Phía sau trang sách

Chiến tranh không có một khuôn mặt phụ nữ: Chúng ta tưởng mình đã biết hết về chiến tranh

“Mẹ kiếp, hòa bình chẳng qua là thứ cây mọc lên từ máu thịt bao anh em mình”

Published

on

Tôi gấp cuốn sách lại trong một ngày giáp Tết, khi không khí của mùa xuân tràn vào nhà nhà, từng góc phố con đường. Nắng vàng nhưng không khí có chút se lạnh. Tôi nhìn đồng hồ, những vòng thời gian liên tiếp qua đi, cứ thế, đều đặn. Thời gian, tuổi trẻ, cuộc đời, con người,… tất cả tạo nên cuộc sống. Thật may mắn khi giờ đây chúng ta được sống trong hòa bình. Tiếng súng bom đã dứt nhưng đâu đó dư âm của nó vẫn còn.

Có rất nhiều câu chuyện, cuốn sách viết về chiến tranh. Ở Việt Nam tiêu biểu nhất có lẽ là Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh; ở nước ngoài lại có Những thứ họ mang của Tim O’Brien, Phía Tây không có gì lạ của Erich Maria Remarque, Cuộc chiến đã qua – Niềm đau và nỗi nhớ vẫn còn của Anthony Loyd, Hẹn gặp lại trên kia của Pierre Lemaitre,… Mỗi cuốn sách mang một câu chuyện, một góc nhìn, nhưng có bao nhiêu cuốn sách là lời của nhân vật nữ, câu chuyện của phụ nữ và góc nhìn nữ từ chiến tranh?

Ở Việt Nam, năm 40 Hai Bà Trưng đã cưỡi voi khởi nghĩa. “Từ thế kỷ thứ tư TCN, ở Athens và Spartes đã có phụ nữ chiến đấu trong những binh đoàn Hy Lạp. Sau đó họ tham gia các chiến dịch của Alexandre de Macédoine.” Thế nhưng, trong văn chương, ai mà muốn nghe đàn bà kể về chiến tranh khi những người đàn ông đã viết được những thiên sử chói loà? Ai đó bảo tôi: “Đàn ông kể về chiến tranh bằng chiến thắng, phụ nữ kể chiến tranh bằng cảm xúc.” Thực sự có đúng như người ta nói hay không? Tôi muốn tự mình kiểm chứng qua Chiến tranh không có một khuôn mặt phụ nữ của nữ nhà văn, nhà báo Svetlana Alexievich. Đây là tác phẩm lệch giữa hai bờ vực: một nửa là văn chương, một nửa là báo chí. Nó giống như tuyển tập những câu chuyện đi trên dấu vết của đời sống nội tâm và ghi âm lại tâm hồn của những người phụ nữ trở về sau Thế chiến thứ hai, nơi cuộc chiến của những người phụ nữ có ngôn ngữ riêng của nó. Không phải lịch sử chiến tranh hay lịch sử nước nhà mà là lịch sử của những con người bình thường với cuộc sống bình thường, thời đại họ bị xô vào những biến cố khổng lồ.

Lúc Svetlana Alexievich tìm đến xí nghiệp kéo sợi, nơi một nữ xạ thủ bắn tỉa hiện đang làm việc thì đã nghe những người đàn ông bình luận: “Hết đàn ông hay để hỏi rồi sao? Tại sao cô lại cần đàn bà? Nghe họ nói mê… nghe chuyện đàn bà nạ dòng thì phỏng được gì…” Đến một gia đình khác, chồng và vợ đều tham gia chiến tranh. Họ gặp và cưới nhau ở ngoài mặt trận. Khi tác giả hỏi chuyện người vợ, ông chồng dặn bà: “Kể như tôi đã bày cho bà ấy. Không có nước mắt, cũng đừng có kể những chi tiết ngu ngốc, kiểu: ‘Tôi cứ muốn đẹp. Tôi đã khóc khi bị người ta cắt mất bím tóc.’” Người vợ đã thú nhận rằng: “Ông ấy đã nhồi nhét cho tôi suốt đêm cuộc Chiến tranh ái quốc vĩ đại. Ông ấy lo cho tôi. Ngay cả bây giờ nữa, ông ấy lo tôi không nói được các kí ức cần thiết.”

Hình như những người phụ nữ đã náu mình lãng quên trong chiến tranh. Những câu chuyện về họ vẫn chưa được kể, hoặc đâu đó một vài câu chuyện được kể nhưng là những người mẹ kể cho con, người bà kể cho cháu. Đó là những câu chuyện đậm dấu ấn cá nhân chứ chưa có một tổng quan đúng nghĩa thật sự ở phương diện xã hội.

Cuộc chiến tranh của những người phụ nữ có ngôn ngữ riêng của nó. Quả thật là đàn ông náu mình sau các sự kiện, chiến tranh thu hút họ; còn phụ nữ cảm nhận chiến tranh qua cảm xúc. “Cuộc sống của con người trở thành lịch sử và lịch sử được cắt ra thành hàng trăm, hàng ngày cuộc đời con người. Người ta bắn và người ta chết, người ta có lòng tin và người ta vỡ mộng.” Những mảnh ghép, những montage về mặt tự sự được ghi lại bởi Alexievich. Những buổi phỏng vấn với một máy ghi âm, một cuốn sổ, những người phụ nữ và câu chuyện được kể. Nó như một bộ phim tài liệu cảm xúc vẽ cuộc sống của những người phụ nữ Liên Xô trước, trong và sau chiến tranh.

