Phía sau trang sách

Lưỡng giới: Cánh cửa đi vào cảm xúc của người liên giới tính

Published

on

Chủ đề đồng tính, song tính và hoán tính đã xuất hiện từ lâu trong thần thoại phương Tây, từ trường ca Iliad của Homer với mối quan hệ của Achilles (chiến binh vĩ đại nhất của quân Hy Lạp trong cuộc chiến thành Troia, con trai của Thetis) với Patroclus (con trai của Menoetius) đến mối quan hệ giữa Alexander Đại đế (con trai của nữ hoàng Olympias) với người yêu là Hephaestion (con trai của Amyntor, là một nhà quý tộc người Macedonia cổ đại và là một vị tướng trong quân đội của Alexander Đại đế). Văn học hiện đại viết về đồng tính có Chết ở Venice (Thomas Mann), Một con người (Christopher Isherwood), Chuyện tình núi Brokeback (Annie Proulx), Gọi em bằng tên anh (André Aciman); viết về đề tài chuyển giới có Orlando (Virginia Woolf), Cô gái Đan Mạch (David Ebershoff). Tuy nhiên, viết về người liên giới tính (lưỡng tính) hầu như chưa có tác phẩm nào ngoài Lưỡng giới (Middlesex) của Jeffrey Eugenides.

Liên giới tính là trạng thái mà một cá nhân bẩm sinh đã có kết cấu cơ quan sinh sản hoặc bộ phận sinh dục không hoàn toàn thuộc về đặc điểm sinh học của nam hay nữ theo cách hiểu thông thường. Thần thoại Hy Lạp từng nhắc đến Tiresias, người khi thì là đàn ông, khi thì là phụ nữ. Chuyện kể rằng, nhà tiên tri Tiresias khi thấy hai con rắn đang ân ái trong rừng cây xanh um đã dùng gậy đập chúng. Vậy là, ông bị biến đổi từ đàn ông thành đàn bà. Trong suốt bảy năm, ông sống dưới hình hài yểu điệu của một người phụ nữ. Năm thứ tám, ông gặp lại cặp rắn và nói: “Từ khi đánh chúng mày một gậy thì sức mạnh kì diệu đến và thay đổi giới tính của người đánh. Bây giờ ta lại đánh chúng mày một lần nữa đây”. Thế là ông trở lại hình dạng đàn ông như vốn có. Vào thế kỉ XX, trạng thái liên giới tính một lần nữa tái xuất trong Lưỡng giới thông qua nhân vật trung tâm Cal, hay Calliope Stephanides, một người “sinh ra hai lần: lần đầu là bé gái, vào một ngày không sương khói khác thường ở Detroit tháng Giêng năm 1960; rồi lần nữa là thằng nhóc thiếu niên, ở phòng cấp cứu gần thành phố Petosky, tiểu bang Michigan, tháng Tám năm 1974”.

Lưu ý: Nội dung dưới đây tiết lộ nhiều tình tiết quan trọng của tác phẩm Lưỡng giới.

*

Liên giới tính như là hậu quả của tội loạn luân

“Chị hứa sẽ tìm cho em một cô gái Hy Lạp tử tế. E hèm. Chị chứ ai vào đây nữa.

Hồi ức trong Lưỡng giới bắt đầu như cuộn băng tua ngược, truy tìm căn nguyên từ đời thứ nhất ở bán đảo Tiểu Á. Khoảnh khắc mở đầu mang hơi hướm Homer và có không khí của thần thoại Hy Lạp: Jeffrey Eugenides đã “khai quật” cả một niên sử dòng họ Stephanides, một chuyến chu du huy hoàng trước khi Cal/Calliope xuất hiện trên thế giới này, chiếc gen thiếu đi enzyme 5-alpha-reductase đã tồn tại và vượt qua những hành trình lưu lạc kỳ vĩ – từ bán đảo Tiểu Á thời loạn lạc tới vùng Trung Tây nước Mỹ thời Cấm Rượu những năm 1920, thời Đại Suy Thoái, thời bùng nổ kinh tế – chiếc gen ấy được giấu kín qua những đời người và những ái lực vừa trần tục vừa thần thoại, ái lực đã đẩy bà nội Desdemona vào tội loạn luân với cậu em ruột Lefty.

Như trong Những bông hoa trên tầng áp mái của V. C. Andrews hay Chuyện tình núi Brokeback của Annie Proulx, tình cảm thường nảy nở giữa những người cùng được sinh ra và sống cùng nhau trong môi trường thiếu thốn tình thương hay bị cách ly khỏi xã hội. Như trong thần thoại Hy Lạp, Zeus và Hera lấy nhau, Lefty và Desdemona từ mối quan hệ chị em, họ trở thành vợ chồng. Trải qua hành trình gian nan để đến được nước Mỹ, trên chuyến tàu định mệnh, Desdemona và Lefty tự thay đổi chính mình, biến bản thân trở thành những con người khác. Dẫu đã rời vùng núi Bithynios, Hy Lạp đến Detroit, Mỹ, mặc cảm và lo sợ vẫn luôn ám ảnh Desdemona. Nỗi lo kéo dài khi bà mang thai và sinh con đứa đầu tiên, Milton. Khi biết được hầu hết các ca dị dạng ở trẻ em là do hôn nhân cận huyết, mặt Desdemona trắng bệch ra. “Ngu độn, rối loạn đông máu di truyền. Cứ nhìn nhà Romanov thì biết ngay. Cứ nhìn bất cứ gia tộc hoàng gia nào. Đột biến gen, tất cả bọn họ”.

Những tưởng lời nguyền hôn nhân cận huyết sẽ dừng lại khi họ đặt chân đến vùng đất mới, nhưng bi kịch này một lần nữa diễn ra với chính bố mẹ của Calliope – Milton và Tessie. Mặc cho sự ngăn cản của gia đình, Milton nhất quyết lấy bằng được bà chị họ của mình. Lời nguyền lại ám lên gia đình họ Stephanides: chị em họ lấy nhau. Desdemona đã rất lo sợ điều này, bà kịch liệt ngăn cản việc Milton và Tessie mang thai đứa thứ hai – nhân vật chính Cal/Calliope. Cây phả hệ nhà Stephanides là một gia phả đầy những rắc rối do quan hệ gần và vai vế chồng chéo, cũng đầy những chiếc gen đột biến lặn ẩn nấp trong mỗi cá nhân mà mắt thường không nhìn thấy được. Chiếc thìa của Desdemona xuất hiện như một lời cảnh báo, thông báo về những lưu ý trong giới tính đứa trẻ sắp sinh. Chiếc thìa bạc chưa từng đoán sai bao giờ: Thật sự, Calliope là một bé trai chứ không phải bé gái.

Định mệnh loạn luân đeo bám gia đình nhà Stephandies. Bí mật này bị thời gian chôn kín, cho đến khi cô bé Callie ngày xưa nay trở về nhà với thân phận và hình hài của một cậu trai. “Một người được thừa kế nhà cửa, số khác thừa kế tranh hay tay kéo vĩ cầm được bảo hiểm ở mức cao. Thậm chí số khác còn được nhận tủ tansu Nhật Bản hoặc một cái tên rất nổi. Tôi thì được nhận cái gen lặn ở nhiễm sắc thể số năm và vài thứ bảo vật gia truyền rất quý hiếm”. Cal/Callie là người “thừa kế” một chiếc gen thiếu đi enzyme 5-alpha-reductase, điều đó khiến Cal/Callie trở thành người liên giới tính.

Lạc lõng trong tình yêu

Một người liên giới tính sẽ có xu hướng tình dục thế nào? Họ sẽ yêu ra sao, có giống những người bình thường không? Đó hẳn là một vấn đề đáng chú ý khi nói về tình yêu của những người liên giới tính. Nhà tiên tri Tiresias, một người là nam nhưng đã có bảy năm sống dưới hình hài của nữ và sau đó trở lại thành nam trong trường ca Biến thể của Ovid đã phán: “Nếu niềm vui ái tình là mười phần, thì ba lần ba thuộc về đàn bà. Một phần thuộc về đàn ông”.

Khi người ta muốn có cuộc sống bình thường thì không thể yêu một tình yêu bất thường, mà Cal/Calliope lại là một người có tình yêu bất thường, ít nhất là so với quan niệm tình yêu của xã hội lúc bấy giờ. Đối Tượng Mơ Hồ, sau được gọi với cái tên Đối Tượng, là nhân vật làm Cal cảm nhận những thay đổi đầu tiên trong suy nghĩ và xu hướng tính dục của bản thân. Tình bạn, sự thu hút của Cal/Callie với Đối Tượng biến thành thứ tình yêu tuổi mới lớn từ lúc nào không hay.

Tuy nhiên, trong chuyến dã ngoại với gia đình Đối Tượng, việc có một người con trai thích Cal/Callie được tiết lộ, điều đó chứng tỏ Cal/Callie có sức hút với cả hai giới. Cal cũng đã từng quan hệ với anh trai Đối Tượng, Jerome, nhưng hai người dường như thấy điều gì đó không bình thường, chính xác hơn là phía Cal/Callie. “Đau như bị dao đâm, đau như bị lửa bén. Nó rạch toạc vào trong người tôi. Nó xé toác bụng tôi lên tận núm vú. Tôi thở hổn hển; tôi mở mắt ra; tôi nhìn lên và thấy Jerome nhìn xuống mình. Bọn tôi há hốc mồm nhìn nhau và tôi biết anh biết. Jerome biết tôi là cái gì, cũng như tôi bất chợt nhận ra, lần đầu tiên hiểu rõ ràng tôi không phải con gái mà là một thứ gì đó ở giữa”. Qua trải nghiệm với Jerome, Cal/Callie nhận ra bản thân không phải là một cô gái, cũng không phải là một người có thể dùng tên gọi để chỉ đúng tên tức thì, mà là một cái gì đó ở giữa, giữa nam và nữ, không biết mình là nam hay nữ.

Đây cũng là lúc Cal/Callie lờ mờ nhìn thấy được sự bất thường của bản thân. Mâu thuẫn được đẩy lên cao trào khi chuyện của Cal/Callie và Đối Tượng bị Jerome bắt gặp và cảnh báo: “Chia tay đứt đuôi nòng nọc ở đây nhé, Stephanides nhé. Xéo khỏi đây và đừng bao giờ quay lại nữa. Với cả đừng bén mảng lại gần em gái anh”. Sau lời đuổi cổ của Jemome, Callie bỏ đi, chạy trốn khỏi căn nhà đó. Tai nạn xảy ra và mọi chuyện đi theo một hướng khác mà chính Cal/Callie và cả gia đình y đã thật khó để chấp nhận.

Cal/Callie y không tự tin về cơ thể mình. Về sau này, khi đã là một người đàn ông, y vẫn chạy trốn với mặc cảm thân thể và không dám quan hệ với một ai. Cal/Callie sợ những người kia sẽ phát hiện ra khiếm khuyết cơ thể, sợ họ sợ hãi y, họ bỏ y… Cal/Callie có từng yêu, nhưng mặc cảm giới tính và thân thể làm y luôn chạy trốn và biệt tích trước khi lên giường cùng họ. “Nhưng thứ bảo vệ cuối cùng, cái quần đùi thùng thình, cái quần đùi kín đáo thì tôi không cởi ra. Không bao giờ mà tôi bỏ đi, phịa ra lý do nào đó. Tôi bỏ đi và không bao giờ gọi lại cho họ nữa. Hệt như một thằng đàn ông”. Cal/Calliope tự ti với bản thân hay chính bản thân y biết được mọi chuyện sẽ không có hồi kết, tệ hơn, y sợ những người yêu y, quan hệ với y biết được giới tính thật, một điều mà họ khó chấp nhận được. “Chả có lí do gì đề cập những thứ lập dị của tôi, việc tôi lang thang trong mê cung suốt nhiều năm qua, tránh bị nhìn thấy. Và tránh cả tình yêu nữa”.

Hành trình đi tìm bản dạng giới: Lạc lõng trong xã hội

Trong thần thoại Hy Lạp đã từng xuất hiện hình ảnh người lưỡng giới (liên giới tính). Hai vị thần Hermes và Aphrodite đã ghép tên họ để đặt cho con trai là Hermaphroditos. Tiên nữ Salmacis đem lòng yêu Hermaphroditos nhưng bị từ chối, Salmacis đã ước nguyện thân thể hai người nhập làm một. Lời ước được chứng giám và xuất hiện một con người vừa nam vừa nữ, hình tượng được thể hiện như là vừa có vú vừa có dương vật.

Trước khi biết mình vốn nên là nam, Callie là một cô bé thuần tính nữ. Callie hiểu và biết mình đẹp, đã ngắm nghía bản thân nhiều giờ liền trước gương và cũng có nhu cầu làm đẹp như các bé gái khác. Nhưng khi các cô bạn đồng trang lứa bắt đầu thay đổi cơ thể rõ ràng ở tuổi dậy thì: phát triển ngực và có kinh nguyệt, dường như chẳng có gì tương đồng xuất hiện ở Cal/Calliope cả: cô vẫn thấp bé và phẳng lì. Điều này dẫn đến nỗi lo sợ trong Callie. Sự biến đổi khác diễn ra và tác động lên thân thể cũng như tâm lý, được Callie cảm nhận được ngay khi cô/anh bước vào tuổi mười ba. Từ một bé gái, sau một vụ tai nạn, Cal phát hiện mình là bé trai – đây quả thật là một chuyện khó chấp nhận với tất cả mọi người. Giới tính con người có nhiều bí ẩn mà không phải khoa học hay một cá nhân nào có thể lí giải được. Hoảng loạn và lạc lõng là biểu hiện đầu tiên khi Cal/Calliope biết giới tính thật của mình. Người ta tự hào khẳng định bản thân mình là độc nhất, là khác biệt, nhưng họ không chấp nhận sự khác biệt trong giới tính của người khác. Nhớ lại xem, trong quá khứ, những người đồng tính đã bị đối xử như thế nào? Trong Chuyện tình núi Brokeback, một người đàn ông bị đánh chết do người ta bảo ông ấy là đồng tính, bệnh hoạn, biến thái, điều đó ám ảnh Jack. Jack chọn việc kết hôn với một người phụ nữ, thực hiện vai trò là chồng, là cha. Jack muốn sống với Ennis, nhưng vì Ennis bị ám ảnh bởi sự kiện lúc còn nhỏ, khi một người bị nghi là đồng tính bị giết, Jack từ chối và y đánh mất hạnh phúc của mình.

Với Cal/Callie, trở thành một người đặc biệt vô tình biến y thành chuột lang thí nghiệm của y học. Di chuyển từ bệnh viện này đến bệnh viện khác để người ta sờ, nắn, bóp, quyền riêng tư và quyền thân thể mất đi những vẫn không giúp được gì cho Cal cả. Khủng hoảng, chối bỏ căn cước mà bác sĩ và bố mẹ lựa chọn, Cal/Callie quyết định chạy trốn. Chạy trốn là quá trình tìm lại căn cước, tìm lại bản thân. Căn cước là từ dùng để chỉ quê quán lai lịch, tiểu sử hành tung và bản sắc riêng của một người. Dù thời gian làm trí nhớ ta mù mờ đi, dù nhiều thứ ta thấy khi còn trẻ đã mất hút, dù mọi thứ bị con người lãng quên thì tế bào vẫn nhớ. Vậy nên để là chính mình, mỗi con người phải tìm về với căn cước của họ. Hành trình phiêu lưu của chiếc gen là hệ quả mà Cal/Calliope “phải” gánh chịu. Chính sự đặc biệt của nó đã mang lại cảm giác lạ lùng như cách nó xuất hiện.

Mang cảm giác lạc lõng và đề phòng, không thấy bản thân giống những đứa trẻ bỏ nhà đi bụi khác và biết giới tính của bản thân cũng vậy, Cal/Callie tránh xa chúng để không gây rắc rối cho bản thân. Thời điểm xảy ra chuyện, Cal/Callie vẫn là một đứa trẻ vị thành niên. Việc đó khiến Cal/Callie nhanh chóng lấy lại tinh thần, với suy nghĩ người trẻ thường không thể sống mà ôm nỗi buồn quá lâu được, Cal/Callie lấy lại tinh thần khi bỏ nhà đến sống ở Đức. Sự khác biệt cũng làm Cal/Calliope trở nên trầm tính hơn “Tôi sống đời mình và chăm sóc những vết thương riêng”. Khi rời xa vòng tay của bố mẹ, thận trọng là lựa chọn của Cal/Callie.

