Phía sau trang sách

Túm Cám Ngộ – “Con Túm bây giờ lười như lợn, mẹ con nhà Cám mới hiền cơ.”

Bạn biết đến phuongnambook với thể loại sách gì, cuốn sách nào?

Published

on

Tôi cá là đa phần mọi người biết đến Phương Nam Book với những cuốn sách về đạo Bụt và tinh thần sống thuần khiết của Thiền sư Thích Nhất Hạnh, những Tủ sách tinh hoa như Nắng tháng tám, những cuốn sách đạt giải như Đừng nói chúng ta không lợi quyền, Thế giới mới tươi đẹp, tản văn của Anh Khang hay Phạm Lữ Ân,… Nhưng hôm nay, tôi xin giới thiệu với các bạn một thể loại mới (thú thật, đây cũng là lần đầu đọc tôi thể loại này do Phương Nam ấn hành luôn), đó là… truyện tranh, một cuốn truyện tranh có cái tên lạ đời: Túm Cám Ngộ của tác giả Ngộ Sam.

Cuốn sách “hân hạnh” có sự xuất hiện của các nhân vật:

– Mỡ Mỡ trong vai Túm Mỡ, tưng tửng và mê kem đến quên trời đất.

– Dâu Dâu trong vai Cám Dâu, hung dữ, đành hanh nhưng đành lép vế trước bà chị Túm Mỡ quyền lực.

– Nụ Nụ trong vai dì ghẻ, dù khó tính và ở ác như mọi bà dì ghẻ khác nhưng vẫn phải cầu cứu sự viện trợ từ ông Bụt để dạy dỗ Túm Mỡ.

– Ngộ Sam trong vai Bụt, là tác giả câu chuyện.

– Lì Lì trong vai Thái tử Lì, miêu soái ca giỏi võ, chủ nhân của cung điện nhưng chẳng hiểu sao mê Túm Mỡ đến ngây dại.

Cùng một số diễn viên quần chúng khác.

*

Tuổi thơ tôi gắn liền với cổ tích, những câu chuyện ngày xửa ngày xưa mẹ thường hay kể. Những hôm mất điện, cả nhà lại quây quần ngoài sân, nhìn mẹ vừa phe phẩy quạt mo cau, vừa kể nào là Sọ Dừa, Tấm Cám, Thạch Sanh,… Đó có thể cũng là may mắn của tuổi thơ tôi.

Hôm nay, một ngày trời nắng khá gắt, nắng mùa hè của vùng đất miền Trung, tôi nhận được một cuốn truyện tranh 12+, chính là cuốn sách tôi vừa đề cập đến –Túm Cám Ngộ – với cái bìa vàng ươm rực rỡ như nắng. Nói sao nhỉ, tôi đã đọc xong nó trong vòng ba mươi phút, để bây giờ gõ những dòng chữ này, hy vọng nếu có dịp, các bạn sẽ mua nó về để đọc thử và cảm nhận cổ tích dưới góc nhìn hiện đại.

Bạn biết đến truyện cổ tích Tấm Cám như thế nào? Thầy cô đã dạy bạn rằng Tấm hiền, mẹ con dì ghẻ xấu xa độc ác luôn tìm cách hại Tấm, ông Bụt luôn xuất hiện giúp đỡ Tấm, nhà Vua luôn tìm kiếm bóng hình Tấm qua những lần nàng đầu thai chuyển kiếp? Thế mà ngạc nhiên chưa, đến với Túm Cám Ngộ, mới nhan đề thôi mà đã thấy khang khác rồi. Sao lại là Túm Cám? Tấm không phải Túm, giỡn hoài, rồi còn mớ tên Cám Dâu, Lì Lì gì gì đó kia nữa!

Bình tĩnh nào, đây là chỉ là một câu chuyện chuyện thiếu nhi đầy tiếng cười được lấy ý tưởng từ cốt truyện Tấm Cám thôi mà. Sự sáng tạo không bao giờ có giới hạn, và trong cuốn sách này cũng vậy. Dưới góc nhìn khác, các nhân vật bây giờ là các con vật với cá tính hoàn toàn khác biệt. Thời thế thay đổi rồi, Túm Mỡ (tiền thân là Tấm) chẳng phải làm việc gì cả vì “Túm Mỡ kia chẳng biết làm cái vẹo gì”, việc nhà đổ hết lên đầu mẹ con Cám. Bụt bây giờ cũng không phải thấy Túm khóc là xuất  hiện “Vì sao con khóc?”; Bụt cũng hiện đại và “trả treo” hẳn ra. Người đầu thai chuyển kiếp qua nhiều lần là Bụt chứ không phải Túm. Túm gặp vua trong hoàn cảnh không phải ở lễ hội mà là khi cứu Cám khỏi ngục tù để được ăn kem. Cái cớ mà Cám vào tù nó cũng ngộ lắm. Vua thì đeo đuổi Túm suốt mà Túm chẳng chịu ưng thuận (sau cùng thần kỳ thế nào mà họ cũng lấy nhau). Ngôn ngữ hiện đại, tình tiết mới lạ, những câu phát ngôn độc đáo đã tạo nên chất riêng trong việc viết và vẽ lại cổ tích. Có lẽ nó không trung thành với tinh thần nguyên thủy của chuyện cổ tích Tấm Cám, nhưng nó thể hiện sự sáng tạo không ngừng nghỉ của tác giả, của những con người thời hiện đại khi họ không ngần ngại diễn dịch chất liệu xưa sang một ngôn ngữ hoàn toàn mới.