Hành trình qua hơn 100 vùng từ nông thôn đến thành phố, các khu dân cư, làng mạc, những gương mặt phụ nữ lần lượt hiện ra, họ kể những câu chuyện của họ, đủ các câu chuyện với các cung bậc cảm xúc, từ một cô bé 12, 13 tuổi khi nghe tin chiến tranh, đến những cô gái 15, 16 khai sai tuổi để được đi đánh giặc, điều kiện sống thiếu thốn, chứng kiến cái chết, cứu người, lần đầu giết người (địch), những người mẹ đã hi sinh đứa con mình vừa mới sinh, tình yêu trong quân đội, ám ảnh lúc hoà bình,… tất cả đều được ghi lại với cái nhìn nhân bản nhất. “Tôi đã ghi âm hàng trăm câu chuyện, trên cái giá của tôi xếp hàng trăm băng cát xét và hàng nghìn trang in. Tôi chông tai và tôi đắm mình đọc.”

Cuốn sách là nỗ lực của tác giả và những thanh âm thầm lặng bấy lâu chưa một lần lên tiếng. Hồi ức của họ nhìn thẳng vào chiến tranh, nhìn thẳng vào cái chết, có những gương mặt chưa từng được kể, để khi biết chúng ta nhận ra mình sai khi nghĩ mình đã biết hết về chiến tranh. Chiến tranh bắt đầu khi “Sương còn chưa kịp khô trên lá cây mà người ta báo tin chiến tranh đã được tuyên bố, và giọt sương khi tôi đột ngột nhận ra trên cây khi người ta đột ngột báo tin chiến tranh thường trở lại trong tâm trí tôi khi ở ngoài mặt trận.” Cái khoảnh khắc đó, lúc cuộc sống vẫn đang bình thường, mặt trời rạng rỡ, cây ra hoa, cây ra lá, những giọt sương long lanh, thiên nhiên bỗng đối kháng với những gì đang xảy ra ngoài mặt trận, sống trong doanh trại, chiến đấu với quân thù thì chiến tranh vẫn là sự việc người ta không tin được và sững sờ khi nhớ đến giọt sương.

Và họ, những cô gái trẻ vì lòng yêu nước, họ bỏ lại tất cả. Những bím tóc dài bị cắt ngắn đi, những chiếc váy xếp cất vào tủ và khoác lên mình chiếc áo varơi cùng ủng chiến đấu, họ mặc những chiếc áo quá rộng, đi giày quá size. Họ trở thành những bác sĩ, y tá, xạ thủ bắn tỉa, xạ thủ phòng không, trung sĩ cận vệ, thợ máy không quân, điện thoại viên, lái xe, liên lạc, du kích,… họ có thể làm được tất cả, trong môi trường sống và điều kiện đầy những thiếu thốn. Thiếu ăn, thiếu mặc, ba ngày chỉ có bánh mì dã chiến để ăn, ăn đến rộp lưỡi lên không còn nói được, thậm chí chẳng có gì để ăn, chết đói.

“Người ta cắt tóc họ như con trai. Chi tiết ấy không ai quên nhắc lại: và bao giờ cũng là chuyện bím tóc dài bỏ lại trên sàn nhà bẩn thỉu của phòng tuyển quân. Người ta mặc cho họ bộ quân phục may cho đàn ông, áo khoác, ủng, vớ portianki, khó khăn tìm cho ra một kiểu hòa hợp coi được, rất thường cung cấp những thứ quá cỡ hai đến ba số. Ủng số 40 thay vì 36…”

Chiến tranh lúc đầu chỉ để dành cho đàn ông. Phụ nữ bị cuốn vào, môi trường quân đội mặc định người phụ nữ giống như những người đàn ông, chẳng có một chế độ riêng nào dành cho họ. Có những cảnh tưởng chừng như chẳng thể tưởng tượng nổi.

“Chúng tôi đi bộ bốn mươi cây số… cả một tiểu đoàn phần lớn là phụ nữ. Nóng chết người. Đến ba mươi độ. Nhiều cô gái đang có… Nói thế nào… cái thứ mà phụ nữ nào cũng có… chảy nhỏ giọt dọc chân… Người ta chẳng cấp gì cho chúng tôi cả, đúng không? Chẳng cách gì chữa được. Chúng tôi đến một điểm có nước. Chúng tôi nhìn thấy một con sông… và những cô gái ấy, tất cả họ lao xuống sông. Nhưng bọn Đức bên kia nổ súng ngay. Chúng ngắm chính xác… Chúng tôi cần tắm rửa, vì chúng tôi quá xấu hổ trước mặt đàn ông. Chúng tôi không muốn ra khỏi nước, và một cô gái đã bị bắn chết …” 1  

“Tôi sẽ không bao giờ quên cái ngày, sau một trận đánh trở về anh hỏi tôi: “Em có một cái áo ngực không? Mặc vào đi, xin em. Hãy để cho anh được nhìn em khi em mặc áo ngực.” Nhưng tôi chẳng có chiếc áo nào cả, ngoài cái áo varơi tôi đang mặc.”

Trong cái “nghề” nam tính là “chiến tranh”, họ vẫn là chính họ, họ vẫn giữ một lãnh địa bên trong mình, thậm chí một số người bảo vệ thiên tính nữ bằng cách thêu thùa, buộc ruy băng đỏ. Trong một lần hành quân, một nữ xạ thủ bắn tỉa rất giỏi vì muốn buộc sợ ruy bay đỏ giữa nền tuyết trắng màu đỏ nổi bật, cô đã bị quân địch phát hiện và bắn chết. Có vẻ như chiến tranh biến phụ nữ không còn là phụ nữ, khát khao làm đẹp bé nhỏ của họ, của nữ xạ thủ là được buộc chiếc ruy băng đỏ cũng là lí do cho cái chết của cô. Ngoài ấy, mọi cái đều ở cạnh nhau, cái cao cả và cái thấp hèn, cái bình dị và cái hung bạo, sự sống và cả cái chết. Tôi khám phá ra cái chết, nó đơn giản và chẳng có chút đắn đo nào.

