Phía sau trang sách

Lưỡng giới: Cánh cửa đi vào cảm xúc của người liên giới tính

Published

on

Chủ đề đồng tính, song tính và hoán tính đã xuất hiện từ lâu trong thần thoại phương Tây, từ trường ca Iliad của Homer với mối quan hệ của Achilles (chiến binh vĩ đại nhất của quân Hy Lạp trong cuộc chiến thành Troia, con trai của Thetis) với Patroclus (con trai của Menoetius) đến mối quan hệ giữa Alexander Đại đế (con trai của nữ hoàng Olympias) với người yêu là Hephaestion (con trai của Amyntor, là một nhà quý tộc người Macedonia cổ đại và là một vị tướng trong quân đội của Alexander Đại đế). Văn học hiện đại viết về đồng tính có Chết ở Venice (Thomas Mann), Một con người (Christopher Isherwood), Chuyện tình núi Brokeback (Annie Proulx), Gọi em bằng tên anh (André Aciman); viết về đề tài chuyển giới có Orlando (Virginia Woolf), Cô gái Đan Mạch (David Ebershoff). Tuy nhiên, viết về người liên giới tính (lưỡng tính) hầu như chưa có tác phẩm nào ngoài Lưỡng giới (Middlesex) của Jeffrey Eugenides.

Liên giới tính là trạng thái mà một cá nhân bẩm sinh đã có kết cấu cơ quan sinh sản hoặc bộ phận sinh dục không hoàn toàn thuộc về đặc điểm sinh học của nam hay nữ theo cách hiểu thông thường. Thần thoại Hy Lạp từng nhắc đến Tiresias, người khi thì là đàn ông, khi thì là phụ nữ. Chuyện kể rằng, nhà tiên tri Tiresias khi thấy hai con rắn đang ân ái trong rừng cây xanh um đã dùng gậy đập chúng. Vậy là, ông bị biến đổi từ đàn ông thành đàn bà. Trong suốt bảy năm, ông sống dưới hình hài yểu điệu của một người phụ nữ. Năm thứ tám, ông gặp lại cặp rắn và nói: “Từ khi đánh chúng mày một gậy thì sức mạnh kì diệu đến và thay đổi giới tính của người đánh. Bây giờ ta lại đánh chúng mày một lần nữa đây”. Thế là ông trở lại hình dạng đàn ông như vốn có. Vào thế kỉ XX, trạng thái liên giới tính một lần nữa tái xuất trong Lưỡng giới thông qua nhân vật trung tâm Cal, hay Calliope Stephanides, một người “sinh ra hai lần: lần đầu là bé gái, vào một ngày không sương khói khác thường ở Detroit tháng Giêng năm 1960; rồi lần nữa là thằng nhóc thiếu niên, ở phòng cấp cứu gần thành phố Petosky, tiểu bang Michigan, tháng Tám năm 1974”.

Lưu ý: Nội dung dưới đây tiết lộ nhiều tình tiết quan trọng của tác phẩm Lưỡng giới.

*

Liên giới tính như là hậu quả của tội loạn luân

“Chị hứa sẽ tìm cho em một cô gái Hy Lạp tử tế. E hèm. Chị chứ ai vào đây nữa.

Hồi ức trong Lưỡng giới bắt đầu như cuộn băng tua ngược, truy tìm căn nguyên từ đời thứ nhất ở bán đảo Tiểu Á. Khoảnh khắc mở đầu mang hơi hướm Homer và có không khí của thần thoại Hy Lạp: Jeffrey Eugenides đã “khai quật” cả một niên sử dòng họ Stephanides, một chuyến chu du huy hoàng trước khi Cal/Calliope xuất hiện trên thế giới này, chiếc gen thiếu đi enzyme 5-alpha-reductase đã tồn tại và vượt qua những hành trình lưu lạc kỳ vĩ – từ bán đảo Tiểu Á thời loạn lạc tới vùng Trung Tây nước Mỹ thời Cấm Rượu những năm 1920, thời Đại Suy Thoái, thời bùng nổ kinh tế – chiếc gen ấy được giấu kín qua những đời người và những ái lực vừa trần tục vừa thần thoại, ái lực đã đẩy bà nội Desdemona vào tội loạn luân với cậu em ruột Lefty.

Như trong Những bông hoa trên tầng áp mái của V. C. Andrews hay Chuyện tình núi Brokeback của Annie Proulx, tình cảm thường nảy nở giữa những người cùng được sinh ra và sống cùng nhau trong môi trường thiếu thốn tình thương hay bị cách ly khỏi xã hội. Như trong thần thoại Hy Lạp, Zeus và Hera lấy nhau, Lefty và Desdemona từ mối quan hệ chị em, họ trở thành vợ chồng. Trải qua hành trình gian nan để đến được nước Mỹ, trên chuyến tàu định mệnh, Desdemona và Lefty tự thay đổi chính mình, biến bản thân trở thành những con người khác. Dẫu đã rời vùng núi Bithynios, Hy Lạp đến Detroit, Mỹ, mặc cảm và lo sợ vẫn luôn ám ảnh Desdemona. Nỗi lo kéo dài khi bà mang thai và sinh con đứa đầu tiên, Milton. Khi biết được hầu hết các ca dị dạng ở trẻ em là do hôn nhân cận huyết, mặt Desdemona trắng bệch ra. “Ngu độn, rối loạn đông máu di truyền. Cứ nhìn nhà Romanov thì biết ngay. Cứ nhìn bất cứ gia tộc hoàng gia nào. Đột biến gen, tất cả bọn họ”.

