Phía sau trang sách

Về Huế: Mải mê với Huế bằng một tấm lòng trân trọng

Published

on

Có ai đó đã từng nói rằng: “Cuộc đời con người là những hành trình”, có những người sẽ muốn đi đến những nơi thật xa để tìm kiếm và khám phá những vùng đất mới, cũng có những người lại muốn đi thật sâu, tìm và hiểu rõ nơi mình sinh ra và lớn lên.

Chúng ta tìm kiếm những vẻ đẹp tiềm ẩn mà không phải ai sống ở đó cũng dễ dàng nhìn ra; tôi sợ đến cuối đời, khi bản thân đã có tuổi hay không còn đủ sức đi trên đôi chân của mình rồi giật mình nhận ra mình chẳng hiểu gì, biết gì về vùng đất được sinh ra và lớn lên – đất Huế cả. Giữa đợt Covid thứ tư, mọi người hạn chế ra khỏi nhà, có lẽ đọc sách là cách hiệu quả nhất để chúng ta bước lên những chuyến xe du lịch, có thể trở về quá khứ, tìm kiếm những thứ thú vị ở hiện tại, thả hồn mơ mộng cho tương lai…

Tại sao lại là “về Huế?”

Người dân Việt Nam lớn lên cùng những câu chuyện cổ tích ngày xửa ngày xưa bà và mẹ thường hay kể, nên dường như con người, món ăn, tình cảm, tình yêu cũng có phần đượm màu cổ tích. Trong khu rừng thần thoại của những câu chuyện kể, Huế nhỏ bé, xinh xinh và tinh tế như chiếc hài của cô Tấm.

Tôi sinh ra và lớn lên ở Huế, cũng ở mảnh đất Hương Trà – quê hương tác giả Trần Kiêm Đoàn. Đọc Về Huế, tôi thấy Huế thân thuộc như tác giả nói hộ nỗi lòng, giãi bày cảm nhận của mình vậy. Một giọng kể tâm tình của người con xa quê ngày trở về, mười năm trở lại một lần, gặp lại mẹ già, gặp lại Huế thân thương. Rồi tự hỏi, mỗi lần nghĩ đến Huế, chẳng biết con người đang về với Huế hay chính Huế đang từ từ tiến đến ôm người vào lòng. Ai nghĩ đến Huế, ai nhớ nhung ai đâu còn quan trọng nữa, bởi Huế và người đã được gặp lại nhau.

Về Huế là chiếc bánh nhỏ gói cả tâm can, nỗi lòng, sự mộc mạc và quý tộc cùng sự linh thiêng của vùng đất Thần Kinh. Ai đã ở Huế rồi, xa Huế mới thấu, cái sự nhớ nhung ngàn năm khắc khoải, như bóng cây phượng buồn dựa bên sông mà hát mãi câu Nam bằng. Những con người gắn bó vài năm với Huế đã đành, khách du lịch một lần ghé Huế cũng vậy, còn đến như kẻ ly hương ngày trở về thì mừng mừng, tủi tủi, mà nước mắt cứ ứa ra chẳng biết vì răng. Vì răng rứa?

Huế vừa là quê mẹ để nhớ, để về, vừa là chiếc nôi tình cảm trong suốt một đời người. Khi nhiều lần cố quên Huế thì mảnh đất ấy lại hiện hữu dịu dàng một tình mẫu tử đơn phương, rồi có lúc lại bâng khuâng như người tình cũ cười nhẹ nhớ thời dĩ vãng. Nhưng cũng lạ rằng, khi nhớ Huế, Huế lại mơ hồ cái bóng dáng mờ nhân ảnh rất thơ, để rồi mất hút xa xăm lúc nào chẳng hay. Tưởng gần mà xa, tưởng xa mà vẫn ở đâu đó trong tim. Tưởng yêu thương hững hờ mà lại chất nặng tình trên vai.