Khắc nghiệt, ngả nghiêng, cán cân lịch sử tồn tại hay không tồn tại. Người phụ nữ đến với thế giới cùng thiên chức tạo ra con người, nhưng chiến tranh buộc họ phải giết người. Có nỗi đau nào hơn một người mẹ giết con? Người ta thường bảo bản năng làm mẹ mạnh hơn tất cả. Nhưng ở đây lí tưởng còn mạnh hơn.

“Cùng chúng tôi có một nữ điện báo viên. Cô vừa sinh dậy. Đứa bé còn rất nhỏ, phải cho bú. Nhưng người mẹ không đủ ăn, thiếu sữa là đứa bé khóc. Bọn SS 2 ở rất gần… Với cả chó. Nếu chúng nghe được, thì chúng tôi chết hết. Cả đội. Ba chục người… Cô hiểu không?

Chúng tôi có một quyết định…

Không ai dám truyền đạt lệnh của người chỉ huy nhưng tự người mẹ đoán ra. Cô nhận đứa bé địu trên người xuống nước và giữ hồi lâu… Đứa bé không còn rống lên nữa. nó đã chết. Và chúng tôi không ai dám ngước mắt lên nữa. Về phía người mẹ và bất cứ người nào trong chúng tôi…”

Người kiểm duyệt đã nói với tác giả rằng: “Tất cả những chi tiết sinh học này để làm gì? Cô hạ thấp người phụ nữ với thứ chủ nghĩa tự nhiện sơ đẳng. Người phụ nữ anh hùng. Cô tước vòng hào quang của họ. Cô biến họ thành phụ nữ tầm thường.

Chủ nghĩa anh hùng khiến con người ta chỉ nhìn được mặt hào quang. Nó không quan tâm đến sinh lí, sinh học, không chỉ có tinh thần bị thử thách mà cả cơ thể nữa – cái vỏ vật chất của con người. Tất nhiên, đó là những thứ trước giờ không ai kể đến cả. Họ đều kể về chiến thắng, về ánh hào quang, đồng nhất con người với lí tưởng, chiến tranh là nơi con người ta trở nên anh hùng. Những người phụ nữ trên kia, tất cả họ đều có chiến công của riêng mình, tất cả họ đều giỏi. Nhưng sao phải theo cái lối mòn kể về ánh sáng chiến tranh mà không phải là góc khuất đau thương? Trước khi là anh hùng, là hào kiệt, ai cũng là con người trước cả.

“Tôi có thể kể cho cô nghe tôi đã chiến đấu thế nào. Nhưng tôi đã khóc ra sao thì không thể. Cái ấy sẽ mãi mãi không nói được.

Cô là nhà văn. Hãy sáng tạo một cái gì đó. Một cái gì đó đẹp. Không tàn bạo như cuộc đời.”

Một đôi mắt trần chẳng đủ để nhìn tất cả và làm sao chỉ đơn thuần là sáng tạo không thôi, sáng tạo cũng trên cơ sở, căn cứ chứ, nhưng tôi biết, các bà ấy đã quá khổ, quá mệt mỏi khi nghĩ về nó rồi.

Hoà bình trở lại, nhưng ai đâu biết rằng vẫn đang còn một cuộc chiến đợi họ kể từ phút giây hoà bình. Chiến tranh có thật sự diễn ra một lần trên chiến trường? Những người lính trở về cuộc sống thường nhật nhưng không thể nào hòa mình với nhịp sống bình yên. Đó là lúc một nữ xạ thủ bắn tỉa mua bánh mì nhưng quên trả tiền vì họ đã quen với chế độ cấp phát. Cô ấy rất xấu hổ và chẳng biết làm sao để thoát khỏi những thói quen quân đội. Những người đàn ông không muốn lấy những cô gái từ chiến trường trở về, những bà mẹ cũng không muốn con trai mình lấy những cô gái đó, có người còn xé cả giấy tờ để không ai biết mình từng là chiến sĩ. Dù họ là những người anh hùng – những cô gái đã hi sinh tuổi trẻ, khát khao, máu xương của mình cho tổ quốc, quê hương và cả những con người đang xa lánh họ – thế giới vẫn không chấp nhận họ, lịch sử đang bỏ quên họ chăng hay họ đã bị tước đi một thế giới? Lục địa của những người phụ nữ, điều gì ngăn cản cái sự bình thường đến với cuộc sống của họ?

“Bà không có gia đình, tất cả người thân trong gia đình bà đều đã mất. Bà sống khó khăn, bà làm thuê các công việc nội trợ để có miếng ăn. Nhưng bà không cho ai biết bà là thương binh chiến tranh. Bà đã xé hết giấy tờ quân đội của bà. Một hôm, tôi hỏi bà: ‘Tại sao bà lại xé giấy tờ đi?’ Bà òa khóc: ‘Nhưng ai sẽ lấy tôi? – Ôi, đúng rồi, bà đã làm đúng.’ Nhưng bà càng nức nở: ‘Hôm nay, tôi lại cần chúng, các giấy tờ ấy. Tôi ốm nặng. Cô có hình dung ra không?’”

Những vết sẹo là những kỉ niệm chiến tranh, khi họ bay trên đầu mục tiêu thì ở dưới là địa ngục. Khi họ bắn địch thì kẻ chết tiếp theo cũng có thể là họ. Ngày mai đó, ai còn, ai đã mất. Có người may mắn trở về, còn lành lặn đủ tay đủ chân, có thể lập gia đình, họ vẫn còn người thân, nhưng có nhiều người không may mắn như vậy, họ trở về được người thân đưa cho xem giấy báo tử, cả những người mẹ không nhận ra con của mình, có những người sống cô đơn đến lúc chết, ôm theo tháng ngày những kí ức chiến tranh…

Ngực đỏ huy chương sẽ tốt hơn hay cỏ xanh nấm mồ sẽ tốt hơn? Thực sự chiến tranh chưa từng chấm dứt, vinh quang chỉ thuộc về những người lính vĩnh viễn bị chôn sâu…

Tình yêu là sự kiện cá nhân duy nhất trong chiến tranh. Tất cả những cái khác đều là của tập thể, kể cả cái chết. Nhưng tôi đồ rằng ngay đến cả tình yêu cũng chẳng còn lại bao nhiêu chất cá nhân nữa. Từ sâu bên trong nó, có lẽ cái sự tập thể hóa, xã hội hóa đã biến nó thành một mô-típ kiểu tuyên giáo – khi tình yêu bị đem đi phục vụ mục đích chiến tranh. Dù sao thì cái vỏ tình yêu cũng thật đẹp.

Chiến tranh không có một khuôn mặt phụ nữBạn nghĩ gì về nhan đề đó?

Ở cái vẻ bề ngoài, tôi cho rằng nhan đề hướng đến gì khác ngoài sự đề cao đến vô lý cái giá trị “đàn ông” của nam giới. Ớ đó, chiến tranh hiển nhiên không có khuôn mặt phụ nữ. Từ ngàn xưa, phụ nữ đã bị cấm (một luật bất thành văn nhưng rất hiệu quả) tham gia vào bất cứ công việc gì có tính chất xã hội: từ chính trị, quân sự cho tới chuyện học hành, khoa cử. Khi thời đại nông nghiệp thay cho thời nguyên thủy, khi hái lượm không còn là nguồn nuôi sống chính cho xã hội, vai trò của người phụ nữ bị xóa mờ đến cùng cực, và trong chiến tranh, nó hoàn toàn không hiện diện. Tôi cho rằng đó là sự bảo vệ của đàn ông dành cho phụ nữ mà sâu xa hơn, tôi đồ rằng đó là sự thương hại cho cái yếu đuối trời sinh của phụ nữ (đàn ông thường nghĩ vậy), cũng là để bảo vệ cho cái vị thế người chủ gia đình, đất nước, xã hội của nam giới. Plato từng nói rằng con người được cấu thành từ hai nửa nam và nữ, nhưng Chúa trời đã chia cắt chúng ra để rồi chúng mãi đi tìm nhau. Tôi thì cho rằng chính con người, chứ chẳng phải Chúa trời đã từ bỏ nửa kia của mình.

Ở đây có một phần là trong chiến tranh, người phụ nữ, cũng như nam giới đều cắt tóc ngắn, quân phục giống nhau, những người phụ nữ hi sinh thiên tính nữ của mình nên họ không còn là phụ nữ, mà cũng chẳng phân biệt nam nữ nữa.

Và một điều nữa, những câu chuyện ghi lại đều có tên, chức vụ của người kể, mỗi người một câu chuyện, một hoàn cảnh nhưng bạn có nhận ra rằng khi đọc chúng, ta không còn quá quan tâm đến tên tuổi, chức vụ của họ không? Những gương mặt của họ như bị xoá nhoà, dù ám ảnh về câu chuyện vẫn còn trong người đọc. Những người phụ nữ trở về thời bình thường xưng chúng tôi hơn là xưng tôi – có lẽ môi trường tập thể đã làm thay đổi họ nhiều.

Chiến tranh là thế, bao giờ cũng gieo đau thương lên mọi người, chẳng trừ một ai, nó cướp đi nhiều thứ và để lại nhiều ám ảnh. Ngày tháng máu tanh, đêm nằm mộng mị mơ về xác chết nơi chiến trường của quân thù và những người đồng đội. Bác sĩ nào có thể chữa khỏi cho họ? Họ bị bệnh gì? Họ nằm mơ những gì và có thể không mơ về chiến tranh không? Làm sao để trở lại một cuộc sống bình thường như những con người bình thường… một cách thực sự.

“Sau chiến tranh tôi mất nhiều năm để xua đi mùi máu. Nó bám theo tôi khắp nơi. Tôi giặt quần áo, tôi nấu ăn, nó vẫn ở đấy… Có ai cho tôi một cái áo sơ mi màu đỏ, thời thiếu vải ấy là của rất hiếm. Nhưng tôi không bao giờ mặc, nó khiến tôi buồn nôn. Tôi không thể đi mua đồ ở các cửa hàng nữa. Ở quầy thịt, nhất là vào mùa hè… Và nhìn thấy thịt gia cầm… Cô hiểu đấy… Nó rất giống… Nó cũng trắng như thịt người…”

Cái ta thấy và hiểu về chiến tranh tổng quát hơn là cuộc sống và cái chết. Cuốn sách một đóng góp lớn cho dòng văn học hậu chấn thương. “Mẹ kiếp, hòa bình chẳng qua là thứ cây mọc lên từ máu thịt bao anh em mình” 3. Vậy nên người lính, những người phụ nữ trở về sau chiến tranh họ lại có một cuộc chiến khác, trong tâm trí họ không có được hoà bình. Chúng ta nhìn chiến thắng bằng hào quang, vậy ai sẽ nhìn những khuôn mặt con người đây? Những người lính hay những người phụ nữ, ai cũng có quyền được hạnh phúc, họ sinh ra trên cuộc đời lẽ ra là để yêu và được yêu. Chiến tranh sau cùng nó cũng là một thử thách, nó tồn tại như sự bất tận của nhân loại vậy, có vận hành, có thay đổi, có phát triển, tất cả những vận hành đôi khi xỉn màu của lịch sử, chiến tranh trở thành bình thường của bình thường và con người đôi khi cũng chỉ là công cụ để chiến đấu. Thời đại đã tạo nên những con người như thế.

