Phía sau trang sách

Lưỡng giới: Cánh cửa đi vào cảm xúc của người liên giới tính

Published

on

Chủ đề đồng tính, song tính và hoán tính đã xuất hiện từ lâu trong thần thoại phương Tây, từ trường ca Iliad của Homer với mối quan hệ của Achilles (chiến binh vĩ đại nhất của quân Hy Lạp trong cuộc chiến thành Troia, con trai của Thetis) với Patroclus (con trai của Menoetius) đến mối quan hệ giữa Alexander Đại đế (con trai của nữ hoàng Olympias) với người yêu là Hephaestion (con trai của Amyntor, là một nhà quý tộc người Macedonia cổ đại và là một vị tướng trong quân đội của Alexander Đại đế). Văn học hiện đại viết về đồng tính có Chết ở Venice (Thomas Mann), Một con người (Christopher Isherwood), Chuyện tình núi Brokeback (Annie Proulx), Gọi em bằng tên anh (André Aciman); viết về đề tài chuyển giới có Orlando (Virginia Woolf), Cô gái Đan Mạch (David Ebershoff). Tuy nhiên, viết về người liên giới tính (lưỡng tính) hầu như chưa có tác phẩm nào ngoài Lưỡng giới (Middlesex) của Jeffrey Eugenides.

Liên giới tính là trạng thái mà một cá nhân bẩm sinh đã có kết cấu cơ quan sinh sản hoặc bộ phận sinh dục không hoàn toàn thuộc về đặc điểm sinh học của nam hay nữ theo cách hiểu thông thường. Thần thoại Hy Lạp từng nhắc đến Tiresias, người khi thì là đàn ông, khi thì là phụ nữ. Chuyện kể rằng, nhà tiên tri Tiresias khi thấy hai con rắn đang ân ái trong rừng cây xanh um đã dùng gậy đập chúng. Vậy là, ông bị biến đổi từ đàn ông thành đàn bà. Trong suốt bảy năm, ông sống dưới hình hài yểu điệu của một người phụ nữ. Năm thứ tám, ông gặp lại cặp rắn và nói: “Từ khi đánh chúng mày một gậy thì sức mạnh kì diệu đến và thay đổi giới tính của người đánh. Bây giờ ta lại đánh chúng mày một lần nữa đây”. Thế là ông trở lại hình dạng đàn ông như vốn có. Vào thế kỉ XX, trạng thái liên giới tính một lần nữa tái xuất trong Lưỡng giới thông qua nhân vật trung tâm Cal, hay Calliope Stephanides, một người “sinh ra hai lần: lần đầu là bé gái, vào một ngày không sương khói khác thường ở Detroit tháng Giêng năm 1960; rồi lần nữa là thằng nhóc thiếu niên, ở phòng cấp cứu gần thành phố Petosky, tiểu bang Michigan, tháng Tám năm 1974”.

Lưu ý: Nội dung dưới đây tiết lộ nhiều tình tiết quan trọng của tác phẩm Lưỡng giới.

*

Liên giới tính như là hậu quả của tội loạn luân

“Chị hứa sẽ tìm cho em một cô gái Hy Lạp tử tế. E hèm. Chị chứ ai vào đây nữa.

Hồi ức trong Lưỡng giới bắt đầu như cuộn băng tua ngược, truy tìm căn nguyên từ đời thứ nhất ở bán đảo Tiểu Á. Khoảnh khắc mở đầu mang hơi hướm Homer và có không khí của thần thoại Hy Lạp: Jeffrey Eugenides đã “khai quật” cả một niên sử dòng họ Stephanides, một chuyến chu du huy hoàng trước khi Cal/Calliope xuất hiện trên thế giới này, chiếc gen thiếu đi enzyme 5-alpha-reductase đã tồn tại và vượt qua những hành trình lưu lạc kỳ vĩ – từ bán đảo Tiểu Á thời loạn lạc tới vùng Trung Tây nước Mỹ thời Cấm Rượu những năm 1920, thời Đại Suy Thoái, thời bùng nổ kinh tế – chiếc gen ấy được giấu kín qua những đời người và những ái lực vừa trần tục vừa thần thoại, ái lực đã đẩy bà nội Desdemona vào tội loạn luân với cậu em ruột Lefty.

Như trong Những bông hoa trên tầng áp mái của V. C. Andrews hay Chuyện tình núi Brokeback của Annie Proulx, tình cảm thường nảy nở giữa những người cùng được sinh ra và sống cùng nhau trong môi trường thiếu thốn tình thương hay bị cách ly khỏi xã hội. Như trong thần thoại Hy Lạp, Zeus và Hera lấy nhau, Lefty và Desdemona từ mối quan hệ chị em, họ trở thành vợ chồng. Trải qua hành trình gian nan để đến được nước Mỹ, trên chuyến tàu định mệnh, Desdemona và Lefty tự thay đổi chính mình, biến bản thân trở thành những con người khác. Dẫu đã rời vùng núi Bithynios, Hy Lạp đến Detroit, Mỹ, mặc cảm và lo sợ vẫn luôn ám ảnh Desdemona. Nỗi lo kéo dài khi bà mang thai và sinh con đứa đầu tiên, Milton. Khi biết được hầu hết các ca dị dạng ở trẻ em là do hôn nhân cận huyết, mặt Desdemona trắng bệch ra. “Ngu độn, rối loạn đông máu di truyền. Cứ nhìn nhà Romanov thì biết ngay. Cứ nhìn bất cứ gia tộc hoàng gia nào. Đột biến gen, tất cả bọn họ”.