Tôi tự hỏi, tại sao lại là “Về Huế?” “Dù tôi có vô tận Sài Gòn thì cũng là Ra Huế. Có ra Hà Nội thì rồi cũng Huế. Có về làng với mẹ thì cũng là Qua Huế. Và, có xuống tận Thuận An thì cũng sẽ là Lên Huế mà thôi. Còn với người khách phương xa viễn xứ thì cũng Tới Huế là cùng”. Chúng ta bắt gặp về quê, về nhà, có lẽ vì vậy mà có Về Huế. Về Huế, về với quê hương, về với những bến bờ xưa cũ, với nơi “chôn nhau cắt rốn” dẫu phong ba có lớn, bão tố có mạnh, thì vẫn còn có Huế, có nhà, có mẹ. Chẳng phải đứa con nào cũng thế ư?

Về Huế – một thoáng kí ức ngày xưa

“Huế mà không thơ là thờ ơ với Huế”. Mỗi người sẽ có những cách cảm khác nhau về nét thơ và hồn thơ của Huế, có thể qua thành quách rêu phong, đền đài cổ kính, hay qua cách trang trí, trình bày những món ăn, có khi lại là con người nơi đây, và có khi là cả những điệu hò, câu hát say mê lòng người.

“Trở lại Huế yêu lần theo ân tình câu hát…
Tìm người con gái áo tím mộng mơ.
Sông Hương tấp nập tìm răng được chừ,
Không nguôi kỷ niệm vòng tay học trò”

Huế dịu dàng, Huế trầm tư, Huế cũng thướt tha với tà áo trắng thoáng nhịp Trường Tiền, chiếc nón bài thơ và dòng Hương Giang lững lờ.

Áo trắng ngày xưa thuở tìm em mà không thấy
Mênh mang mấy nhịp Tràng Tiền nắng lên
Nắng lên từ phía nón em nghiêng qua cầu”.

Sự e ấp, nét duyên của người con gái xứ Huế là một góc khuất người đời ưa khám phá. Trong tiếng “dạ”, tiếng “thưa” và nét duyên như điệu nước dòng Hương, “nước trong, sóng lặng mới soi được bóng con đò”. Rồi cả mối tình với nàng thơ “Thuở tiên Đồng Khánh”, tình yêu chín hườm thuở học trò mùa xuân tuổi mười sáu, “Cô bé nhà dối diện, với mái tóc đen dài, dáng thanh…”. Tình yêu đẹp và buồn như thơ, để sự dang dở ngày gặp lại vươn nét buồn nơi cõi tạm trần ai.

Tôi đã sững sờ và im lặng hồi lâu trong khoảnh khắc tác giả gặp lại “nàng Tiên Đồng Khánh”, nhưng cũng buồn thay, trong một thoáng bất chợt gặp lại quá khứ, chẳng còn là tâm hồn Quốc Học, Đồng Khánh ngày nào, giờ đây những mái đầu muối tiêu nhuộm phai màu phôi pha, con người và thân phận đã có một sự ly phân. Một người sinh ra để làm “một thuở Tiên Đồng Khánh”, một người là mụ Bé bán bánh lá, cái chết, sự tái sinh không biết phải đặt ở đâu trong kiếp luân hồi. Tuổi già nhắc chuyện ngày xưa như muốn mình trẻ lại, lấy hồn nhiên đối mặt với vô thường. Rồi cũng một kiếp người, kỉ niệm cũng chỉ là kỉ niệm.

Ẩm thực Huế – chẳng chốn nào bằng

Nhắc đến Huế mà thiếu đi ẩm thực Huế quả là một thiếu sót lớn không gì bù đắp được. Cái ăn ở Huế thường nổi danh từ những vô danh. Những gánh hàng nhỏ, tạm bợ với tên người bán như bún bò Mụ Rớt, cơm hến Mụ Bòng, bánh chưng Mệ Tóc Bạc… Ngày nay những “Mụ”, “Mệ” được kế thừa bằng thế hệ trẻ hơn nhưng những cái tên ấy đã tạo nên thương hiệu rất Huế.