Tôi đã nói với mẹ tôi rằng tôi muốn cắt tóc ngắn, mẹ tôi không đồng ý. Thật ra tóc của tôi, tôi nghĩ mình muốn làm gì cũng được, nên… tôi đã cắt, nhưng không ngắn lắm. Vì đọc xong cuốn sách, tôi đã suy nghĩ lại khá nhiều thứ, về cả chiến tranh, về câu chuyện của những người phụ nữ đó, về tính nữ bên trong con người mình, và các thứ khác. Tôi hi vọng bạn sẽ một lần đọc nó, và viết nên cảm nhận của riêng mình.

Cảm ơn vì bạn đã đọc bài viết.

Hết.

Hoàng Anh

Chú thích:

  1. Là phần bị kiểm duyệt
  2. Bọn SS (Schutzstaffel)  “đội cận vệ” là tổ chức vũ trang của Đảng Quốc xã, mặc đồng phục màu đen nên còn được gọi là “Quân áo đen” để phân biệt với lực lượng SA là “Quân áo nâu”.
  3. “Mẹ kiếp, hòa bình chẳng qua là thứ cây mọc lên từ máu thịt bao anh em mình” là câu nói trong Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh.

Tất cả ảnh trong bài viết đều là của người viết.

21.06.2019


Đọc những bài viết của Hoàng Anh


Phía sau trang sách

Tư duy tích cực tạo thành công: Chìa khóa dẫn đến sự thịnh vượng

Published

on

Tác phẩm Tư duy tích cực tạo thành công của Napoleon Hill và William Clement Stone là một cẩm nang hữu ích cho bất kỳ ai muốn đạt được thành công trong cuộc sống. Cuốn sách không chỉ cung cấp những nguyên tắc và chiến lược hiệu quả để phát triển bản thân mà còn truyền cảm hứng giúp người đọc có một thái độ tích cực hơn trong cuộc sống.

Tư duy tích cực tạo thành công là một tác phẩm kinh điển về chủ đề phát triển bản thân, đã truyền cảm hứng cho hàng triệu người trên khắp thế giới kể từ khi xuất bản lần đầu tiên vào năm 1959, khẳng định vị trí là một trong những tác phẩm self-help bán chạy nhất mọi thời đại. Cuốn sách vén màn bí mật về sức mạnh của tư duy tích cực, giúp người đọc khai phá tiềm năng bản thân và đạt được những thành tựu phi thường trong mọi lĩnh vực của cuộc sống.

Tìm kiếm hình mẫu thành công làm ngọn đuốc soi sáng

Để có thêm động lực và định hướng rõ ràng cho bản thân, tác giả gợi ý rằng người đọc có thể xây dựng cho riêng mình một hình mẫu thành công từ những câu chuyện về người thật, việc thật trong sách báo. Khi dành thời gian tìm hiểu về hành trình của họ, những khó khăn họ đã trải qua và cách họ vượt qua những thử thách đó, ta sẽ có thể biến kinh nghiệm của họ trở thành ngọn đuốc soi sáng cho con đường của chính mình.

Bên cạnh đó, người đọc còn có thể chọn một bức ảnh có ý nghĩa đặc biệt với mình để đặt câu hỏi khi nhìn bức ảnh đó rồi lắng nghe câu trả lời từ chính tâm thức bật ra. Bức ảnh ấy có thể là hình ảnh về mục tiêu ta muốn đạt được, về một giá trị sống mà ta trân trọng, hoặc đơn giản là một khoảnh khắc đẹp trong cuộc sống. Chẳng hạn, nếu người đọc muốn mua nhà nhưng chưa có đủ tài chính thì có thể chọn bức ảnh về một mái ấm khang trang để ngắm nhìn và tự đặt câu hỏi rằng mình phải làm gì để đạt được số tiền sở hữu căn nhà đó. Không phải lúc nào câu trả lời cũng đến ngay lập tức, nhưng việc cụ thể hóa mục tiêu bằng một hình ảnh rõ ràng sẽ giúp người đọc tăng cường ý chí nỗ lực.

Ngoài ra, niềm tin chính là nguồn động lực mạnh mẽ giúp mỗi người vượt qua mọi khó khăn và chinh phục mục tiêu. Trong Tư duy tích cực tạo thành công, có một công thức thường được lặp lại nhiều lần để người đọc ghi nhớ là: “Khi con người người nghĩ đến và tin tưởng vào điều gì, họ sẽ có thể đạt được điều đó với thái độ tích cực.” Đây cũng là một biện pháp tự truyền cảm hứng.

Hai mặt của tình thế bức bách: Thành công hay tội ác?

Tư duy tích cực tạo thành công nhấn mạnh tầm quan trọng của tính lương thiện trong hành trình chinh phục thành công. Cuốn sách khẳng định rằng thành công đích thực không chỉ dựa trên kết quả mà còn phải dựa trên phương tiện đạt được kết quả đó. Một người có thể đạt được thành công bằng mưu mô, thủ đoạn, nhưng đó chỉ là thành công giả tạo, thiếu bền vững và không mang lại hạnh phúc thực sự.

Ngoài ra, tác giả cũng bàn về vai trò của tình thế bức bách: nó như một con dao hai lưỡi, có thể đưa con người đến đỉnh cao thành công hoặc vực sâu tội ác. Tình thế bức bách là phép thử cho bản lĩnh, đạo đức và thái độ của mỗi cá nhân. Khi đó, thành công hay thất bại đều tùy thuộc vào thái độ:

Thái độ tích cực: Khi đối mặt với nghịch cảnh, người có thái độ tích cực sẽ biến nó thành cơ hội để học hỏi, rèn luyện và phát triển bản thân. Họ kiên trì nỗ lực, tìm kiếm giải pháp sáng tạo và không bao giờ bỏ cuộc. Nhờ vậy, họ có thể vượt qua mọi khó khăn và gặt hái thành công.