Những tưởng lời nguyền hôn nhân cận huyết sẽ dừng lại khi họ đặt chân đến vùng đất mới, nhưng bi kịch này một lần nữa diễn ra với chính bố mẹ của Calliope – Milton và Tessie. Mặc cho sự ngăn cản của gia đình, Milton nhất quyết lấy bằng được bà chị họ của mình. Lời nguyền lại ám lên gia đình họ Stephanides: chị em họ lấy nhau. Desdemona đã rất lo sợ điều này, bà kịch liệt ngăn cản việc Milton và Tessie mang thai đứa thứ hai – nhân vật chính Cal/Calliope. Cây phả hệ nhà Stephanides là một gia phả đầy những rắc rối do quan hệ gần và vai vế chồng chéo, cũng đầy những chiếc gen đột biến lặn ẩn nấp trong mỗi cá nhân mà mắt thường không nhìn thấy được. Chiếc thìa của Desdemona xuất hiện như một lời cảnh báo, thông báo về những lưu ý trong giới tính đứa trẻ sắp sinh. Chiếc thìa bạc chưa từng đoán sai bao giờ: Thật sự, Calliope là một bé trai chứ không phải bé gái.

Định mệnh loạn luân đeo bám gia đình nhà Stephandies. Bí mật này bị thời gian chôn kín, cho đến khi cô bé Callie ngày xưa nay trở về nhà với thân phận và hình hài của một cậu trai. “Một người được thừa kế nhà cửa, số khác thừa kế tranh hay tay kéo vĩ cầm được bảo hiểm ở mức cao. Thậm chí số khác còn được nhận tủ tansu Nhật Bản hoặc một cái tên rất nổi. Tôi thì được nhận cái gen lặn ở nhiễm sắc thể số năm và vài thứ bảo vật gia truyền rất quý hiếm”. Cal/Callie là người “thừa kế” một chiếc gen thiếu đi enzyme 5-alpha-reductase, điều đó khiến Cal/Callie trở thành người liên giới tính.

Lạc lõng trong tình yêu

Một người liên giới tính sẽ có xu hướng tình dục thế nào? Họ sẽ yêu ra sao, có giống những người bình thường không? Đó hẳn là một vấn đề đáng chú ý khi nói về tình yêu của những người liên giới tính. Nhà tiên tri Tiresias, một người là nam nhưng đã có bảy năm sống dưới hình hài của nữ và sau đó trở lại thành nam trong trường ca Biến thể của Ovid đã phán: “Nếu niềm vui ái tình là mười phần, thì ba lần ba thuộc về đàn bà. Một phần thuộc về đàn ông”.

Khi người ta muốn có cuộc sống bình thường thì không thể yêu một tình yêu bất thường, mà Cal/Calliope lại là một người có tình yêu bất thường, ít nhất là so với quan niệm tình yêu của xã hội lúc bấy giờ. Đối Tượng Mơ Hồ, sau được gọi với cái tên Đối Tượng, là nhân vật làm Cal cảm nhận những thay đổi đầu tiên trong suy nghĩ và xu hướng tính dục của bản thân. Tình bạn, sự thu hút của Cal/Callie với Đối Tượng biến thành thứ tình yêu tuổi mới lớn từ lúc nào không hay.

Tuy nhiên, trong chuyến dã ngoại với gia đình Đối Tượng, việc có một người con trai thích Cal/Callie được tiết lộ, điều đó chứng tỏ Cal/Callie có sức hút với cả hai giới. Cal cũng đã từng quan hệ với anh trai Đối Tượng, Jerome, nhưng hai người dường như thấy điều gì đó không bình thường, chính xác hơn là phía Cal/Callie. “Đau như bị dao đâm, đau như bị lửa bén. Nó rạch toạc vào trong người tôi. Nó xé toác bụng tôi lên tận núm vú. Tôi thở hổn hển; tôi mở mắt ra; tôi nhìn lên và thấy Jerome nhìn xuống mình. Bọn tôi há hốc mồm nhìn nhau và tôi biết anh biết. Jerome biết tôi là cái gì, cũng như tôi bất chợt nhận ra, lần đầu tiên hiểu rõ ràng tôi không phải con gái mà là một thứ gì đó ở giữa”. Qua trải nghiệm với Jerome, Cal/Callie nhận ra bản thân không phải là một cô gái, cũng không phải là một người có thể dùng tên gọi để chỉ đúng tên tức thì, mà là một cái gì đó ở giữa, giữa nam và nữ, không biết mình là nam hay nữ.

Đây cũng là lúc Cal/Callie lờ mờ nhìn thấy được sự bất thường của bản thân. Mâu thuẫn được đẩy lên cao trào khi chuyện của Cal/Callie và Đối Tượng bị Jerome bắt gặp và cảnh báo: “Chia tay đứt đuôi nòng nọc ở đây nhé, Stephanides nhé. Xéo khỏi đây và đừng bao giờ quay lại nữa. Với cả đừng bén mảng lại gần em gái anh”. Sau lời đuổi cổ của Jemome, Callie bỏ đi, chạy trốn khỏi căn nhà đó. Tai nạn xảy ra và mọi chuyện đi theo một hướng khác mà chính Cal/Callie và cả gia đình y đã thật khó để chấp nhận.

Cal/Callie y không tự tin về cơ thể mình. Về sau này, khi đã là một người đàn ông, y vẫn chạy trốn với mặc cảm thân thể và không dám quan hệ với một ai. Cal/Callie sợ những người kia sẽ phát hiện ra khiếm khuyết cơ thể, sợ họ sợ hãi y, họ bỏ y… Cal/Callie có từng yêu, nhưng mặc cảm giới tính và thân thể làm y luôn chạy trốn và biệt tích trước khi lên giường cùng họ. “Nhưng thứ bảo vệ cuối cùng, cái quần đùi thùng thình, cái quần đùi kín đáo thì tôi không cởi ra. Không bao giờ mà tôi bỏ đi, phịa ra lý do nào đó. Tôi bỏ đi và không bao giờ gọi lại cho họ nữa. Hệt như một thằng đàn ông”. Cal/Calliope tự ti với bản thân hay chính bản thân y biết được mọi chuyện sẽ không có hồi kết, tệ hơn, y sợ những người yêu y, quan hệ với y biết được giới tính thật, một điều mà họ khó chấp nhận được. “Chả có lí do gì đề cập những thứ lập dị của tôi, việc tôi lang thang trong mê cung suốt nhiều năm qua, tránh bị nhìn thấy. Và tránh cả tình yêu nữa”.

Hành trình đi tìm bản dạng giới: Lạc lõng trong xã hội

Trong thần thoại Hy Lạp đã từng xuất hiện hình ảnh người lưỡng giới (liên giới tính). Hai vị thần Hermes và Aphrodite đã ghép tên họ để đặt cho con trai là Hermaphroditos. Tiên nữ Salmacis đem lòng yêu Hermaphroditos nhưng bị từ chối, Salmacis đã ước nguyện thân thể hai người nhập làm một. Lời ước được chứng giám và xuất hiện một con người vừa nam vừa nữ, hình tượng được thể hiện như là vừa có vú vừa có dương vật.

Trước khi biết mình vốn nên là nam, Callie là một cô bé thuần tính nữ. Callie hiểu và biết mình đẹp, đã ngắm nghía bản thân nhiều giờ liền trước gương và cũng có nhu cầu làm đẹp như các bé gái khác. Nhưng khi các cô bạn đồng trang lứa bắt đầu thay đổi cơ thể rõ ràng ở tuổi dậy thì: phát triển ngực và có kinh nguyệt, dường như chẳng có gì tương đồng xuất hiện ở Cal/Calliope cả: cô vẫn thấp bé và phẳng lì. Điều này dẫn đến nỗi lo sợ trong Callie. Sự biến đổi khác diễn ra và tác động lên thân thể cũng như tâm lý, được Callie cảm nhận được ngay khi cô/anh bước vào tuổi mười ba. Từ một bé gái, sau một vụ tai nạn, Cal phát hiện mình là bé trai – đây quả thật là một chuyện khó chấp nhận với tất cả mọi người. Giới tính con người có nhiều bí ẩn mà không phải khoa học hay một cá nhân nào có thể lí giải được. Hoảng loạn và lạc lõng là biểu hiện đầu tiên khi Cal/Calliope biết giới tính thật của mình. Người ta tự hào khẳng định bản thân mình là độc nhất, là khác biệt, nhưng họ không chấp nhận sự khác biệt trong giới tính của người khác. Nhớ lại xem, trong quá khứ, những người đồng tính đã bị đối xử như thế nào? Trong Chuyện tình núi Brokeback, một người đàn ông bị đánh chết do người ta bảo ông ấy là đồng tính, bệnh hoạn, biến thái, điều đó ám ảnh Jack. Jack chọn việc kết hôn với một người phụ nữ, thực hiện vai trò là chồng, là cha. Jack muốn sống với Ennis, nhưng vì Ennis bị ám ảnh bởi sự kiện lúc còn nhỏ, khi một người bị nghi là đồng tính bị giết, Jack từ chối và y đánh mất hạnh phúc của mình.

Với Cal/Callie, trở thành một người đặc biệt vô tình biến y thành chuột lang thí nghiệm của y học. Di chuyển từ bệnh viện này đến bệnh viện khác để người ta sờ, nắn, bóp, quyền riêng tư và quyền thân thể mất đi những vẫn không giúp được gì cho Cal cả. Khủng hoảng, chối bỏ căn cước mà bác sĩ và bố mẹ lựa chọn, Cal/Callie quyết định chạy trốn. Chạy trốn là quá trình tìm lại căn cước, tìm lại bản thân. Căn cước là từ dùng để chỉ quê quán lai lịch, tiểu sử hành tung và bản sắc riêng của một người. Dù thời gian làm trí nhớ ta mù mờ đi, dù nhiều thứ ta thấy khi còn trẻ đã mất hút, dù mọi thứ bị con người lãng quên thì tế bào vẫn nhớ. Vậy nên để là chính mình, mỗi con người phải tìm về với căn cước của họ. Hành trình phiêu lưu của chiếc gen là hệ quả mà Cal/Calliope “phải” gánh chịu. Chính sự đặc biệt của nó đã mang lại cảm giác lạ lùng như cách nó xuất hiện.

Mang cảm giác lạc lõng và đề phòng, không thấy bản thân giống những đứa trẻ bỏ nhà đi bụi khác và biết giới tính của bản thân cũng vậy, Cal/Callie tránh xa chúng để không gây rắc rối cho bản thân. Thời điểm xảy ra chuyện, Cal/Callie vẫn là một đứa trẻ vị thành niên. Việc đó khiến Cal/Callie nhanh chóng lấy lại tinh thần, với suy nghĩ người trẻ thường không thể sống mà ôm nỗi buồn quá lâu được, Cal/Callie lấy lại tinh thần khi bỏ nhà đến sống ở Đức. Sự khác biệt cũng làm Cal/Calliope trở nên trầm tính hơn “Tôi sống đời mình và chăm sóc những vết thương riêng”. Khi rời xa vòng tay của bố mẹ, thận trọng là lựa chọn của Cal/Callie.

Nhu cầu được thấu hiểu, được chia sẻ của người lưỡng tính rất bình thường và giống với tất cả những người bình thường. Không phải ai cũng kì thị người liên giới tính nhưng bản thân họ mang mặc cảm. Biết được tâm lí này, bác sĩ Pete Luce an ủi Cal bằng câu nói: “Tất cả những con người đang sống này, những đứa con trai và con gái của Chúa, bạn muốn biết rằng, dù này dù nọ, họ vẫn là con người”. Ông bà Lefty và Desdemona chạy khỏi quê hương vì chiến tranh, để rồi hơn năm mươi năm sau, Cal/Callie cũng bỏ chạy, dưới bí danh của một giới tính mới, tái sinh với dáng hình mới, cũng giống Lefty và Desdemona ngày ấy. Trên hành trình này, một mình Cal/Callie bước đi. Cal/Callie chấp nhận và hoàn thiện bản thân với tư cách là một người thiểu số, y cũng không còn tự ti về việc là thiểu số của bản thân. Đó là tín hiệu đáng mừng cho chính y và những người liên giới tính.

*

Hình ảnh hoa huệ tây không chỉ xuất hiện ở bìa sách, nó còn được nhắc đến trong nội dung tác phẩm. Nghệ tây (crocus sativus) là một loài hoa đặc biệt. Nhụy hoa huệ tây (saffron) được tìm thấy đầu tiên ở Hy Lạp, đây cũng là quê gốc của dòng tộc nhân vật chính cũng như bản thân tác giả. Về bản thân huệ tây, đây là loài hoa lưỡng tính, có cả nhị (đực) và nhụy (cái) trên cùng một hoa. Đặc điểm này cũng giống như nhân vật chính của tác phẩm bị kẹt giữa thế lưỡng nan về giới.

Trong thời Lưỡng Hà cổ, cây hoa nghệ tây được liên tưởng đến thần Ishtar, nữ thần hiện thân cho cả tạo hóa (sinh sản/ người phụ nữ) lẫn hủy diệt (chiến tranh/ người đàn ông). Nhà thảo dược đương đại Matthew Wood viết: “Hoa này mang vẻ thuần khiết (đại diện cho phái nữ) nhưng lại mang dục tính mạnh (người đàn ông).” Phần củ ở dưới tượng trưng cho cơ quan sinh sản của người phụ nữ, còn phần thân ở trên lại giống của người nam. Loài cây này mang hình dáng, bản chất của cả hai giới và nhiều ý nghĩa, là một đại diện, biểu tượng của người lưỡng tính.

*

Lưỡng giới trao cho người đọc cơ hội đối mặt và cảm nhận đời sống của nhân vật liên giới tính: trong xã hội tiêu chuẩn hóa dị tính, việc bản thân là người liên giới tính làm Cal/Callie gặp nhiều rắc rối trong cuộc sống. Dị tính là đa số, việc biến đa số trở thành tiêu chuẩn sẽ giết chết đa dạng và tự do cá nhân. Cal/Callie luôn mang tâm trạng lạc lõng trong xã hội, trong gia đình, trong bản thân và trong tình yêu của chính mình; y mải miết đi trên hành trình tìm kiếm bản dạng giới, hay cũng là hành trình định danh bản thân.

Điều đặc biệt là Jeffrey Eugenides đã lựa chọn Calliope làm người kể chuyện, một nhân vật mang đặc trưng của hai giới, từng là bé gái và sau này trở thành bé trai. Thông qua hành động và cảm nhận của nhân vật này, người đọc có thể nhìn nhận, soi chiếu về hai giới. Cuộc khủng hoảng giới và hành trình tìm giới tính thật cũng là một sự đánh liều số phận của Cal/Callie. May mắn thay Cal/Callie đã được là chính mình, hay nói đúng hơn, nói theo cách nào đó, y hài lòng với lựa chọn của mình.

Hết.

Hoàng Anh

Đọc những bài viết của Hoàng Anh

1 Comment

1 Bình luận

Viết bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Phía sau trang sách

Trở thành phiên bản tốt hơn của chính mình với Metahuman – Siêu nhân loại

Published

on

By

Những khi nhìn lại chính bản thân mình, những điều đã hoàn thành lẫn những điều còn dở dang, nếu đâu đó trong bạn xuất hiện những suy nghĩ tiêu cực về chính mình, có lẽ tác phẩm Metahuman – Siêu nhân loại của bác sĩ Deepak Chopra sẽ giúp bạn điều chỉnh lại suy nghĩ ấy, để thấy rằng tiềm năng của con người là vô hạn.

Có bao giờ bạn tự hỏi, tại sao những phim hài lãng mạn dù lặp lại các kiểu mô típ quen thuộc về câu chuyện, nhân vật thường vẫn dễ dàng thu phục được công chúng? Trong Metahuman – Siêu nhân loại, Deepak Chopra – tác giả người Ấn Độ từng được tạp chí Time vinh danh là một trong những nhân vật có ảnh hưởng nhất ở thế kỉ 20 – đã có cách lí giải vô cùng thuyết phục dựa trên cơ chế tâm lí, ý thức về hiện thực của con người.

Dòng phim hài lãng mạn thường kể câu chuyện về một anh chàng hay cãi nhau với một cô nàng, để rồi cuối phim anh mới nhận ra cô chính là tình yêu đích thực của đời mình. Chopra cho rằng tất cả chúng ta đều yêu thích khoảnh khắc giác ngộ của nhân vật trong phim: “Giờ tôi đã hiểu rồi. Đó là người tôi yêu.”