“Thiên nhiên đã tác dụng một cách kì bí” để tạo nên đủ các loại mắm, không chỉ từ thủy sản mà còn cả nông sản và thổ sản, những thứ mắm “ngon quá trời độ”. Mùa nào mắm đó, từ mắm bình dân đến mắm quý tộc. Vào những ngày mưa, ăn cơm với mắm thì ngon không gì ta nổi, với đủ các cung bậc cảm xúc tả vị ngon, “ngon ngậm mà nghe”, “ngon nhức răng”, “ngon đáo để”, “ngọn dễ sợ” … Đâu chỉ mỗi mắm, Huế còn có Chè Huế với đủ loại, chè từ các loại hạt, chè từ tinh bột các loại củ và cả những thứ chè lạ, độc đáo “chè bột lọc heo quay”, quý tộc nhất là chè sen hồ Tịnh bọc nhãn lồng Thành Nội. Rồi bún bò Huế, cả một biểu hiện văn hóa Huế trong truyền thống nấu ăn “khi cho bò nổi heo chìm, lẫn lộn trong hai tính mâu thuẫn “bò nấu thì teo, heo nấu thì nở’”. “Dân Huế và những người Huế xa quê, có tô cơm hến nằm ở một góc nào đó trong mớ hành trang kí ức”. Cả cơm Hến và cơm Âm Phủ những món ăn bình dị nhưng gói gọn tinh hoa của đất trời.

Có một đặc trưng của những món ăn ở Huế rằng, các món ăn, từ chè, cơm hến, bún hến hay bún bò, đến các loại bánh: bèo, nậm, lọc… tất cả đều be bé, xinh xinh. Ăn để thưởng thức cái hương, cái hoa là chính chứ chẳng phải ăn no, ăn ngán. Cách trang trí cung đình, lối sống cung đình vẫn còn tàn dư trong ẩm thực. Vậy đấy, đôi khi, trong ẩm thực gói ghém nhiều thứ, ẩm thực cũng là một nét văn hóa.

Huế riêng

Có nhiều cái riêng ở Huế không lẫn vào đâu được. Huế với những người lần đầu ghé đến sẽ phải ngạc nhiên vì thành phố này sao mà buổi tối buồn đến vậy. Chẳng dễ dàng tìm chốn chơi vào buổi tối, đêm ở Huế chưa khuya mà đường đã vắng hoe, chỉ còn đèn vàng, cây lá và vài chiếc xe chạy đường dài. Ở bờ Bắc1 cây cối um tùm nhìn còn buồn hơn bờ Nam nữa.

Có những vạt nắng riêng trong đời, có những cơn mưa riêng trên trời. Mưa Huế vừa là sự đối xử khắc nghiệt, lại như một đặc sản riêng chẳng nơi nào có được. Vào mùa mưa thực sự, những cơn mưa ở Huế kéo dài nhiều ngày, nhiều tuần, có khi non tháng, đi cùng với cái lạnh tê buốt của mưa dầm gió bấc. Trong những cơn mưa chứa cả kho tàng kỉ niệm cũng ngả màu rêu phong vì những cơn mưa Huế. “Nghe mưa lâm thâm chảy dầm trên má lẫn với giòng nước ấm làm mặn môi mình”. Rồi mưa dầm dề, tụi nhỏ lại có thú vui không hẹn trước… ngày lũ.

Trong bút kí Ai đã đặt tên cho dòng sông của Hoàng Phủ Ngọc Tường, người ta thấy dáng dấp và điệu chảy của sông Hương, điệu chảy của dòng sông phần nào ảnh hưởng đến tính cách và lối sống con người Huế. Dòng sông Hương cũng như đời người, chia thành nhiều khúc. Thượng nguồn là tuổi trẻ, khúc Thiên Mụ, Kim Long là trung niên, khúc Đông Ba, Gia Hội là giai đoạn trưởng thành. “Từ đó sông Hương rẽ về hai ngả: ngả Đò Cồn, Vỹ Dạ mang dáng dấp trầm tư của con quan về vườn quy ẩn. Ngả Bao Vinh, Ba Sình giống như tuổi sắp già bon chen, nhưng vẫn còn duyên nợ với cuộc đời…”. Và cuối đời, cũng như những con sông, mọi con sông đều đổ ra biển cả. Luôn có một chút gì đó trang đài, khoan thai, nhẹ nhàng trong cách sống đó.

Kết.

Giữa cuộc đời trần ai tân khổ này, mỗi người, mỗi sự vật trong cuộc sống quanh ta có thể sẽ rất quý giá nếu được ta cảm nhận giá trị quý giá ấy. Một tác phẩm nghệ thuật có thể không có giá trị với người không thưởng thức hay với người hững hờ với nó. Những ai quan tâm, dành cho Huế một chút tình, muốn “gặp” Huế một lần chắc hẳn không thể bỏ qua “VỀ HUẾ” của Trần Kiêm Đoàn, câu chuyện và góc nhìn của một người con xứ Huế ở viễn phương, một màu sắc rất Huế, một giọng văn mộc mạc, một tấm lòng trân trọng với Huế thương yêu.

Hết.

Chú thích:

  1. Bờ Bắc, Bờ Nam là cách phân chia của người Huế tính từ vị trí dòng Hương.

Hoàng Anh

Click to comment

Viết bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Phía sau trang sách

Nắng Tháng Tám: Màn trình diễn ấn tượng của William Faulkner

Published

on

By

Nắng tháng Tám diễn ra ở vùng Nam Mỹ vào những năm 1930 và trung tâm câu chuyện xoay quanh vụ án mưu sát một người phụ nữ tên Joanna Burden, người địa chủ bị hầu hết những người dân trong vùng khinh ghét vì quá khứ gia đình. Thông qua quá trình kể câu chuyện này, bí mật của những nhân vật khác cũng dần được tiết lộ. Truyện được viết với thời gian phi tuyến tính, gợi nhớ đến lối kể truyện truyền miệng, đường dây câu chuyện thường xuyên bị ngắt giữa chừng và những nhân vật khác thay phiên nhau tiếp nối mạch truyện. Các nhân vật đều là những con người bị gạt ra khỏi xã hội. Vì vậy, câu chuyện là cái nhìn về xã hội từ ngoài rìa của những con người không còn thuộc về nó nữa.

Tiểu thuyết chia làm ba đường dây câu chuyện riêng biệt, cuối cùng tất cả đều liên kết nhau bằng kết thúc bùng nổ với bạo lực. Một phong cách rất Faulkner. Nhưng khác với những tiểu thuyết khác viết theo phong cách này ở chỗ: cuối cùng nhân vật chính trong mỗi câu chuyện thường gặp nhau thì Faulkner lại không bao giờ tạo ra một cảnh chung có cả Christmas và Lena – hai trong số ba nhân vật chính. Mặc dù dường như họ được kết nối với nhau một cách vô hình: có thể Chirstmas vừa là hóa thân ẩn dụ cho người cha của đứa trẻ trong bụng Lena, đồng thời lại chính là đứa trẻ đó. Đứa trẻ là câu trả lời của Faulkner cho định mệnh tàn bạo không thể tránh khỏi đã nguyền rủa vùng đất phía Nam ấy. Chẳng có lối thoát nào cho những tổn thương quá khứ ngoài việc tự tạo nên những mầm hi vọng mới. Và Faulkner để cho chúng ta tìm ra điều ấy ở đứa trẻ của Lena.

Ở Nắng tháng Tám, Faulkner đã cho thấy một thế giới có chuẩn mực xã hội quá khắt khe, thiếu linh động, bảo thủ và con người phải chịu đựng bằng cách vờ như khuất phục khối bêtông hiện thực của ngoại giới, của những sự việc dường như chẳng liên quan đến họ. Đó là một thế giới chẳng có gì thích ứng với nhau, chẳng có điều gì kết nối, và Faulkner cũng không cố gắng tìm ra sự kết nối. Ông chỉ trộn lẫn chúng vào nhau trong hệ thống câu chuyện của mình để chúng ta cảm nhận những nghịch lí đó.

Nhận xét của báo chí thế giới

Nói rằng Nắng tháng Tám là một màn trình diễn ấn tượng thật chẳng phải là nói quá chút nào… Faulkner không chỉ tích hợp trong cuốn sách này thứ văn phong quyến rũ của sức mạnh và cái đẹp: ông còn cho phép một vài nhân vật của mình, nếu không phải là nhân vật chính, thỉnh thoảng được quyền hành động vô cớ, nằm ngoài những khuôn mẫu xã hội… Nghĩa là, Faulkner tự cho mình lí lẽ và sự thương cảm đối với hệ thống trong thế giới của ông.

J. Donald Adams | New York Times

Quyển sách như rực lửa với sự phẫn nộ dữ dội trước bạo lực, sự ngu ngốc và lòng kiêu hãnh – một quyển sách tuyệt vời.

Spectator

Faulkner có một sức sáng tạo không mệt mỏi, trí tưởng tượng phong phú, và ông thường viết như một thiên thần.

Arnold Bennett

Kodaki
dịch và tổng hợp từ nhiều nguồn

Đọc bài viết

Phía sau trang sách

Tình miệt thứ trong phù sa câu chữ

Published

on

By

Tập truyện ngắn này bao gồm những truyện mà tôi thích. Khi tập hợp để in thành sách, tôi ngồi lựa chọn lại thật kỹ càng, bởi tôi mong muốn trao gởi đi những điều trân quý nhất của mình dành cho độc giả, như một lời tri ân cho những người đã ưu ái đồng hành cùng văn chương của mình.

12 truyện ngắn này là những câu chuyện của miệt đồng bưng chín nhánh sông mà đâu đó trong cuộc đời chúng ta vẫn thường bắt gặp. Xoay quanh những câu chuyện là chữ “tình”. Tôi vẫn thường nghĩ, con người ta trong cuộc đời này chẳng ai thoát khỏi được chữ tình. Chữ tình quấn lấy chúng ta, dắt dìu chúng ta đi qua nỗi buồn, dẫn chúng ta chạm đến niềm vui. Chữ tình khiến chúng ta đắng đót với niềm đau nhưng cũng chính cái chữ tình đó lại là nỗi thương để chúng ta bám víu vào mà sống hết đoạn đời phù sinh thế thái này.

Người viết vì tình mà viết. Người đọc vì tình mà buồn vui theo từng con chữ, xa xót theo từng phận đời, và hả hê với điều thiện lành được hồi đáp sau bao đoạn trường trầm luân.

Có một lần ngồi trên chuyến phà đêm Châu Giang, tôi chợt nghĩ mình chỉ là một dòng phù sa của muôn triệu dòng phù sa đang chảy tràn khắp miệt đồng bưng châu thổ. Tôi đem đến những điều dung dị, chất phác và hào sảng như là bản tính vốn dĩ của người Cửu Long đã ăn sâu vào gốc rễ nội tâm và căn cơ chính mình.

Có bận tôi về Đồng Tháp, ghé cái chợ quê mà hồi nhỏ hay để dành năm trăm, một ngàn để mua dăm ba thứ bánh quê, tôi ngồi sụp xuống và lựa chục loại rồi hí hửng xách lên chạy về khoe với mấy cậu mấy dì. Tôi chẳng thể ăn hết được mớ bánh hôm đó, nhưng vui lạ lùng. Thể như tôi tìm thấy chính mình sau những đãi bôi thị thành. Tôi thấy niềm vui của mình sao giản đơn đến lạ! Hóa ra mỏi gót điêu linh nơi phố xá hào nhoáng thì cái gốc rạ chân quê vẫn là thứ mà tâm tưởng chính tôi luôn hoài vọng.

Có lẽ, dấu chân tôi chưa đi hết nổi dải đất bạt ngàn phù sa miền Tây, đôi tai chưa nghe hết chuyện hào sảng xứ này, đôi mắt chưa thể tận tường hết những thứ đẹp đẽ của sóng nước bưng biền, hay thâm tâm chưa thể trọn vẹn thấu hiểu hết vùng châu thổ, nhưng tôi vẫn luôn thích viết về xứ này. Cái xứ gì mà hổng hết chuyện để viết. Có lần tôi nói vậy với một bạn văn phía Bắc. Bạn nói, thì cứ viết đi, viết đến cạn cùng cuộc đời, chưa chắc viết hết trọn một vùng đất. Bởi đất ôm cả đời người. Người ta sống thác gì đó, gieo neo dâu bể thế nào thì cũng về với đất quê xứ mình mà thôi!