Thái độ tiêu cực: Ngược lại, người có thái độ tiêu cực sẽ dễ dàng gục ngã trước nghịch cảnh. Họ chìm trong lo âu, sợ hãi, nghi ngờ bản thân và tìm kiếm lối thoát bằng những hành vi sai trái. Hậu quả là họ đánh mất bản thân, vướng vào vòng xoáy tội ác và tự hủy hoại cuộc đời.

Từ đó, cuốn sách đưa ra hai công thức đơn giản nhưng đầy ý nghĩa:

Tình thế bức bách + Thái độ tích cực = Thành công
Tình thế bức bách + Thái độ tiêu cực = Tội ác.

Cân bằng cảm xúc, rèn luyện tư duy và đặt mục tiêu hiệu quả

Cảm xúc và lý trí đóng vai trò quan trọng trong cuộc sống, mỗi người cần học cách cân bằng hai yếu tố này để đưa ra những quyết định sáng suốt. Đôi khi, ta cũng nên lắng nghe tiếng nói con tim và hành động theo những gì mình mong muốn. Chẳng hạn, khi phải lựa chọn giữa một công việc ổn định và theo đuổi đam mê, ta cần cân nhắc kỹ lưỡng cả hai yếu tố cảm xúc và lý trí: ta thường dùng lý trí để đánh giá khả năng thực tế của bản thân, nhưng cũng đừng quên lắng nghe tiếng nói con tim.

Bên cạnh đó, tác giả cho rằng mỗi ngày, chúng ta chỉ cần dành 1% thời gian để nghiên cứu, suy nghĩ, lập kế hoạch là đã có nhiều cơ may tạo ra sự khác biệt để vươn đến thành công. Theo ước tính, một ngày có 1440 phút, 1% sẽ tương ứng với 14 phút. Trong 14 phút đó, nếu ta chú tâm suy nghĩ kế hoạch cho những gì mình muốn làm, ta sẽ dần hình thành được thói quen có thể suy nghĩ sáng tạo mọi lúc, mọi nơi: khi rửa chén, lúc ngồi trên xe bus, hay thậm chí là khi đang tắm.

Ngoài ra, đặt mục tiêu là bước đầu tiên và quan trọng nhất trên kế hoạch chinh phục thành công. Mục tiêu rõ ràng sẽ giúp bạn tập trung nỗ lực, đưa ra quyết định sáng suốt và duy trì động lực để đạt được ước mơ. Tuy nhiên, không phải ai cũng biết cách đặt mục tiêu hiệu quả. Dưới đây là bốn điều quan trọng cần ghi nhớ khi đặt mục tiêu:

1. Viết mục tiêu ra giấy: Khi viết mục tiêu ra giấy, bạn sẽ buộc bản thân phải suy nghĩ cẩn thận về những gì mình muốn đạt được. Việc này giúp bạn tập trung và ghi nhớ mục tiêu tốt hơn.

2. Đặt mốc thời gian: Mốc thời gian giúp bạn chia mục tiêu lớn thành những mục tiêu nhỏ hơn, dễ quản lý hơn. Việc này giúp bạn có động lực để hoàn thành từng bước và tiến đến mục tiêu cuối cùng.

3. Đặt tiêu chuẩn thật cao: Khi đặt tiêu chuẩn cao, bạn sẽ buộc bản thân phải nỗ lực hết mình và phát huy tiềm năng tối đa.

4. Đặt mục tiêu cao: Mục tiêu cao sẽ giúp bạn có tầm nhìn xa và thúc đẩy bạn không ngừng phát triển.

Nhìn chung, Tư duy tích cực tạo thành công đã mang đến cho người đọc những bài học quý giá về sức mạnh của tư duy tích cực trong việc gặt hái thành công và hạnh phúc. Hãy nhớ rằng, thành công không phải là đích đến mà là hành trình. Hành trình chinh phục thành công bắt đầu từ việc nuôi dưỡng tư duy tích cực. Ta cần tin tưởng vào bản thân và những điều kỳ diệu mà cuộc sống có thể mang lại. Từ đó, ước mơ sẽ thành hiện thực bằng chính những hành động mà ta lựa chọn ngay từ hôm nay.

Hoàng Đức Nhiên

Đọc bài viết

Phía sau trang sách

Tình yêu đích thực từ góc nhìn của Thiền sư Thích Nhất Hạnh

Published

on

Trong vô vàn những định nghĩa về tình yêu, quan điểm của Thiền sư Thích Nhất Hạnh về “tình yêu đích thực” được trình bày trong cuốn tiểu luận True Love đã mang đến một sự giản dị, mộc mạc nhưng lại ẩn chứa sức mạnh lay động tâm hồn sâu sắc.

Tình yêu là một trong những chủ đề muôn thuở của nhân loại, luôn ẩn chứa sức hút mãnh liệt và khơi gợi những cảm xúc dạt dào. Nhưng không phải ai cũng hiểu được bản chất của tình yêu. Trong True Love, Thiền sư Thích Nhất Hạnh đã kể lại câu chuyện Thiếu phụ Nam Xương, rồi từ đó rút ra một kết luận mà thoạt nghe sẽ có vẻ vô cùng đơn giản nhưng càng ngẫm nghĩ thì ta càng thấy sự đơn giản ấy chính là vẻ đẹp của minh triết.

Thông điệp ý nghĩa từ ba câu khẳng định trong tình yêu

Đối với thầy, câu chuyện Thiếu phụ Nam Xương có kết cuộc đau lòng là vì người chồng đã không chịu lắng nghe người vợ, anh cứ gạt phăng lời vợ nói, cơn nóng giận đã che mờ tình yêu và cả lí trí. Vợ anh cũng đã không cố gắng hơn để giải thích rõ ràng cho anh hiểu. Chính vì vậy, cả hai người đều không thực sự hiện diện khi ở trước mặt đối phương, họ ở đó nhưng không thực sự ở đó, mà ở trong khoảnh khắc khác, trong những chiều không gian khác. Bi kịch của họ đơn giản chỉ là như thế.

