Phía sau trang sách

Một năm đọc sách

Âu bản tường trình này như một báo cáo cho năm vừa qua về mặt văn chương của bản thân, vì như Endo Shusaku viết, một con người – ai cũng có nhiều mặt.

Published

on

2019 là một năm tốt mặc cho cuốn đầu tiên trong tâm trí vẫn luôn muốn đọc hồi đầu năm nay là cái tên không tươi đẹp mấy – Diary of a Bad Year của J.M. Coetzee. Nhưng thật may vì năm qua là một năm thức thời. Không biết nên cám ơn nhà xuất bản hay là bản thân đã kịp “đú” trend như Tarzan đánh đu nhờ hít drama bổ sung đầy phổi suốt một năm qua. Nhìn lại list dài những cuốn sách theo chân, đắc thắng vì phần lớn là những cây viết nữ (cho hợp #MeToo), văn chương hiện thực vẫn chiếm đa số (có lẽ ảnh hưởng bởi Ký sinh trùng), Trung Quốc lại có khá nhiều (chắc lại vấn đề biên giới), ly hương chiễm chệ một chỗ (Trump cùng đồng bọn) và Mỹ Latin – dĩ nhiên vì thích Roma – vẫn còn đa số. Cũng có những cuốn không ưng gì mấy, cầm lên để xem sau rốt có nhai nổi không; có cuốn cười khẩy khi đọc, cũng có cuốn bám theo sát gót. Có cuốn đọc vì mê, có cuốn đọc để vạch lá tìm lỗi, có cuốn đọc để cộng tác, cũng có cuốn tự nhiên cầm lên vì… đọc thôi. Âu bản tường trình này như một báo cáo cho năm vừa qua về mặt văn chương của bản thân, vì như Endo Shusaku viết, một con người – ai cũng có nhiều mặt.

Theo dòng thiên di của những cánh chim không mỏi, Pachinko của Min Jin Lee mở đầu trào lưu tìm dòng của chủ đề này. Hơn 700 trang khổ 24 với câu chuyện về một gia đình lặn lội từ Bắc Hàn sang Nhật; ở đây ít nhất cuốn sách cũng đã khắc họa một cách ổn thỏa tạo hình vĩ đại của người phụ nữ, của lối ẩn dụ cuộc đời như một trò chơi; nhưng ngoài ra, Pachinko lại để rất ít không gian cho ta suy ngẫm. Cũng gần với đó, Đừng nói chúng ta không lợi quyền với cách xây dựng gần giống Pachinko, nhưng rối rắm và kết hợp nhiều mảng lĩnh vực hơn – như cuộc đọ sức quyền anh của bộ não để nhớ hết những dữ kiện trong này. Toán học, âm nhạc và văn chương như ba chân kiềng của tiểu thuyết– nhưng với riêng bản thân, thứ thích thú nhất ở tác phẩm này của Madeleine Thien là những tiến trình lịch sử. Đọc fiction như non-fiction, và bởi lịch sử luôn được viết ra bởi kẻ chiến thắng nên dưới góc nhìn của kẻ bại trận đồng thời là người đứng ngoài, ít ra Đừng nói chúng ta không lợi quyền đã cung cấp cho ta một góc nhìn phổ quát hơn về Đại cách mạng văn hóa, về vụ Thiên An Môn 1989 và mới mẻ thay, Madeleine Thien cũng tiết chế bớt những khốn khổ van xin niềm thương thường thấy của những tác phẩm văn chương Trung Quốc trong thời kì này. Nếu là một người yêu màu đỏ và không quá vướng bận khi kẹt xe, đây là cuốn sách rất đáng để thử.

Song song cùng đó, Đỗ Quyên Đỏ của Anchee Min như ngắt ra chỉ một quãng nhỏ nhưng tập trung hơn so với Đừng nói chúng ta không lợi quyền của thời kì chuyển đổi quyền lực giữa Mao Trạch Đông và Đặng Tiểu Bình. Không ấn tượng nhiều về phông nền lịch sử của cuốn sách này nhưng không thể không nhắc tới lối viết rất “phụ nữ” của Anchee Min – cuồng nhiệt và hoang dã. Cũng cùng sức bức phá đó, đối thủ bại trận “không rõ lý do” của cuộc đua Nobel năm nay – Tàn Tuyết, góp mặt vào danh sách bằng hai cuốn – Đào nguyên ngoài cõi thếBảng lảng trời xanh. Thật ra là lần thứ hai đọc lại và ở lần này lại ngẫm ra nhiều ý tưởng hơn về lối viết của bà. Không hiểu liệu có phải do tác động trước đó của hai cây viết nữ (Min Jin Lee và Madeleine Thien) cùng lối viết hoang dại của Anchee Min không mà lần đọc lại Tàn Tuyết này không quá khó khăn. Đọc rồi để hiểu, thật ra văn chương của bà không phải làm quá – nó chỉ đơn thuần phản ánh những việc rất cá nhân, và do lẽ đó, rất thiết thực. Dưới góc nhìn phân tán của một chiếc kính vạn hoa, một khi không hiểu những gì ẩn chứa đằng sau tầng tầng lớp lớp chữ nghĩa thì bùm – bạn sẽ chìm vào vũng tuyết mà bà phô ra. Tàn Tuyết là như thế, cô độc và đẹp đẽ. Văn chương bà thô mộc nhưng mạnh mẽ, bạo lực trong nền phi bạo lực và cũng có lẽ vì thiếu đi những họa tiết dễ cảm của Murakami, thành ra vẫn vô danh nằm phủ bụi trên những kệ sách Việt Nam.