Vậy nên, tôi cứ viết hoài về miền đất này, ngõ hầu đem đến cho độc giả của mình cái “tình” miệt thứ, cái “thương” đồng bưng. Càng viết tôi lại càng thấy mình như mắc nợ vào sóng nước phù sa câu chữ. Viết hoài hổng hết. Viết hoài vẫn cứ muốn viết.

Viết và gởi đến độc giả đã thương yêu câu chữ của mình, cũng như nếu một ai đó hữu duyên cầm trên tay cuốn sách nhỏ này, thì mời bạn một lần lắng lòng lại, lật từng trang sách, nghe tôi kể chuyện buồn miệt thứ. Nhưng mà, người miệt thứ buồn đó rồi lại vui đó, như sóng nước xứ này vơi rồi lại đầy, như phù sa châu thổ muôn đời vẫn dâng người những mùa màng tốt tươi.

Tống Phước Bảo

Đọc bài viết

Phía sau trang sách

Hồ: Một nỗi buồn điềm tĩnh và dịu dàng

Published

on

By

Tiểu thuyết Hồ của Banana Yoshimoto viết về những nỗi đau, những mất mát của con người và cách họ vượt qua nó. Các nhân vật trong Hồ như Chihiro, Nakajima, Mino, Chii… đều có những thương tổn sâu sắc trong quá khứ. Với đề tài như thế, câu chuyện sẽ dễ sa đà vào nhiều trường đoạn cảm xúc nặng nề nhưng Banana vẫn luôn giữ được sự điềm tĩnh, dịu dàng trong văn phong giống như ở những tác phẩm trước đây đã quen thuộc với bạn đọc Việt Nam như: Kitchen, Vĩnh biệt Tugumi, N.P…

Hồ được Banana lấy cảm hứng từ câu chuyện của giáo phái Aum Shinrikyo. Độc giả có thể nhận thấy mô hình công xã mà Nakajima sống ngày còn nhỏ phần nào tương tự với mô hình của giáo phái này. Aum Shinrikyo cũng xuất hiện trong tác phẩm 1Q84 của Murakami Haruki dưới hình thức hư cấu. Qua đó, người đọc thấy được sự khác biệt trong cách khai thác cùng một chủ đề của hai nhà văn. Nếu như trong 1Q84, Haruki đề cập nhiều đến những tác động chính trị – xã hội xoay quanh mô hình phi nhân của Aum thì ở Hồ, Banana chọn một góc nhỏ để viết về hậu chấn tinh thần của những đứa trẻ khi phải chịu sự giáo dục tẩy não trong một cộng đồng không đề cao cái tôi cá nhân. Và chi tiết mà Banana chọn để khắc họa nỗi đau của những đứa trẻ ấy khi lớn lên vừa đơn giản, vừa ám ảnh: Nakajima kẹp vỉ nướng bánh dày vào nách khi ngủ mỗi lần “cảm thấy sắp mơ phải cái gì đáng sợ” bởi đó là vật mà mẹ cậu rất quí; Chii mãi chìm đắm trong những giấc ngủ; Mino sống lặng lẽ từng ngày và đôi khi truyền hộ thông điệp mà người em gái say ngủ muốn nói cho người khác…

Nỗi buồn của các nhân vật dù được Banana viết ra thật nhẹ nhàng nhưng không vì thế mà người đọc có cảm giác hời hợt. Bởi vì, cái đau của họ không phải là cái đau của một người vừa qua cơn khủng hoảng tâm lí, vẫn chưa hết bàng hoàng và không thể chấp nhận hiện thực. Ngược lại, họ tự tách mình ra khỏi chính bản thân mình, đứng ở một nơi xa để ngắm nhìn nỗi đau của mình, chịu đựng nó, chấp nhận nó. Đó là cách để họ vừa giữ lại những kỉ niệm tươi đẹp trong quá khứ, vừa giữ lại nỗi buồn đã tiềm ẩn trong kí ức ấm áp ấy.

Đọc bài viết

Cafe sáng