Trà chiều

9 phim điện ảnh dựa trên cuộc đời thật của các nhà văn nổi tiếng

Published

on

Đối với người đọc, các cuốn sách có sức hút hơn cả, được phù phép từ trí tưởng tượng và những câu từ quyến rũ, lôi kéo chúng ta bước vào một thế giới mới, trải nghiệm một cuộc đời mới và những giá trị mới. Nhưng đôi khi, vượt ra ngoài bản thân cuốn sách, cuộc đời của những vị tác gia, những người đã khai sinh ra các câu chuyện, cũng có sức hấp dẫn không kém.

Những vị nghệ thuật gia bị dày vò bởi trớ trêu cuộc sống, những người kiên định vượt qua số phận, và những người dùng văn chương để lấp đầy nội tâm trống rỗng của mình. Chúng ta khao khát tìm hiểu về cuộc đời các nhà văn vì hiểu thêm về họ là tiến gần một chút đến giá trị đằng sau câu chữ; hoặc đơn giản là vì bản tính tò mò của con người mà thôi – ai mà chẳng muốn biết thêm chút ít về cuộc sống lạ thường của một vĩ nhân!

Với sự tò mò nguyên bản ấy, Bookish xin giới thiệu tới các độc giả 9 tác phẩm điện ảnh lấy cảm hứng từ chuyện đời thật – việc thật của các nhà văn nổi tiếng trên thế giới.

1. Mary Shelley (2017)

Bước vào thế giới của Mary Shelley, bạn sẽ được thưởng ngoạn một bữa tiệc thị giác: ánh nến chờn vờn và bút lông sột soạt, áo choàng thời Regency, và (tất nhiên) những thước phim đầy tính thẩm mỹ, khắc họa quá trình viết cuồng nhiệt, say mê nhưng kỷ luật khổ ải. À, thêm các quý ông quý cô xinh như hoa, diễn giải văn chương với thứ tiếng Anh nhấn âm ngân nga chuẩn mực.

Nhưng thay vì nhồi sọ chúng ta – và nhồi nhét Mary Shelley – vào trong bức nền đặc sệt chất cổ điển và quá vãng, thì phim và nhân vật trung tâm lại được tô điểm bằng các nét bút hiện đại, với lối diễn xuất tinh tế và thông minh của Elle Fanning. Cuộc đời của Mary được kể lại từ những ngày cô dành thời gian sáng tác bên cạnh mộ mẹ mình tại nghĩa trang London (mẹ của cô, Mary Wollstonecraft là một nữ tác gia nữ quyền nổi tiếng trong thế kỷ XVIII, người đã viết tác phẩm Minh chứng về Quyền của Phụ nữ); đến khi cô gặp Percy Bysshe Shelley, một trong những nhà thơ tài năng nhất Anh Quốc – một quý ông trẻ tuổi, đẹp trai và là người tình tận tụy của Chủ nghĩa Lãng mạn ong bướm. Với những vần thơ tinh tế, một đức tin mãnh liệt vào ái tình tự do, chàng đã thuyết phục Mary bỏ trốn cùng mình, sẵn sàng cho những cuộc phiêu lưu hương sắc và văn thơ lồng lộng trước mắt.

Hóa ra cuộc sống đầy những bất ngờ không ai mong muốn. Mary, lúc này mới 16 tuổi, đã mang thai. Bi kịch hôn nhân giữa Mary và Peter xuất hiện, và phim nhấn mạnh sự khác biệt giữa lý thuyết và thực tế của bình đẳng giới. Từ đó, những bất mãn, khổ đau, kiềm nén và nhất là sự qua đời của đứa con đã kết tinh lại trong tác phẩm nổi tiếng nhất của Mary Shelley: Frankenstein.

Phim là một lời khẳng định và gợi nhắc cần thiết về tài năng và di sản văn học của Mary Shelley, cũng như đưa người xem khám phá thế giới văn chương Anh Quốc thế kỷ XIX – một thời đại giàu có về mặt tinh thần, vừa quyến rũ theo lối cổ kính mà sục sôi lý tưởng hiện đại.

2. Wilde (1997)

“Sự đồi bại,” Oscar Wilde nói, “là một chuyện hoang đường do những kẻ đạo đức bịa đặt ra để lý giải cho sự quyến rũ và tò mò của người khác.” Bản thân Oscar Wilde cũng được kha khá người công nhận là người đàn ông đồi bại (và quyến rũ) nhất – một nghệ sĩ thiên bẩm, kẻ phải chịu đày đọa hi sinh vì những gông cùm lễ nghĩa trong xã hội Victorian.