Năm cuốn sách tiếp theo, hai trong số đó là những phát hiện mới và ba quyển còn lại thật sự là những trải nghiệm rất tiếc khi phải nói là không quá tốt đẹp. Giải thưởng luôn được show ra như cách tri ân bản thân tác giả – tác phẩm, là cách PR bán hàng vô cùng hiệu nghiệm, và dĩ nhiên, cũng là cách lấy đi thời gian của những con bò ngáo ngơ thích thể nghiệm bản thân – như mình. Vì quá yêu Bệnh nhân người Anh hay Margaret Atwood nên khi nhìn thấy cái nhãn Shortlist của Man Booker, bản thân đã không ngần ngại đặt lên để rồi nhận ra dư vị đắng ngắt đằng sau. Thoát đến phương Tây (Exit West) của Mohsin Hamid không phải là cuốn sách tệ, vốn bản thân cốt truyện trong phông nền chiến sự Trung Đông không phải là không thu hút người đọc nhưng với cách phát triển tình tiết, gợi tạo nút thắt để đến cuối cùng khép lại bằng một cái kết không đâu vào đâu thì rõ ràng, nếu để hỏi đâu là cuốn sách “đầu voi đuôi chuột” nhất của năm nay, thì mình sẽ không ngần ngại (mặc dù cũng khá áy náy) trao cho quyển sách này. Á hậu 2, xin mạn phép trao cho Chiếc cặp của Hiromi Kawakami với chiếc nhãn giải thưởng Tanizaki. Đọc hết cuốn tiểu thuyết này mình chỉ có một mong muốn tột bậc là được ngồi cùng hai nhân vật chính để phá tan đội hình tuyệt diệu. Một câu chuyện bình thường dễ đoán của những con người không bình thường, và dĩ nhiên, nó là như thế. Nhẹ nhàng: có; nút thắt: có; cách giải quyết: tương tự Exit West; và nếu bạn là một đọc giả nữ, là người ưa nhẹ nhàng với những câu chuyện thơ mộng, thì vâng, rất hân hạnh để giới thiệu đến bạn Chiếc cặp. Nhưng với một thằng năm nay đã 23 ngấp mé 24, thì vâng, đây là một nỗ lực phi thường!

Cuốn thứ ba, không hay cũng không tệ, nội dung không mới nhưng cách viết khá ổn là Người đẹp say ngủ của Kawabata Yasunari. Có lẽ thành kiến ở việc quá lạm dụng cái chết của văn hóa Nhật đâm ra phần lớn văn chương Nhật thường khiến mình khá dè dặt khi chọn đọc. Với một đứa tâm hồn mỏng manh và hơn 70% cơ thể là nước như mình cùng những lý do không đáng để chết; Người đẹp say ngủ đành thoái lui ở vị trí này, mặc dầu ý nghĩa đằng sau và cách viết của cụ Kawabata rất đáng trải nghiệm. Và với hai trải nghiệm không như mong muốn ấy, khi cầm lên Bên dòng sông Hằng của Endo Shusaku đã khiến cho mình một phút phân vân, nhưng thây kệ, vì công sức của dịch giả yêu quý văn học Nhật (bác Nguyễn Văn Thực) cũng như trót thích Ấn Độ (vì Mùa tôm hay Cân bằng mong manh) thì thôi cũng liều mình, đi vào con đường giáo mác dao găm. Bên dòng sông Hằng đơn giản và dễ đọc hơn Silence (bác Thực từng dịch với tựa Sao Chúa lặng im và dĩ nhiên, vì vài lý do cao đẹp vẫn chưa và có lẽ sẽ không bao giờ được xuất hiện), vẫn chứa những chủ đề mà Endo Shusaku rất hay khai thác trong tác phẩm mình – những xung đột hạn chế, những tư duy hữu cựu và tác động của chúng. Cuốn tiểu thuyết này thoát khỏi những chủ đề sáo mòn, màu sắc u tối của văn chương đương đại Nhật trong kệ sách của mình; thoát ý và đến gần hơn với cách xây dựng văn chương phương Tây, và cũng có lẽ vì thế, Bên dòng sông Hằng là một phát hiện thú vị – không những ở mặt nguồn gốc mà còn là một tác giả vô cùng quan trọng sau này.

Theo sát Bên dòng sông HằngCông chúa Bari của Hwang Sok-Young. Sau một năm khá dài tạm rời xa văn học Hàn Quốc (2017 chỉ có Ở đâu đó có điện thoại gọi tôi, 2018 là Bảy năm bóng tối và 2019 là quả bom xịt của bộ phim chuyển thể), nay mới có dịp cầm trên tay cuốn văn chương của xứ sở này. Văn chương Hàn Quốc và Nhật Bản có màu sắc khá tương đồng nhau; nhưng Hàn Quốc cụ thể, tỏ tường và không u sầu đến mức cực đoan như Nhật, và vì thế Hàn vẫn luôn là một lựa chọn ưu tiên của riêng bản thân mình. Nếu cuốn trước của Endo Shusaku mình từng e ngại vì nguồn gốc xuất thân, thì Công chúa Bari là bởi cái tên … khá củ chuối, nhưng khi chạm vào rồi lại rất khó vượt qua. Công chúa Bari sở hữu trong mình một câu chuyện không bao giờ cũ và một hành trình không bao giờ hết – đi tìm bản chất của người trong một phông nền đậm chất Bắc Hàn. Cuốn sách như áng sử thi dong buồm về câu hỏi lớn, cực ấn tượng và rất hoài nghi. Nếu để tìm một cuốn sách Hàn Quốc thoát khỏi phong trào Dân chủ, phong trào sinh viên, thì đây – Công chúa Bari rất đáng để thử.

*

Ở mảng non-fiction năm nay tạm hài lòng với 4 cuốn sách: Ngàn năm một tiếng thở dài, Sốc – Sự trỗi dậy của chủ nghĩa tư bản thảm họa, Kẻ ly hương và bản đọc lại của Nào tối nay ăn gì. Bốn cuốn sách là bốn chủ đề khác nhau, nhưng tựu hình chung đều là những vấn đề thời đại lý thú. Ngàn năm một tiếng thở dài nói đơn giản là một cuốn du ký, nhưng khác ở đây là du ký về miền quá vãng, về quãng dài lịch sử đã qua. Bạn sẽ không tìm thấy những miền đất xinh đẹp trong này, những câu chuyện trải nghiệm thú vị ở đây; nhưng ở đó tràn ngập tiếng thở dài của những vĩ đại đã từng, cảnh đẹp đã qua trong ngòi bút cô đọng của nhà nghiên cứu văn hóa Dư Thu Vũ. Một cuốn sách rất đáng để đọc, để biết những thế hệ trước loài người đã từng vĩ đại đến mức độ nào và dĩ nhiên, cũng từng manh mún ra sao; như thể Kẻ ly hương sừng sững đứng đó như chứng nhân cho tính chất này của xã hội loài người. Tập tiểu luận với 17 bài viết của những cây viết tha hương, và nhờ sự đa dạng của ngọn nguồn câu chuyện và các phông nền văn hóa ít nhiều đã cung cấp cho ta góc nhìn của người trong cuộc về những câu chuyện xung quanh trên thế giới này, từng ngày, từng giờ; khắc phục cách nhìn duy nhất và khá văn chương của Người tị nạn trước đó; cuốn sách thức thời và khá lý thú.

Sốc – Sự trỗi dậy của chủ nghĩa tư bản thảm họaNào tối nay ăn gì – Thế lưỡng nan của loài ăn tạp là hai quyển sách nghiên cứu xã hội vô cùng cuốn hút, đầy đủ. Nếu Sốc gắn liệu pháp trị liệu sốc điện những năm 50 vào cơn trỗi dậy của thị trường thương mại tự do tháo xích, thì Nào tối nay ăn gì như cuộc phiêu lưu từ cánh đồng ngô đến chuỗi thực phẩm cuối cùng; từ đây cho thấy hiện trạng của ngành công nghiệp thực phẩm, thói quen ăn uống của con người, sự độc chiếm của loài ngô hay mẫu số chung của những xung đột chính trị trong lịch sử. Ta sẽ gặp lại Margaret Thatcher với trận chiến Falkland, Pinochet với thời gian cầm quyền của chế độc độc tài Chile, hậu cơn bão Katrina quét sạch sành sanh ban New Orleans, chính quyền Bush và chiến tranh Afganistan, Đặng Tiểu Bình và sự kiện năm 1989,… Tất cả được Naomi Klein lý giải dước góc nhìn kinh tế, và mỗi chúng ta sẽ nhận ra những sự thật vẫn đang chôn giấu trong từng cuối hồi ký, từng bài phục dựng. Một cách nhìn sâu hơn vào thế giới vẫn đang vận hành.

Ở mảng văn chương phương Tây, không hiểu do trùng hợp hay một lý do nào đó mà sự xoay trục vào văn chương Đông Âu năm nay lại trùng đúng vào khu vực của giải Nobel văn chương vừa qua. Đọc Dưới cánh thiên thần rượu của Jerzy Pilch trong cơn chuếnh choáng một ngày chia tay vì tình, và cứ thế nó đến. Cuốn tiểu thuyết của nhà văn Ba Lan này có một thời lượng không lớn, nhưng chứa trong nó là cả vấn đề thời đại, từng câu từng chữ dường như chưa bao giờ thừa thãi. Nếu đọc cuốn sách chưa đến 200 trang này một cách tập trung cao độ và thật đồng cảm, bạn sẽ quote ra được hàng tá câu văn ngập tràn sổ tay về những luân lí của ông trong này. Một tên tuổi lớn mà chỉ giải Nike 2001 thôi không bao giờ đủ.

Trẻ hơn Jerzy Pilch nhưng độ biếng nhác và tầng sâu những lớp ý nghĩa không hề thua kém là Ngoài vùng phủ sóng của Marta Dzido. Người trẻ thị thành – những con sâu biếng lười còn bò lòm ngòm trên sân chơi cuộc đời, những kẻ mộng mơ muốn tìm cái chết; chắc hẳn sẽ là những đọc giả trung thành của cô trong tác phẩm này. Một tiểu thuyết biếng nhác (rất mỏng) cho những con người biếng nhác (những ai vẫn muốn tìm lại phương hướng). Rất ổn. Cùng đó là việc đọc lại Cánh cửa của Szabó Magda – một việc dằn xé lương tâm trong cơn thỏa mãn vì cây viết Hungari vô cùng cuốn hút này. Cuốn tiểu thuyết hay và sẽ không ngừng khiến mình đọc đi đọc lại, bên cạnh Doris Lessing và Jack Kerouac đành trễ hẹn năm nay.

Con sẻ vàng, Những người nuôi giữ bồ câu, Nửa mặt trời vàngLưỡng giới là bốn cuốn tiểu thuyết với thời lượng khủng mình đã gặm nhắm trong một năm vừa qua. Bốn cuốn sách với một điểm chung đều là phương tiện cho cuộc hành trình tìm lại bản thân, nguồn gốc, bản lai diện mục. Có cuốn dữ dội về mặt tâm tư (Con sẻ vàng, Lưỡng giới); có cuốn dậy sóng ở mặt phông nền; nhưng nhìn chung đều là những tiểu thuyết quan trọng. Những người nuôi giữ bồ câu viết về cuộc tàn sát người Do thái của quân La Mã, Nửa mặt trời vàng về cuộc nội chiến Biafra; và đây dường như là hai yếu tố góp phần làm nên thành công, là sự thú vị của tác phẩm này. Trong khi đó, Con sẻ vàng ngập tràn những tâm tư của Donna Tartt; Lưỡng giới lại khá dàn trải – hai điểm yếu khi những góc nhìn tác giả chiếm một phần lớn.

Văn chương Mỹ Latin năm nay cũng chiếm phần lớn trong danh sách đọc, với những tên tuổi nổi trội – Juan Rulfo, Marquéz, Carlos Fuentes và Alejo Carpetier. Như sự cộng hưởng của quá trình đọc, quá trình biến đổi nền kinh tế thảm họa của khu vực Nón phương Nam mà Naomi Klein phơi bày trong Sốc trở thành bệ đỡ chính cho những tiểu thuyết này. Vì thế với Pedro Páramo, Sự tráo trở của phương pháp hay những truyện ngắn Marquéz; ta vẫn thấy đâu đó dáng hình của chế độ độc tài, sự nổi dậy của khởi nghĩa nhân dân trong một lối viết vô cùng thân thuộc của hiện thực kỳ ảo – trào lưu được khởi đầu bởi Alejo Carpetier và được Juan Rulfo cũng như Gábriel Marquez hay Carlos Fuentes vận dụng một cách nhuần nhuyễn. Đọc văn chương Mỹ Latin ta không những hiểu được những vấn đề chính trị như trọng tâm của khuynh hướng văn học trước đó – văn học cách mạng; mà đồng thời còn là vẻ đẹp con người, thiên nhiên, phông nền văn hóa và bản sắc quốc gia. Những trải nghiệm vô cùng thú vị.

Phát hiện thú vị của năm nay (tuy trễ hơn gần thập kỉ so với thời đại) thuộc về Nhan sắc (Zadie Smith), Những nụ hôn điện ảnh (Éric Fottorio) và Nghiệt tử (Bạch Tiên Dũng). Những tưởng đây là những quyển sách đi theo lối mòn của nạn phân biệt đối xử, của cộng da màu và những lề thói xã hội, của tiểu thuyết tình yêu nhàm chán, của những con người đặc biệt long đong; nhưng không, cả ba tác giả đã tự làm khó khi quăng chính những xung đột vào trong xã hội nhiễu nhương, của những tình tiết và mối quan hệ tréo ngoe khó mà tưởng tượng nó xảy ra thật. Từng lớp từng lớp phơi bày như lớp vỏ của củ hành tây, vô cùng xứng đáng khi nói Zadie Smith như một cây viết bước ra từ củ hành tây (như thần Vệ nữ từ trong vỏ sò). Duyên dáng, thẳng thắn và phơi bày, Nhan sắc là một tiểu thuyết quan trọng như thế. Trong khi với Những nụ hôn điện ảnh, Éric Fottorio đã chứng tỏ cảm quan của mình bằng một vẻ đẹp rất La La Land. Và cuối cùng, Nghiệt tử như mở đầu câu chuyện về những con người đặc biệt trong văn chương châu Á, Bạch Tiên Dũng bằng cảm quan nhạy cảm đã mở cánh cửa của những thương đau đã từng như thế.

Bệnh nhân người Anh và lần thứ ba đọc lại vẫn đẹp đẽ trường tồn mặc sự phá nát của bản điện ảnh. Michael Ondaatje và cuốn tiểu thuyết này tỏ ra xứng đáng với double giải Man Booker danh giá, một tưởng đài khó có thể vượt qua. Giấc mơ Mỹ (Steven Millhauser) và Giữa lòng tăm tối (Joseph Conrad) như đại diện cho những ước mơ phi thường của dòng giống người, và dĩ nhiên, xuất hiện một chút không tưởng đâm ra khá thiếu thực tế.

Ở mảng trinh thám, năm nay lại là một năm thất bát với vỏn vẹn bốn cuốn tiểu thuyết: Hành khách bí ẩn (Georges Simenon), Đứa trẻ thứ 44 (Tom Rob Smith), Cú săn đêm (Samuel Bjørk) và Mùi Adam (Jean – Christophe Rufin). Georges Simenon vẫn thế, vẫn chứng tỏ mình ở mảng trinh thám xã hội. Trong khi Đứa trẻ thứ 44Cú săn đêm có cách xây dựng khá tương đồng nhau: Tom Rob Smith một cách hài hòa thêm thắt vào đó yếu tố hành động rất Mỹ; Samuel Bjørk lại bổ sung thêm yếu tố thần thoại đậm chất Bắc Âu. Nhưng việc cố tạo ra chồng chồng lớp lớp tình tiết đa góc nhìn, đảo ngược thời gian, sử dụng phương cách hòng làm rối trí người đọc; cả hai cuốn tiểu thuyết này đều để lộ ra chính cách sắp xếp trong từng bước đi. Còn với Mùi Adam, một sự thất vọng thảm hại so với những mong chờ trước đó từ tác giả của Brésil đỏ.

Ngoài ra, văn chương thiếu nhi (Con mèo trời, Wonder), thanh – thiếu niên (172 giờ trên mặt trăng, The curious charm of Aurthor Pepper) và văn học Việt Nam (Giông tố, Hai khối tình, Như núi như mây) cũng mang đến những trải nghiệm thú vị. Trong đó nổi bật hơn hết là 172 giờ trên mặt trăng – cuốn thriller fiction đã lâu mới có cảm giác hoảng sợ như thế và Con mèo trời với cách xây dựng đối ngẫu con người – đức tin tương tự Bên dòng sông Hằng vô cùng duyên dáng,… tất cả làm nên một bức tranh trọn vẹn của hành trình đọc sách năm nay.

Hết.

Ngô Thuận Phát


Đọc những bài viết của Ngô Thuật Phát.


Tìm hiểu về những cuốn sách xuất hiện trong bài viết



Phía sau trang sách

Kawabata Yasunari và “cây cầu” nối với thế giới

Published

on

By

“Trong tác phẩm của Kawabata, sự tinh tế gắn liền với cái mềm dẻo, sự nền nã và các nhận thức về chiều sâu bản chất con người… Chúng vừa hiện đại nhưng cũng đồng thời được truyền cảm hứng từ các triết lý tịch lặng của những tu sĩ Nhật Bản xa xưa… 

“Đối với nhiều nhà văn hiện đại, những tuyên bố về truyền thống và mong muốn thiết lập cầu nối với các nền văn học mới đã tỏ ra gần như không thể. Tuy nhiên Kawabata bằng trực giác của một nhà thơ, đã vượt qua mâu thuẫn này và đạt được sự cân bằng kỳ lạ… Tôi rất vinh dự khi được giới thiệu ông, người hơn bất kỳ nhà văn Nhật Bản nào khác, thực sự xứng đáng với giải Nobel Văn chương.” Mishima Yukio đã viết những dòng này cho Viện Hàn lâm Thụy Điển vào năm 1961, chính thức đề cử “thầy” mình cho giải thưởng này. Tuy nhiên phải mất thêm 7 năm nữa thì Kawataba mới giành chiến thắng vào năm 1968, vì “khả năng tường thuật điêu luyện, thể hiện một cách hết sức nhạy cảm bản chất của tâm hồn người Nhật”.

Kawabata Yasunari 1938. Ảnh: wikipedia.org

Có thể thấy rằng Kawabata đã có rất nhiều tác phẩm được chuyển ngữ sang các ngôn ngữ khác nhau, thế nhưng việc làm nói trên luôn không dễ dàng, bởi ngôn ngữ khác thường có xu hướng trở thành “bộ lọc thô thiển”, phá đi rất nhiều sắc thái tinh tế, ngôn ngữ biểu cảm… mà chỉ tiếng Nhật mới có thể có. Thế nhưng không thể phủ nhận chính việc dịch thuật đã cho hậu thế cách nhìn tương đối đầy đủ về nhà văn này. 

Trong diễn từ nhận giải Nobel, ông cũng đề cập đến vấn đề trên: “Trước sự phức tạp do các khác biệt về mặt ngôn ngữ, và vì thực tế là các tác phẩm của tôi […] phải được trải nghiệm qua việc dịch thuật, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn, sự tôn trọng sâu sắc và bất diệt của mình đối với nỗ lực của các viện sĩ thuộc Viện Hàn Lâm. Tôi tin rằng giải thưởng đầu tiên dành cho người phương Đông sau 55 năm này sẽ gây ấn tượng sâu sắc đối với Nhật Bản, và có lẽ cũng là đối với các quốc gia châu Á khác, cũng như đối với tất cả quốc gia có nền ngôn ngữ ít được biết đến.”

Nói chuyện với giới truyền thông Nhật Bản, Kawabata thậm chí còn thẳng thắn hơn: “Nếu các Viện sĩ có thể đọc tác phẩm của tôi bằng tiếng Nhật thì sẽ rất tốt, nhưng… thực tế là tôi mắc nợ dịch thuật rất nhiều”. Thái độ yêu/ghét - hay chính xác hơn là không muốn/không tin tưởng - của Kawabata đối với dịch thuật được thể hiện theo rất nhiều cách. Theo tất cả các tài liệu còn ghi chép lại, ông thể hiện trạng thái tích cực trong quá trình dịch thuật, thế nhưng nó không nhất thiết là sự hài lòng của bản thân ông. 

Sách Người đẹp ngủ mê, tác phẩm kinh điển của Kawabata Yasunari vừa được Phương Nam Book tái bản phát hành.

Các vấn đề tương tự cũng có thể thấy trong thư từ giữa Kawabata với Mishima Yukio, đã được xuất bản vào năm 1997 với tên Kawabata Yasunari/Mishima Yukio: Ōfuku Shokan (nguyên tác:『川端康成・三島由紀夫往復書簡』). Theo đó ngay từ năm 1951, Kawabata đã hỏi Mishima tên của “người Mỹ đã dịch cuốn Lời thú tội của chiếc mặt nạ” vì ông muốn xin lời khuyên của người này với tư cách là “người nước ngoài hiện đang sinh sống ở Nhật và đọc văn học Nhật”. Theo đó ông muốn tham khảo rằng mình nên gửi truyện ngắn nào tới các tạp chí văn chương Mỹ.

(Người dịch thực tế trong thư hồi đáp mà Mishima tiết lộ là Meredith Weatherby, thế nhưng tác giả của Kim Các Tự cũng đã thể hiện một số nghi ngại vào thời điểm đó. Ông đã phúc đáp “Ông ấy là một cựu quan chức ngoại giao không có chỗ đứng trong giới văn chương Mỹ”. Mishima cũng nói thêm rằng các cuộc đàm phán liên quan đến việc chuyển ngữ Lời thú tội của chiếc mặt nạ đã rơi vào trong bế tắc sau thời gian dài, vì Ivan Morris – một dịch giả khác của Mishima, bày tỏ nghi ngờ về khả năng của Weatherby.)

Năm 1956, Kawabata viết thư cho Mishima xin lỗi vì ở mặt sau ấn bản tiếng Anh của Xứ Tuyết, ông được ghi nhận là người “phát hiện cũng như bảo trợ cho những nhà văn trẻ đáng chú ý như Yukio Mishima”. Ông viết: “Có lẽ quan niệm sai lầm mang tính tâng bốc rằng tôi “phát hiện ra anh” sẽ là tất cả những gì gắn liền tên tôi với lịch sử văn học”. Mishima sau đó cũng đã phản hồi với lời chúc mừng của mình cho phiên bản tiếng Anh, và chia sẻ suy nghĩ về cách nhìn của độc giả nước ngoài với Kawabata: “Người Mỹ không phải là những kẻ ngốc, và trò nghĩ rằng họ sẽ hiểu thôi. Thực sự là người nước ngoài đã quá cứng nhắc và kém hiểu biết về sự linh hoạt của văn học Nhật. Thầy có nghĩ vậy không?”

Kawabata Yasunari nhận giải Nobel Văn học năm 1968. Ảnh: nippon.com

Một phần mối quan tâm chung về dịch thuật và sự tiếp nhận ở nước ngoài đối với các tiểu thuyết của Kawabata rõ ràng là lợi ích cá nhân về mặt nghệ thuật, tuy nhiên nó cũng ẩn chứa nhiều điều hơn thế. Sự chiếm đóng của Hoa Kỳ đã khiến Nhật Bản tràn ngập những người ngoại quốc có thể nói và đọc tiếng Nhật, cũng như các tác giả địa phương mong muốn cháy bỏng được cộng đồng quốc tế công nhận. 

Về phần mình, lúc đó Kawabata là chủ tịch của Hội Văn Bút Nhật Bản (PEN Nhật Bản) từ năm 1948 - 1965, nên việc quảng bá văn học Nhật Bản ra với quốc tế cũng là một phần công việc của ông. Vào năm 1959, ông đã viết thư cho Mishima để chúc mừng về ấn bản tiếng Anh của Kim Các Tự và nhận xét: “Từ lâu, tôi nghĩ rằng cuốn sách này rất phù hợp để dịch sang các ngôn ngữ khác và rất kỳ vọng vào sự đón nhận của nó ở nước ngoài,” Ở đây ta có thể thấy ông không nói chuyện chỉ để đãi bôi, mà ý thức về chiến lược dài hạn đã được hiện lên tương đối rõ ràng. Và vì vậy khi Mishima viết bức thư gửi Viện Hàn lâm Thụy Điển được trích dẫn ở đầu bài viết, thì thực chất đó là theo lời yêu cầu của Kawabata. Có cảm giác chung chung rằng đã đến lúc “mùa xuân” của văn học thời hậu chiến Nhật Bản nhận được sự chú ý của giải Nobel, và Kawabata dường như là ứng cử viên sáng giá nhất.

Bản thân Kawabata được cho là đã cảm thấy các nhà văn trẻ - chẳng hạn như Mishima - có nhiều khả năng nhận được sự tán đồng hơn. Ngay cả sau khi Kawabata nhận được tin về việc lựa chọn mình, ông vẫn hoài nghi về quyết định này. Ibuki Kazuko, biên tập viên của ông vào thời điểm đó, kể rằng ông đã nói với bà: “Không phải tôi là người nhận giải Nobel đâu, chỉ đơn giản là đến lượt Nhật Bản thôi”.

Có lẽ vì thế mà trong diễn từ nhận giải Nobel, Kawabata ít nói về mình mà dành phần lớn thời lượng để nói về những khía cạnh tư tưởng của người Nhật mà ông cảm thấy cộng đồng phương Tây ít có khả năng hiểu được. Khi đề cập các tác phẩm của mình, ông đã nhắc đến những quan niệm sai lầm tiềm ẩn: “Việc coi tiểu thuyết Ngàn cánh hạc của tôi như sự gợi lên vẻ đẹp trang trọng và tinh thần của trà đạo là một cách hiểu sai. Đây là một tác phẩm tiêu cực, thể hiện sự hoài nghi và cảnh báo về sự thô tục mà trà đạo đã và nhiều khả năng có thể rơi vào”.

Kawabata với vợ Hideko ở bên trái và cô em gái Kimiko ở bên phải năm 1930. Ảnh: wikipedia.org

Ngay cả tiêu đề Utsukushii Nihon no watashi của diễn từ này cũng rất mơ hồ. Tính chất này cũng rất đáng nghiên cứu, nhưng có một cách dịch thoát là “Tôi của Nhật Bản xinh đẹp”. Đó là tuyên bố không thể tách rời khỏi truyền thống hàng nghìn năm mà Kawabata đã công nhận, từ đó gián tiếp thể hiện rằng ông từ chối hòa nhập vào cộng đồng quốc tế như sự bổ sung thêm điều kỳ lạ cho thế giới quan của châu Âu, và thay vào đó là yêu cầu văn học Nhật Bản phải được hiểu theo một cách riêng biệt.

Hai năm sau khi Kawabata nhận giải Nobel, Mishima đã gây chấn động văn đàn bởi cái chết của mình. Bốn năm sau đó, Kawabata cũng tiếp bước theo trong một vụ việc mà được ngầm hiểu là do tự sát. Ngày nay, những sự kiện này giống như đoạn kết nghiệt ngã, mang tính quyết định cho hai thập kỷ đầu tiên của văn học Nhật Bản thời hậu chiến, với những tuyên bố của các nghệ sĩ thấy mình đã đạt đến mức cực hạn sáng tạo. Đó chính là những tuyên ngôn gây sửng sốt của Mishima; cũng như khó tin và đầy mơ hồ của Kawabata.

“Đôi khi chúng ta quá nhạy cảm về sự tinh tế, thanh lịch hay cảm nhận về cái đẹp của mình… Đôi khi chúng ta cảm thấy mệt mỏi với điều đó. Đôi khi chúng ta cần sự bùng nổ để mà thoát ra”. - Mishima

Chuyển ngữ từ bài nghiên cứu của Matt Treyvaud

Đọc bài viết

Phía sau trang sách

Một góc nhìn khác về Đà Nẵng

Published

on

By

Sau Trường Sa 1988 – Hồ sơ một sự kiện lịch sử ra mắt vào năm 2021 cung cấp những tư liệu quý về chủ quyền biển đảo, mới đây nhà nghiên cứu Võ Hà cũng đã giới thiệu tác phẩm mới nhất Đà Nẵng ngày tháng cũ.

Gồm 10 bài viết gồm các vấn đề của Đà Nẵng trước năm 1975, những biên khảo này đã cho ta thấy một góc nhìn khác về “đô thị biển” và “đô thị sân bay” từ trong quá khứ. Ngoài ra, rất nhiều vấn đề có sự tương quan giữa Đà Nẵng và đô thị miền Nam Việt Nam vẫn còn sống động cho đến ngày nay cũng được khảo sát một cách kỹ lưỡng, nghiêm túc, để thấy rằng những chuyện quá khứ cũng có khả năng giải quyết, định hướng tương lai. Nhân dịp này, tác giả Võ Hà đã chia sẻ về nhiều vấn đề xoay quanh cuốn sách.

Thưa anh Võ Hà, Gắn với Đà Nẵng thường có một câu cách ngôn “nhượng địa vẫn hoàn nhượng địa”. Đâu là khởi nguồn của nó, thưa anh?

Có một thông tin lịch sử mà chúng ta ít để ý là khi Đà Nẵng trở thành nhượng địa của thực dân Pháp theo Sắc lệnh ngày 1/10/1888 có đề cập đến “phạm vi giới hạn các vùng nhượng địa sẽ được xác định bằng các sơ đồ của bản phụ lục”. Tuy nhiên, trên thực tế không có một sơ đồ nào đính kèm theo sắc lệnh này. Điều này cho ta thấy rằng, chính quyền thuộc địa Pháp đang cố gắng tạo ra sự mập mờ trong các văn bản pháp lý để chiếm dụng các phần diện tích đất tại các khu vực nhượng địa theo hướng mở rộng ra gấp nhiều lần.

Bản quy hoạch nhượng địa Đà Nẵng được chính quyền thuộc địa Pháp đưa ra ở thời điểm năm 1889, mở rộng trên tất cả các vùng phía Tây và phía Nam của cửa biển Đà Nẵng. Tất nhiên là nó bao gồm cả bán đảo Sơn Trà (cùng với 8 làng trong bản kế hoạch cũ, bản kế hoạch mới bổ sung thêm 18 làng và nâng tổng số lên thành 26 làng bao gồm luôn cả bán đảo Sơn Trà; phạm vi của bản đồ quy hoạch mới cũng lớn hơn bản đồ cũ đến 10 lần, thậm chí là 12 lần) mà triều đình nhà Nguyễn không chấp nhận. Diện tích nhượng địa Đà Nẵng trở nên quá lớn và câu chuyện quy hoạch này sau đó trong thời kỳ Quốc gia Việt Nam được lặp lại bằng quy hoạch sân bay Đà Nẵng II bên hữu ngạn sông Hàn, với diện tích gần như bao trọn bán đảo Sơn Trà - và đó cũng là câu chuyện “nhượng địa lại hoàn nhượng địa”.

Bản đồ Đà Nẵng năm 1969. Ảnh: Tư liệu

Điều này cho thấy, bắt đầu từ những năm 1880 đến đến năm 1954 thì chính quyền Pháp ở Đông Dương luôn xuyên suốt về ý tưởng muốn nắm lấy nhượng địa Đà Nẵng với một không gian rộng lớn hơn nhiều (giống như không gian Đà Nẵng hiện nay) nhằm dễ bề tổ chức hoạt động kinh tế ở thuộc địa, đảm bảo an ninh và chia cắt, chống phá các hoạt động của chính quyền cách mạng.

Có vị trí tương tự Hongkong, thế nhưng theo anh vì sao Đà Nẵng lại không thể vươn lên về mặt thương mại như “xứ Cảng Thơm”?

Đà Nẵng và Hong Kong có tính chất tương đồng về sinh thái học lịch sử (cùng là cảng biển, là một điểm tập kết hàng hóa). Tuy nhiên, về lịch sử, điều kiện địa chính trị thì có sự khác nhau cơ bản, nhất là trong thời kỳ thế giới bước vào hội nhập quốc tế, thì Đà Nẵng rơi vào chiến tranh, trở thành một căn cứ liên hiệp quân sự của Mỹ và đồng minh ở miền Nam Việt Nam.

Nghiên cứu về một vùng đất luôn không thoát khỏi các cuộc khảo sát về nhân khẩu học và dân tộc học. Trong tác phẩm này, anh thấy người Đà Nẵng đóng vai trò gì trong lịch sử của đô thị này?

Việc mở rộng sân bay Đà Nẵng được chính quyền đương thời thực hiện dưới sự tác động mạnh mẽ, căn bản của thực dân Pháp, sau đó là Mỹ. Trong đó, có ba yếu tố tạo ra sự bất hòa của người dân, đó là: 1) Mặc dù có một sự đền bù khi di dời làm sân bay Đà Nẵng I (sân bay Đà Nẵng hiện nay) nhưng thực hiện một cách thiếu công khai, chèn ép, với sự bất nhất của chính quyền. 2) Bắt người dân tham gia công trường với giá rẻ mạt. 3) Riêng đối với sân bay Đà Nẵng II (ở Sơn Trà) thì luôn trong trạng thay quy hoạch treo, khiến đời sống nhân dân luôn bi đát. Đó là một trong những lý do người dân đứng dậy phản kháng chính quyền đương thời, cùng với sự vận động linh hoạt, sáng tạo của chính quyền cách mạng để đòi các quyền lợi chính đáng của mình.

LCU1476 thả các phương tiện và thiết bị của thủy quân lục chiến trên bãi biển Đỏ gần căn cứ không quân Đà Nẵng vào sáng ngày 8-3-1965. Ảnh chính thức của Thủy quân lục chiến Hoa Kỳ. Nguồn ảnh: mcu.usmc.mil/historydivision.

Còn về vấn đề đối với chủ quyền quần đảo Hoàng Sa ra sao, thưa anh? Được biết ngay từ rất sớm người dân Đà Nẵng, Quãng Nam cũng đã tự nguyện giữ vững chủ quyền biển đảo?

Đối với quần đảo Hoàng Sa, từ năm 1954, chính quyền Việt Nam Cộng hòa đã kế tục, tăng cường kiện toàn tổ chức quản lý hành chính, đẩy mạnh các hoạt động kinh tế, quân sự cũng như công tác ngoại giao để khẳng định ý chí chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa. 

Bản đồ sáp nhập xã Định Hải (quần đảo Hoàng Sa) vào xã Hòa Long, huyện Hòa Vang, tỉnh Quảng Nam (1969). Bản đồ kèm theo Nghị định số 709-BNV/HCĐP/26 ngày 21-10-1969 của Tổng trưởng Nội vụ về việc sáp nhập xã Định Hải vào xã Hòa Long, Hòa Vang, Quảng Nam. Nguồn ảnh: Hồ sơ 8654. Phông Phủ Thủ tướng Việt Nam Cộng hòa. Trung tâm Lưu trữ Quốc gia II.

Trong đó, Đà Nẵng có một ý nghĩa đặc biệt, nhất là đứng lên phản đối, bảo vệ chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ khi Trung Quốc dùng vũ lực xâm chiếm toàn bộ quần đảo Hoàng Sa năm 1974. Người Đà Nẵng không chỉ là hòa chung vào cuộc đấu tranh với các địa phương khác ở miền Nam lúc bấy giờ mà còn là sự thể hiện tình cảm về việc quần đảo Hoàng Sa là một bộ phận lãnh thổ của xã Hòa Long, quận Hòa Vang, tỉnh Quảng Nam lúc bấy giờ (nay thuộc thành phố Đà Nẵng).

Ngoài các vấn đề xoáy vào Đà Nẵng, thì tập sách này cũng mở rộng thêm có chủ đề có liên quan đến Đà Nẵng tại miền Nam Việt Nam như bảo tồn nhà rường, thay đổi giờ giấc sinh hoạt... Anh tìm đến những chủ đề này thế nào?

Lịch sử là lịch sử, đồng thời lịch sử không hẳn là lịch sử, lịch sử nó cũng có đời sống ở hiện tại và cả tương lai theo một mức độ nào đó. Nghiên cứu lịch sử vừa đi tìm các thông tin sát thực với quá khứ, vừa xem “đời sống” của nó ở hiện tại, dự báo trong tương lai, và khuyến cáo cần ứng xử như thế cho cho thỏa đáng.

Đình Hòa Bình trong Công trường Quách Thị Trang (năm 1968-1969)

Trong tập sách này, riêng câu chuyện đề xuất phục hưng nhà rường Việt Nam cho ta biết rằng, trong quá khứ trước năm 1975, các nhân sĩ, trí thức có tấm lòng với văn hóa dân tộc đã suy nghĩ về phục hưng văn hóa Việt Nam trong bối cảnh của chiến tranh, bất ổn xã hội. Bởi khi có sự suy tàn nào đó về văn hóa đương thời thì ta cần phục hưng nó, để nó trở thành một động lực mới cho sự phát triển. Nếu độc giả để ý sẽ thấy ngay rằng, việc này sau năm 1975 khi Việt Nam trải qua thời kỳ quản lý đất nước quan liêu bao cấp, chuyển dần sang đổi mới, hội nhập quốc tế thì câu chuyện này bắt đầu lại được quan tâm, đề cập trở lại và có những động thái rõ nét. Đây chính là một ví dụ về “đời sống” của lịch sử trong hiện tại và tương lai.

Hay câu chuyện thay đổi giờ sinh hoạt của hai miền Bắc - Nam giai đoạn 1954-1975 cũng có lắm điều thú vị. Trong đó, quy chung rằng việc thay đổi giờ này đồng thời xuất phát từ hai nguyên nhân chính: đặc thù thời tiết (là một nước nhiệt đới nên giờ giấc sinh hoạt cần phù hợp với đồng hồ sinh học, để đảm bảo sức khỏe người dân) và ý chí của chính quyền đương thời (dựa vào mục tiêu lớn nhất là phải làm gì để điều chỉnh giờ giấc cho phù hợp với mục tiêu đó). Ở đây cho thấy trong việc đổi giờ, thì ở miền Nam dựa trên lập luận nhằm phát triển kinh tế, nhất là du lịch; trong khi đó ở miền Bắc chủ yếu dựa trên lập luận về tình hình chiến sự - có sự nối tiếp về việc quy định múi giờ khác nhau giữa các khu vực chiến sự kể từ sau năm 1945.

Tháp (có đồng hồ) của chợ Bến Thành năm 1920. Ảnh: Tư liệu.

Tôi nghĩ rằng, qua câu chuyện này, để có tính biểu tượng và ý thức thời gian, tại các thành phố lớn của Việt Nam hiện nay, ở khu vực trung tâm nên xây dựng một đồng hồ công cộng lớn, có thể là đồng hồ số, đồng hồ kim, đồng hồ nói… hoặc có sự kết hợp các loại với nhau và tạo nên một thời khắc “tâm lý”, như một sự dừng chân, “hiện hữu” để mỗi người nhìn về mình trong sự xô bồ của cuộc sống hiện đại.

Nhìn nhận một cách thẳng thắn, theo anh, có thể nói rằng trước năm 1975 thì miền Nam cũng có tương đối chính sách tiến bộ không? Như cho khai thác phân chim ở Hoàng Sa cũng là một cách bảo vệ lãnh thổ, hay chính sách khuyến khích tiêu dùng trong nước, trồng các cây gòn để gia tăng kinh tế…?

Những chính sách nêu trên dưới thời chính quyền Ngô Đình Diệm là một cố gắng đáng ghi nhận trong việc thực thi chủ quyền của Việt Nam Cộng hoà ở quần đảo Hoàng Sa; trong việc muốn phát huy nội lực để phát triển đất nước mà cả giai đoạn trước đó và cả những năm ngay sau đó (tính trước năm 1975) không có được. Qua đây, cũng xin nói thêm rằng, nếu nghiên cứu về miền Nam Việt Nam giai đoạn 1954-1975 thì thời kỳ dưới thời Ngô Đình Diệm có những chính sách kinh tế, nhất là về văn hoá để lại nhiều dấu ấn rõ nét.

Xin cám ơn anh về cuộc trao đổi này!

Đọc bài viết

Phía sau trang sách

Họ đã làm ra cảnh quay nổi tiếng trong ‘Hàm cá mập’ như thế nào?

Published

on

Phim Hàm cá mập (tựa tiếng Anh: Jaws) của đạo diễn Steven Spielberg là tác phẩm mang tính "thách thức" khán giả, vì đây là một trong những phim về loài thủy quái biển sâu tạo hiệu ứng rền vang ngay từ buổi chiếu thử.

Nói về độ nổi tiếng của Hàm cá mập đối với dân mê phim là "múa rìu qua mắt thợ", nhưng có lẽ nói về chuyện hậu trường của phim, nhất là một trong những cảnh phim chết chóc, lạnh vai gáy trong tác phẩm này hẳn sẽ rất thú vị. Khi bản dịch tiếng Việt của cuốn Khán giả học - Người xem thử nghiệm đã xoay chuyển các bộ phim bom tấn như thế nào? (tựa gốc tiếng Anh: Audience-ology: How Moviegoers Shape the Films We Love) của hai tác giả Kevin Goetz và Darlene Hayman ra mắt độc giả Việt, nhiều câu chuyện hậu trường về quá trình làm phim của Hàm cá mập dần được hé lộ, nhưng không phải dưới góc nhìn thuần "kể lể" dài dòng văn tự mà đi sâu mổ xẻ qua câu chuyện chiếu thử. Vì các tác giả là những người có thâm niên trong lĩnh vực này.

Cảnh trên phim trường Hàm cá mập năm 1975. Ảnh: UNIVERSAL

Buổi chiếu thử phim Jaws ra đời khi mà "giữa những năm 1970, ngành công nghiệp điện ảnh trải qua một số thay đổi giúp việc nghiên cứu chiếu thử được áp dụng rộng khắp và buộc quy trình này trở nên nghiêm ngặt và có nguyên tắc hơn". Steven Spielberg lúc đó chỉ mới 28 tuổi, hầu như vô danh, nhưng công ty MCA Universal đã trao dự án vào tay nhà làm phim trẻ và họ lên kế hoạch quảng bá rầm rộ. Buổi chiếu thử vào "một chiều mưa ướt sũng mùa xuân năm 1975" khiến dàn lãnh đạo MCA đứng ngồi không yên, và "phút thứ 90", họ quyết định cho chiếu thử tác phẩm.

Tuy đã chạy chiến dịch quảng bá qua đài phát thanh địa phương trước đó, thế nhưng khi đến buổi chiếu thử, lãnh đạo của MCA không ngờ có cả một hàng người rồng rắn trước rạp để được vào xem suất đầu của Jaws. Thành công ngoài mong đợi! Khán giả la hét, choáng váng, có người bỏ ra khỏi rạp để ổn định tinh thần, có người thậm chí nôn mửa suốt quá trình các nhân vật chiến đấu với con cá mập vô cùng khát máu trên màn ảnh. Thế nhưng có một cảnh mà cả rạp "nhảy dựng ra khỏi ghế", thế nhưng ê-kíp lại cảm thấy chưa thật sự đẩy lên đến "đỉnh" của nỗi sợ, đó là cảnh một nhân vật lặn dọc thân tàu, rọi đèn pin tìm kiếm và bất ngờ đầu của thuyền trưởng trồi ra lềnh bềnh. Để "nâng cấp" cảnh này, Steven Spielberg và cộng sự đã quyết định ghi hình lại ngay ngày hôm sau, nhưng do tiết kiệm chi phí, họ đã quay ở một hồ bơi. Sau khi chỉnh sửa, ê-kíp cho cập nhật bản phim mới, mở buổi chiếu thử thứ hai. Cũng ở cảnh lặn dọc theo mạn tàu đáng sợ ấy, nhân vật "phát hiện ra vết rạch sâu trên thân tàu và rọi đèn pin vào lỗ trống ấy. Máy quay dừng lại một lát trong bóng tối bao trùm. Rồi, bất thình lình, cái đầu xuất hiện trên màn ảnh với một con mắt lồi ra trong sự sợ hãi chết chóc, con mắt còn lại thì mất tiêu, hốc mắt đầy cua cáy. Cả rạp bùng nổ". 

Sách Khán giả học dịch tốt, là quyển sách về điện ảnh đọc hấp dẫn, có nhiều thông tin bổ ích cho "mọt phim". Ảnh: Nhà sách Phương Nam

Hàm cá mập đã thành công vang dội tại phòng vé năm đó, trở thành phim ăn khách bậc nhất lịch sử điện ảnh, cho đến khi tác phẩm sử thi không gian Star Wars ra mắt sau đó 2 năm và "soán ngôi" của phim. Jaws được đề cao về kỹ thuật dựng phim và hiệu ứng âm thanh. Buổi chiếu thử đã giúp các nhà làm phim đi đến việc thay đổi bản phim hiện tại nhằm làm tác phẩm tốt hơn, sống lâu hơn ở rạp, và hơn thế, sống lâu hơn trong lòng công chúng. 

Là cây bút quan sát, nghiên cứu về Hollywood trong hơn 30 năm, Kevin Goetz đã đưa ra những phân tích sắc sảo, mang tính chiêm nghiệm trong suốt thời gian dài về quy trình chiếu thử - tuy chỉ mang tính sơ khởi, thăm dò phản ứng của khán giả về bản dựng chưa hoàn chỉnh của phim nhưng lại quyết định sự sống còn của tác phẩm. Thậm chí, Kevin Goetz còn cho biết việc chiếu thử còn được tính toán cẩn thận đến mức, nếu xét về nhân khẩu học trong việc xem phim, quy trình chiếu thử sẽ có những quy tắc vô cùng nghiêm ngặt của nó. Và điểm nhìn của Kevin Goetz đưa ra xuyên suốt quyển Khán giả học càng chắc chắn hơn khi tác giả có thâm niên làm việc đáng ngưỡng mộ với dàn lãnh đạo của các hãng phim lớn, lâu đời ở Hollywood. 

Nguồn: Báo Thanh Niên Online I Thế Sang

Đọc bài viết

Cafe sáng