Những tưởng lời nguyền hôn nhân cận huyết sẽ dừng lại khi họ đặt chân đến vùng đất mới, nhưng bi kịch này một lần nữa diễn ra với chính bố mẹ của Calliope – Milton và Tessie. Mặc cho sự ngăn cản của gia đình, Milton nhất quyết lấy bằng được bà chị họ của mình. Lời nguyền lại ám lên gia đình họ Stephanides: chị em họ lấy nhau. Desdemona đã rất lo sợ điều này, bà kịch liệt ngăn cản việc Milton và Tessie mang thai đứa thứ hai – nhân vật chính Cal/Calliope. Cây phả hệ nhà Stephanides là một gia phả đầy những rắc rối do quan hệ gần và vai vế chồng chéo, cũng đầy những chiếc gen đột biến lặn ẩn nấp trong mỗi cá nhân mà mắt thường không nhìn thấy được. Chiếc thìa của Desdemona xuất hiện như một lời cảnh báo, thông báo về những lưu ý trong giới tính đứa trẻ sắp sinh. Chiếc thìa bạc chưa từng đoán sai bao giờ: Thật sự, Calliope là một bé trai chứ không phải bé gái.

Định mệnh loạn luân đeo bám gia đình nhà Stephandies. Bí mật này bị thời gian chôn kín, cho đến khi cô bé Callie ngày xưa nay trở về nhà với thân phận và hình hài của một cậu trai. “Một người được thừa kế nhà cửa, số khác thừa kế tranh hay tay kéo vĩ cầm được bảo hiểm ở mức cao. Thậm chí số khác còn được nhận tủ tansu Nhật Bản hoặc một cái tên rất nổi. Tôi thì được nhận cái gen lặn ở nhiễm sắc thể số năm và vài thứ bảo vật gia truyền rất quý hiếm”. Cal/Callie là người “thừa kế” một chiếc gen thiếu đi enzyme 5-alpha-reductase, điều đó khiến Cal/Callie trở thành người liên giới tính.

Lạc lõng trong tình yêu

Một người liên giới tính sẽ có xu hướng tình dục thế nào? Họ sẽ yêu ra sao, có giống những người bình thường không? Đó hẳn là một vấn đề đáng chú ý khi nói về tình yêu của những người liên giới tính. Nhà tiên tri Tiresias, một người là nam nhưng đã có bảy năm sống dưới hình hài của nữ và sau đó trở lại thành nam trong trường ca Biến thể của Ovid đã phán: “Nếu niềm vui ái tình là mười phần, thì ba lần ba thuộc về đàn bà. Một phần thuộc về đàn ông”.

Khi người ta muốn có cuộc sống bình thường thì không thể yêu một tình yêu bất thường, mà Cal/Calliope lại là một người có tình yêu bất thường, ít nhất là so với quan niệm tình yêu của xã hội lúc bấy giờ. Đối Tượng Mơ Hồ, sau được gọi với cái tên Đối Tượng, là nhân vật làm Cal cảm nhận những thay đổi đầu tiên trong suy nghĩ và xu hướng tính dục của bản thân. Tình bạn, sự thu hút của Cal/Callie với Đối Tượng biến thành thứ tình yêu tuổi mới lớn từ lúc nào không hay.

Tuy nhiên, trong chuyến dã ngoại với gia đình Đối Tượng, việc có một người con trai thích Cal/Callie được tiết lộ, điều đó chứng tỏ Cal/Callie có sức hút với cả hai giới. Cal cũng đã từng quan hệ với anh trai Đối Tượng, Jerome, nhưng hai người dường như thấy điều gì đó không bình thường, chính xác hơn là phía Cal/Callie. “Đau như bị dao đâm, đau như bị lửa bén. Nó rạch toạc vào trong người tôi. Nó xé toác bụng tôi lên tận núm vú. Tôi thở hổn hển; tôi mở mắt ra; tôi nhìn lên và thấy Jerome nhìn xuống mình. Bọn tôi há hốc mồm nhìn nhau và tôi biết anh biết. Jerome biết tôi là cái gì, cũng như tôi bất chợt nhận ra, lần đầu tiên hiểu rõ ràng tôi không phải con gái mà là một thứ gì đó ở giữa”. Qua trải nghiệm với Jerome, Cal/Callie nhận ra bản thân không phải là một cô gái, cũng không phải là một người có thể dùng tên gọi để chỉ đúng tên tức thì, mà là một cái gì đó ở giữa, giữa nam và nữ, không biết mình là nam hay nữ.

Đây cũng là lúc Cal/Callie lờ mờ nhìn thấy được sự bất thường của bản thân. Mâu thuẫn được đẩy lên cao trào khi chuyện của Cal/Callie và Đối Tượng bị Jerome bắt gặp và cảnh báo: “Chia tay đứt đuôi nòng nọc ở đây nhé, Stephanides nhé. Xéo khỏi đây và đừng bao giờ quay lại nữa. Với cả đừng bén mảng lại gần em gái anh”. Sau lời đuổi cổ của Jemome, Callie bỏ đi, chạy trốn khỏi căn nhà đó. Tai nạn xảy ra và mọi chuyện đi theo một hướng khác mà chính Cal/Callie và cả gia đình y đã thật khó để chấp nhận.

Cal/Callie y không tự tin về cơ thể mình. Về sau này, khi đã là một người đàn ông, y vẫn chạy trốn với mặc cảm thân thể và không dám quan hệ với một ai. Cal/Callie sợ những người kia sẽ phát hiện ra khiếm khuyết cơ thể, sợ họ sợ hãi y, họ bỏ y… Cal/Callie có từng yêu, nhưng mặc cảm giới tính và thân thể làm y luôn chạy trốn và biệt tích trước khi lên giường cùng họ. “Nhưng thứ bảo vệ cuối cùng, cái quần đùi thùng thình, cái quần đùi kín đáo thì tôi không cởi ra. Không bao giờ mà tôi bỏ đi, phịa ra lý do nào đó. Tôi bỏ đi và không bao giờ gọi lại cho họ nữa. Hệt như một thằng đàn ông”. Cal/Calliope tự ti với bản thân hay chính bản thân y biết được mọi chuyện sẽ không có hồi kết, tệ hơn, y sợ những người yêu y, quan hệ với y biết được giới tính thật, một điều mà họ khó chấp nhận được. “Chả có lí do gì đề cập những thứ lập dị của tôi, việc tôi lang thang trong mê cung suốt nhiều năm qua, tránh bị nhìn thấy. Và tránh cả tình yêu nữa”.

Hành trình đi tìm bản dạng giới: Lạc lõng trong xã hội

Trong thần thoại Hy Lạp đã từng xuất hiện hình ảnh người lưỡng giới (liên giới tính). Hai vị thần Hermes và Aphrodite đã ghép tên họ để đặt cho con trai là Hermaphroditos. Tiên nữ Salmacis đem lòng yêu Hermaphroditos nhưng bị từ chối, Salmacis đã ước nguyện thân thể hai người nhập làm một. Lời ước được chứng giám và xuất hiện một con người vừa nam vừa nữ, hình tượng được thể hiện như là vừa có vú vừa có dương vật.

Trước khi biết mình vốn nên là nam, Callie là một cô bé thuần tính nữ. Callie hiểu và biết mình đẹp, đã ngắm nghía bản thân nhiều giờ liền trước gương và cũng có nhu cầu làm đẹp như các bé gái khác. Nhưng khi các cô bạn đồng trang lứa bắt đầu thay đổi cơ thể rõ ràng ở tuổi dậy thì: phát triển ngực và có kinh nguyệt, dường như chẳng có gì tương đồng xuất hiện ở Cal/Calliope cả: cô vẫn thấp bé và phẳng lì. Điều này dẫn đến nỗi lo sợ trong Callie. Sự biến đổi khác diễn ra và tác động lên thân thể cũng như tâm lý, được Callie cảm nhận được ngay khi cô/anh bước vào tuổi mười ba. Từ một bé gái, sau một vụ tai nạn, Cal phát hiện mình là bé trai – đây quả thật là một chuyện khó chấp nhận với tất cả mọi người. Giới tính con người có nhiều bí ẩn mà không phải khoa học hay một cá nhân nào có thể lí giải được. Hoảng loạn và lạc lõng là biểu hiện đầu tiên khi Cal/Calliope biết giới tính thật của mình. Người ta tự hào khẳng định bản thân mình là độc nhất, là khác biệt, nhưng họ không chấp nhận sự khác biệt trong giới tính của người khác. Nhớ lại xem, trong quá khứ, những người đồng tính đã bị đối xử như thế nào? Trong Chuyện tình núi Brokeback, một người đàn ông bị đánh chết do người ta bảo ông ấy là đồng tính, bệnh hoạn, biến thái, điều đó ám ảnh Jack. Jack chọn việc kết hôn với một người phụ nữ, thực hiện vai trò là chồng, là cha. Jack muốn sống với Ennis, nhưng vì Ennis bị ám ảnh bởi sự kiện lúc còn nhỏ, khi một người bị nghi là đồng tính bị giết, Jack từ chối và y đánh mất hạnh phúc của mình.

Với Cal/Callie, trở thành một người đặc biệt vô tình biến y thành chuột lang thí nghiệm của y học. Di chuyển từ bệnh viện này đến bệnh viện khác để người ta sờ, nắn, bóp, quyền riêng tư và quyền thân thể mất đi những vẫn không giúp được gì cho Cal cả. Khủng hoảng, chối bỏ căn cước mà bác sĩ và bố mẹ lựa chọn, Cal/Callie quyết định chạy trốn. Chạy trốn là quá trình tìm lại căn cước, tìm lại bản thân. Căn cước là từ dùng để chỉ quê quán lai lịch, tiểu sử hành tung và bản sắc riêng của một người. Dù thời gian làm trí nhớ ta mù mờ đi, dù nhiều thứ ta thấy khi còn trẻ đã mất hút, dù mọi thứ bị con người lãng quên thì tế bào vẫn nhớ. Vậy nên để là chính mình, mỗi con người phải tìm về với căn cước của họ. Hành trình phiêu lưu của chiếc gen là hệ quả mà Cal/Calliope “phải” gánh chịu. Chính sự đặc biệt của nó đã mang lại cảm giác lạ lùng như cách nó xuất hiện.

Mang cảm giác lạc lõng và đề phòng, không thấy bản thân giống những đứa trẻ bỏ nhà đi bụi khác và biết giới tính của bản thân cũng vậy, Cal/Callie tránh xa chúng để không gây rắc rối cho bản thân. Thời điểm xảy ra chuyện, Cal/Callie vẫn là một đứa trẻ vị thành niên. Việc đó khiến Cal/Callie nhanh chóng lấy lại tinh thần, với suy nghĩ người trẻ thường không thể sống mà ôm nỗi buồn quá lâu được, Cal/Callie lấy lại tinh thần khi bỏ nhà đến sống ở Đức. Sự khác biệt cũng làm Cal/Calliope trở nên trầm tính hơn “Tôi sống đời mình và chăm sóc những vết thương riêng”. Khi rời xa vòng tay của bố mẹ, thận trọng là lựa chọn của Cal/Callie.

Nhu cầu được thấu hiểu, được chia sẻ của người lưỡng tính rất bình thường và giống với tất cả những người bình thường. Không phải ai cũng kì thị người liên giới tính nhưng bản thân họ mang mặc cảm. Biết được tâm lí này, bác sĩ Pete Luce an ủi Cal bằng câu nói: “Tất cả những con người đang sống này, những đứa con trai và con gái của Chúa, bạn muốn biết rằng, dù này dù nọ, họ vẫn là con người”. Ông bà Lefty và Desdemona chạy khỏi quê hương vì chiến tranh, để rồi hơn năm mươi năm sau, Cal/Callie cũng bỏ chạy, dưới bí danh của một giới tính mới, tái sinh với dáng hình mới, cũng giống Lefty và Desdemona ngày ấy. Trên hành trình này, một mình Cal/Callie bước đi. Cal/Callie chấp nhận và hoàn thiện bản thân với tư cách là một người thiểu số, y cũng không còn tự ti về việc là thiểu số của bản thân. Đó là tín hiệu đáng mừng cho chính y và những người liên giới tính.

*

Hình ảnh hoa huệ tây không chỉ xuất hiện ở bìa sách, nó còn được nhắc đến trong nội dung tác phẩm. Nghệ tây (crocus sativus) là một loài hoa đặc biệt. Nhụy hoa huệ tây (saffron) được tìm thấy đầu tiên ở Hy Lạp, đây cũng là quê gốc của dòng tộc nhân vật chính cũng như bản thân tác giả. Về bản thân huệ tây, đây là loài hoa lưỡng tính, có cả nhị (đực) và nhụy (cái) trên cùng một hoa. Đặc điểm này cũng giống như nhân vật chính của tác phẩm bị kẹt giữa thế lưỡng nan về giới.

Trong thời Lưỡng Hà cổ, cây hoa nghệ tây được liên tưởng đến thần Ishtar, nữ thần hiện thân cho cả tạo hóa (sinh sản/ người phụ nữ) lẫn hủy diệt (chiến tranh/ người đàn ông). Nhà thảo dược đương đại Matthew Wood viết: “Hoa này mang vẻ thuần khiết (đại diện cho phái nữ) nhưng lại mang dục tính mạnh (người đàn ông).” Phần củ ở dưới tượng trưng cho cơ quan sinh sản của người phụ nữ, còn phần thân ở trên lại giống của người nam. Loài cây này mang hình dáng, bản chất của cả hai giới và nhiều ý nghĩa, là một đại diện, biểu tượng của người lưỡng tính.

*

Lưỡng giới trao cho người đọc cơ hội đối mặt và cảm nhận đời sống của nhân vật liên giới tính: trong xã hội tiêu chuẩn hóa dị tính, việc bản thân là người liên giới tính làm Cal/Callie gặp nhiều rắc rối trong cuộc sống. Dị tính là đa số, việc biến đa số trở thành tiêu chuẩn sẽ giết chết đa dạng và tự do cá nhân. Cal/Callie luôn mang tâm trạng lạc lõng trong xã hội, trong gia đình, trong bản thân và trong tình yêu của chính mình; y mải miết đi trên hành trình tìm kiếm bản dạng giới, hay cũng là hành trình định danh bản thân.

Điều đặc biệt là Jeffrey Eugenides đã lựa chọn Calliope làm người kể chuyện, một nhân vật mang đặc trưng của hai giới, từng là bé gái và sau này trở thành bé trai. Thông qua hành động và cảm nhận của nhân vật này, người đọc có thể nhìn nhận, soi chiếu về hai giới. Cuộc khủng hoảng giới và hành trình tìm giới tính thật cũng là một sự đánh liều số phận của Cal/Callie. May mắn thay Cal/Callie đã được là chính mình, hay nói đúng hơn, nói theo cách nào đó, y hài lòng với lựa chọn của mình.

Hết.

Hoàng Anh

Đọc những bài viết của Hoàng Anh

Phía sau trang sách

Cánh cửa mở vào nội tâm của Maupassant

Published

on

By

Cùng với Chekhov, Guy de Maupassant từ lâu đã được suy tôn là “bậc thầy của thể loại truyện ngắn”. Điều này không chỉ bởi văn phong độc đáo, mà còn nằm ở sự đa dạng về thể loại. Trong đó Horla và những truyện ngắn khác ra mắt gần đây chính là minh chứng cho nhận định này.

Tuy chỉ viết trong vỏn vẹn có 4 thập kỷ, nhưng những di sản mà Maupassant để lại là tương đối lớn. Ông nổi tiếng nhất với các tiểu thuyết cũng như truyện ngắn mang tính hiện thực, hài hước, lãng mạn, như những tập truyện Sáng trăng, Nơi nhà người bạn

Nhà văn nổi tiếng Guy de Maupassant

Nhưng ít người biết ông cũng bén duyên với thể loại kinh dị, và nó cũng truyền cảm hứng cho nhiều tác giả sau này, trong đó có H.P.Lovecraft với Lời hiệu triệu của Cthulhu. Vừa mới ra mắt trong thời gian qua, Horla và những truyện ngắn khác tập hợp 5 tác phẩm có màu sắc kinh dị, siêu nhiên, được Maupassant viết trải dài từ năm 1875 – 1890.

Trí tưởng tượng phong phú

Trong tập truyện Horla và những truyện ngắn khác, bạn đọc có thể thấy rõ 2 giai đoạn mà Maupassant tiến hành tiếp cận thể loại kinh dị. Trong 3 truyện ngắn được viết sớm nhất là Bàn tay bị lột da (1875), Hắn? (1883) và Nỗi sợ (1884), ta đơn thuần thấy đây là một tác phẩm ẩn chứa yếu tố siêu nhiên mà vị tác giả cố gắng khai thác.

Chúng đơn giản xoay quanh những nỗi ám ảnh mà các cá nhân yếu bóng vía hay là nhạy cảm thường cảm nhận được. Chẳng hạn như trong truyện Hắn?, một người đàn ông vì bị ám ảnh bởi một bóng ma trong căn phòng của mình mà đã cưới lấy một người vợ mới, hay ở Nỗi sợ, chỉ vì trên tuyến tàu lửa khi nhìn thấy có 2 người đàn ông xuất hiện trong khu rừng vắng, mà nhân vật chính bỗng dưng cảm thấy trong mình trỗi dậy nỗi sợ chỉ vì không thể lý giải được động cơ của câu chuyện ấy…

Horla và những truyện ngắn khác là tác phẩm mới từ Maupassant

Đây đều là các nhân vật hoàn toàn tỉnh táo, họ nhận thức được những gì xảy ra và khó có thể nói họ có vấn đề riêng về tâm lý. Và vì tính hiện thực đó, Maupassant qua các tác phẩm cũng gửi gắm được bài học của mình. Chẳng hạn trong truyện Bàn tay bị lột da, thông qua nhân vật Pierre B. – một sinh viên trường luật, người xuất thân từ một trong những gia đình danh giá nhất xứ Normandie – ông đã cho thấy chỉ vì chính thói hư vinh cũng như trưởng giả mà y đã mạo phạm đến một phần thân thể của vị phù thủy, từ đó phải chịu cái chết có phần đau đớn.

Hay trong Nỗi sợ, Maupassant cũng khẳng định “cùng với những điều siêu nhiên, nỗi sợ hãi đích thực đã biến mất khỏi hành tinh này, bởi con người ta chỉ thực sự sợ những gì nằm ngoài tầm hiểu biết của mình”. Câu nói này như đại diện cho tất cả những gì ông muốn nhắm tới, về sự nhỏ bé và đầy mông muội của con người với những kỳ bí chưa được lý giải.

Như vậy những tác phẩm này đều được viết bởi một Maupassant khách quan, đứng ở bên ngoài, từ đó đưa ra những lời lý giải hoàn toàn hợp lý. Thế nhưng ở 2 truyện sau là Horla viết năm 1887 và Ai mà biết được? viết năm 1890, thì ta lại thấy có phần ngược lại, khi chính nhà văn dường như không thể thoát được cái bóng của bản thân mình.

Bi kịch của Maupassant

Hai truyện ngắn này có được điểm chung khi nhân vật chính đều là người đàn ông rơi vào loạn trí. Nhân vật chính này đã từng không dưới một lần thừa nhận chính mình như có đến 2 bản thể cùng nhau tồn tại. Một bên kêu gào giữ lại lý trí, trong khi phía còn lại đòi hỏi rất nhiều hành động mang tính tàn phá.

Sự chia đôi này gợi ta nhớ đến trường hợp của bác sĩ Jekyll và ông Hyde tương đối kinh điển trong tác phẩm nổi tiếng của Stevenson. Như vậy chủ đề của Maupassant đã chuyển từ những nỗi sợ tương đối hữu hình thành ra vô hình và khó lý giải, khi được bao bọc bởi những vấn đề có liên quan đến thần kinh cũng như tinh thần.

Tình tiết của những câu chuyện cũng khó nắm bắt. Ở Ai mà biết được?, đó là một người gần như điên loạn bởi sự xuất hiện và rồi biến mất của những vật dụng ngay trong nhà mình một cách liên tục. Còn ở Horla, đó là một sinh vật gần như trong suốt, thứ được nuôi sống bằng sữa và nước, luôn luôn theo dõi vật chủ mà nó bám theo, từ đó khiến họ “sống không bằng chết”.

Maupassant và những ám ảnh tâm trí của bản thân mình

Theo Charlotte Mandell – dịch giả của truyện ngắn này cho nhà xuất bản Melville House, thì “horla” là từ ghép của “hors” (“bên ngoài”), và “la” (“ở đó”). Vì vậy “horla” có nghĩa là “người ngoài cuộc”, “người bên ngoài”, và có thể được dịch theo nghĩa đen là “cái gì ở ngoài đó”. Thế nhưng cũng có những lý giải khác, khi nhiều người xem đây là một sự kết hợp của cụm “hors-la-loi” (tức “ngoài vòng pháp luật”) và “horsain” (có nghĩa là “thứ lạ lùng”).

Thế nhưng dù có là gì, thì Maupassant như đang cảm nhận những nỗi ám ảnh đến từ sâu hơn và khó lý giải hơn. Xét về bối cảnh của chính tác giả, thì những truyện này tương đối trùng khớp với thời kỳ mà ông có những dấu hiệu đầu tiên của chứng điên loạn, khi ông xuất hiện nhân cách kép và ngày càng gặp nhiều ảo giác do bệnh giang mai. Một năm sau đó, vào năm 1891, ông có dấu hiệu của chứng hoang tưởng.

Có thể là bởi xuất phát từ những trải nghiệm chính ông kinh qua, nên 2 truyện này trở nên chân thật và đầy ám ảnh đối với người đọc. Nếu được viết từ một người tỉnh táo, thì đây chính là tài năng của sự tưởng tượng. Nhưng với Maupassant thì đó là nỗi đau và sự sợ hãi mà bản thân ông mong muốn giải bày thông qua việc viết.

Như vậy đi từ mục đích sáng tạo ở buổi ban đầu, Maupassant dần dần chuyển sang hành động kể lại điều đã trải qua, và làm sáng tỏ chứng bệnh tâm lý mà thời kỳ đó còn bị che khuất bởi những định kiến mà những quan điểm mang tính thủ cựu. Có thể nói Horla và những truyện ngắn khác không chỉ mở ra cánh cửa khám phá một Maupassant rất khác, mà có thể nói cũng đã góp phần giúp ta hiểu được những gì đã từng xảy đến với một trong những nhà văn lớn của nhân loại.

Anh Đoàn

Đọc bài viết

Phía sau trang sách

Tư duy tích cực tạo thành công: Chìa khóa dẫn đến sự thịnh vượng

Published

on

Tác phẩm Tư duy tích cực tạo thành công của Napoleon Hill và William Clement Stone là một cẩm nang hữu ích cho bất kỳ ai muốn đạt được thành công trong cuộc sống. Cuốn sách không chỉ cung cấp những nguyên tắc và chiến lược hiệu quả để phát triển bản thân mà còn truyền cảm hứng giúp người đọc có một thái độ tích cực hơn trong cuộc sống.

Tư duy tích cực tạo thành công là một tác phẩm kinh điển về chủ đề phát triển bản thân, đã truyền cảm hứng cho hàng triệu người trên khắp thế giới kể từ khi xuất bản lần đầu tiên vào năm 1959, khẳng định vị trí là một trong những tác phẩm self-help bán chạy nhất mọi thời đại. Cuốn sách vén màn bí mật về sức mạnh của tư duy tích cực, giúp người đọc khai phá tiềm năng bản thân và đạt được những thành tựu phi thường trong mọi lĩnh vực của cuộc sống.

Tìm kiếm hình mẫu thành công làm ngọn đuốc soi sáng

Để có thêm động lực và định hướng rõ ràng cho bản thân, tác giả gợi ý rằng người đọc có thể xây dựng cho riêng mình một hình mẫu thành công từ những câu chuyện về người thật, việc thật trong sách báo. Khi dành thời gian tìm hiểu về hành trình của họ, những khó khăn họ đã trải qua và cách họ vượt qua những thử thách đó, ta sẽ có thể biến kinh nghiệm của họ trở thành ngọn đuốc soi sáng cho con đường của chính mình.

Bên cạnh đó, người đọc còn có thể chọn một bức ảnh có ý nghĩa đặc biệt với mình để đặt câu hỏi khi nhìn bức ảnh đó rồi lắng nghe câu trả lời từ chính tâm thức bật ra. Bức ảnh ấy có thể là hình ảnh về mục tiêu ta muốn đạt được, về một giá trị sống mà ta trân trọng, hoặc đơn giản là một khoảnh khắc đẹp trong cuộc sống. Chẳng hạn, nếu người đọc muốn mua nhà nhưng chưa có đủ tài chính thì có thể chọn bức ảnh về một mái ấm khang trang để ngắm nhìn và tự đặt câu hỏi rằng mình phải làm gì để đạt được số tiền sở hữu căn nhà đó. Không phải lúc nào câu trả lời cũng đến ngay lập tức, nhưng việc cụ thể hóa mục tiêu bằng một hình ảnh rõ ràng sẽ giúp người đọc tăng cường ý chí nỗ lực.

Ngoài ra, niềm tin chính là nguồn động lực mạnh mẽ giúp mỗi người vượt qua mọi khó khăn và chinh phục mục tiêu. Trong Tư duy tích cực tạo thành công, có một công thức thường được lặp lại nhiều lần để người đọc ghi nhớ là: “Khi con người người nghĩ đến và tin tưởng vào điều gì, họ sẽ có thể đạt được điều đó với thái độ tích cực.” Đây cũng là một biện pháp tự truyền cảm hứng.

Hai mặt của tình thế bức bách: Thành công hay tội ác?

Tư duy tích cực tạo thành công nhấn mạnh tầm quan trọng của tính lương thiện trong hành trình chinh phục thành công. Cuốn sách khẳng định rằng thành công đích thực không chỉ dựa trên kết quả mà còn phải dựa trên phương tiện đạt được kết quả đó. Một người có thể đạt được thành công bằng mưu mô, thủ đoạn, nhưng đó chỉ là thành công giả tạo, thiếu bền vững và không mang lại hạnh phúc thực sự.

Ngoài ra, tác giả cũng bàn về vai trò của tình thế bức bách: nó như một con dao hai lưỡi, có thể đưa con người đến đỉnh cao thành công hoặc vực sâu tội ác. Tình thế bức bách là phép thử cho bản lĩnh, đạo đức và thái độ của mỗi cá nhân. Khi đó, thành công hay thất bại đều tùy thuộc vào thái độ:

Thái độ tích cực: Khi đối mặt với nghịch cảnh, người có thái độ tích cực sẽ biến nó thành cơ hội để học hỏi, rèn luyện và phát triển bản thân. Họ kiên trì nỗ lực, tìm kiếm giải pháp sáng tạo và không bao giờ bỏ cuộc. Nhờ vậy, họ có thể vượt qua mọi khó khăn và gặt hái thành công.

Thái độ tiêu cực: Ngược lại, người có thái độ tiêu cực sẽ dễ dàng gục ngã trước nghịch cảnh. Họ chìm trong lo âu, sợ hãi, nghi ngờ bản thân và tìm kiếm lối thoát bằng những hành vi sai trái. Hậu quả là họ đánh mất bản thân, vướng vào vòng xoáy tội ác và tự hủy hoại cuộc đời.

Từ đó, cuốn sách đưa ra hai công thức đơn giản nhưng đầy ý nghĩa:

Tình thế bức bách + Thái độ tích cực = Thành công
Tình thế bức bách + Thái độ tiêu cực = Tội ác.

Cân bằng cảm xúc, rèn luyện tư duy và đặt mục tiêu hiệu quả

Cảm xúc và lý trí đóng vai trò quan trọng trong cuộc sống, mỗi người cần học cách cân bằng hai yếu tố này để đưa ra những quyết định sáng suốt. Đôi khi, ta cũng nên lắng nghe tiếng nói con tim và hành động theo những gì mình mong muốn. Chẳng hạn, khi phải lựa chọn giữa một công việc ổn định và theo đuổi đam mê, ta cần cân nhắc kỹ lưỡng cả hai yếu tố cảm xúc và lý trí: ta thường dùng lý trí để đánh giá khả năng thực tế của bản thân, nhưng cũng đừng quên lắng nghe tiếng nói con tim.

Bên cạnh đó, tác giả cho rằng mỗi ngày, chúng ta chỉ cần dành 1% thời gian để nghiên cứu, suy nghĩ, lập kế hoạch là đã có nhiều cơ may tạo ra sự khác biệt để vươn đến thành công. Theo ước tính, một ngày có 1440 phút, 1% sẽ tương ứng với 14 phút. Trong 14 phút đó, nếu ta chú tâm suy nghĩ kế hoạch cho những gì mình muốn làm, ta sẽ dần hình thành được thói quen có thể suy nghĩ sáng tạo mọi lúc, mọi nơi: khi rửa chén, lúc ngồi trên xe bus, hay thậm chí là khi đang tắm.

Ngoài ra, đặt mục tiêu là bước đầu tiên và quan trọng nhất trên kế hoạch chinh phục thành công. Mục tiêu rõ ràng sẽ giúp bạn tập trung nỗ lực, đưa ra quyết định sáng suốt và duy trì động lực để đạt được ước mơ. Tuy nhiên, không phải ai cũng biết cách đặt mục tiêu hiệu quả. Dưới đây là bốn điều quan trọng cần ghi nhớ khi đặt mục tiêu:

1. Viết mục tiêu ra giấy: Khi viết mục tiêu ra giấy, bạn sẽ buộc bản thân phải suy nghĩ cẩn thận về những gì mình muốn đạt được. Việc này giúp bạn tập trung và ghi nhớ mục tiêu tốt hơn.

2. Đặt mốc thời gian: Mốc thời gian giúp bạn chia mục tiêu lớn thành những mục tiêu nhỏ hơn, dễ quản lý hơn. Việc này giúp bạn có động lực để hoàn thành từng bước và tiến đến mục tiêu cuối cùng.

3. Đặt tiêu chuẩn thật cao: Khi đặt tiêu chuẩn cao, bạn sẽ buộc bản thân phải nỗ lực hết mình và phát huy tiềm năng tối đa.

4. Đặt mục tiêu cao: Mục tiêu cao sẽ giúp bạn có tầm nhìn xa và thúc đẩy bạn không ngừng phát triển.

Nhìn chung, Tư duy tích cực tạo thành công đã mang đến cho người đọc những bài học quý giá về sức mạnh của tư duy tích cực trong việc gặt hái thành công và hạnh phúc. Hãy nhớ rằng, thành công không phải là đích đến mà là hành trình. Hành trình chinh phục thành công bắt đầu từ việc nuôi dưỡng tư duy tích cực. Ta cần tin tưởng vào bản thân và những điều kỳ diệu mà cuộc sống có thể mang lại. Từ đó, ước mơ sẽ thành hiện thực bằng chính những hành động mà ta lựa chọn ngay từ hôm nay.

Hoàng Đức Nhiên

Đọc bài viết

Phía sau trang sách

Tình yêu đích thực từ góc nhìn của Thiền sư Thích Nhất Hạnh

Published

on

Trong vô vàn những định nghĩa về tình yêu, quan điểm của Thiền sư Thích Nhất Hạnh về “tình yêu đích thực” được trình bày trong cuốn tiểu luận True Love đã mang đến một sự giản dị, mộc mạc nhưng lại ẩn chứa sức mạnh lay động tâm hồn sâu sắc.

Tình yêu là một trong những chủ đề muôn thuở của nhân loại, luôn ẩn chứa sức hút mãnh liệt và khơi gợi những cảm xúc dạt dào. Nhưng không phải ai cũng hiểu được bản chất của tình yêu. Trong True Love, Thiền sư Thích Nhất Hạnh đã kể lại câu chuyện Thiếu phụ Nam Xương, rồi từ đó rút ra một kết luận mà thoạt nghe sẽ có vẻ vô cùng đơn giản nhưng càng ngẫm nghĩ thì ta càng thấy sự đơn giản ấy chính là vẻ đẹp của minh triết.

Thông điệp ý nghĩa từ ba câu khẳng định trong tình yêu

Đối với thầy, câu chuyện Thiếu phụ Nam Xương có kết cuộc đau lòng là vì người chồng đã không chịu lắng nghe người vợ, anh cứ gạt phăng lời vợ nói, cơn nóng giận đã che mờ tình yêu và cả lí trí. Vợ anh cũng đã không cố gắng hơn để giải thích rõ ràng cho anh hiểu. Chính vì vậy, cả hai người đều không thực sự hiện diện khi ở trước mặt đối phương, họ ở đó nhưng không thực sự ở đó, mà ở trong khoảnh khắc khác, trong những chiều không gian khác. Bi kịch của họ đơn giản chỉ là như thế.

Từ đó, Thiền sư Thích Nhất Hạnh rút ra kết luận là tình yêu thực sự chỉ đơn giản nằm gói gọn trong ba câu sau đây: “Anh ở đây. Em ở đây. Và anh ở đây vì em.” (I’m here. You’re here. And I’m here for you.)

Câu khẳng định đầu tiên mang hàm ý rằng anh đang ở đây ngay giây phút này khi đối diện với em, bằng trăm phần trăm con người anh, không hề có sự tản mác, phân mảnh đi bất cứ nơi đâu. Một điều tưởng chừng đơn giản nhưng thực ra trong cuộc sống bộn bề lo toan này, việc một người có thể tập trung hoàn toàn tinh lực của mình khi đối diện trước một người mà không bị vướng bận tâm trí bởi điều gì khác cũng thật khó khăn.

Câu khẳng định thứ hai là sự tiếp nối ý từ câu đầu tiên. Anh ở đây, và em cũng đang ở đây. Anh ghi nhận sự tồn tại của em, em ghi nhận sự tồn tại của anh. Vì em cũng đang ở đây cùng anh trong giây phút này nên em không cô đơn, em không tản mác, em không phân mảnh.

Câu khẳng định cuối cùng là một sự quả quyết mạnh mẽ: Anh ở đây, anh dành hết trăm phần trăm sự tồn tại của mình ở đây là vì chính em, không vì ai khác cả. Vậy nên, em có thể yên tâm mà thổ lộ tất cả mọi điều với anh, vì trong giây phút này, hai ta đều cùng hiện diện.

Thông qua đó, ba câu khẳng định này có thể diễn dịch lại thành thông điệp phổ quát như sau:

“I’m here”: Khẳng định sự hiện diện trọn vẹn của bản thân, tập trung toàn bộ sự chú ý và tinh thần vào người mình yêu thương. Trong cuộc sống bận rộn, việc dành trọn vẹn tâm trí cho đối phương là điều không dễ dàng, nhưng lại vô cùng quan trọng để xây dựng một mối quan hệ bền vững.

“You’re here”: Ghi nhận sự tồn tại của đối phương, trân trọng và thấu hiểu cảm xúc, suy nghĩ của họ. Khi cả hai cùng “ở đây”, họ sẽ cảm nhận được sự kết nối sâu sắc, chia sẻ và đồng hành trong từng khoảnh khắc.

“And I’m here for you”: Thể hiện sự cam kết, dành trọn vẹn tình yêu và sự quan tâm cho người mình yêu thương. Lời khẳng định này mang đến sự an toàn, tin tưởng và là động lực để cả hai cùng vượt qua mọi khó khăn trong cuộc sống.

Ba câu khẳng định tưởng chừng đơn giản nhưng lại là chìa khóa cho một tình yêu đích thực. Khi cả hai cùng thực hiện được điều này, họ sẽ tạo dựng được một mối quan hệ bền chặt, hạnh phúc và viên mãn.

Chìa khóa cho một mối quan hệ tốt đẹp

Để thực sự “ở đây”, mỗi người cần học cách chánh niệm, tập trung vào hiện tại, gạt bỏ những lo toan, phiền muộn và dành trọn vẹn sự chú ý cho đối phương. Khi ta thực sự “ở đây”, ta sẽ cảm nhận được trọn vẹn vẻ đẹp của người mình yêu thương, thấu hiểu những cảm xúc và suy nghĩ của họ. Tình yêu đích thực không chỉ là những khoảnh khắc lãng mạn, mà còn là sự cam kết và hy sinh cho nhau. Khi yêu thương ai đó, ta sẵn sàng dành thời gian, tâm sức và cả những hy sinh để cùng nhau xây dựng hạnh phúc.

Giao tiếp là yếu tố quan trọng trong bất kỳ mối quan hệ nào. Lắng nghe cởi mở và thấu hiểu là cách để hai người kết nối tâm hồn, chia sẻ những cảm xúc, suy nghĩ và vun đắp tình cảm ngày càng sâu sắc.

Tình yêu đích thực không phải là điều viển vông hay khó kiếm tìm. Nó ẩn chứa trong chính những khoảnh khắc bình dị của cuộc sống, chỉ cần ta biết trân trọng và gìn giữ. Ba câu khẳng định của Thiền sư Thích Nhất Hạnh là lời nhắc nhở nhẹ nhàng nhưng sâu sắc về cách để vun đắp và nuôi dưỡng một tình yêu thương bền chặt, viên mãn.

Hoàng Đức Nhiên

Đọc bài viết

Cafe sáng