Chính vì thực tại ta đang sống là một thứ khó hiểu, khó nắm bắt nên ta lại càng tìm được nhiều niềm vui khi chứng kiến nhân vật có thể hiểu được một vấn đề nan giải, thấy được sự thật bấy lâu nay cứ chìm khuất trong lớp sương mờ trước mắt anh hay cô ta. Và tác phẩm Metahuman – Siêu nhân loại cũng có thể mang đến cho người đọc niềm vui tương tự khi lần lượt giải mã nhiều vấn đề về hiện thực ta đang sống.

Những giới hạn của bản thân không phải là điều tiêu cực như bạn nghĩ

Deepak Chopra

Chúng ta vẫn thường quen thuộc với quan niệm thế giới chia làm hai phần gồm: vật chất và ý thức. Từ đây, hình thành hai trường phái triết học chủ đạo là duy vật và duy lí. Nhưng trong Metahuman – Siêu nhân loại, Deepak Chopra đã định nghĩa lại về thế giới. Ông cho rằng thế giới chỉ có duy nhất một thứ là ý thức, và vật chất cũng là do ý thức tạo nên. Vật chất, hay những gì chúng ta nghĩ là rắn chắc, bền vững, khó thay đổi – bao gồm cả cơ thể, tâm trí và những tiềm năng của chúng ta – kì thực đều là do ý thức quyết định. Vì thế, chừng nào ý thức còn muốn tiếp tục điều chỉnh, chừng đó tiềm năng của con người còn vô hạn và có thể mở rộng đến khôn cùng.

Nhưng trong cuộc sống hằng ngày, giới hạn an toàn lại là thứ khiến chúng ta thấy thoải mái, đồng thời đây cũng là cơ chế để bảo vệ con người. Chopra lấy ví dụ nếu một người muốn trở thành họa sĩ, anh tham dự một lớp học mĩ thuật. Giả sử lớp học đó có thể cho anh xem hết tất thảy mọi bức tranh đã được vẽ trong lịch sử nhân loại, cảm thấu được vẻ đẹp của từng bức thì khả năng cao là sau khi học xong, anh sẽ không thể vẽ được nữa. Ở đây, chính giới hạn về hiểu biết mĩ thuật có thể lại là động lực khiến người họa sĩ muốn sáng tạo.

Như vậy, bản thân sự giới hạn không phải là một điều tiêu cực. Nó chỉ tiêu cực khi bị cố định trong một cái khuôn. Ngược lại, nếu ta biết được giới hạn nhưng vẫn có nhận thức rằng biên độ của giới hạn có thể thay đổi thì tiềm năng của con người sẽ không ngừng mở rộng.

Không chỉ quá khứ, tương lai; hiện tại cũng là thứ không thể nắm bắt

Phần lớn chúng ta có một quan niệm phổ biến rằng: “Tương lai, quá khứ là thứ chúng ta không thể nắm bắt. Tương lai thì chưa đến. Quá khứ thì đã qua. Chỉ có hiện tại là thứ duy nhất ta có thể nắm bắt được.” Quan niệm này có lẽ hợp lí đến nỗi không nhiều người trong chúng ta đặt nghi vấn về tính đúng đắn của nó, hay thử tự một lần phản biện lại.

Tuy nhiên, Deepak Chopra lại có suy nghĩ hoàn toàn khác biệt về vấn đề này. Ông cho rằng không chỉ tương lai và quá khứ, ngay cả hiện tại – mà ta nghĩ là mình đang sống trong nó – cũng là thứ khó nắm bắt. Bởi lẽ, hiện tại cũng giống như sự im lặng. Khi bạn cất lời, sự im lặng biến mất; tương tự, khi bạn có nhận thức về hiện tại dù là dưới dạng hình ảnh, cảm xúc, hay suy nghĩ, nó cũng đã biến mất ở khoảnh khắc ấy, nhường chỗ cho một hiện tại khác ở ngay sau đó. Vì vậy, nếu nói rằng thực tại là thứ có thể nắm bắt thì chẳng khác nào nói là bạn có thể biết trước suy nghĩ tiếp theo của mình.

Phản biện này có lẽ cũng là tư duy nền tảng cho khái niệm về thực tế ảo được trình bày trong sách. Thực tế mà chúng ta đang sống, ta nghĩ rằng đó là một thực tế vững chắc, được kết cấu dựa trên những nhu cầu đầu tiên về vật chất, sau đó là tinh thần – thực tế ấy, hóa ra lại không vững chắc như ta nghĩ. Rất có thể, đó chỉ là một thực tế do ý thức, nhu cầu của chúng ta tạo ra, thứ mà Chopra gọi rằng đó là thực tế ảo. Để vươn đến tầm vóc siêu nhân loại, ta phải học cách vượt qua thực tế ảo ấy, hướng đến một thực tế thật – đó chính là thứ thực tế mà tác giả gọi là siêu hiện thực.

Trong Metahuman – Siêu nhân loại, Deepak Chopra không cố gắng áp đặt độc giả phải đồng thuận quan điểm của mình. Ông luôn đưa ra nhiều ý kiến, quan điểm đối lập từ những học giả, các nguồn kiến thức khác nhau về cùng một vấn đề để người đọc có thể rộng đường tư duy, tiếp nhận nhiều luồng tư tưởng, tự lựa chọn đáp án cho những câu hỏi cá nhân của chính mình. Thông qua đó, Deepak Chopra cung cấp một cách nhìn khác về hiện thực, giúp mỗi người chúng ta xua tan lớp sương ảo ảnh do tự thân tạo ra từ những định kiến, trở thành phiên bản tốt hơn của chính mình.