Tôi kể người nghe chuyện Túm Cám,
Ngày xửa ngày xưa đã xa rồi,
Con Túm bây giờ lười như lợn,
Mẹ con nhà Cám mới hiền cơ.

*

Năm bài học nhỏ rút ra từ câu chuyện tưởng chừng vô thưởng vô phạt này

Ngày xửa ngày xưa, dì ghẻ bảo Tấm và Cám ra đồng bắt cá, ai bắt được nhiều hơn sẽ được thưởng yếm đẹp. Bây giờ, nếu muốn Túm ra ruộng bắt cá, phần thưởng phải là một trăm kí kem! Cám thích kẹo dừa, Túm lại thích kem nên khi ra bờ sông, chỉ có mỗi Túm định bắt, còn Cám lại không – Cám nhảy xuống sông tắm. Bài học đầu tiên tôi rút ra là nếu phần thưởng không như ta mong đợi, ta sẽ không cố gắng vì nó.

Khi Thái tử gặp Túm, chàng ta hỏi xin nào là số điện thoại, nào là “phây búc”, đã thấy hiện đại chưa? Thái tử Lì tuyển vợ bằng cách thử áo, nhưng thái tử cũng nhây dữ lắm nên có ai muốn làm vợ chàng ta đâu! Đến tận lúc treo thưởng thêm cho người đến thử là được ăn kem thỏa thích thì Túm mới chấp nhận đi “bán thân”. Trong truyện cổ tích xưa, nếu Tấm muốn đi hội phải lựa gạo nếp và gạo tẻ, thì ngày nay, Túm phải lựa… mắm ruốc với mắm tôm ra. Mắm thì làm sao lựa được chứ! Không phải lo, Túm phủi tay, nhẹ nhàng phán: “Mình thích thì mình… đi thôi”, rồi ra chợ mua một mớ mắm về, cho vào hai cái thau khác nhau để trình thành quả cho dì ghẻ, thế là xong nhiệm vụ khó nhằn! Bài học thứ hai là khi ta thực sự muốn làm điều gì đó, ta sẽ tìm được cách, quan trọng là phải động não, không hiền lành chính chuyên được thì phải lươn lẹo dùng mẹo.

Nãy giờ kể về Túm cũng nhiều rồi nhỉ, bây giờ qua ông Bụt hiền lành, tốt bụng luôn giúp người đây. Thật ra, ông Bụt phiên bản này toàn “gieo nghiệp” không thôi. Đặc biệt, người chuyển kiếp đầu thai là ông Bụt, mà người hại ông Bụt chết là con Túm. Hành trình đầu thai của Bụt cũng lắm bi hài, đầu tiên là thành chim cánh cụt, sau đó là cây vú sữa, yêu quái,… Bài học thứ ba là kiếp này là tốt nhất rồi, không biết có kiếp sau không, nếu có cũng chưa biết có tốt không, nên cứ sống cho tốt kiếp này đi.

Ở hoàng cung, vì nhớ Túm mỡ nên thái tử Lì quyết định đi tìm “tình yêu xe lu” của chàng. À mà, Túm không phải xinh đẹp đâu, đã mập, xấu mà còn “hôi nách thấy bà nậu”. Nhưng các bạn biết vì sao thái tử Lì lại chết mê chết mệt và luôn nhớ về Túm không? Là vì Túm có cá tính của Túm. Chúng ta khi sinh ra ai cũng có một cá tính riêng biệt như một bảng mã gen độc nhất vô nhị. Mỗi con người mỗi sở thích, mỗi con người mỗi lối sống, mỗi con người mỗi cách nghĩ. Điều khác biệt làm nên mỗi cá nhân; chúng ta sống, tồn tại vì cái riêng biệt đó chứ không nên phấn đấu để thành một thứ bản sao trùng lặp và đáng chán. Vì vậy, bạn hãy tự hào rằng “Tôi là một, là riêng, là duy nhất”. Bài học thứ tư là con gái không cần phải quá xinh đẹp mà phải có cá tính (khí chất) của riêng mình. Chỉ cần bạn là chính bạn thì tự nhiên bạn có giá và cuốn hút người khác rồi.

Khi thái tử sai cận thần đi tìm “tình yêu xe lu” là Túm thì chàng đã nhờ đến sự giúp sức của trái lê với điều kiện tìm được Túm sẽ cho trái lê 500k, lê lại tiếp tục nhờ chuối “Mi tìm giúp ta thùng phuy di động đi! Ta cho mi 200k đi ăn trái cây dĩa nè”. Cái vòng nhờ vả lại tiếp tục khi chuối nhờ “Cà chua, mi tìm giúp ta cái container di động đi, ta cho mi 100k nè”, “Bưởi, tìm giúp tui nhà của cái bồn di động đi tui cho 50k nè”,… Bài học thứ năm rút ra là “tam sao thất bản”, miệng thế gian từ một có thể lên đến mười, từ tìm cô Túm đến thùng phuy, qua cả container cuối cùng là xe tăng. Nên khi nghe thông tin từ ai đó hay đọc ở đâu đó thì cũng phải có tính chọn lọc và suy xét cho thật kĩ, coi nó có bao nhiêu phần đúng. Bên cạnh đó, khi ai đó nhờ cậy có trả công thì có thể nhờ thêm người khác, nhiều người khác, phần thưởng sẽ nhỏ hơn nhưng khả năng nhận được thưởng sẽ lớn hơn.­

*

Nãy giờ cũng spoil khá nhiều rồi, tôi vẫn hay nói với bạn mình: spoil là tội ác nên thôi, ác vừa vừa là được, các bạn muốn biết thì tìm đọc thêm nhé! Rất thú vị đấy.

Nếu bạn bận rộn với deadline, chẳng ngẩng nổi mặt nhìn bầu trời, đến thời gian chợp mắt cũng không có, bao áp lực cuộc sống cứ ghì xuống đôi vai, bài vở làm hoài chẳng hết,… chẳng sao cả! Bạn biết không, dù áp lực đến đâu thì mục đích cuối cùng của cuộc sống, của những phấn đấu của chúng ta là hạnh phúc, mà hạnh phúc theo định nghĩa của mỗi người lại khác nhau.

Vì thế, tôi nghĩ dành ra ba mươi phút hay một tiếng mỗi ngày với những cuốn truyện tranh vui nhộn lại giúp thư giãn hơn, đó là một lựa chọn khá hay đấy. Truyện viết cho thiếu nhi không hẳn chỉ có thiếu nhi mới đọc được, người lớn cũng từng là thiếu nhi mà.

Vì cuộc sống cần quá nhiều thứ phải nghiêm túc, lề lối, khuôn phép mà những thứ đó lại luôn làm ta áp lực, chúng ta cố gắng vì điều gì, làm mọi thứ vì điều gì mà đến cả thời gian nghĩ ngơi chẳng có, chúng ta sẽ, đã phải luôn cố gắng mà, tất nhiên rồi. Dành ba mươi phút đọc sách, dành năm phút nhìn lên bầu trời lúc chiều tối, dành mười phút đi dạo quanh công viên hay hiên nhà,… mọi thứ sẽ có thời gian trầm lặng và ta có thể cảm thấy nhiêu điều hay ho mà trước đây ta chưa từng thấy đấy.

Sao bạn không một lần thử?

Hết.

Hoàng Anh


Đọc những bài viết của Hoàng Anh


Phía sau trang sách

Kawabata Yasunari và “cây cầu” nối với thế giới

Published

on

By

“Trong tác phẩm của Kawabata, sự tinh tế gắn liền với cái mềm dẻo, sự nền nã và các nhận thức về chiều sâu bản chất con người… Chúng vừa hiện đại nhưng cũng đồng thời được truyền cảm hứng từ các triết lý tịch lặng của những tu sĩ Nhật Bản xa xưa… 

“Đối với nhiều nhà văn hiện đại, những tuyên bố về truyền thống và mong muốn thiết lập cầu nối với các nền văn học mới đã tỏ ra gần như không thể. Tuy nhiên Kawabata bằng trực giác của một nhà thơ, đã vượt qua mâu thuẫn này và đạt được sự cân bằng kỳ lạ… Tôi rất vinh dự khi được giới thiệu ông, người hơn bất kỳ nhà văn Nhật Bản nào khác, thực sự xứng đáng với giải Nobel Văn chương.” Mishima Yukio đã viết những dòng này cho Viện Hàn lâm Thụy Điển vào năm 1961, chính thức đề cử “thầy” mình cho giải thưởng này. Tuy nhiên phải mất thêm 7 năm nữa thì Kawataba mới giành chiến thắng vào năm 1968, vì “khả năng tường thuật điêu luyện, thể hiện một cách hết sức nhạy cảm bản chất của tâm hồn người Nhật”.

Kawabata Yasunari 1938. Ảnh: wikipedia.org

Có thể thấy rằng Kawabata đã có rất nhiều tác phẩm được chuyển ngữ sang các ngôn ngữ khác nhau, thế nhưng việc làm nói trên luôn không dễ dàng, bởi ngôn ngữ khác thường có xu hướng trở thành “bộ lọc thô thiển”, phá đi rất nhiều sắc thái tinh tế, ngôn ngữ biểu cảm… mà chỉ tiếng Nhật mới có thể có. Thế nhưng không thể phủ nhận chính việc dịch thuật đã cho hậu thế cách nhìn tương đối đầy đủ về nhà văn này. 

Trong diễn từ nhận giải Nobel, ông cũng đề cập đến vấn đề trên: “Trước sự phức tạp do các khác biệt về mặt ngôn ngữ, và vì thực tế là các tác phẩm của tôi […] phải được trải nghiệm qua việc dịch thuật, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn, sự tôn trọng sâu sắc và bất diệt của mình đối với nỗ lực của các viện sĩ thuộc Viện Hàn Lâm. Tôi tin rằng giải thưởng đầu tiên dành cho người phương Đông sau 55 năm này sẽ gây ấn tượng sâu sắc đối với Nhật Bản, và có lẽ cũng là đối với các quốc gia châu Á khác, cũng như đối với tất cả quốc gia có nền ngôn ngữ ít được biết đến.”

Nói chuyện với giới truyền thông Nhật Bản, Kawabata thậm chí còn thẳng thắn hơn: “Nếu các Viện sĩ có thể đọc tác phẩm của tôi bằng tiếng Nhật thì sẽ rất tốt, nhưng… thực tế là tôi mắc nợ dịch thuật rất nhiều”. Thái độ yêu/ghét - hay chính xác hơn là không muốn/không tin tưởng - của Kawabata đối với dịch thuật được thể hiện theo rất nhiều cách. Theo tất cả các tài liệu còn ghi chép lại, ông thể hiện trạng thái tích cực trong quá trình dịch thuật, thế nhưng nó không nhất thiết là sự hài lòng của bản thân ông. 

Sách Người đẹp ngủ mê, tác phẩm kinh điển của Kawabata Yasunari vừa được Phương Nam Book tái bản phát hành.

Các vấn đề tương tự cũng có thể thấy trong thư từ giữa Kawabata với Mishima Yukio, đã được xuất bản vào năm 1997 với tên Kawabata Yasunari/Mishima Yukio: Ōfuku Shokan (nguyên tác:『川端康成・三島由紀夫往復書簡』). Theo đó ngay từ năm 1951, Kawabata đã hỏi Mishima tên của “người Mỹ đã dịch cuốn Lời thú tội của chiếc mặt nạ” vì ông muốn xin lời khuyên của người này với tư cách là “người nước ngoài hiện đang sinh sống ở Nhật và đọc văn học Nhật”. Theo đó ông muốn tham khảo rằng mình nên gửi truyện ngắn nào tới các tạp chí văn chương Mỹ.

(Người dịch thực tế trong thư hồi đáp mà Mishima tiết lộ là Meredith Weatherby, thế nhưng tác giả của Kim Các Tự cũng đã thể hiện một số nghi ngại vào thời điểm đó. Ông đã phúc đáp “Ông ấy là một cựu quan chức ngoại giao không có chỗ đứng trong giới văn chương Mỹ”. Mishima cũng nói thêm rằng các cuộc đàm phán liên quan đến việc chuyển ngữ Lời thú tội của chiếc mặt nạ đã rơi vào trong bế tắc sau thời gian dài, vì Ivan Morris – một dịch giả khác của Mishima, bày tỏ nghi ngờ về khả năng của Weatherby.)

Năm 1956, Kawabata viết thư cho Mishima xin lỗi vì ở mặt sau ấn bản tiếng Anh của Xứ Tuyết, ông được ghi nhận là người “phát hiện cũng như bảo trợ cho những nhà văn trẻ đáng chú ý như Yukio Mishima”. Ông viết: “Có lẽ quan niệm sai lầm mang tính tâng bốc rằng tôi “phát hiện ra anh” sẽ là tất cả những gì gắn liền tên tôi với lịch sử văn học”. Mishima sau đó cũng đã phản hồi với lời chúc mừng của mình cho phiên bản tiếng Anh, và chia sẻ suy nghĩ về cách nhìn của độc giả nước ngoài với Kawabata: “Người Mỹ không phải là những kẻ ngốc, và trò nghĩ rằng họ sẽ hiểu thôi. Thực sự là người nước ngoài đã quá cứng nhắc và kém hiểu biết về sự linh hoạt của văn học Nhật. Thầy có nghĩ vậy không?”

Kawabata Yasunari nhận giải Nobel Văn học năm 1968. Ảnh: nippon.com

Một phần mối quan tâm chung về dịch thuật và sự tiếp nhận ở nước ngoài đối với các tiểu thuyết của Kawabata rõ ràng là lợi ích cá nhân về mặt nghệ thuật, tuy nhiên nó cũng ẩn chứa nhiều điều hơn thế. Sự chiếm đóng của Hoa Kỳ đã khiến Nhật Bản tràn ngập những người ngoại quốc có thể nói và đọc tiếng Nhật, cũng như các tác giả địa phương mong muốn cháy bỏng được cộng đồng quốc tế công nhận. 

Về phần mình, lúc đó Kawabata là chủ tịch của Hội Văn Bút Nhật Bản (PEN Nhật Bản) từ năm 1948 - 1965, nên việc quảng bá văn học Nhật Bản ra với quốc tế cũng là một phần công việc của ông. Vào năm 1959, ông đã viết thư cho Mishima để chúc mừng về ấn bản tiếng Anh của Kim Các Tự và nhận xét: “Từ lâu, tôi nghĩ rằng cuốn sách này rất phù hợp để dịch sang các ngôn ngữ khác và rất kỳ vọng vào sự đón nhận của nó ở nước ngoài,” Ở đây ta có thể thấy ông không nói chuyện chỉ để đãi bôi, mà ý thức về chiến lược dài hạn đã được hiện lên tương đối rõ ràng. Và vì vậy khi Mishima viết bức thư gửi Viện Hàn lâm Thụy Điển được trích dẫn ở đầu bài viết, thì thực chất đó là theo lời yêu cầu của Kawabata. Có cảm giác chung chung rằng đã đến lúc “mùa xuân” của văn học thời hậu chiến Nhật Bản nhận được sự chú ý của giải Nobel, và Kawabata dường như là ứng cử viên sáng giá nhất.

Bản thân Kawabata được cho là đã cảm thấy các nhà văn trẻ - chẳng hạn như Mishima - có nhiều khả năng nhận được sự tán đồng hơn. Ngay cả sau khi Kawabata nhận được tin về việc lựa chọn mình, ông vẫn hoài nghi về quyết định này. Ibuki Kazuko, biên tập viên của ông vào thời điểm đó, kể rằng ông đã nói với bà: “Không phải tôi là người nhận giải Nobel đâu, chỉ đơn giản là đến lượt Nhật Bản thôi”.