Trong thời đại của Wilde, đồng tính dù trái pháp luật nhưng vẫn tương đối phổ biến. Đa số họ kiềm nén xúc cảm của mình, hoặc giữ các mối quan hệ kín tiếng và tránh xa quan tòa nhất có thể. Oscar Wilde chỉ xui xẻo khi rơi vào lưới tình với Alfred Douglas, một chàng trai trẻ phù phiếm, rỗng tuếch và bốc đồng – người lợi dụng mối quan hệ với Wilde để khiêu khích cha mình và danh tiếng của Wilde để trục lợi cá nhân. Dĩ nhiên là cha của Alfred, một hầu tước giàu có và quyền uy, đã làm mọi cách để tống Oscar Wilde vào tù rồi.

Đang đứng trên đỉnh cao danh vọng – sau khi vở kịch Tầm quan trọng của sự thành tâm (The Important of Being Earnest) mở màn thành công rực rỡ vào năm 1895, Wilde đột ngột bị kết tội “dung tục bẩn tưởi” (một sự ám chỉ bóng gió đến mối quan hệ đồng tính) và ngồi tù vài năm đến khi chết trong sự nghèo khổ và sa sút. Một thế kỷ sau, danh tiếng của ông lại lần nữa vút bay trong văn đàn nói riêng và văn hóa đại chúng nói chung, bằng chứng là tác phẩm điện ảnh tiểu sử Wilde tái hiện tại những thăng trầm trên sân khấu và trong cuộc sống của ông.

Wilde có sự tham gia của Stephen Fry – một tác giả và diễn viên hài người Anh. Ngoại hình của Fry có nhiều điểm tương đồng với Oscar Wilde, và ông cũng là người đồng tính. Stephen Fry đem đến chiều sâu và sự lịch lãm, nói lên những điều cần nói về về vị “tác gia đồi bại” kia: rằng ông là một người theo chủ nghĩa lý tưởng, với khiếu hài hước và tài năng bẩm sinh, xuất hiện trong một xã hội coi trọng đạo đức giả hơn là sự trung thực thuần túy.

3. The Hours (2002)

Ba người phụ nữ, ba thời đại, ba địa điểm. Ba lần cố tự tử, hai lần thành công. Một trong ba người ấy là nữ nhà văn Virginia Woolf.

The Hours, do Stephen Daldry đạo diễn và dựa trên cuốn tiểu thuyết đoạt giải Pulitzer của Michael Cunningham, không cố ép ba câu chuyện này thành một tuyến song song. Phim là lăng kính nghiền ngẫm về ba mảnh đời khác biệt, riêng lẻ, với mối dây liên kết duy nhất là Virginia Woolf – người đã viết một cuốn sách nhỏ có tựa đề Căn phòng của riêng ta (A Room of One’s Own), và (theo một cách nào đó) đã khởi xướng chủ nghĩa nữ quyền hiện đại. Trong sách, bà đúc kết: trong suốt tiến trình lịch sử, phụ nữ vốn không sở hữu một căn phòng riêng, mà phải liên tục di chuyển khắp căn nhà, dưới yêu cầu của người chồng và các thành viên khác trong gia đình. Qua ba mảnh đời riêng biệt, ta nhận ra sự tự do cá nhân của người phụ nữ đã mở rộng rất nhiều, nhưng trách nhiệm của con người và tội lỗi vẫn là sự thật chi phối đời sống.

Nicole Kidman, trong vai Virginia Woolf, là người phụ nữ bị bao vây bởi những cơn bệnh tâm thần dai dẳng. Bà vật lộn với ác quỷ trầm cảm, hướng cái nhìn tuyệt vọng, giận dữ vào khoảng không trống rỗng, đôi mắt thất thần, gợi lên cuộc chiến dữ dội sâu trong nội tâm: một bộ óc thông minh, lý lẽ đang chống lại hệ thống neuron mắc lỗi, tác giả của những cơn dằn vặt và đau đớn triền miên. Và đến khi cuộc chiến tới hồi kết, cũng là khi Virginia Woolf viết lá thư vĩnh biệt tới người chồng Leonard, và vươn mình vào dòng nước đục ngầu của dòng sông Ouse.

