Phía sau trang sách

Khi các nhà văn đá xéo nhau: Tận cùng của sự đanh đá (phần 1)

“Mỗi lần tôi đọc ‘Kiêu hãnh và định kiến’, tôi lại muốn đào cô ta lên từ dưới ba tấc đất, cầm xương ống chân của cô ta mà đánh vào quả sọ.”

Published

on

Văn đàn đôi khi hơi ba phải một chút. Tức là, nếu đa số dư luận đánh giá một quyển sách là “Tuyệt Tác”, đánh giá này được cộp mác chính thức. Bất kì cá nhân nào dám đi ngược dòng dư luận sẽ nhận được cái nhìn kinh hãi. Danh tiếng như vậy đôi khi được thành lập khi chưa ai đọc sách cả, chỉ cần vài câu truyền miệng “tôi nghe nói nó hay lắm” là đủ. Nhưng bất chấp cái đám đông đáng sợ ngoài kia, vẫn sẽ có một vài (đôi lúc là nhiều vài) “kẻ phản đồ”. Họ chỉ đang ẩn nấp kĩ càng để tránh bị “đì” mà thôi.

Hiện nay, thật đáng tiếc là nhiều tác giả cảm thấy rằng họ không thể công khai chê bai tác phẩm của những nhà văn khác. Điều này không có lợi cho độc giả – lực lượng người hâm mộ trung thành càng ngày càng dựa dẫm vào nhà văn yêu thích của mình để tìm được đầu sách hay; cũng không tốt cho ngành sách, bởi vì độc giả đã chán ngấy những lời khen hoa mỹ bóng nhẫy và không dễ dàng tin tưởng chúng nữa. Tôi rất hiểu cho các tác giả khốn khổ phải viết bài trái lương tâm ngoài kia, nhưng vẫn không thể ngăn bản thân mình ghét cay ghét đắng cái trào lưu bợ đỡ nhau này. Mà thôi, đây là nan đề cho một bài viết khác.

Vòng vo nhiều như vậy cũng chỉ để nói rằng, thấy một gã khổng lồ bị đẩy ngã cũng khá là vui (đặc biệt là khi trong thâm tâm bạn cũng chẳng ưa gì gã lắm), mà thấy hai gã khổng lồ đánh nhau còn vui hơn. Đó là cảm giác của tôi khi xem các nhà văn nổi tiếng đá xéo tác phẩm của những tác giả nổi tiếng khác. Võ sĩ A và B của trận đấu đều là những cái tên có tiếng có miếng, điều này khiến cho hành động ngồi ăn bắp rang xem đánh nhau của bạn bớt tội lỗi hơn hẳn.

Vậy nên, kính thưa quý độc giả, tôi xin giới thiệu những tác giả đã vô tình hữu ý mà ghét một vài tác phẩm kinh điển và lời phê bình tao nhã của họ đối với những tác phẩm này. Còn việc những lời phê bình này có chuẩn xác không thì vẫn còn cần được thảo luận thêm.

1. Virginia Woolf bàn về Ulysses

Từ nhật kí của Virginia Woolf: 

Thứ tư, ngày 16 tháng Tám năm 1922:

Đáng lẽ là giờ này tôi nên đọc Ulysses, và thêu diệt những luận điểm đồng tình hoặc chống đối nó. Đến giờ tôi đã đọc được 200 trang – còn chưa được một phần ba; tôi đã cảm thấy thích thú, bị kích thích, bị quyến rũ, đã rất hứng thú với hai hay ba chương đầu của cuốn sách đến cuối cảnh nghĩa trang; sau đó thì bối rối, khó chịu và bị vỡ mộng bởi một thằng sinh viên dơ dáy đang ngồi gãi mụn. Tom, Tom vĩ đại [T.S. Eliot], lại nghĩ rằng quyển sách này ngang tầm với Chiến tranh và hòa bình! Bản thân tôi lại thấy nó là một quyển sách vô học và thô tục; quyển sách của một người lao động tự học, và chúng ta đều biết họ phiền hà như thế nào, họ tự cao, cứng đầu, sống sượng, bất bình thường và thường tạo cho người ta cảm giác chung là tởm đến phát ói. Giống như một miếng thịt sống vậy, vì sao lại chọn thịt sống khi người ta có thể ăn chín uống sôi chứ? Nhưng tôi mạo muội đoán là nếu bạn bị bệnh thiếu máu, như Tom ấy, bạn sẽ thấy sự huy hoàng hấp dẫn của máu tươi. Bản thân tôi tự nhận là một người bình thường, nên tôi sẵn sàng quay lại với những quyển sách văn học cổ điển. Tôi có lẽ sẽ đọc lại quyển sách này sau. Còn bây giờ, tôi vẫn không thể chấp nhận việc hy sinh sự minh mẫn của mình. Cứ tạm thời đánh dấu trang 200 ở đó đã.

Thứ tư, ngày 6 tháng Chín năm 1922:

Tôi đã đọc xong Ulysses và nghĩ nó là một phát đạn xịt. Một tác phẩm văn học thiên tài, nhưng thiên tài kiểu nước lợ. Quyển sách lan man. Nửa nạc nửa mỡ. Nó tự phụ. Nó thô tục, không chỉ ở nghĩa trên câu từ mà còn xét trên góc độ văn học. Tôi muốn nói, một nhà văn hạng A nên là một người tôn trọng văn học để không giở những trò câu độc giả bằng mánh lới xảo quyệt, những chi tiết giật gân hay là những trò xiếc khỉ tầm thường. Trong suốt quá trình đọc quyển sách này, trong đầu tôi luôn thường trực hình ảnh của một cậu bé học sinh trường công thấp hèn, có trí tuệ và sức bật đó, nhưng quá tự phụ và tự đại đến mức đánh mất lí trí thông thường, một kẻ ngông cuồng, ngụy trí thức, ồn ào thích gây sự chú ý, khiến những người tốt bụng thấy tội cho hắn ta và những kẻ nghiêm khắc cảm thấy hắn ta thật phiền; người ta hy vọng hắn nhanh chóng trưởng thành để bớt cái thói đó đi; nhưng Joyce đã 40 rồi, điều này chắc khó có thể xảy ra… Ôi, đọc quyển sách này tôi cảm thấy như bị vô số viên đạn tí hon bắn vào người; còn chẳng được chết thống khoái bởi một viên đạn vào mặt, như cách mà Tolstoy đã bắn vào mặt tôi; nhưng so sánh này thật là nỗi sỉ nhục với Tolstoy.

2. Mark Twain bàn về Kiêu hãnh và định kiến

Trong lá thư gửi Joseph Twichell, ngày 13 tháng Chín năm 1898:

Tôi không có quyền chỉ trích sách, và tôi thường không làm như vậy trừ phi tôi ghét cay ghét đắng quyển sách kia. Tôi thường muốn chỉ trích sách của Jane Austen, nhưng sách của cô ta thường làm tôi tức đến mức tôi không thể che giấu cơn điên tiết này trước độc giả. Vậy nên mỗi lần cầm bút lên thì tôi lại phải thả xuống. Mỗi lần tôi đọc Kiêu hãnh và định kiến, tôi lại muốn đào cô ta lên từ dưới ba tấc đất, cầm xương ống chân của cô ta mà đánh vào quả sọ.

Từ một bài viết không đầy đủ của Twain, tiêu đề “Jane Austen”:

Mỗi khi tôi đọc Kiêu hãnh và định kiến hay Lí trí và tình cảm, tôi cảm thấy như một người bán hàng rong đang bước vào Cánh cổng Thiên đường. Ý tôi là, tôi đồng cảm với cảm giác khả dĩ của anh ta. Tôi khá chắc tôi biết anh ta cảm giác như thế nào – và ý nghĩ sâu xa trong lòng anh ta. Anh ta chắc chắn sẽ cong môi lên, trào phúng nhìn những vị trong Giáo hội Trưởng lão trong nhà thờ đang tự mãn đi ngang dọc ở Thiên đường. Bởi vì anh ta nghĩ mình tốt, khinh thường các vị Trưởng lão sao? Không hề. Chỉ đơn giản là anh ta không khoái loại người như họ. Vậy thôi.

3. Aldous Huxley bàn về On the Road (Trên các nẻo)

Trích Aldous Huxley: Một tiểu sử của Nicholas Murray:

Sau khi đọc một lúc thì tôi thấy hơi chán. Ý tôi là, nẻo ngõ gì dài thế.

4. Katherine Mansfield bàn về Howards End

Từ nhật kí của Katherine Mansfield:

Tháng Năm năm 1917:

Khi đang xem lại những quyển sách dở nhất mình sở hữu, tối hôm qua tôi tình cờ bắt gặp Howards End và đã đọc nó. Nhưng đúng thật là nó không đủ hay. E. M. Forster chưa bao giờ đi xa hơn việc sáng tác một quyển sách tạm ổn, chưa bao giờ đi xa hơn việc hâm ấm một cái ấm trà. Anh ta lại là một trong số hiếm những kẻ giỏi việc này nhỉ. Sờ cái ấm này thử xem. Ấm không? Sờ sướng tay không? Nhưng chỉ sướng tay thôi, chẳng có trà cho anh uống đâu.

Và tôi lại không chắc lắm liệu Helen có thai với Leonard Bast hay với cái ô bị lãng quên của hắn ta. Cân nhắc hết các tình tiết, tôi nghĩ nó nhiều khả năng đứa con là của cái ô rồi.

5. Martin Amis bàn về Don Quixote

Từ bài phê bình được đăng trong quyển The War Against Cliché: Essays and Reviews 1971-2000 (tạm dịch Chiến tranh chống sáo rỗng: Các bài luận và bài bình 1971-2000)

Mặc dù là một tượng đài kiệt tác không thể chối bỏ, Don Quixote vẫn có một lỗi rất nghiêm trọng – nó khiến người ta không tài nào đọc nổi. Người viết bài bình này hẳn biết điều đó chứ, bởi vì hắn mới đọc nó mà. Quyển sách chứa đầy vẻ đẹp, nét cuốn hút, chi tiết hài hước uyên bác; nó (hầu hết quyển sách – phải lên đến 75% thời lượng quyển sách) cũng… đần độn không tầm thường. Đọc Don Quixote có thể được ví như chuyến đi thăm dài vô tận đến nhà một vị họ hàng lớn tuổi, người có một bụng trò khăm, thói bẩn, những hồi ức liên miên và những người bạn đồng liêu tệ bạc. Khi trải nghiệm đã qua, khi “cậu bé già” cuối cùng cũng vẫy tay chào tạm biệt (tại trang 846 – trong đoạn văn dày đặc chẳng có chỗ cho câu hội thoại nào), bạn sẽ rơi nước mắt, không phải nước mắt giải thoát mà là nước mắt tự hào. Bạn làm được rồi, cho dù Don Quixote hành hạ bạn thế nào đi nữa thì bạn cũng vượt qua được rồi.

6. David Foster Wallace bàn về American Psycho (Người Mỹ cuồng loạn)

Từ một bài phỏng vấn do Larry McCaffery thực hiện trong The Review of Contemporary Fiction (tạm dịch Bình luận về văn học đương đại), Hè năm 1993:

Larry McCaffery (LM): Trong trường hợp của anh, sự thù địch này được biểu hiện dưới dạng nào?

David Foster Wallace (DFW): Ồ. Không phải luôn luôn, nhưng đôi lúc dưới dạng những câu không sai ngữ pháp nhưng vẫn khó hiểu như chó. Hay việc tác giả thích cầm dữ liệu đấm vào mặt độc giả. Hay việc dành rất nhiều năng lượng để thổi phồng kỳ vọng trong lòng độc giả và sau đó khoái chí làm họ thất vọng. Bạn có thể thấy rõ điều này trong những cuốn sách kiểu American Psycho của Ellis: nó giả vờ phỉnh nịnh máu bạo dâm của độc giả được một lúc, nhưng cuối cùng, hóa ra đối tượng bị bạo hành lại là chính bản thân độc giả.

LM: Nhưng ít nhất trong trường hợp của American Psycho, tôi cảm thấy còn có gì đó sau cái khát vọng gây đau đớn cho người khác – hay nói rõ hơn là, anh không nghĩ là Ellis độc địa theo cách của những nghệ sĩ chân chính, như những gì anh đã từng nói?

DFW: Anh chỉ đang phô bày chủ nghĩa hoài nghi, chính là thứ khiến độc giả bị thao túng bởi các tác phẩm hành văn tệ hại. Tôi nghĩ sở dĩ Ellis và một số những tác giả nhất định tìm kiếm được độc giả bởi cái chủ nghĩa hoài nghi tăm tối tồn tại trong thế giới ngày nay. Nghe này, nếu xã hội hiện nay thực sự thối hoắc, vô cảm, chạy theo đồng tiền, bị thiểu năng về cảm xúc, thích bạo dâm và ngu độn, vậy thì tôi (hay bất cứ nhà văn nào) có thể cực dễ dàng mà vá chỗ này đắp chỗ kia ra đại những câu chuyện có những nhân vật ngu ngốc, nhạt nhẽo, EQ thấp mà vẫn bán ào ào, vì kiểu nhân vật này không cần phát triển tuyến nhân vật gì cả. Miêu tả anh ta (hay cô ta) chỉ cần Ctrl+V một đống hàng hiệu. Cốt truyện thì toàn người ngu ngốc nói toàn chuyện vô vị. Nếu những đặc điểm chỉ ra một tác phẩm văn chương tệ hại là: nhân vật thiếu chiều sâu, một thế giới sáo rỗng và vô nhân tính,… lại đồng thời là những đặc điểm dùng để miêu tả thế giới ngày nay, thì văn chương dở lại hóa ra là một bức phác họa tinh tế của một thế giới tệ hại. Nếu độc giả đơn giản là tin rằng thế giới này ngu ngốc, nông cạn và xấu tính, thì Ellis có thể viết một quyển tiểu thuyết xấu tính, nông cạn và ngu ngốc mà hóa ra lại là một lời trào phúng về một thế giới tệ hết chỗ nói. Nghe này, có lẽ gần như tất cả chúng ta đều đồng ý là đây là thời kỳ đen tối và ngu đần, nhưng chúng ta có cần thêm những quyển tiểu thuyết viễn vông không làm gì hơn ngoài việc làm quá lên cái mặt đen tối của xã hội? Trong thời kì đen tối thì đáng lẽ nghệ thuật phải là thứ định hình và thổi sức sống hồi sinh cho cái nhân tính ít ỏi còn lại và cho những phép màu vẫn còn ngoài đó đâu đây. Văn học hư cấu xuất sắc đáng lẽ là những quyển sách có thể vừa miêu tả đúng đắn bản chất của thế giới, cho dù tác giả có muốn tô vẽ thêm cho nó càng tối tăm hơn, vừa soi sáng được hy vọng sống sót và vẫn còn giữ được nhân tính của những con người trong thế giới này. Bạn có thể biện hộ rằng American Psycho là một bản tóm lược ngôn hành của các vấn đề xã hội ở cuối những năm 80, nhưng nó cũng chỉ đến thế mà thôi, chẳng có gì sâu sắc hơn cả.

7. Vladimir Nabokov bàn về Anh em nhà Karamazov Tội ác và hình phạt

Trong bài phỏng vấn với James Mossman, xuất bản trong tờ The Listener, ngày 23 tháng Mười năm 1969, được in lại trong tờ Strong Opinions:

Nếu bạn đang ám chỉ đến những quyển tiểu thuyết tệ nhất của Dostoevsky, thì, tất nhiên, tôi rất không thích quyển Anh em nhà Karamazov và cái mớ bòng bong rùng rợn Tội ác và hình phạt. Không, tôi không phản đối hành trình tự đi tìm bản ngã, nhưng trong những quyển sách trên, linh hồn, tội lỗi và đa cảm, và văn phong viết không thể bù lại cho công cuộc tìm kiếm rối tung rối mù và chán chết kia được.

8. Vladimir Nabokov bàn về Finnegans Wake

Từ bài phỏng vấn năm 1967 trong The Paris Review:

Tôi căm ghét Punningans Wake, một tác phẩm mà sự lây lan nhanh chóng tựa như tế bào ung thư của các từ ngữ bác học cũng không thể cứu vãn nổi thái độ vui vẻ tởm lợm của các phong tục trong đó, và các phép ẩn dụ đơn giản, quá đơn giản.

Từ một bài phỏng vấn khác năm 1967, được thực hiện bởi một trong các sinh viên của Nabokov tại Cornell:

Ulysses vượt trội hơn bất kì tác phẩm nào khác của Joyce, và khi so sánh với sự sáng tạo cao quý, dòng suy nghĩ và phong cách sáng suốt độc đáo của nó, Finnegans Wake không hơn gì một mớ truyện dân dã hỗn độn giả tạo không hình không dạng, một miếng thạch không đông dưới dạng một quyển sách, là tiếng ngáy không ngừng ở phòng bên cạnh, quấy rầy làm người ta mất ngủ. Hơn nữa, tôi luôn chán ghét những áng văn chương địa phương chứa đầy những từ vựng xưa cũ quái gở và những cách phát âm bắt chước vụng về. Vẻ bề ngoài của Finnegans Wake ngụy trang dưới dạng một căn nhà cho thuê thường thấy chứa đầy gái mại dâm, và chỉ có tiếng tụng kinh như từ thiên đường thỉnh thoảng xuất hiện mới cứu nó khỏi số phận vô vị, buồn chán. Tôi biết là tôi thể nào cũng bị đuổi khỏi thánh đường vì phát ngôn này.

Còn tiếp.

Xem tiếp phần 2.

Emma Đẹp Thần Thánh lược dịch.

Bản gốc do Emily Temple thực hiện, đăng tại Literary Hub.

Phía sau trang sách

Cánh cửa mở vào nội tâm của Maupassant

Published

on

By

Cùng với Chekhov, Guy de Maupassant từ lâu đã được suy tôn là “bậc thầy của thể loại truyện ngắn”. Điều này không chỉ bởi văn phong độc đáo, mà còn nằm ở sự đa dạng về thể loại. Trong đó Horla và những truyện ngắn khác ra mắt gần đây chính là minh chứng cho nhận định này.

Tuy chỉ viết trong vỏn vẹn có 4 thập kỷ, nhưng những di sản mà Maupassant để lại là tương đối lớn. Ông nổi tiếng nhất với các tiểu thuyết cũng như truyện ngắn mang tính hiện thực, hài hước, lãng mạn, như những tập truyện Sáng trăng, Nơi nhà người bạn

Nhà văn nổi tiếng Guy de Maupassant

Nhưng ít người biết ông cũng bén duyên với thể loại kinh dị, và nó cũng truyền cảm hứng cho nhiều tác giả sau này, trong đó có H.P.Lovecraft với Lời hiệu triệu của Cthulhu. Vừa mới ra mắt trong thời gian qua, Horla và những truyện ngắn khác tập hợp 5 tác phẩm có màu sắc kinh dị, siêu nhiên, được Maupassant viết trải dài từ năm 1875 – 1890.

Trí tưởng tượng phong phú

Trong tập truyện Horla và những truyện ngắn khác, bạn đọc có thể thấy rõ 2 giai đoạn mà Maupassant tiến hành tiếp cận thể loại kinh dị. Trong 3 truyện ngắn được viết sớm nhất là Bàn tay bị lột da (1875), Hắn? (1883) và Nỗi sợ (1884), ta đơn thuần thấy đây là một tác phẩm ