quan chức và được cử tham gia vào Sứ đoàn Iwakura sang Mỹ du học vào năm 1871 khi chỉ mới 6 tuổi. Dù phải học cách tự lập khi còn quá nhỏ, bà đã nỗ lực không ngừng và tốt nghiệp Học viện Aarcher Institute. Bà về nước vào năm 1892 và làm giáo viên dạy tiếng Anh của trường chuyên dành cho các nữ quý tộc.

Umeko đã dành cả cuộc đời mình để cống hiến cho giáo dục, đặc biệt là giáo dục nữ giới. Năm 1900, với sự trợ giúp của hai người bạn, bà mở trường Joshi Eigaku Juku (Trường Anh ngữ cho nữ sinh), chính là tiền thân của Đại học Tsuda hiện nay. Những cống hiến lớn lao của bà đã được chính phủ Nhật Bản ghi nhận, hình ảnh của bà cũng được in trên tờ tiền 5000 yên phát hành vào năm 2024.

Nagai Shigeko

Nagai Shigeko sinh năm 1862 trong một gia đình quan chức Mạc phủ Tokugawa. Năm 1871, bà được đưa sang Mỹ sinh sống và học tập tại nhà của nhà sử học John Stevens Cabot Abbott. Năm 1878, bà nhập học trường Nghệ thuật tại Đại học Vassar và theo học chuyên ngành âm nhạc.

Khi trở về nước, bà kết hôn với Uryu Sotokichi và trở thành một trong những những giáo viên dạy piano đầu tiên ở Nhật Bản. Bà cũng là một trong những người sáng lập, dạy âm nhạc phương Tây tại Đại học Nghệ thuật Tokyo.

Yamakawa Sutematsu

Yamakawa Sutematsu sinh ra trong một gia đình Samurai truyền thống hỗ trợ Mạc phủ Tokugawa trong Chiến tranh Boshin. Gia đình bà ở phe thua trận trong cuộc nội chiến cuối cùng kết thúc thời kỳ Samurai của Nhật Bản và rơi vào hoàn cảnh khó khăn. Để giảm bớt miệng ăn trong nhà, người anh trai đã tự ý quyết định đưa bà tới Mỹ mà không hỏi ý kiến của bà.

Ở Mỹ, bà đã cố gắng học tập và đạt thành tích xuất sắc, sau đó ghi danh lịch sử khi trở thành người phụ nữ có học vị cao nhất Nhật Bản lúc bấy giờ. Bà là người phụ nữ Nhật đầu tiên có bằng Đại học.

Sau khi tốt nghiệp, bà học thêm về nghiệp vụ y tá và trở về Nhật Bản vào tháng 10 năm 1882. Khi trở lại quê nhà, Sutematsu gặp khó khăn trong việc giao tiếp khi không thể đọc hoặc viết tiếng Nhật. Sau đó, bà kết hôn với Oyama Iwao. Khi chồng bà được thăng chức, bà được cũng thăng cấp theo và trở thành Công chúa Oyama vào năm 1905. Thuở ấy, bà là một người có địa vị cao trong xã hội. Bằng kiến thức của mình, Sutematsu đã tư vấn cho Hoàng hậu về các phong tục phương Tây. Bà cũng sử dụng vị trí xã hội của mình để kêu gọi, quyên góp cho giáo dục phụ nữ. Bà là người góp công lớn trong việc thành lập nên Đại học Tsuda cùng với hai người bạn Tsuda Umeko và Nagai Shigeko.

Yamakawa Sutematsu, Nagai Shigeko và Tsuda Umeko đã mang kiến thức học được từ chuyến đi cùng Sứ đoàn Iwakura để truyền bá cho nữ giới ở quê nhà. Họ cùng nhau thực hiện một kế hoạch lớn lao, đó là mở trường học dành cho phụ nữ thuộc mọi tầng lớp trong xã hội. Dù ngay từ lúc bắt đầu đã gặp rất nhiều khó khăn, nhưng họ vô cùng quyết tâm và đã thành công. Họ là những người đã đặt nên nền móng để xây dựng nên nền giáo dục vì phụ nữ tại Nhật Bản, phất lên ngọn cờ chiến đấu vì nữ quyền, quyền được học tập làm việc, theo đuổi đam mê của bản thân.

Phỏng theo bài viết của Ái Thương trên Kilala.vn

Đọc bài viết

Phía sau trang sách

Patrick Hogan: “Những gì xảy ra ở Việt Nam sẽ không ở lại Việt Nam”

Published

on

By

Mockup_Mua_xuan_vang_lang_Mua_thu_chet_choc_cua_chien_tranh_VN

Patrick Hogan đóng quân tại miền Nam Việt Nam từ tháng 9.1966 đến tháng 6.1969 tại Cam Ranh (Khánh Hòa). Sau khi giải ngũ, ông được bổ nhiệm vào Sở cảnh sát Teaneck với tư cách là nhân viên thực thi pháp luật. Vào năm 2012, sau khi nghe bài phát biểu của cựu Tổng thống Barack Obama về chiến tranh Việt Nam, ông bỗng cảm thấy vô cùng cấp bách để điều tra về việc phơi nhiễm chất độc màu da cam và những hóa chất mà chính quyền Mỹ đã rải xuống Việt Nam trong giai đoạn này.

Khi bắt đầu nghiên cứu, ông chưa từng nghĩ mình sẽ chạm đến những bí mật khổng lồ về các loại hóa chất này. Nhưng sau cái chết của người bạn và cũng là cựu chiến binh Larry White, ý tưởng về Mùa xuân vắng lặng - Mùa thu chết chóc của Chiến tranh Việt Nam đã ra đời. Tác phẩm vừa được Phương Nam Books và NXB Thế giới ấn hành, qua việc chuyển ngữ của dịch giả Nguyễn Văn Minh. Cuộc phỏng vấn sau đây sẽ nói nhiều hơn về tác phẩm ông đã “thai nghén” trong nhiều năm qua.

- “Mùa xuân vắng lặng - Mùa thu chết chóc của Chiến tranh Việt Nam” nói về điều gì, thưa ông?

- Đây là câu chuyện về chiến tranh, câu chuyện về sự giận dữ và cuồng nộ, một cuốn biên niên sử được viết trong đau buồn và hy vọng. Đó là câu chuyện của vô số cựu binh từng phục vụ tại Việt Nam. Đó là một cuốn sách đi sâu vào các hóa chất chết người đã được sử dụng trong suốt cuộc chiến và ảnh hưởng của chúng lên các cựu binh. Nhiều trong số đó vẫn đang được sử dụng trên khắp nước Mỹ, thậm chí cho đến ngày nay. Đó là hành trình phơi bày mọi điều mà chính phủ Hoa Kỳ chưa từng và chưa bao giờ muốn phơi bày ra ánh sáng.

- Điều gì đã truyền cảm hứng cho ông viết về chiến tranh Việt Nam?

- Thực ra tôi chưa bao giờ nung nấu ý định trở thành nhà văn. Cuốn sách ra đời trong một hoàn cảnh gần như ngẫu nhiên. Điều tốt nhất tôi có thể làm gần nửa thế kỷ sau chiến tranh là viết lại “sự phản bội” mà chúng tôi nhận được khi bị buộc phải tiếp xúc với thuốc trừ sâu độc hại và những điều kiện khắc nghiệt của chiến tranh Việt Nam. Tất cả là nỗ lực đưa ra ánh sáng những gì đã xảy ra ở đó để chúng sẽ không bao giờ có khả năng lặp lại với các thế hệ quân nhân mới, với cả gia đình và con cháu họ, thậm chí là cả cháu chắt nữa.

Mùa Xuân Vắng Lặng - Mùa Thu Chết Chóc Của Chiến Tranh Việt Nam

Ban đầu, việc viết sách hay trở thành tác giả là điều xa vời trong tâm trí tôi. Tuy nhiên, ngay sau khi tôi từ Việt Nam trở về, cha tôi đã thúc giục tôi nộp đơn yêu cầu bồi thường khuyết tật lên Bộ Cựu chiến binh (DVA) vì những vấn đề y tế mà tôi gặp phải trong thời gian phục vụ quân ngũ. Tôi bắt đầu quá trình này không mấy nhiệt tình và nhanh chóng bị cuốn hút bởi cuộc sống dân sự mới.

Tôi không truy tầm lại chúng suốt nhiều thập kỷ, cho đến vào một ngày tháng 5 của năm 2012, sau khi xem Tổng thống Barack Obama phát biểu về sự khủng khiếp của Chiến tranh Việt Nam, thì điều gì đó trong con người tôi bất chợt “sống dậy”. Từ đó dấn thân nghiên cứu và điều tra mối liên hệ nhân quả giữa vô số vấn đề về sức khỏe và việc tôi bị phơi nhiễm chất độc màu da cam ở Việt Nam.

- Ông có thể chia sẻ về quá trình nghiên cứu của mình không? Đâu là khía cạnh thú vị nhất?

- Nghiên cứu của tôi kéo dài vài năm vì sự phức tạp của tất cả các hóa chất độc hại mà chúng tôi đã tiếp xúc và tương tác. Càng điều tra, tôi càng nhìn lại và cân nhắc tất cả những sinh mạng đã bị rút ngắn một cách không cần thiết - bị lấy đi, bị hủy diệt và chết dần mòn do việc sử dụng tràn lan thuốc trừ sâu. Tôi tức giận và quyết tâm hoàn thành cuốn sách.

Chúng tôi không chỉ bị phơi nhiễm chất độc màu da cam mà còn vô số hóa chất độc hại chết người. Thật đáng xấu hổ khi có biết bao nhiêu sinh mạng đã thiệt mạng trong nửa thế kỷ qua mà không ai biết sự thật về chúng. Một trong những điều hối tiếc lớn nhất của tôi là đã mất quá nhiều thời gian để thức tỉnh và viết cuốn sách này.

- Ông là một cựu trung sĩ. Điều này đã ảnh hưởng đến việc viết như thế nào?

- Việc là một sĩ quan cảnh sát và điều tra viên đã nghỉ hưu thực sự có ích trong giai đoạn nghiên cứu và viết nó ra. Thực ra, tất cả kinh nghiệm sống của tôi đều được phát huy trong quá trình viết sách.

- Về thuốc trừ sâu và thuốc diệt cỏ được sử dụng trong giai đoạn ấy, ông có nghĩ rằng tác động của chúng đã dần giảm đi trong những năm qua?

- Cuốn sách không chỉ thảo luận về các hóa chất đã được sử dụng ở Việt Nam mà còn về tất cả các loại thuốc diệt cỏ và thuốc trừ sâu độc hại được dùng trong chiến tranh nói chung. Thật không may, ngày nay hầu hết mọi người đều tin rằng chất độc màu da cam là loại thuốc trừ sâu duy nhất mà chúng ta bị phơi nhiễm. Sự thật là chiến tranh Việt Nam đã bị chính phủ biến thành một chiến dịch truyền thông sai lệch nhằm hạ thấp hoặc phớt lờ tất cả các hóa chất khác mà chúng ta đã tiếp xúc ở đó.

- Ông cũng trích dẫn nhiều thông điệp tích cực từ “Kinh Thánh”. Vì sao trong một nghiên cứu đầy cuồng nộ vẫn có những niềm hy vọng như thế?

- Đối với tôi, ở cả thời điểm này, tôi vẫn khó có thể hiểu được động cơ của tội ác ấy, cũng như sự vụ che giấu trong nhiều thập kỷ. Nhưng dù thế nào thì vẫn có ánh sáng trong ngày tăm tối. Hy vọng trong tương lai những hồ sơ này sẽ được tiết lộ, và tội ác sẽ không xảy ra thêm lần nào nữa với thế hệ quân nhân khác.

- Xin ông chia sẻ khía cạnh thách thức nhất khi viết cuốn sách này là gì?

- Đó là nỗi buồn cá nhân khi viết câu chuyện của Larry – bạn tôi, và quay lại khoảng thời gian tôi ở Việt Nam cũng như rất nhiều căn bệnh mà tôi đã mắc trong những năm qua.

Patrick Hogan

Hồ sơ chính thức của chính phủ Hoa Kỳ ghi nhận hơn 58.280 quân nhân Hoa Kỳ đã chết ở Việt Nam. Đó là thương vong cuối cùng của cuộc chiến đó. Ngoài ra, có trên 300.000 quân nhân được ghi nhận là bị thương và tàn phế. Tuy nhiên, những số liệu thống kê nghiêm túc đó lại không ghi nhận hàng chục nghìn binh sĩ, thủy quân lục chiến và thủy thủ đã thiệt mạng, bị thương và bị thương tật do thuốc trừ sâu sử dụng ở Việt Nam. Ai sẽ ghi lại sự hy sinh và cái chết của họ? Mặc dù tôi không mong đợi cuốn sách của mình sẽ thay đổi những số liệu thống kê, nhưng tôi hy vọng có thể giúp ích một phần nào đó cho thế hệ tương lai.

- Ông có bao giờ rơi vào tình trạng bị bí ý tưởng?

- Không. Bản thảo ban đầu của cuốn sách dài khoảng 400 trang, ngoại trừ câu chuyện của Larry và việc hồi tưởng lại thời gian tôi ở Việt Nam thì mọi việc diễn ra suôn sẻ.

- Ông có phải là một tác giả có kỷ luật hay có lịch trình cụ thể không?

- Tôi tự coi mình là một tác giả có kỷ luật, nhưng ngay cả vậy tôi cũng thường mang theo tập giấy và bút vì sẽ có những cảm hứng sẽ đến bất chợt. Đặc biệt là sau sự tương tác căng thẳng của tôi với Bộ Cựu chiến binh (DVA) và vòng xoay hành chính.

Đọc thêm nội dung sách: tại đây!

Đọc bài viết

Cafe sáng