Từ đó, Thiền sư Thích Nhất Hạnh rút ra kết luận là tình yêu thực sự chỉ đơn giản nằm gói gọn trong ba câu sau đây: “Anh ở đây. Em ở đây. Và anh ở đây vì em.” (I’m here. You’re here. And I’m here for you.)

Câu khẳng định đầu tiên mang hàm ý rằng anh đang ở đây ngay giây phút này khi đối diện với em, bằng trăm phần trăm con người anh, không hề có sự tản mác, phân mảnh đi bất cứ nơi đâu. Một điều tưởng chừng đơn giản nhưng thực ra trong cuộc sống bộn bề lo toan này, việc một người có thể tập trung hoàn toàn tinh lực của mình khi đối diện trước một người mà không bị vướng bận tâm trí bởi điều gì khác cũng thật khó khăn.

Câu khẳng định thứ hai là sự tiếp nối ý từ câu đầu tiên. Anh ở đây, và em cũng đang ở đây. Anh ghi nhận sự tồn tại của em, em ghi nhận sự tồn tại của anh. Vì em cũng đang ở đây cùng anh trong giây phút này nên em không cô đơn, em không tản mác, em không phân mảnh.

Câu khẳng định cuối cùng là một sự quả quyết mạnh mẽ: Anh ở đây, anh dành hết trăm phần trăm sự tồn tại của mình ở đây là vì chính em, không vì ai khác cả. Vậy nên, em có thể yên tâm mà thổ lộ tất cả mọi điều với anh, vì trong giây phút này, hai ta đều cùng hiện diện.

Thông qua đó, ba câu khẳng định này có thể diễn dịch lại thành thông điệp phổ quát như sau:

“I’m here”: Khẳng định sự hiện diện trọn vẹn của bản thân, tập trung toàn bộ sự chú ý và tinh thần vào người mình yêu thương. Trong cuộc sống bận rộn, việc dành trọn vẹn tâm trí cho đối phương là điều không dễ dàng, nhưng lại vô cùng quan trọng để xây dựng một mối quan hệ bền vững.

“You’re here”: Ghi nhận sự tồn tại của đối phương, trân trọng và thấu hiểu cảm xúc, suy nghĩ của họ. Khi cả hai cùng “ở đây”, họ sẽ cảm nhận được sự kết nối sâu sắc, chia sẻ và đồng hành trong từng khoảnh khắc.

“And I’m here for you”: Thể hiện sự cam kết, dành trọn vẹn tình yêu và sự quan tâm cho người mình yêu thương. Lời khẳng định này mang đến sự an toàn, tin tưởng và là động lực để cả hai cùng vượt qua mọi khó khăn trong cuộc sống.

Ba câu khẳng định tưởng chừng đơn giản nhưng lại là chìa khóa cho một tình yêu đích thực. Khi cả hai cùng thực hiện được điều này, họ sẽ tạo dựng được một mối quan hệ bền chặt, hạnh phúc và viên mãn.

Chìa khóa cho một mối quan hệ tốt đẹp

Để thực sự “ở đây”, mỗi người cần học cách chánh niệm, tập trung vào hiện tại, gạt bỏ những lo toan, phiền muộn và dành trọn vẹn sự chú ý cho đối phương. Khi ta thực sự “ở đây”, ta sẽ cảm nhận được trọn vẹn vẻ đẹp của người mình yêu thương, thấu hiểu những cảm xúc và suy nghĩ của họ. Tình yêu đích thực không chỉ là những khoảnh khắc lãng mạn, mà còn là sự cam kết và hy sinh cho nhau. Khi yêu thương ai đó, ta sẵn sàng dành thời gian, tâm sức và cả những hy sinh để cùng nhau xây dựng hạnh phúc.

Giao tiếp là yếu tố quan trọng trong bất kỳ mối quan hệ nào. Lắng nghe cởi mở và thấu hiểu là cách để hai người kết nối tâm hồn, chia sẻ những cảm xúc, suy nghĩ và vun đắp tình cảm ngày càng sâu sắc.

Tình yêu đích thực không phải là điều viển vông hay khó kiếm tìm. Nó ẩn chứa trong chính những khoảnh khắc bình dị của cuộc sống, chỉ cần ta biết trân trọng và gìn giữ. Ba câu khẳng định của Thiền sư Thích Nhất Hạnh là lời nhắc nhở nhẹ nhàng nhưng sâu sắc về cách để vun đắp và nuôi dưỡng một tình yêu thương bền chặt, viên mãn.

Hoàng Đức Nhiên

Đọc bài viết

Phía sau trang sách

Cuộc gặp của những dòng chảy

Published

on

By

Trong tập truyện Trôi, nhà văn Nguyễn Ngọc Tư đã kéo những số phận riêng lại gần với nhau, từ đó cho thấy con người dẫu có ở đâu, sống đời thế nào… cũng là một phần của dòng trôi nổi.

Vừa quen vừa lạ

Là tác giả nổi tiếng với các truyện ngắn, tiểu thuyết có bối cảnh miền Tây Nam Bộ, Nguyễn Ngọc Tư đến với người đọc bằng sự giản dị, chân phương hệt như tính cách người dân nơi đây. Tác phẩm của chị thường mang tâm trạng trầm buồn, khi mà số phận buộc những nhân vật - thường là phụ nữ phải trải qua nhiều biến cố có phần ngang trái.

Gồm 13 truyện ngắn, Trôi đánh dấu cho hành trình mới của Nguyễn Ngọc Tư khỏi vùng châu thổ mà chị quen thuộc. Cuốn sách lướt qua câu chuyện của rất nhiều người ở nhiều cảnh ngộ khác nhau, từ nông thôn đến thành thị, từ mặt đất đến trên không, từ hiện thực đến siêu thực... thoạt nhìn có vẻ phi lý, thế nhưng càng đào sâu thêm vào từng dòng chữ, ta đều sẽ thấy mọi thứ trong cuộc đời này đều được liên kết, tương tác với nhau.