Nguồn: L'Officiel

Đọc bài viết

Phía sau trang sách

Thành phố những lục địa bay: Khi Đà Lạt không là Đà Lạt

Published

on

By

Đà Lạt luôn là điểm dừng chân lí tưởng cho những tâm hồn yêu cái lạnh. Nếu không thể đến Đà Lạt ngay lúc này, quyển sách Thành phố những lục địa bay – tác phẩm viết về Đà Lạt mới nhất của nhà văn Nguyễn Vĩnh Nguyên sẽ là sự lựa chọn hoàn hảo để người đọc tận hưởng không khí Đà Lạt ngay tại nhà.

Dù tuổi thơ gắn liền với quê hương Ninh Thuận và chỉ đến Đà Lạt khi trở thành sinh viên Văn khoa Đại học Đà Lạt, Nguyễn Vĩnh Nguyên đã dành cho Đà Lạt một tình yêu tha thiết với nhiều tác phẩm ghi dấu trong lòng bạn đọc như: Đà Lạt, một thời hương xa; Đà Lạt, bên dưới sương mù; Với Đà Lạt, ai cũng là lữ khách Lần này trở lại với Thành phố những lục địa bay, anh tiếp tục viết về Đà Lạt với nhiều khám phá, tìm tòi mới trong nghệ thuật kể chuyện.

Vẻ đẹp thành phố sương mù hiện ra trong sự mơ hồ của chữ “và”

Trong lối tường thuật của Thành phố những lục địa bay, Nguyễn Vĩnh Nguyên đặt rất nhiều ý nghĩa trong chữ “và”. “Và” không chỉ là sự bao hàm giữa cái này và cái kia. “Và” còn có thể vừa mang ý nghĩa liệt kê, vừa mang ý nghĩa đồng thời. Chính vì vậy, những chi tiết nối liền bằng “và” theo cách Nguyễn Vĩnh Nguyên sử dụng cho người đọc cảm giác chúng có thể lần lượt xuất hiện, hoặc song song tồn tại. Sương mù hay chính bản thân Đà Lạt dường như đã trở thành một câu văn có cấu trúc gắn kết bởi chữ “và”. Ngay từ lời ghi chú ngắn ở đầu truyện, tác giả đã dụng công viết những câu văn có sự xuất hiện của nhiều chữ “và” để tạo ra cảm giác mơ hồ về ranh giới. Ta hãy thử khảo sát một vài trường hợp.

Có khi “và” đảm nhận nhiệm vụ liệt kê hai chức năng đồng thời tồn tại:
“Mặt nước cất giữ trong nó những bí mật bị vùi chôn và trang sức cho thành phố một vẻ mơ màng hư ảo. 

Có khi “và” là một trạng thái ở giữa như cách tác giả mô tả tầm nhìn của một người khi quan sát hồ nước chìm trong sương mù.
“Hồ, vì thế nằm giữa cái thấy và không thấy.”

Đôi khi, “và” còn mang nghĩa không hẳn là “cái này”, cũng không hẳn là “cái kia” như trong câu văn sau đây:
“Còn thi sĩ, anh là kẻ đã đến đây vào Thời đại Buồn nôn với sự thơ mộng và giả thơ mộng được vẽ vời và phóng đại.”

Như vậy ở đây, Đà Lạt hiện ra là một thành phố vừa thơ mộng, vừa không hẳn thơ mộng. Chính vì không có tính chất nào vẹn toàn thuộc về chủ thể – chủ thể ở đây có thể hiểu là cả một thành phố –  nên mới cần có nhiều chữ “và”. “Và” như một phương thức để khẳng định thành phố luôn mang trong mình từng tính chất đã được liệt kê, nhưng đồng thời cũng không hoàn toàn nắm giữ trọn vẹn bất kì tính chất nào. Chính vì lẽ đó, tác giả đã đưa ra nhận định chung về hình ảnh Đà Lạt được tái hiện trong Thành phố những lục địa bay là: “Đà Lạt chính là Đà Lạt. Nhưng Đà Lạt cũng không là Đà Lạt.”  

Trò chơi giữa có và không khiến người đọc say mê

Những chuỗi truyện trong Thành phố những lục địa bay cho người đọc thấy một điều rằng: Sự thật và giai thoại luôn đan xen lẫn nhau về cùng một đối tượng. Ở tác phẩm này, hồ nước chính là khởi nguồn cho mọi sự nhòa lẫn, bất phân định về ranh giới.

Có lẽ, tác giả chọn hồ làm đối tượng để khởi đầu tác phẩm cũng vì hồ là thứ có thể phản chiếu như gương, tạo ra phiên bản thứ hai của thế giới, tạo ra lằn ranh giữa thực và ảo. Hiểu theo cách đó, ta có thể thấy rằng hồ cũng có nhiệm vụ tương tự như chức năng ngữ pháp của chữ “và” trong cấu trúc câu. Nếu “và” là cầu nối trên câu chữ thì “hồ” chính là một phóng chiếu sang hình ảnh của “và”, là sự gắn kết giữa những miền “thực” và “ảo” trong tác phẩm. Và vì vậy, với tác giả, hồ là: “Một thứ nước đôi, không chắc hư cấu, cũng chẳng hiện thực.” 

Hầu hết những con người xuất hiện trong tác phẩm đều vô danh, họ chỉ được gọi bằng các chức danh nghề nghiệp như: thi sĩ, nhà nhân học, quy hoạch gia, chàng nhạc sĩ, nhà thám hiểm, ngài khâm sứ, đan sĩ, hoàng đế, nhà biên khảo, nhà văn… Bằng cách đó, con người hòa vào những địa danh vốn cũng không được đặt tên riêng trong tác phẩm như: Hồ, Suối, Thác, Đồi, con đập…

Giữa những mơ hồ về thân phận của con người và nơi chốn, nước – một “nhân vật” vô danh khác trong tác phẩm – lại nổi lên như một đối tượng dẫn lối cho tất cả mọi thứ. “Nước đã xuyên qua vách ngăn của da thịt, để con người trở nên trong suốt và tự do.” Có lẽ vì thẩm thấu được mọi thứ nên nước dường như là phương tiện duy nhất có thể xuyên qua vách ngăn phân định giữa thực và ảo được tạo ra bởi những lớp sương mù – vốn cũng là thứ thoát thai từ nước mà thành.

Và theo dòng chảy của nước, trò chơi giữa có và không trong Thành phố những lục địa bay cứ thế diễn ra khoan thai, chậm rãi, nhưng nhiều day dứt. Tuy nhiên, dẫu có nhiều màn sương mơ hồ được giăng ra, người đọc cũng sẽ khó mà hoặc thậm chí là không muốn thoát ra khỏi thứ khiến mình đang băn khoăn ấy. Bởi lẽ, bằng chính việc không chối bỏ sự mơ hồ, dần dần ta sẽ nhìn rõ được mọi thứ. Thành phố những lục địa bay chính là một cái nhìn thấu suốt về Đà Lạt giống như thế.

Nguồn: L'Officiel

Đọc bài viết

Phía sau trang sách

Tiếng Kiều đồng vọng: Thế giới như một khoảng không chật hẹp

Published

on

By

Sự tổn thương sẽ mang lại những tia lấp lánh cho con người trưởng thành dường như chưa bao giờ là bài học cũ kĩ. Tiểu thuyết Tiếng Kiều đồng vọng (tên cũ Mưa ở kiếp sau) của Đoàn Minh Phượng chính là tiếng vọng đến từ một cuộc đời như thế.

Tiếng Kiều đồng vọng kể về cuộc đời của Mai. Mai sinh ra và lớn lên với mẹ Liên ở Hà Nội. Từ nhỏ, cô không biết cha mình là ai và luôn mong muốn được gặp cha. Cơ hội cuối cùng cũng đến khi dì Lan – em gái của Liên từ Huế vào Hà Nội thăm hai mẹ con đã tiết lộ cho Mai địa chỉ của cha Mai ở Sài Gòn. Từ đây, Mai phải lựa chọn rời xa tổ ấm để lên nơi phồn hoa đô thị nhiều cạm bẫy dối trá với ước vọng được đón nhận tình yêu thương từ cha mà bấy lâu cô thiếu thốn.

Trưởng thành từ sự tổn thương

Ảnh: Facebook Tao Đàn

Thông qua hành trình tìm cha của Mai, ta còn thấy xuất hiện một hành trình khác, cũng quan trọng không kém: hành trình tìm lại bản ngã của chính cô - một người luôn bị mắc kẹt trong những câu hỏi thuộc về quá khứ. Có lẽ, khi người ta bắt đầu học cách đưa ra câu trả lời cho những nghi vấn trớ trêu mà số phận đặt ra, dù tiếng vọng cuối cùng chưa hẳn là một đáp án tiệm cận nhất với sự thật thì rốt cuộc, ta cũng dần tiến đến sự trưởng thành bản ngã - thời khắc cái tôi cá nhân phải tự phá vỡ vỏ trứng bảo bọc an toàn tưởng chừng vững chắc như một thành trì nhưng hóa ra lại chỉ mong manh như một làn sương dệt từ những mơ hồ bất quyết. Chỉ khi thành trì ấy sụp đổ, làn sương ấy lùi lại phía sau con người vừa bước ra từ sự tổn thương, chính khi ấy ta mới có thể nhìn rõ hơn thế giới với trọn vẹn hương sắc của nó. Tiếng Kiều đồng vọng chính là tiếng vọng đến từ một cuộc đời như thế. Sự tổn thương sẽ mang lại những tia lấp lánh cho con người trưởng thành dường như chưa bao giờ là bài học cũ kĩ.

Nội dung cơ bản của Tiếng Kiều đồng vọng có nhiều yếu tố tương tự với bộ phim Hạt mưa rơi bao lâu do Đoàn Minh Phượng làm đạo diễn và biên kịch, sản xuất năm 2005. Cả hai người con trong tác phẩm này đều không rõ cha mình là ai, đều tự thân tìm hiểu câu chuyện quá khứ vì cùng có người mẹ trung thành tuyệt đối với sự im lặng. “Những kỷ niệm khác nằm trong niềm im lặng của mẹ tôi, niềm im lặng dài hai mươi hai năm, dài bằng đời tôi và nửa đời của mẹ.” Mai đã từng cảm thán như thế về sự im lặng của mẹ. Im lặng là một từ khóa quan trọng, được lặp lại nhiều lần trong Tiếng Kiều đồng vọng. Bản thân Hạt mưa rơi bao lâu cũng có tên phim trong tiếng Anh là Bride of Silence. Như vậy, có thể thấy rằng, sự im lặng hay thân phận của người phụ nữ bị mất tiếng nói trong xã hội là chủ đề có sức ám ảnh lớn với tác giả Đoàn Minh Phượng. Khi những người con sống dưới cái bóng im lặng của người mẹ, họ càng có thôi thúc mạnh mẽ hơn trong việc đi tìm câu trả lời cho một quá khứ bất minh. Thoát khỏi sự im lặng, tự cất lên tiếng nói cho chính mình – đó là một trong những bước đầu tiên để trưởng thành, như cách Mai đã dứt khoát nói với mẹ vào ngày cô rời đi rằng: "Con hai mươi hai tuổi, con trưởng thành đã bốn năm rồi mẹ."

Nước bao bọc kí ức để tiếng nói được cất lên

Ảnh: Facebook Tao Đàn

Mưa ở kiếp sau (tên cũ của Tiếng Kiều đồng vọng) là một tiêu đề gợi hình; trong khi đó, Tiếng Kiều đồng vọng lại là một tiêu đề gợi âm. Thử tìm cách lí giải sự thay đổi này, ta sẽ nhận ra một số điều thú vị.