Có lẽ vì thế mà trong diễn từ nhận giải Nobel, Kawabata ít nói về mình mà dành phần lớn thời lượng để nói về những khía cạnh tư tưởng của người Nhật mà ông cảm thấy cộng đồng phương Tây ít có khả năng hiểu được. Khi đề cập các tác phẩm của mình, ông đã nhắc đến những quan niệm sai lầm tiềm ẩn: “Việc coi tiểu thuyết Ngàn cánh hạc của tôi như sự gợi lên vẻ đẹp trang trọng và tinh thần của trà đạo là một cách hiểu sai. Đây là một tác phẩm tiêu cực, thể hiện sự hoài nghi và cảnh báo về sự thô tục mà trà đạo đã và nhiều khả năng có thể rơi vào”.

Kawabata với vợ Hideko ở bên trái và cô em gái Kimiko ở bên phải năm 1930. Ảnh: wikipedia.org

Ngay cả tiêu đề Utsukushii Nihon no watashi của diễn từ này cũng rất mơ hồ. Tính chất này cũng rất đáng nghiên cứu, nhưng có một cách dịch thoát là “Tôi của Nhật Bản xinh đẹp”. Đó là tuyên bố không thể tách rời khỏi truyền thống hàng nghìn năm mà Kawabata đã công nhận, từ đó gián tiếp thể hiện rằng ông từ chối hòa nhập vào cộng đồng quốc tế như sự bổ sung thêm điều kỳ lạ cho thế giới quan của châu Âu, và thay vào đó là yêu cầu văn học Nhật Bản phải được hiểu theo một cách riêng biệt.

Hai năm sau khi Kawabata nhận giải Nobel, Mishima đã gây chấn động văn đàn bởi cái chết của mình. Bốn năm sau đó, Kawabata cũng tiếp bước theo trong một vụ việc mà được ngầm hiểu là do tự sát. Ngày nay, những sự kiện này giống như đoạn kết nghiệt ngã, mang tính quyết định cho hai thập kỷ đầu tiên của văn học Nhật Bản thời hậu chiến, với những tuyên bố của các nghệ sĩ thấy mình đã đạt đến mức cực hạn sáng tạo. Đó chính là những tuyên ngôn gây sửng sốt của Mishima; cũng như khó tin và đầy mơ hồ của Kawabata.

“Đôi khi chúng ta quá nhạy cảm về sự tinh tế, thanh lịch hay cảm nhận về cái đẹp của mình… Đôi khi chúng ta cảm thấy mệt mỏi với điều đó. Đôi khi chúng ta cần sự bùng nổ để mà thoát ra”. - Mishima

Chuyển ngữ từ bài nghiên cứu của Matt Treyvaud

Đọc bài viết

Phía sau trang sách

Một góc nhìn khác về Đà Nẵng

Published

on

By

Sau Trường Sa 1988 – Hồ sơ một sự kiện lịch sử ra mắt vào năm 2021 cung cấp những tư liệu quý về chủ quyền biển đảo, mới đây nhà nghiên cứu Võ Hà cũng đã giới thiệu tác phẩm mới nhất Đà Nẵng ngày tháng cũ.

Gồm 10 bài viết gồm các vấn đề của Đà Nẵng trước năm 1975, những biên khảo này đã cho ta thấy một góc nhìn khác về “đô thị biển” và “đô thị sân bay” từ trong quá khứ. Ngoài ra, rất nhiều vấn đề có sự tương quan giữa Đà Nẵng và đô thị miền Nam Việt Nam vẫn còn sống động cho đến ngày nay cũng được khảo sát một cách kỹ lưỡng, nghiêm túc, để thấy rằng những chuyện quá khứ cũng có khả năng giải quyết, định hướng tương lai. Nhân dịp này, tác giả Võ Hà đã chia sẻ về nhiều vấn đề xoay quanh cuốn sách.

Thưa anh Võ Hà, Gắn với Đà Nẵng thường có một câu cách ngôn “nhượng địa vẫn hoàn nhượng địa”. Đâu là khởi nguồn của nó, thưa anh?

Có một thông tin lịch sử mà chúng ta ít để ý là khi Đà Nẵng trở thành nhượng địa của thực dân Pháp theo Sắc lệnh ngày 1/10/1888 có đề cập đến “phạm vi giới hạn các vùng nhượng địa sẽ được xác định bằng các sơ đồ của bản phụ lục”. Tuy nhiên, trên thực tế không có một sơ đồ nào đính kèm theo sắc lệnh này. Điều này cho ta thấy rằng, chính quyền thuộc địa Pháp đang cố gắng tạo ra sự mập mờ trong các văn bản pháp lý để chiếm dụng các phần diện tích đất tại các khu vực nhượng địa theo hướng mở rộng ra gấp nhiều lần.

Bản quy hoạch nhượng địa Đà Nẵng được chính quyền thuộc địa Pháp đưa ra ở thời điểm năm 1889, mở rộng trên tất cả các vùng phía Tây và phía Nam của cửa biển Đà Nẵng. Tất nhiên là nó bao gồm cả bán đảo Sơn Trà (cùng với 8 làng trong bản kế hoạch cũ, bản kế hoạch mới bổ sung thêm 18 làng và nâng tổng số lên thành 26 làng bao gồm luôn cả bán đảo Sơn Trà; phạm vi của bản đồ quy hoạch mới cũng lớn hơn bản đồ cũ đến 10 lần, thậm chí là 12 lần) mà triều đình nhà Nguyễn không chấp nhận. Diện tích nhượng địa Đà Nẵng trở nên quá lớn và câu chuyện quy hoạch này sau đó trong thời kỳ Quốc gia Việt Nam được lặp lại bằng quy hoạch sân bay Đà Nẵng II bên hữu ngạn sông Hàn, với diện tích gần như bao trọn bán đảo Sơn Trà - và đó cũng là câu chuyện “nhượng địa lại hoàn nhượng địa”.