The Hours là tác phẩm suy ngẫm về tính bền bỉ của các kết nối, khả năng hạn định của con người, giấc mơ hạnh phúc khó nắm bắt, và đôi khi là lời mời gọi khó chống cự của thần chết.

4. Tolkien (2019)

Tolkien mở màn tại chiến hào Somme, giữa khung cảnh hoành tráng và bi thương của Thế chiến thứ nhất. Chàng thiếu úy trẻ J. R. R. Tolkien đang mê sảng vì sốt cao và kiệt sức; anh lao qua những con đường đẫm máu, đầy bùn, tuyệt vọng tìm kiếm một người bạn, một đồng minh mà anh có thể tin tưởng. Giữa chiến hào tanh mùi máu ấy, đột nhiên anh nhìn thấy một ngọn lửa, một ngọn lửa giống như hơi thở của rồng. Cuối cùng anh sẽ thấy, vâng, đúng là một con rồng sừng sững trước mắt anh.

Là tác phẩm điện ảnh xoay quanh cuộc đời của nhà văn John Ronald Reuel Tolkien (tác giả của Chúa tể của những chiếc nhẫnThe Hobbit), có sự tham gia diễn xuất của Nicholas Hoult và Lily Collins, Tolkien đã cân bằng được những giai đoạn tươi sáng và khổ đau trong đời của Tolkien: từ thời niên thiếu mồ côi nhưng đầy màu sắc bên những người bạn cùng hoàn cảnh; đến trải nghiệm trong Thế chiến thứ nhất; mối tình với Edith Bratt (Lily Collins) được đắp bối từ quá khứ tương đồng; niềm đam mê dành cho âm điệu, ý nghĩa ngôn ngữ, tình yêu với thần thoại và tiểu thuyết (được truyền từ người mẹ). Tuy tác phẩm không nhận được sự tán đồng từ gia đình nhà văn, nhưng đây cũng là một phim đáng quan tâm nếu bạn là người yêu thích và muốn tìm hiểu thêm về cha đẻ của những tác phẩm huyền bí được hàng triệu độc giả trên thế giới yêu thích.

5. Thất lạc cõi người (2019)

“Các tác gia vĩ đại có thể là những con người tệ hại” – chân lý trên từng là chuyện ai ai cũng thấu hiểu. Còn thời bây giờ, những người từng là nhà văn vĩ đại, nếu vô tình phát ngôn ra những lời vi phạm tiêu chuẩn đạo đức (phân biệt giới tính hay phân biệt chủng tộc), chắc chắc sẽ được cư dân mạng tự hào mà bấm nút “cancel” trong tíc tắc.

Dazai Osamu, nếu sống trong thời nay, hẳn là một ứng cử viên “sáng giá”. Được tôn vinh là một trong những tiểu thuyết gia hậu chiến tranh vĩ đại nhất Nhật Bản, với các tác phẩm nổi bật Thất lạc cõi ngườiTà dương, Dazai đồng thời là một gã trăng hoa nghiện ngập hết thuốc chữa, với những câu chuyện tình ái gây sốc văn đàn Nhật, kết quả là đứa con ngoài giá thú với người tình Shizuko Ota, và cuối cùng tự tử đôi với người tình Tomie Yamazaki. Trong phim điện ảnh tiểu sử Thất lạc cõi người, thay vì lên án những tội lỗi của ông, phim lại ca tụng và phủ một lớp màn hào nhoáng lên cái tình sử chẳng đáng lấy làm tự hào ấy. Bộ phim tràn đầy những dấu chỉ thị giác lộng lẫy, và dành sự cảm thông cho bản thân Dazai (dù có chút sắc thái hài hước đen).

Thất lạc cõi người không giành được được sự tán đồng của giới chuyên môn. Thay vì đi sâu khai thác đời sống nội tâm khổ đau, những gánh nặng tâm tưởng và sự tài tình trong văn chương của Dazai, bộ phim lại tập trung vào chuyện tình trường của ông với vợ và các người tình. Tài tử Shun Oguri thể hiện Dazai như thể ông là một tay tán gái điệu nghệ, lời lẽ tán tỉnh ngọt xớt, và lợi dụng phụ nữ để phát triển sự nghiệp văn chương của mình. Cuối cùng, Dazai Osamu thực sự – người đã chắp bút cho những tác phẩm lay động hàng triệu trái tim kể cả sau khi ông mất – biến mất hoàn toàn đằng sau những bức cliché kệch cỡm.

Một số gợi ý khác dành cho người yêu điện ảnh và văn học

Shirley (2020)

Dựa trên Shirley: A Novel (cuốn sách nổi tiếng của Susan Scarf Merrell), Shirley là câu chuyện “tương đối hư cấu” dựa trên những tình tiết thật trong cuộc đời của tiểu thuyết gia Shirley Jackson. Một tác phẩm lạ lùng, nhưng hoàn toàn phù hợp với những gì chúng ta – các độc giả hiện đại – biết về bà: một người phụ nữ cho rằng thực tế và các luật lệ đi kèm thật tẻ ngắt và vô vị.

Capote (2005)

Capote theo dấu hành trình của Truman Capote khi ông đang viết về vụ giết người tai tiếng tại Kansas và đào sâu vào tâm lý của hai tên tội phạm Perry Smith và Richard Hickock. Càng biết nhiều về vụ án đẫm máu, càng thấu hiểu về hai kẻ giết người “máu lạnh”, Capote càng lún sâu vào câu chuyện – một câu chuyện kinh thiên động địa, mang đến cho ông tiền tài và danh tiếng, cùng cuốn tiểu thuyết phi hư cấu bán chạy Máu lạnh, nhưng cũng đồng thời tàn phá tinh thần và thúc đẩy ông bước gần hơn đến cái chết.

Becoming Jane (2007)

Được chuyển thể từ cuốn sách cùng tên, Becoming Jane ra đời dựa trên các bức thư và cuốn sách Jane Austen để lại, tường thuật tuổi 20 của bà cùng mối tình chớm nở với vị luật sư trẻ tuổi Thomas Langlois Lefroy. Mối tình này là cảm hứng chính cho tiểu thuyết Kiêu hãnh và định kiến, và Lefroy cũng là hình mẫu cho nhân vật Mr. Darcy.

Colette (2018)

Colette xoay quanh cuộc hôn nhân và cán cân quyền lực giữa nữ tác gia người Pháp Colette và người chồng ích kỷ (kẻ đánh cắp các tác phẩm của bà và xuất bản chúng dưới tên mình), những thách thức của bà khi đối diện với rào cản và vòng quây nghĩa vụ, và hành trình phi thường của một người phụ nữ tìm được tiếng nói, giá trị của mình trong xã hội Paris thế kỷ XIX.  

Hết.

Mèo Heo dịch và tổng hợp.

Trà chiều

Thế giới viễn tưởng độc đáo trong bốn bộ phim mang đậm tính thể nghiệm

Published

on

Thế giới của phim khoa học viễn tưởng không phải lúc nào cũng chỉ có AI, robot, hay du hành không gian mà còn vô vàn những điều đặc biệt khác có thể bạn chưa biết.

Năm 2023 vừa qua đã ghi nhận sự phát triển ngày càng mạnh mẽ của AI. Điều đó khiến cho dòng phim khoa học viễn tưởng nhận được nhiều sự quan tâm trở lại. Nhắc đến dòng phim này, người ta vẫn thường đóng khung nó với vài yếu tố tiêu biểu thường gặp như: AI, robot, du hành vũ trụ, thế giới song song… Tuy nhiên, có rất nhiều tác phẩm sci-fi kinh điển đã chứng minh điều ngược lại.

Hãy cùng Bookish khám phá những bộ phim sci-fi không thuần túy là sci-fi vì ở đó, người xem được tận hưởng bữa tiệc điện ảnh đỉnh cao với những hương vị hòa quyện mĩ mãn từ nhiều thể loại khác nhau.

Back to The Future (1985)

Sci-fi x Road Trip Comedies

Cùng với The Terminator, Back To The Future ra đời năm 1985 đã trở thành biểu tượng kinh điển của dòng phim sci-fi lấy chủ đề du hành thời gian. Đó cũng là một trong những nguyên nhân mà bộ phim này được nhắc đến nhiều lần trong Avengers: Endgame lúc cả nhóm quyết định quay về quá khứ.

Tuy nhiên, không giống như The Terminator, Back To The Future mang màu sắc vui nhộn, hài hước của lứa tuổi học trò. Cậu học sinh tuổi teen Marty McFly ở thập niên 80 vô tình bị kéo về quá khứ trên chiếc xe cỗ máy thời gian của nhà khoa học Emmett Brown. Cậu quay trở về thập niên 50 – lúc này bố mẹ cậu cũng ở lứa tuổi học trò như cậu. Để có thể quay về hiện tại năm 80, cậu phải tìm cách hàn gắn mối quan hệ của bố mẹ, nếu không bản thân cậu cũng sẽ không tồn tại ở năm 80. Từ đó, câu chuyện nảy sinh nhiều tình huống dở khóc dở cuối. Nếu như The Terminator là sự phối trộn hoàn hảo giữa thể loại sci-fi và hành động thì Back To The Future lại là màn kết hợp ăn ý giữa thể loại sci-fi và hài hành trình. Bộ phim tốn kinh phí thực hiện là 19 triệu USD nhưng lại có doanh thu phòng vé lên đến 388 triệu USD. Chính vì thành công này mà đạo diễn Robert Zemeckis đã thực hiện hai phần tiếp theo cũng vui nhộn không kém.

Snowpiercer (2013)

Sci-fi x Dystopia

Bong Joon Ho không chỉ tạo ra những bộ phim sâu sắc về đề tài xã hội mà ông còn có khả năng làm phim khoa học viễn tưởng rất chặt chẽ, thuyết phục. Điều này thể hiện rõ nhất qua Snowpiercer. Phim dựa trên tiểu thuyết Pháp Le Transperceneige lấy đề tài hậu tận thế. Trong tương lai, sau một thí nghiệm thất bại, khí hậu toàn cầu biến đổi dẫn đến gần như toàn bộ sinh vật đều bị diệt vong, ngoại trừ một số người may mắn có mặt trên con tàu Snowpiercer chạy vòng quanh Trái đất với động cơ vĩnh cửu. Tại đây, một xã hội thu nhỏ mới lại được hình thành. Dưới bàn tay tài hoa của Bong Joon Ho, Snowpiercer cũng không đơn giản là tác phẩm sci-fi thuần túy mà ông còn lồng ghép vào nhiều thể loại khác nhau: có những phân đoạn hành động mãn nhãn, đồng thời cũng có những phân đoạn dí dỏm, và cách đặt vấn đề về giai tầng xã hội vẫn mang phong cách rất đặc trưng của Bong. 

Eternal Sunshine Of The Spotless Mind (2004)

Sci-fi x Romance

Sẽ như thế nào nếu kết hợp thể loại sci-fi với phim tình cảm? Khi đó, chúng ta sẽ có kiệt tác Eternal Sunshine Of The Spotless Mind của bộ đôi đạo diễn Michel Gondry và biên kịch Charlie Kaufman. Bộ phim sử dụng đề tài “can thiệp kí ức” để khám phá bản năng con người khi tình yêu tan vỡ. Sẽ ra sao nếu khi chia tay một ai đó, bạn có thể xóa toàn bộ những kí ức vui buồn liên quan đến họ ra khỏi tâm trí? Sau khi Joel biết được Clementine – người yêu cũ của anh đã xóa kí ức tình yêu, anh quyết định bản thân mình cũng sẽ thực hiện việc này. Nhưng khi anh khám phá được điều gì đã khiến họ gắn kết rồi lại chia xa, anh nhận ra mình vẫn còn tình cảm dành cho cô. Nếu như công nghệ trong phim là thứ hư cấu thì cảm xúc giữa hai nhân vật trong Eternal Sunshine hoàn toàn chân thực, lay động trái tim người xem, khiến ai cũng phải thổn thức.

Under The Skin (2013)

Sci-fi x Experimental film

Cuối cùng, không thể không nhắc đến bộ phim sci-fi mang tính thể nghiệm, tiên phong đáng nhớ: Under The Skin. Có rất nhiều phim lấy đề tài sinh vật ngoài hành tinh xâm nhập Trái đất, nhưng có lẽ chưa bộ phim nào kể câu chuyện thật đặc biệt nhưng lại với nhịp điệu từ tốn như Under The Skin. Scarlett Johansson trong vai sinh vật ngoài hành tinh vô danh chỉ làm đúng một công việc là đi lang thang trên một chiếc xe tải, lựa chọn những người đàn ông cô đơn làm con mồi. Bộ phim rất kiệm lời thoại, khiến người xem rợn người không chỉ bởi những hình ảnh thị giác lạ mắt mà còn bởi thứ âm nhạc cũng đầy tính thể nghiệm độc đáo của Mica Levi. Tuy nhiên, nếu chỉ tập trung vào thể nghiệm mà bỏ qua nội dung, Under The Skin đã không gây được tiếng vang lớn như thế trong cộng đồng điện ảnh. Sau tất cả, bộ phim của đạo diễn Jonathan Glazer lại khiến người xem trăn trở nhiều về thân phận làm người.

Hoàng Đức Nhiên

Đọc bài viết

Trà chiều

The Terminator & Blade Runner: Hai tượng đài điện ảnh độc đáo của thập niên 80

Published

on

Cùng ra mắt vào thập niên 80, The Terminator (1984) và Blade Runner (1982) đều là hai kiệt tác điện ảnh độc đáo, góp phần rất lớn trong việc tạo ra diện mạo mới cho thể loại sci-fi.

Bài viết này sẽ dẫn dắt bạn khám phá những vấn đề khác nhau được đặt ra trong hai phim: từ những dòng suy tư về mối liên hệ nhân quả giữa hành động và thời gian trong The Terminator đến không gian đô thị đậm chất noir và những truy vấn về bản chất con người trong Blade Runner.

The Terminator (1984)

The Terminator là bước đột phá ngoạn mục trong sự nghiệp điện ảnh của đạo diễn James Cameron. Vào thời điểm ra mắt, bộ phim gây ấn tượng bởi việc pha trộn nhiều đặc tính giữa các thể loại khác nhau, mang đến màu sắc mới cho dòng phim sci-fi.

The Terminator kể câu chuyện về một người máy sát thủ ra đời năm 2029, được trao nhiệm vụ quay về năm 1984 để giết người phụ nữ trẻ tên là Sarah Connor. Sarah hoàn toàn không biết rằng cuộc đời cô có ảnh hưởng đáng kể đến số phận nhân loại và cô có thể chết bất cứ lúc nào dưới sự truy sát của cỗ máy bất khả chiến bại được gọi là Kẻ Hủy Diệt. Kyle Reese cũng đến từ tương lai nhưng nhiệm vụ của anh là bảo vệ Sarah – người mẹ của thủ lĩnh tương lai.

Với cốt truyện như thế, The Terminator vừa có những pha hành động mãn nhãn, vừa có nhiều tầng suy tư phức tạp về dòng chảy của thời gian, về phương thức thay đổi một sự kiện trong quá khứ có thể dẫn đến tương lai khác biệt hoàn toàn – đây vốn là chủ đề hiếm gặp trong phim hành động ở giai đoạn đó. Ngoài ra, những bản nhạc nền tạo không khí căng thẳng của nhạc sĩ Brad Fiedel cũng góp phần lớn vào thành công của phim.

Tất cả những nhân tố đó đã khiến phim trở thành một mảnh ghép quan trọng của văn hóa đại chúng đến tận ngày nay. Câu nói “I'll be back” của nhân vật Kẻ Hủy Diệt trong phim được sử dụng phổ biến, trở thành slogan thương hiện cho chính Arnold Schwarzenegger.

Từ năm 1984 đến nay, The Terminator đã sản xuất 6 phần phim: The Terminator (1984), Terminator 2: Judgment Day (1991), Terminator 3: Rise of the Machines (2003), Terminator Salvation (2009), Terminator Genisys (2015), Terminator: Dark Fate (2019). Tất cả những phần phim này đều đạt được doanh thu khủng, riêng phần đầu tiên The Terminator đã trụ vững ở vị trí số 1 trên bảng xếp hạng phòng vé ở Mỹ trong suốt hai tuần. Năm 2008, The Terminator đã được Thư viện Quốc hội Hoa Kỳ đưa vào Viện lưu trữ phim quốc gia để bảo tồn với lí do là bộ phim “nổi bật ở phương diện văn hóa, lịch sử, và mĩ học”.                          

Blade Runner (1982)

Không may mắn như The Terminator, Blade Runner của đạo diễn Ridley Scott là một tuyệt tác có số phận khá hẩm hiu khi vừa ra đời. Tuy nhiên, qua nhiều thập kỉ với những bản dựng khác nhau, tác phẩm này đã trở thành một tượng đài lớn của thể loại sci-fi.

Dựa trên tiểu thuyết gốc Do Androids Dream Of Electric Sheep? của nhà văn Philip K. Dick, Blade Runner vẽ nên viễn cảnh ảm đạm của thế giới vào năm 2019. Khi đó, thế giới tràn ngập những replicant – người máy có hình dạng giống con người, được tạo ra với vòng đời ngắn ngủi để làm những công việc nguy hiểm phục vụ cho con người. Một nhóm replicant bất mãn trước việc này đã làm một cuộc phản loạn, quay trở về Trái Đất và giết con người. Rick Deckard, một cảnh sát đã nghỉ hưu ở Los Angeles nhận nhiệm vụ phải truy lùng và tận diệt toàn bộ nhóm replicant nổi loạn này.

Blade Runner là sự pha trộn giữa sci-fi, trinh thám và phim noir – thể loại phim hình sự tội phạm mang đậm phong cách Hollywood, thường thể hiện thái độ hoài nghi, mỉa mai. Thông qua hành trình của Rick Deckard, bộ phim đặt ra nhiều câu hỏi triết học về tính người, thế nào là một con người.

Nhưng không chỉ sâu sắc về nội dung, Blade Runner còn là bữa tiệc chiêu đãi về thị giác qua cách bộ phim thể hiện không gian đô thị tương lai với những màn hình quảng cáo lớn, đèn neon luôn lấp lánh và đường phố lúc nào cũng nhộn nhịp. Cảm hứng thị giác của phim kết hợp từ những bức tranh cổ điển của danh họa Edward Hopper và các khu phố với những tòa nhà chọc trời ở Hong Kong. Sự kết hợp này đã tạo nên không gian thị giác ấn tượng của phim khi con người bị nhấn chìm trong công nghệ. Mĩ thuật của phim tạo ảnh hưởng lớn đến cách xây dựng không gian cho những phim sci-fi hay hành động của Hollywood ra đời sau đó như: The Matrix (1999), bộ ba Dark Knight (2005 – 2012) của đạo diễn Christopher Nolan, Ghost in the Shell (2017)…

Ngày nay, Blade Runner đã có một chỗ đứng không thể thay thế trong dòng phim sci-fi với nhiều ảnh hưởng mang tính định hình về mĩ thuật, tư duy về cách kể chuyện và nhân vật. Blade Runner 2049 – phần tiếp theo của phim ra đời vào năm 2017, đúng 35 năm kể từ phần đầu tiên đã không làm người hâm mộ thất vọng với điểm số trên Rotten Tomatoes lên đến 88%.

Hoàng Đức Nhiên

Đọc bài viết

Trà chiều

Hai tác phẩm định hình dấu ấn cá nhân của đạo diễn James Cameron và Christopher Nolan

Published

on

Đạo diễn James Cameron và đạo diễn Christopher Nolan đều là những cá nhân kiệt xuất trong ngành điện ảnh với nhiều bộ phim kinh điển vừa đạt được doanh thu khủng, vừa có giá trị nghệ thuật cao.

Tuy nhiên, khi nhắc đến hai vị đạo diễn tài danh này, có hai tác phẩm đặc biệt mà người hâm mộ điện ảnh không thể nào bỏ lỡ.Hãy cùng Bookish khám phá những dấu ấn đặc trưng cá nhân của đạo diễn James Cameron trong Avatar và của đạo diễn Christopher Nolan trong Inception.  

Avatar (2009)

Năm 2009, bộ phim sci-fi Avatar của đạo diễn James Cameron ra đời đã tạo nên bước ngoặt lớn cho sự phát triển công nghệ điện ảnh. Lần đầu tiên, cả thế giới được xem một bộ phim 3D. Kĩ thuật thị giác đột phá đã khiến trải nghiệm của phim cực kì sống động.

Vào năm 2154, nguồn tài nguyên Trái đất trở nên cạn kiệt dưới sự khai thác của con người dẫn đến khủng hoảng năng lượng. Lúc bấy giờ, tập đoàn RDA đang khai thác unobtanium – một loại khoáng sản có giá trị tại Pandora, một hành tinh tươi tốt mang sự sống giống Trái Đất nhưng lại có bầu khí quyển độc hại cho con người. Pandora là nơi sinh sống của người Na'vi da xanh, có hình dáng và trí óc giống con người. Để tìm hiểu về người Navi và sinh quyển ở Pandora, các nhà khoa học sử dụng cơ thể người lai Na’vi gọi là các Avatar, được hoạt động thông qua liên kết thần kinh với những người có kiểu gen phù hợp. Jake Sully là một cựu lính thủy quân được giao nhiệm vụ trà trộn vào hành tinh Pandora. Quá trình thực hiện nhiệm vụ đã khiến anh bị giằng xé giữa việc tuân theo mệnh lệnh hay bảo vệ xứ sở mà anh đã trót xem là quê nhà.

Đạo diễn James Cameron đã mất đến 15 năm để thực hiện Avatar từ lúc bộ phimcòn là ý tưởng năm 1994 cho đến khi ra đời năm 2009. Sở dĩ bộ phim mất nhiều thời gian như vậy là do Cameron không chỉ trau chuốt về mặt nghệ thuật mà còn cả kĩ thuật: từ công đoạn làm việc với chuyên gia ngôn ngữ để tạo ra tiếng Na’vi với hơn 1000 từ, cho đến việc tạo ra kĩ thuật 3D. Sự kì công này khiến Avatar chiều lòng được cả khán giả đại chúng lẫn giới hàn lâm. Avatar luônđứng đầu danh sách phim ăn khách nhất mọi thời đại với doanh thu lên đến 2,7 tỉ USD, và chỉ bị Avengers: Endgame vượt mặt vào năm 2019 sau suốt 10 năm thống trị bảng vàng.            

Avatar 3 dự kiến sẽ ra mắt vào năm 2025, tiếp tục hứa hẹn mang đến những thành tích khủng trong tương lai. 

James Cameron

Inception (2010)

Hầu như những bộ phim của đạo diễn Christopher Nolan đều có các yếu tố như: du hành thời gian, tìm hiểu bản chất thế giới… khiến người xem vừa rối não lẫn rối lòng. Và Inception chính là một tác phẩm hội tụ đủ các yếu tố làm nên thương hiệu Nolan, trở thành một tượng đài khó quên trong lòng người hâm mộ.

Inception là một trải nghiệm điện ảnh đáng nhớ khi Nolan cố gắng hình tượng hóa kiến trúc tư duy của con người, biến tiềm thức trở thành không gian vật lí cho các hoạt động đánh cắp được diễn ra. Bộ phim kể về một tên trộm có khả năng đi vào giấc mơ của người khác. Dom Cobb không trộm gì cả, anh chỉ trộm ý niệm. Bằng việc thâm nhập vào tiềm thức của đối tượng, anh có thể lấy thông tin mà đến cả những tay hacker sừng sỏ nhất cũng không thể làm được. Trong thế giới điệp viên, Cobb là vũ khí tối thượng. Nhưng kể cả vũ khí cũng có nhược điểm, khi Cobb gần như mất tất cả mọi thứ, anh được giao một nhiệm vụ cuối cùng để chuộc lỗi. Lần này, Cobb không gặt lấy ý niệm, anh gieo nó. Liệu anh và đồng đội có thành công?

Christopher Nolan

Inception có một kịch bản hoàn hảo, từng thế giới giấc mơ xuất hiện trong phim vừa chính xác, tinh tế, đôi khi lại hài hước. Thời gian là chủ đề yêu thích của Nolan và ông luôn tìm được cách thể nghiệm thú vị, có thể thấy rõ điều này qua cả phim InterstellarDunkirk. Nhưng trong Inception, thời gian không chỉ là chủ đề mà còn là công cụ kể chuyện khi tái hiện lại hoàn hảo nỗi ám ảnh của kẻ cắp giấc mơ. Từ đó, bộ phim đặt ra nhiều câu hỏi hóc búa: liệu rằng ta có đang sống trong thời gian thực, khi nào thì một giấc mơ trở thành thực tế, khi nào thì thực tế hóa ra lại chỉ là một giấc mơ, ta đang thức hay còn mơ?

Thông qua Inception, Nolan lồng ghép rất nhiều khái niệm về sự logic giấc mơ, đảo ngược các nguyên tắc vật lí, cho thấy những thực tại có thể vỡ vụn ra sao… Tất cả hòa quyện vào nhau, tạo thành một tác phẩm sci-fi tâm lí đỉnh cao mà có lẽ nhiều thập kỉ sau, vẫn còn khiến người ta trầm trồ.

Hoàng Đức Nhiên

Đọc bài viết

Cafe sáng