Nhu cầu được thấu hiểu, được chia sẻ của người lưỡng tính rất bình thường và giống với tất cả những người bình thường. Không phải ai cũng kì thị người liên giới tính nhưng bản thân họ mang mặc cảm. Biết được tâm lí này, bác sĩ Pete Luce an ủi Cal bằng câu nói: “Tất cả những con người đang sống này, những đứa con trai và con gái của Chúa, bạn muốn biết rằng, dù này dù nọ, họ vẫn là con người”. Ông bà Lefty và Desdemona chạy khỏi quê hương vì chiến tranh, để rồi hơn năm mươi năm sau, Cal/Callie cũng bỏ chạy, dưới bí danh của một giới tính mới, tái sinh với dáng hình mới, cũng giống Lefty và Desdemona ngày ấy. Trên hành trình này, một mình Cal/Callie bước đi. Cal/Callie chấp nhận và hoàn thiện bản thân với tư cách là một người thiểu số, y cũng không còn tự ti về việc là thiểu số của bản thân. Đó là tín hiệu đáng mừng cho chính y và những người liên giới tính.

*

Hình ảnh hoa huệ tây không chỉ xuất hiện ở bìa sách, nó còn được nhắc đến trong nội dung tác phẩm. Nghệ tây (crocus sativus) là một loài hoa đặc biệt. Nhụy hoa huệ tây (saffron) được tìm thấy đầu tiên ở Hy Lạp, đây cũng là quê gốc của dòng tộc nhân vật chính cũng như bản thân tác giả. Về bản thân huệ tây, đây là loài hoa lưỡng tính, có cả nhị (đực) và nhụy (cái) trên cùng một hoa. Đặc điểm này cũng giống như nhân vật chính của tác phẩm bị kẹt giữa thế lưỡng nan về giới.

Trong thời Lưỡng Hà cổ, cây hoa nghệ tây được liên tưởng đến thần Ishtar, nữ thần hiện thân cho cả tạo hóa (sinh sản/ người phụ nữ) lẫn hủy diệt (chiến tranh/ người đàn ông). Nhà thảo dược đương đại Matthew Wood viết: “Hoa này mang vẻ thuần khiết (đại diện cho phái nữ) nhưng lại mang dục tính mạnh (người đàn ông).” Phần củ ở dưới tượng trưng cho cơ quan sinh sản của người phụ nữ, còn phần thân ở trên lại giống của người nam. Loài cây này mang hình dáng, bản chất của cả hai giới và nhiều ý nghĩa, là một đại diện, biểu tượng của người lưỡng tính.

*

Lưỡng giới trao cho người đọc cơ hội đối mặt và cảm nhận đời sống của nhân vật liên giới tính: trong xã hội tiêu chuẩn hóa dị tính, việc bản thân là người liên giới tính làm Cal/Callie gặp nhiều rắc rối trong cuộc sống. Dị tính là đa số, việc biến đa số trở thành tiêu chuẩn sẽ giết chết đa dạng và tự do cá nhân. Cal/Callie luôn mang tâm trạng lạc lõng trong xã hội, trong gia đình, trong bản thân và trong tình yêu của chính mình; y mải miết đi trên hành trình tìm kiếm bản dạng giới, hay cũng là hành trình định danh bản thân.

Điều đặc biệt là Jeffrey Eugenides đã lựa chọn Calliope làm người kể chuyện, một nhân vật mang đặc trưng của hai giới, từng là bé gái và sau này trở thành bé trai. Thông qua hành động và cảm nhận của nhân vật này, người đọc có thể nhìn nhận, soi chiếu về hai giới. Cuộc khủng hoảng giới và hành trình tìm giới tính thật cũng là một sự đánh liều số phận của Cal/Callie. May mắn thay Cal/Callie đã được là chính mình, hay nói đúng hơn, nói theo cách nào đó, y hài lòng với lựa chọn của mình.

Hết.

Hoàng Anh

Đọc những bài viết của Hoàng Anh

Phía sau trang sách

Patrick Hogan: “Những gì xảy ra ở Việt Nam sẽ không ở lại Việt Nam”

Published

on

By

Mockup_Mua_xuan_vang_lang_Mua_thu_chet_choc_cua_chien_tranh_VN

Patrick Hogan đóng quân tại miền Nam Việt Nam từ tháng 9.1966 đến tháng 6.1969 tại Cam Ranh (Khánh Hòa). Sau khi giải ngũ, ông được bổ nhiệm vào Sở cảnh sát Teaneck với tư cách là nhân viên thực thi pháp luật. Vào năm 2012, sau khi nghe bài phát biểu của cựu Tổng thống Barack Obama về chiến tranh Việt Nam, ông bỗng cảm thấy vô cùng cấp bách để điều tra về việc phơi nhiễm chất độc màu da cam và những hóa chất mà chính quyền Mỹ đã rải xuống Việt Nam trong giai đoạn này.

Khi bắt đầu nghiên cứu, ông chưa từng nghĩ mình sẽ chạm đến những bí mật khổng lồ về các loại hóa chất này. Nhưng sau cái chết của người bạn và cũng là cựu chiến binh Larry White, ý tưởng về Mùa xuân vắng lặng - Mùa thu chết chóc của Chiến tranh Việt Nam đã ra đời. Tác phẩm vừa được Phương Nam Books và NXB Thế giới ấn hành, qua việc chuyển ngữ của dịch giả Nguyễn Văn Minh. Cuộc phỏng vấn sau đây sẽ nói nhiều hơn về tác phẩm ông đã “thai nghén” trong nhiều năm qua.

- “Mùa xuân vắng lặng - Mùa thu chết chóc của Chiến tranh Việt Nam” nói về điều gì, thưa ông?

- Đây là câu chuyện về chiến tranh, câu chuyện về sự giận dữ và cuồng nộ, một cuốn biên niên sử được viết trong đau buồn và hy vọng. Đó là câu chuyện của vô số cựu binh từng phục vụ tại Việt Nam. Đó là một cuốn sách đi sâu vào các hóa chất chết người đã được sử dụng trong suốt cuộc chiến và ảnh hưởng của chúng lên các cựu binh. Nhiều trong số đó vẫn đang được sử dụng trên khắp nước Mỹ, thậm chí cho đến ngày nay. Đó là hành trình phơi bày mọi điều mà chính phủ Hoa Kỳ chưa từng và chưa bao giờ muốn phơi bày ra ánh sáng.

- Điều gì đã truyền cảm hứng cho ông viết về chiến tranh Việt Nam?

- Thực ra tôi chưa bao giờ nung nấu ý định trở thành nhà văn. Cuốn sách ra đời trong một hoàn cảnh gần như ngẫu nhiên. Điều tốt nhất tôi có thể làm gần nửa thế kỷ sau chiến tranh là viết lại “sự phản bội” mà chúng tôi nhận được khi bị buộc phải tiếp xúc với thuốc trừ sâu độc hại và những điều kiện khắc nghiệt của chiến tranh Việt Nam. Tất cả là nỗ lực đưa ra ánh sáng những gì đã xảy ra ở đó để chúng sẽ không bao giờ có khả năng lặp lại với các thế hệ quân nhân mới, với cả gia đình và con cháu họ, thậm chí là cả cháu chắt nữa.

Mùa Xuân Vắng Lặng - Mùa Thu Chết Chóc Của Chiến Tranh Việt Nam

Ban đầu, việc viết sách hay trở thành tác giả là điều xa vời trong tâm trí tôi. Tuy nhiên, ngay sau khi tôi từ Việt Nam trở về, cha tôi đã thúc giục tôi nộp đơn yêu cầu bồi thường khuyết tật lên Bộ Cựu chiến binh (DVA) vì những vấn đề y tế mà tôi gặp phải trong thời gian phục vụ quân ngũ. Tôi bắt đầu quá trình này không mấy nhiệt tình và nhanh chóng bị cuốn hút bởi cuộc sống dân sự mới.

Tôi không truy tầm lại chúng suốt nhiều thập kỷ, cho đến vào một ngày tháng 5 của năm 2012, sau khi xem Tổng thống Barack Obama phát biểu về sự khủng khiếp của Chiến tranh Việt Nam, thì điều gì đó trong con người tôi bất chợt “sống dậy”. Từ đó dấn thân nghiên cứu và điều tra mối liên hệ nhân quả giữa vô số vấn đề về sức khỏe và việc tôi bị phơi nhiễm chất độc màu da cam ở Việt Nam.

- Ông có thể chia sẻ về quá trình nghiên cứu của mình không? Đâu là khía cạnh thú vị nhất?

- Nghiên cứu của tôi kéo dài vài năm vì sự phức tạp của tất cả các hóa chất độc hại mà chúng tôi đã tiếp xúc và tương tác. Càng điều tra, tôi càng nhìn lại và cân nhắc tất cả những sinh mạng đã bị rút ngắn một cách không cần thiết - bị lấy đi, bị hủy diệt và chết dần mòn do việc sử dụng tràn lan thuốc trừ sâu. Tôi tức giận và quyết tâm hoàn thành cuốn sách.

Chúng tôi không chỉ bị phơi nhiễm chất độc màu da cam mà còn vô số hóa chất độc hại chết người. Thật đáng xấu hổ khi có biết bao nhiêu sinh mạng đã thiệt mạng trong nửa thế kỷ qua mà không ai biết sự thật về chúng. Một trong những điều hối tiếc lớn nhất của tôi là đã mất quá nhiều thời gian để thức tỉnh và viết cuốn sách này.

- Ông là một cựu trung sĩ. Điều này đã ảnh hưởng đến việc viết như thế nào?

- Việc là một sĩ quan cảnh sát và điều tra viên đã nghỉ hưu thực sự có ích trong giai đoạn nghiên cứu và viết nó ra. Thực ra, tất cả kinh nghiệm sống của tôi đều được phát huy trong quá trình viết sách.

- Về thuốc trừ sâu và thuốc diệt cỏ được sử dụng trong giai đoạn ấy, ông có nghĩ rằng tác động của chúng đã dần giảm đi trong những năm qua?

- Cuốn sách không chỉ thảo luận về các hóa chất đã được sử dụng ở Việt Nam mà còn về tất cả các loại thuốc diệt cỏ và thuốc trừ sâu độc hại được dùng trong chiến tranh nói chung. Thật không may, ngày nay hầu hết mọi người đều tin rằng chất độc màu da cam là loại thuốc trừ sâu duy nhất mà chúng ta bị phơi nhiễm. Sự thật là chiến tranh Việt Nam đã bị chính phủ biến thành một chiến dịch truyền thông sai lệch nhằm hạ thấp hoặc phớt lờ tất cả các hóa chất khác mà chúng ta đã tiếp xúc ở đó.

- Ông cũng trích dẫn nhiều thông điệp tích cực từ “Kinh Thánh”. Vì sao trong một nghiên cứu đầy cuồng nộ vẫn có những niềm hy vọng như thế?

- Đối với tôi, ở cả thời điểm này, tôi vẫn khó có thể hiểu được động cơ của tội ác ấy, cũng như sự vụ che giấu trong nhiều thập kỷ. Nhưng dù thế nào thì vẫn có ánh sáng trong ngày tăm tối. Hy vọng trong tương lai những hồ sơ này sẽ được tiết lộ, và tội ác sẽ không xảy ra thêm lần nào nữa với thế hệ quân nhân khác.

- Xin ông chia sẻ khía cạnh thách thức nhất khi viết cuốn sách này là gì?

- Đó là nỗi buồn cá nhân khi viết câu chuyện của Larry – bạn tôi, và quay lại khoảng thời gian tôi ở Việt Nam cũng như rất nhiều căn bệnh mà tôi đã mắc trong những năm qua.

Patrick Hogan

Hồ sơ chính thức của chính phủ Hoa Kỳ ghi nhận hơn 58.280 quân nhân Hoa Kỳ đã chết ở Việt Nam. Đó là thương vong cuối cùng của cuộc chiến đó. Ngoài ra, có trên 300.000 quân nhân được ghi nhận là bị thương và tàn phế. Tuy nhiên, những số liệu thống kê nghiêm túc đó lại không ghi nhận hàng chục nghìn binh sĩ, thủy quân lục chiến và thủy thủ đã thiệt mạng, bị thương và bị thương tật do thuốc trừ sâu sử dụng ở Việt Nam. Ai sẽ ghi lại sự hy sinh và cái chết của họ? Mặc dù tôi không mong đợi cuốn sách của mình sẽ thay đổi những số liệu thống kê, nhưng tôi hy vọng có thể giúp ích một phần nào đó cho thế hệ tương lai.

- Ông có bao giờ rơi vào tình trạng bị bí ý tưởng?

- Không. Bản thảo ban đầu của cuốn sách dài khoảng 400 trang, ngoại trừ câu chuyện của Larry và việc hồi tưởng lại thời gian tôi ở Việt Nam thì mọi việc diễn ra suôn sẻ.

- Ông có phải là một tác giả có kỷ luật hay có lịch trình cụ thể không?

- Tôi tự coi mình là một tác giả có kỷ luật, nhưng ngay cả vậy tôi cũng thường mang theo tập giấy và bút vì sẽ có những cảm hứng sẽ đến bất chợt. Đặc biệt là sau sự tương tác căng thẳng của tôi với Bộ Cựu chiến binh (DVA) và vòng xoay hành chính.

Đọc thêm nội dung sách: tại đây!

Đọc bài viết

Phía sau trang sách

Khán giả học – vai trò của người xem phim

Published

on

Kevin Goetz và Darlene Hayman nghiên cứu tâm lý người xem nhằm lý giải sự thành bại của các phim Hollywood, trong sách "Khán giả học".

Cuốn sách xuất bản trong nước, Phương Nam Book phát hành, đưa ra cách tiếp cận mới khi khảo sát những điều khán giả chờ đợi ở một bộ phim. Hai tác giả đi sâu vào bóc tách tâm lý của khán giả trong 10 chương, từ đó đưa ra sự đúc kết về tầm ảnh hưởng của người xem đối với điện ảnh.

Kevin Goetz cho rằng những lời góp ý, nhận xét sẽ làm thay đổi diện mạo phim. Phản hồi từ khán giả trong các buổi chiếu thử có thể giúp tác phẩm được quảng bá rộng rãi, thậm chí nâng cao chất lượng về mặt nghệ thuật lẫn doanh thu. Goetz lấy ví dụ: "Tờ giấy khảo sát sau khi xem phim có khối lượng chưa đến 100 gr, song lại mang sức mạnh tựa như cú móc hàm phải của võ sĩ Tyson".

Sách có đoạn: "Qua nhiều năm, các nhà nghiên cứu và những người dày dặn kinh nghiệm trong ngành công nghiệp điện ảnh đều biết rõ, thước đo then chốt cho mức độ hấp dẫn của bất kỳ bộ phim thương mại nào cũng được xác định bởi các điểm số xuất sắc và rất hay mà phim nhận được từ phản hồi của khán giả tham dự buổi chiếu thử".

Bìa sách Khán giả học, tựa gốc Audience-ology: How Moviegoers Shape the Films We Love. Tác phẩm dày 364 trang, do Thanh Vy biên dịch. Ảnh: Phương Nam Book
Bìa cuốn "Khán giả học", tên gốc "Audience-ology: How Moviegoers Shape the Films We Love". Sách dày 364 trang, do Thanh Vy biên dịch. Ảnh: Phương Nam Book

Trong sách, hai nhà nghiên cứu thuật lại quy trình của buổi chiếu thử, từ việc chọn khán giả dựa theo số liệu nhân khẩu học, tiêu chí chọn địa điểm công chiếu, đến những khoảnh khắc trong phim khiến người xem bật cười hay òa khóc. Goetz nhấn mạnh việc lấy khảo sát từ khán giả có thể giúp biên kịch, nhà sản xuất và đạo diễn lược bỏ chi tiết thừa hoặc thêm yếu tố mới, nhằm đẩy câu chuyện lên cao trào, đồng thời giúp phim đạt hiệu quả tốt nhất.

Những lý giải nhằm chứng minh công việc sáng tạo giống như trò chơi "đỏ đen" có tên là tâm lý học. Sau buổi công chiếu thử, tiếng vỗ tay, hò hét hay phản ứng khóc, cười từ khán giả có thể trở thành tín hiệu dự báo mức độ thành công.

Tác phẩm còn cho thấy nền điện ảnh không chỉ có bề dày lịch sử, các đạo diễn gạo cội, phim bất hủ, mà là một ngành khoa học phải đối mặt với nhiều thử thách. Goetz đưa chuyện thực tế trong các buổi chiếu thử phim nhằm giúp độc giả có cơ hội chứng kiến hậu trường Hollywood từ nhiều khía cạnh.

Goetz mời một số nhân vật nổi tiếng để chia sẻ trải nghiệm của họ với các buổi chiếu thử, gồm chủ hãng phim Blumhouse Jason Blum, đạo diễn Ron Howard và nhà sáng lập công ty Illumination Chris Meledandri. Theo Variety, sách cũng cung cấp góc nhìn về tác động của khán giả đối với bản dựng phim cuối trước khi công chiếu, như trong một số tác phẩm biểu tượng Fatal AttractionThelma & Louise và Cocktail.

Tác giả cuốn Khán giả học: Kevin Goetz (trái) và Darlene Hayman. Ảnh: Simon & Schuster
Tác giả cuốn "Khán giả học": Kevin Goetz (trái) và Darlene Hayman. Ảnh: Simon & Schuster

Khán giả học nhận nhiều ý kiến tích cực từ giới chuyên môn. Theo trang Goodreads, sách được viết với giọng văn hài hước, pha lẫn kịch tính và bất ngờ, mang đến cho độc giả cái nhìn mới về lịch sử điện ảnh. Trang tin tức A Frame của giải Oscar xếp tác phẩm là một trong những cuốn sách phải đọc về điện ảnh hiện đại.

Cựu chủ tịch hãng phim Sony Amy Pascal đánh giá tác phẩm gây ấn tượng khi mang đến câu chuyện ngoài lề thú vị ở Hollywood. "Tôi ước quyển sách này xuất hiện lúc tôi bắt đầu sự nghiệp trong ngành điện ảnh", Pascal cho biết trong một cuộc phỏng vấn.

Chủ tịch Sony Pictures Entertainment Motion Picture Group - Tom Rothman - nhận xét: "Thấu hiểu những gì khán giả thực sự nghĩ không phải là điều dễ dàng. Và Kevin là bậc thầy trong việc lắng nghe người xem, như những gì được tiết lộ trong quyển sách của anh".

Kevin Goetz là nhà sáng lập công ty nghiên cứu phim Screen Engine, có hơn 30 năm kinh nghiệm trong lĩnh vực điện ảnh. Anh cũng là thành viên của Viện Hàn lâm Khoa học Nghệ thuật Điện ảnh Mỹ, Hiệp hội các nhà sản xuất phim Mỹ. Sách đầu tay của Goetz Khán giả học ra mắt lần đầu năm 2021.

Darlene Hayman là nhà phân tích nghiên cứu thị trường phim ảnh ở Mỹ, cộng tác với Kevin Goetz hơn 15 năm. Cô nổi tiếng vì hỗ trợ các đạo diễn trong việc nắm bắt thị hiếu khán giả, góp phần tinh chỉnh tác phẩm trong giai đoạn cuối quá trình hậu kỳ.

Theo Vnexpress

Đọc bài viết

Phía sau trang sách

Cánh cửa mở vào nội tâm của Maupassant

Published

on

By

Cùng với Chekhov, Guy de Maupassant từ lâu đã được suy tôn là “bậc thầy của thể loại truyện ngắn”. Điều này không chỉ bởi văn phong độc đáo, mà còn nằm ở sự đa dạng về thể loại. Trong đó Horla và những truyện ngắn khác ra mắt gần đây chính là minh chứng cho nhận định này.

Tuy chỉ viết trong vỏn vẹn có 4 thập kỷ, nhưng những di sản mà Maupassant để lại là tương đối lớn. Ông nổi tiếng nhất với các tiểu thuyết cũng như truyện ngắn mang tính hiện thực, hài hước, lãng mạn, như những tập truyện Sáng trăng, Nơi nhà người bạn

Nhà văn nổi tiếng Guy de Maupassant

Nhưng ít người biết ông cũng bén duyên với thể loại kinh dị, và nó cũng truyền cảm hứng cho nhiều tác giả sau này, trong đó có H.P.Lovecraft với Lời hiệu triệu của Cthulhu. Vừa mới ra mắt trong thời gian qua, Horla và những truyện ngắn khác tập hợp 5 tác phẩm có màu sắc kinh dị, siêu nhiên, được Maupassant viết trải dài từ năm 1875 – 1890.

Trí tưởng tượng phong phú

Trong tập truyện Horla và những truyện ngắn khác, bạn đọc có thể thấy rõ 2 giai đoạn mà Maupassant tiến hành tiếp cận thể loại kinh dị. Trong 3 truyện ngắn được viết sớm nhất là Bàn tay bị lột da (1875), Hắn? (1883) và Nỗi sợ (1884), ta đơn thuần thấy đây là một tác phẩm ẩn chứa yếu tố siêu nhiên mà vị tác giả cố gắng khai thác.

Chúng đơn giản xoay quanh những nỗi ám ảnh mà các cá nhân yếu bóng vía hay là nhạy cảm thường cảm nhận được. Chẳng hạn như trong truyện Hắn?, một người đàn ông vì bị ám ảnh bởi một bóng ma trong căn phòng của mình mà đã cưới lấy một người vợ mới, hay ở Nỗi sợ, chỉ vì trên tuyến tàu lửa khi nhìn thấy có 2 người đàn ông xuất hiện trong khu rừng vắng, mà nhân vật chính bỗng dưng cảm thấy trong mình trỗi dậy nỗi sợ chỉ vì không thể lý giải được động cơ của câu chuyện ấy…

Horla và những truyện ngắn khác là tác phẩm mới từ Maupassant

Đây đều là các nhân vật hoàn toàn tỉnh táo, họ nhận thức được những gì xảy ra và khó có thể nói họ có vấn đề riêng về tâm lý. Và vì tính hiện thực đó, Maupassant qua các tác phẩm cũng gửi gắm được bài học của mình. Chẳng hạn trong truyện Bàn tay bị lột da, thông qua nhân vật Pierre B. – một sinh viên trường luật, người xuất thân từ một trong những gia đình danh giá nhất xứ Normandie – ông đã cho thấy chỉ vì chính thói hư vinh cũng như trưởng giả mà y đã mạo phạm đến một phần thân thể của vị phù thủy, từ đó phải chịu cái chết có phần đau đớn.

Hay trong Nỗi sợ, Maupassant cũng khẳng định “cùng với những điều siêu nhiên, nỗi sợ hãi đích thực đã biến mất khỏi hành tinh này, bởi con người ta chỉ thực sự sợ những gì nằm ngoài tầm hiểu biết của mình”. Câu nói này như đại diện cho tất cả những gì ông muốn nhắm tới, về sự nhỏ bé và đầy mông muội của con người với những kỳ bí chưa được lý giải.

Như vậy những tác phẩm này đều được viết bởi một Maupassant khách quan, đứng ở bên ngoài, từ đó đưa ra những lời lý giải hoàn toàn hợp lý. Thế nhưng ở 2 truyện sau là Horla viết năm 1887 và Ai mà biết được? viết năm 1890, thì ta lại thấy có phần ngược lại, khi chính nhà văn dường như không thể thoát được cái bóng của bản thân mình.

Bi kịch của Maupassant

Hai truyện ngắn này có được điểm chung khi nhân vật chính đều là người đàn ông rơi vào loạn trí. Nhân vật chính này đã từng không dưới một lần thừa nhận chính mình như có đến 2 bản thể cùng nhau tồn tại. Một bên kêu gào giữ lại lý trí, trong khi phía còn lại đòi hỏi rất nhiều hành động mang tính tàn phá.

Sự chia đôi này gợi ta nhớ đến trường hợp của bác sĩ Jekyll và ông Hyde tương đối kinh điển trong tác phẩm nổi tiếng của Stevenson. Như vậy chủ đề của Maupassant đã chuyển từ những nỗi sợ tương đối hữu hình thành ra vô hình và khó lý giải, khi được bao bọc bởi những vấn đề có liên quan đến thần kinh cũng như tinh thần.

Tình tiết của những câu chuyện cũng khó nắm bắt. Ở Ai mà biết được?, đó là một người gần như điên loạn bởi sự xuất hiện và rồi biến mất của những vật dụng ngay trong nhà mình một cách liên tục. Còn ở Horla, đó là một sinh vật gần như trong suốt, thứ được nuôi sống bằng sữa và nước, luôn luôn theo dõi vật chủ mà nó bám theo, từ đó khiến họ “sống không bằng chết”.

Maupassant và những ám ảnh tâm trí của bản thân mình

Theo Charlotte Mandell – dịch giả của truyện ngắn này cho nhà xuất bản Melville House, thì “horla” là từ ghép của “hors” (“bên ngoài”), và “la” (“ở đó”). Vì vậy “horla” có nghĩa là “người ngoài cuộc”, “người bên ngoài”, và có thể được dịch theo nghĩa đen là “cái gì ở ngoài đó”. Thế nhưng cũng có những lý giải khác, khi nhiều người xem đây là một sự kết hợp của cụm “hors-la-loi” (tức “ngoài vòng pháp luật”) và “horsain” (có nghĩa là “thứ lạ lùng”).

Thế nhưng dù có là gì, thì Maupassant như đang cảm nhận những nỗi ám ảnh đến từ sâu hơn và khó lý giải hơn. Xét về bối cảnh của chính tác giả, thì những truyện này tương đối trùng khớp với thời kỳ mà ông có những dấu hiệu đầu tiên của chứng điên loạn, khi ông xuất hiện nhân cách kép và ngày càng gặp nhiều ảo giác do bệnh giang mai. Một năm sau đó, vào năm 1891, ông có dấu hiệu của chứng hoang tưởng.

Có thể là bởi xuất phát từ những trải nghiệm chính ông kinh qua, nên 2 truyện này trở nên chân thật và đầy ám ảnh đối với người đọc. Nếu được viết từ một người tỉnh táo, thì đây chính là tài năng của sự tưởng tượng. Nhưng với Maupassant thì đó là nỗi đau và sự sợ hãi mà bản thân ông mong muốn giải bày thông qua việc viết.

Như vậy đi từ mục đích sáng tạo ở buổi ban đầu, Maupassant dần dần chuyển sang hành động kể lại điều đã trải qua, và làm sáng tỏ chứng bệnh tâm lý mà thời kỳ đó còn bị che khuất bởi những định kiến mà những quan điểm mang tính thủ cựu. Có thể nói Horla và những truyện ngắn khác không chỉ mở ra cánh cửa khám phá một Maupassant rất khác, mà có thể nói cũng đã góp phần giúp ta hiểu được những gì đã từng xảy đến với một trong những nhà văn lớn của nhân loại.

Anh Đoàn

Đọc bài viết

Cafe sáng