Bản đồ Đà Nẵng năm 1969. Ảnh: Tư liệu

Điều này cho thấy, bắt đầu từ những năm 1880 đến đến năm 1954 thì chính quyền Pháp ở Đông Dương luôn xuyên suốt về ý tưởng muốn nắm lấy nhượng địa Đà Nẵng với một không gian rộng lớn hơn nhiều (giống như không gian Đà Nẵng hiện nay) nhằm dễ bề tổ chức hoạt động kinh tế ở thuộc địa, đảm bảo an ninh và chia cắt, chống phá các hoạt động của chính quyền cách mạng.

Có vị trí tương tự Hongkong, thế nhưng theo anh vì sao Đà Nẵng lại không thể vươn lên về mặt thương mại như “xứ Cảng Thơm”?

Đà Nẵng và Hong Kong có tính chất tương đồng về sinh thái học lịch sử (cùng là cảng biển, là một điểm tập kết hàng hóa). Tuy nhiên, về lịch sử, điều kiện địa chính trị thì có sự khác nhau cơ bản, nhất là trong thời kỳ thế giới bước vào hội nhập quốc tế, thì Đà Nẵng rơi vào chiến tranh, trở thành một căn cứ liên hiệp quân sự của Mỹ và đồng minh ở miền Nam Việt Nam.

Nghiên cứu về một vùng đất luôn không thoát khỏi các cuộc khảo sát về nhân khẩu học và dân tộc học. Trong tác phẩm này, anh thấy người Đà Nẵng đóng vai trò gì trong lịch sử của đô thị này?

Việc mở rộng sân bay Đà Nẵng được chính quyền đương thời thực hiện dưới sự tác động mạnh mẽ, căn bản của thực dân Pháp, sau đó là Mỹ. Trong đó, có ba yếu tố tạo ra sự bất hòa của người dân, đó là: 1) Mặc dù có một sự đền bù khi di dời làm sân bay Đà Nẵng I (sân bay Đà Nẵng hiện nay) nhưng thực hiện một cách thiếu công khai, chèn ép, với sự bất nhất của chính quyền. 2) Bắt người dân tham gia công trường với giá rẻ mạt. 3) Riêng đối với sân bay Đà Nẵng II (ở Sơn Trà) thì luôn trong trạng thay quy hoạch treo, khiến đời sống nhân dân luôn bi đát. Đó là một trong những lý do người dân đứng dậy phản kháng chính quyền đương thời, cùng với sự vận động linh hoạt, sáng tạo của chính quyền cách mạng để đòi các quyền lợi chính đáng của mình.

LCU1476 thả các phương tiện và thiết bị của thủy quân lục chiến trên bãi biển Đỏ gần căn cứ không quân Đà Nẵng vào sáng ngày 8-3-1965. Ảnh chính thức của Thủy quân lục chiến Hoa Kỳ. Nguồn ảnh: mcu.usmc.mil/historydivision.

Còn về vấn đề đối với chủ quyền quần đảo Hoàng Sa ra sao, thưa anh? Được biết ngay từ rất sớm người dân Đà Nẵng, Quãng Nam cũng đã tự nguyện giữ vững chủ quyền biển đảo?

Đối với quần đảo Hoàng Sa, từ năm 1954, chính quyền Việt Nam Cộng hòa đã kế tục, tăng cường kiện toàn tổ chức quản lý hành chính, đẩy mạnh các hoạt động kinh tế, quân sự cũng như công tác ngoại giao để khẳng định ý chí chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa. 

Bản đồ sáp nhập xã Định Hải (quần đảo Hoàng Sa) vào xã Hòa Long, huyện Hòa Vang, tỉnh Quảng Nam (1969). Bản đồ kèm theo Nghị định số 709-BNV/HCĐP/26 ngày 21-10-1969 của Tổng trưởng Nội vụ về việc sáp nhập xã Định Hải vào xã Hòa Long, Hòa Vang, Quảng Nam. Nguồn ảnh: Hồ sơ 8654. Phông Phủ Thủ tướng Việt Nam Cộng hòa. Trung tâm Lưu trữ Quốc gia II.

Trong đó, Đà Nẵng có một ý nghĩa đặc biệt, nhất là đứng lên phản đối, bảo vệ chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ khi Trung Quốc dùng vũ lực xâm chiếm toàn bộ quần đảo Hoàng Sa năm 1974. Người Đà Nẵng không chỉ là hòa chung vào cuộc đấu tranh với các địa phương khác ở miền Nam lúc bấy giờ mà còn là sự thể hiện tình cảm về việc quần đảo Hoàng Sa là một bộ phận lãnh thổ của xã Hòa Long, quận Hòa Vang, tỉnh Quảng Nam lúc bấy giờ (nay thuộc thành phố Đà Nẵng).

Ngoài các vấn đề xoáy vào Đà Nẵng, thì tập sách này cũng mở rộng thêm có chủ đề có liên quan đến Đà Nẵng tại miền Nam Việt Nam như bảo tồn nhà rường, thay đổi giờ giấc sinh hoạt... Anh tìm đến những chủ đề này thế nào?

Lịch sử là lịch sử, đồng thời lịch sử không hẳn là lịch sử, lịch sử nó cũng có đời sống ở hiện tại và cả tương lai theo một mức độ nào đó. Nghiên cứu lịch sử vừa đi tìm các thông tin sát thực với quá khứ, vừa xem “đời sống” của nó ở hiện tại, dự báo trong tương lai, và khuyến cáo cần ứng xử như thế cho cho thỏa đáng.

Đình Hòa Bình trong Công trường Quách Thị Trang (năm 1968-1969)

Trong tập sách này, riêng câu chuyện đề xuất phục hưng nhà rường Việt Nam cho ta biết rằng, trong quá khứ trước năm 1975, các nhân sĩ, trí thức có tấm lòng với văn hóa dân tộc đã suy nghĩ về phục hưng văn hóa Việt Nam trong bối cảnh của chiến tranh, bất ổn xã hội. Bởi khi có sự suy tàn nào đó về văn hóa đương thời thì ta cần phục hưng nó, để nó trở thành một động lực mới cho sự phát triển. Nếu độc giả để ý sẽ thấy ngay rằng, việc này sau năm 1975 khi Việt Nam trải qua thời kỳ quản lý đất nước quan liêu bao cấp, chuyển dần sang đổi mới, hội nhập quốc tế thì câu chuyện này bắt đầu lại được quan tâm, đề cập trở lại và có những động thái rõ nét. Đây chính là một ví dụ về “đời sống” của lịch sử trong hiện tại và tương lai.

Hay câu chuyện thay đổi giờ sinh hoạt của hai miền Bắc - Nam giai đoạn 1954-1975 cũng có lắm điều thú vị. Trong đó, quy chung rằng việc thay đổi giờ này đồng thời xuất phát từ hai nguyên nhân chính: đặc thù thời tiết (là một nước nhiệt đới nên giờ giấc sinh hoạt cần phù hợp với đồng hồ sinh học, để đảm bảo sức khỏe người dân) và ý chí của chính quyền đương thời (dựa vào mục tiêu lớn nhất là phải làm gì để điều chỉnh giờ giấc cho phù hợp với mục tiêu đó). Ở đây cho thấy trong việc đổi giờ, thì ở miền Nam dựa trên lập luận nhằm phát triển kinh tế, nhất là du lịch; trong khi đó ở miền Bắc chủ yếu dựa trên lập luận về tình hình chiến sự - có sự nối tiếp về việc quy định múi giờ khác nhau giữa các khu vực chiến sự kể từ sau năm 1945.

Tháp (có đồng hồ) của chợ Bến Thành năm 1920. Ảnh: Tư liệu.

Tôi nghĩ rằng, qua câu chuyện này, để có tính biểu tượng và ý thức thời gian, tại các thành phố lớn của Việt Nam hiện nay, ở khu vực trung tâm nên xây dựng một đồng hồ công cộng lớn, có thể là đồng hồ số, đồng hồ kim, đồng hồ nói… hoặc có sự kết hợp các loại với nhau và tạo nên một thời khắc “tâm lý”, như một sự dừng chân, “hiện hữu” để mỗi người nhìn về mình trong sự xô bồ của cuộc sống hiện đại.

Nhìn nhận một cách thẳng thắn, theo anh, có thể nói rằng trước năm 1975 thì miền Nam cũng có tương đối chính sách tiến bộ không? Như cho khai thác phân chim ở Hoàng Sa cũng là một cách bảo vệ lãnh thổ, hay chính sách khuyến khích tiêu dùng trong nước, trồng các cây gòn để gia tăng kinh tế…?

Những chính sách nêu trên dưới thời chính quyền Ngô Đình Diệm là một cố gắng đáng ghi nhận trong việc thực thi chủ quyền của Việt Nam Cộng hoà ở quần đảo Hoàng Sa; trong việc muốn phát huy nội lực để phát triển đất nước mà cả giai đoạn trước đó và cả những năm ngay sau đó (tính trước năm 1975) không có được. Qua đây, cũng xin nói thêm rằng, nếu nghiên cứu về miền Nam Việt Nam giai đoạn 1954-1975 thì thời kỳ dưới thời Ngô Đình Diệm có những chính sách kinh tế, nhất là về văn hoá để lại nhiều dấu ấn rõ nét.

Xin cám ơn anh về cuộc trao đổi này!

Đọc bài viết

Phía sau trang sách

Họ đã làm ra cảnh quay nổi tiếng trong ‘Hàm cá mập’ như thế nào?

Published

on

Phim Hàm cá mập (tựa tiếng Anh: Jaws) của đạo diễn Steven Spielberg là tác phẩm mang tính "thách thức" khán giả, vì đây là một trong những phim về loài thủy quái biển sâu tạo hiệu ứng rền vang ngay từ buổi chiếu thử.

Nói về độ nổi tiếng của Hàm cá mập đối với dân mê phim là "múa rìu qua mắt thợ", nhưng có lẽ nói về chuyện hậu trường của phim, nhất là một trong những cảnh phim chết chóc, lạnh vai gáy trong tác phẩm này hẳn sẽ rất thú vị. Khi bản dịch tiếng Việt của cuốn Khán giả học - Người xem thử nghiệm đã xoay chuyển các bộ phim bom tấn như thế nào? (tựa gốc tiếng Anh: Audience-ology: How Moviegoers Shape the Films We Love) của hai tác giả Kevin Goetz và Darlene Hayman ra mắt độc giả Việt, nhiều câu chuyện hậu trường về quá trình làm phim của Hàm cá mập dần được hé lộ, nhưng không phải dưới góc nhìn thuần "kể lể" dài dòng văn tự mà đi sâu mổ xẻ qua câu chuyện chiếu thử. Vì các tác giả là những người có thâm niên trong lĩnh vực này.

Cảnh trên phim trường Hàm cá mập năm 1975. Ảnh: UNIVERSAL

Buổi chiếu thử phim Jaws ra đời khi mà "giữa những năm 1970, ngành công nghiệp điện ảnh trải qua một số thay đổi giúp việc nghiên cứu chiếu thử được áp dụng rộng khắp và buộc quy trình này trở nên nghiêm ngặt và có nguyên tắc hơn". Steven Spielberg lúc đó chỉ mới 28 tuổi, hầu như vô danh, nhưng công ty MCA Universal đã trao dự án vào tay nhà làm phim trẻ và họ lên kế hoạch quảng bá rầm rộ. Buổi chiếu thử vào "một chiều mưa ướt sũng mùa xuân năm 1975" khiến dàn lãnh đạo MCA đứng ngồi không yên, và "phút thứ 90", họ quyết định cho chiếu thử tác phẩm.

Tuy đã chạy chiến dịch quảng bá qua đài phát thanh địa phương trước đó, thế nhưng khi đến buổi chiếu thử, lãnh đạo của MCA không ngờ có cả một hàng người rồng rắn trước rạp để được vào xem suất đầu của Jaws. Thành công ngoài mong đợi! Khán giả la hét, choáng váng, có người bỏ ra khỏi rạp để ổn định tinh thần, có người thậm chí nôn mửa suốt quá trình các nhân vật chiến đấu với con cá mập vô cùng khát máu trên màn ảnh. Thế nhưng có một cảnh mà cả rạp "nhảy dựng ra khỏi ghế", thế nhưng ê-kíp lại cảm thấy chưa thật sự đẩy lên đến "đỉnh" của nỗi sợ, đó là cảnh một nhân vật lặn dọc thân tàu, rọi đèn pin tìm kiếm và bất ngờ đầu của thuyền trưởng trồi ra lềnh bềnh. Để "nâng cấp" cảnh này, Steven Spielberg và cộng sự đã quyết định ghi hình lại ngay ngày hôm sau, nhưng do tiết kiệm chi phí, họ đã quay ở một hồ bơi. Sau khi chỉnh sửa, ê-kíp cho cập nhật bản phim mới, mở buổi chiếu thử thứ hai. Cũng ở cảnh lặn dọc theo mạn tàu đáng sợ ấy, nhân vật "phát hiện ra vết rạch sâu trên thân tàu và rọi đèn pin vào lỗ trống ấy. Máy quay dừng lại một lát trong bóng tối bao trùm. Rồi, bất thình lình, cái đầu xuất hiện trên màn ảnh với một con mắt lồi ra trong sự sợ hãi chết chóc, con mắt còn lại thì mất tiêu, hốc mắt đầy cua cáy. Cả rạp bùng nổ". 

Sách Khán giả học dịch tốt, là quyển sách về điện ảnh đọc hấp dẫn, có nhiều thông tin bổ ích cho "mọt phim". Ảnh: Nhà sách Phương Nam

Hàm cá mập đã thành công vang dội tại phòng vé năm đó, trở thành phim ăn khách bậc nhất lịch sử điện ảnh, cho đến khi tác phẩm sử thi không gian Star Wars ra mắt sau đó 2 năm và "soán ngôi" của phim. Jaws được đề cao về kỹ thuật dựng phim và hiệu ứng âm thanh. Buổi chiếu thử đã giúp các nhà làm phim đi đến việc thay đổi bản phim hiện tại nhằm làm tác phẩm tốt hơn, sống lâu hơn ở rạp, và hơn thế, sống lâu hơn trong lòng công chúng. 

Là cây bút quan sát, nghiên cứu về Hollywood trong hơn 30 năm, Kevin Goetz đã đưa ra những phân tích sắc sảo, mang tính chiêm nghiệm trong suốt thời gian dài về quy trình chiếu thử - tuy chỉ mang tính sơ khởi, thăm dò phản ứng của khán giả về bản dựng chưa hoàn chỉnh của phim nhưng lại quyết định sự sống còn của tác phẩm. Thậm chí, Kevin Goetz còn cho biết việc chiếu thử còn được tính toán cẩn thận đến mức, nếu xét về nhân khẩu học trong việc xem phim, quy trình chiếu thử sẽ có những quy tắc vô cùng nghiêm ngặt của nó. Và điểm nhìn của Kevin Goetz đưa ra xuyên suốt quyển Khán giả học càng chắc chắn hơn khi tác giả có thâm niên làm việc đáng ngưỡng mộ với dàn lãnh đạo của các hãng phim lớn, lâu đời ở Hollywood. 

Nguồn: Báo Thanh Niên Online I Thế Sang

Đọc bài viết

Cafe sáng