Ở phần mở đầu tác phẩm, Đoàn Minh Phượng có trích dẫn lời bài hát Within you, Without you của nhóm The Beatles do George Harrison sáng tác với phần lời như sau:

“Ngày sẽ đến khi em nhận ra chúng ta đều là nước.
Cuộc đời trôi bên trong em và bên ngoài em...”

Câu gốc bài này trong tiếng Anh là:

“And the time will come when you see we're all one.
And life flows on within you and without you.”

Thông qua đó, có thể thấy tác giả đã có dụng ý khi thay “one” bằng “nước”. Nước rõ ràng là một hình ảnh rất quan trọng với Đoàn Minh Phượng trong tác phẩm này vì bản thân “mưa” ở tiêu đề cũ cũng là một yếu tố thuộc nước. Vậy dưới ngòi bút của tác giả, nước mang ý nghĩa gì?

“Một câu chuyện không có lời giống như một cơn mưa không có giọt nước từ trời. Tôi sẽ đi tìm lời cho những gì tôi biết.”

Như vậy, nước trong tác phẩm này tượng trưng cho “lời,” cho kí ức – là điều Mai luôn tìm kiếm, đồng thời cũng là điều bao bọc Mai như cách cô ví von: “Tôi còn là loài cá đầu to nằm còng queo trong lòng đại dương chật hẹp, trong bụng của người mẹ chửa hoang.” Vì “sự im lặng” của mẹ Mai là nguồn cơn khởi phát cho hành trình của Mai nên có thể xem như “nước” – một  hiện thân của “lời” – chính là đích đến, đồng thời là phương tiện để Mai hiện thực hóa mục tiêu của mình.

Do đó, so với Mưa ở kiếp sau, Tiếng Kiều đồng vọng là một tiêu đề thể hiện sự chuyển biến tích cực. Mai không còn chờ “mưa”/ “lời giải đáp” ở kiếp sau nữa, cô tìm nó ngay trong kiếp này để cất lên thành một tiếng vọng, phá tan sự im lặng của mẹ cô, của những phận nữ nhi bị mất đi tiếng nói ở thế hệ trước.

Một giọng văn mềm mại nhưng ngầm cuộn sóng bên trong

Tiếng Kiều đồng vọng vẫn kể chuyện theo lối tuyến tính, nhưng khi trình bày các sự kiện diễn ra trong cái khuôn đó, Đoàn Minh Phượng vẫn cho phép dòng tự sự của nhân vật chảy miên man tự do, đi đi về về giữa quá khứ và hiện tại. Chính vì thế, dòng chảy tâm thức của nhân vật tuy được giọng văn mềm mại dẫn dắt nhưng vẫn ngầm cuộn sóng bên trong bởi lẽ chỉ cần rẽ qua một bước ngoặt nhỏ, sự kiện đau lòng nào đó trong quá khứ lại đột ngột ập đến; hoặc ngược lại, khi đang đắm chìm trong hồi tưởng êm đềm, bất thình lình hiện thực phũ phàng xâm chiếm và hủy hoại ta. Người đọc như bước đi trong mê cung, chỉ có thể tri nhận thế giới như một khoảng không chật hẹp trước mắt, không thể biết điều gì sẽ chờ đợi mình trong ngã rẽ kế tiếp.

Ở một thế giới mơ hồ thì những cái tên - vốn dĩ là phép định danh chống lại sự mơ hồ - càng được Đoàn Minh Phượng dụng công để có thể hòa quyện trong bầu không khí hư ảo. Ta có thể thấy tác giả không vội vàng giới thiệu tên họ, lai lịch đầy đủ của nhân vật ngay từ đầu theo lối kể chuyện tiểu sử quen thuộc. Nhân vật hiện lên thoạt tiên với những tâm tư, cuộc sống ập ngay trước mắt độc giả. Những thông tin bên lề sẽ đến sau. Mãi đến chương bốn, trong đoạn đối thoại với mẹ, người đọc mới biết nhân vật chính tên Mai. Nếu để ý kĩ, ta sẽ thấy hầu như những nhân vật trong truyện đều có tên gắn với một loài hoa: Mai, Liên, Lan, Quỳnh... Và Chi - một nhân vật đặc biệt trong tác phẩm này thì tên cô lại có nghĩa là “cành”, không phải là loài hoa đích thực mà có thể là cành cho bất cứ loài hoa nào.  

Những giấc mơ cũng là một yếu tố quan trọng trong Tiếng Kiều đồng vọng. Thông qua đó, Đoàn Minh Phượng xây dựng một thế giới tổn thương, quái lạ với những buổi tiệc kì dị của giới nhà giàu, có phần nào đó mang không khí tương đồng buổi tiệc của hội kín quí tộc mà Stanley Kubrick đã đặc tả rất kĩ lưỡng trong phim Eye Wide Shut (1999).

Sống trong thế giới hiện đại, những cô Kiều dưới ánh sáng thị thành dường như không còn giữ nổi tâm trí tỉnh táo. Họ hồ như đều có chung một dòng máu điên loạn và chỉ biết lặng nhìn dòng chảy ấy trôi qua nhiều kiếp người. Vì vậy, tiếng kêu của họ có thể không đứt ruột như người xưa do nỗ lực chôn vùi cảm xúc, nhưng lại trở thành những tiếng vọng được cộng hưởng vào nhau nên còn mãi ngân nga rất lâu sau khi Tiếng Kiều đồng vọng đã kết thúc.

Đọc bài viết

Cafe sáng