Nhân vật của nữ nhà văn trong tập sách này không còn ở trong vùng đất Thổ Sầu đậm tính sông nước, mà đã chuyển sang những khu phố thị hoặc là vô danh. Việc bỏ lai lịch của các nhân vật cho ta thấy rằng Nguyễn Ngọc Tư đã dám mạnh mẽ bước ra “cái kén” từ trước đến nay, để nói về những câu chuyện và những số phận mang tính phổ quát, có thể xảy ra với bất cứ ai và không ngừng lại.

Nhà văn Nguyễn Ngọc Tư

Sở hữu cách viết điềm tĩnh, thận trọng, Nguyễn Ngọc Tư cho thấy tài năng quan sát và khắc họa nó lên trên trang viết. Các truyện trong tuyển tập này không hề cường điệu hay có chủ đích tạo sự kịch tính, mà lại êm đềm như một dòng chảy. Các tình huống được tác giả hóa giải một cách hợp lý, có khi theo đúng logic cơ học, nhưng cũng đôi lúc ẩn sâu là những liên kết buộc các độc giả tự mình tìm cách giải đáp…

Hiểu theo một nghĩa nào đó, Trôi đưa người đọc đến sự thấu hiểu chính bản thân mình. Như cách các nhà triết học của chủ nghĩa khắc kỷ đã từng bảo rằng, bởi ta không thể kiểm soát những gì xảy đến với bản thân mình, nên hãy thay đổi góc nhìn để thấu hiểu nó. Tập truyện ngắn này hướng đến những thứ tích cực, để ta thấy đời vẫn còn những màu đẹp đẽ trong mỗi ngày qua.

Đó cũng đồng thời chính là chữ “duyên” vốn thường xuất hiện trong văn hóa phương Đông, để ta biết rằng cái gì cũng có lý do, và khi thay đổi được suy nghĩ đó, những điều trôi qua đều có giá trị. Chính bởi điều này mà cuốn tiểu thuyết cũng đến rất gần Hành lý hư vô, Hong tay khói lạnh… vốn dĩ là những tản văn cũng có thông điệp tương tự như thế mà nữ nhà văn đã cho ra mắt trong các năm qua.

“Trôi là tin mừng”

Trở lại sau tập truyện ngắn Cố định một đám mây và cuốn tiểu thuyết Biên sử nước, có thể thấy rằng những đặc trưng cũ vẫn còn hiện diện trong tác phẩm này. Đó là những cuộc gặp gỡ cũng như cơ duyên như từ trên trời rớt xuống. Trong dòng chảy của số phận ấy, tất cả nhân vật gắn bó với nhau theo một cung cách hết sức lạ kỳ, thế nhưng ẩn chứa đâu đó họ vẫn có một sợi dây liên hệ và không thoát được khỏi tầm ảnh hưởng của nhau.

Sự trôi của Nguyễn Ngọc Tư cũng đã hiện diện ở nhiều chi tiết. Nó có thể mang nghĩa vật lý – như lục bình trôi, như dòng đời trôi; nhưng cũng có khi vô cùng tượng hình – như sự dịch chuyển của vũ trụ này, trong tình cảm con người và mối nối gắn họ với chính cuộc sống. Tác giả như đã trả lời câu hỏi: tồn tại hay không tồn tại để ta hiểu rằng: “Những cái vé xe đò, tàu hỏa hoặc máy bay đều có mùi của nơi chốn mà chúng đưa con người ta tới”.


Trong đây có chàng trai trẻ thích nghìn người khác nằm ngủ, có người đàn ông mà cả đời mình không bước khỏi cửa, có người mà võng là thứ “vật bất ly thân”… Ngoài ra cũng có một cặp vợ chồng “thắp lửa giữa trời”, có cả những cuộc gặp gỡ gần như không tưởng, xoay quanh chỉ một món nợ mà người trong cuộc cũng không thể biết mình nợ thứ gì…

Những tưởng họ vốn bất động trong cuộc đời mình, những tưởng những hành động ấy gần như phi lý, xác suất xảy ra gần như bằng không… Thế nhưng ở một giao điểm nào đó của số phận, họ đã gặp nhau và cùng vẽ nên bức tranh đời người. Xét cho đến cùng, tất cả chúng ta đều đang trôi nổi trên một dòng chảy – dòng chảy cuộc đời – theo chiều không ngừng mở rộng của cả không gian cũng như thời gian.


Nhà văn Ba Lan đoạt giải Nobel Văn chương 2019 - Olga Tokarczuk mà Nguyễn Ngọc Tư cũng đã nhắc đến trong một truyện ngắn, đã từng viết rằng: “Năng lượng của tôi sinh ra từ chuyển động – từ rung chuyển của ô tô buýt, từ tiếng gầm của động cơ máy bay, từ sự chòng chành của phà và tàu hỏa”. Dù muốn dù không thì sự xê dịch luôn luôn ở đó, đòi hỏi con người cứ thế tiến lên, cũng như nhìn nhận một cách tích cực về những điều mà bản thân gặp phải.

Như một câu văn trong truyện cùng tên: “Chẳng có cuộc trôi nào là vô tình hết, bản thân sự nổi trôi là thông điệp, tín hiệu, thư mời của chân trời”. Qua tác phẩm này, người đọc bỗng chốc nhận ra mình thuộc về “xứ không đâu”, nơi người với người cùng nhau tương tác, mỗi một cá thể sẽ lại tác động lên ai đó khác. Từ đó kêu gọi một sự sẻ chia cũng như đồng cảm trong cuộc đời này.

Đọc bài viết

Cafe sáng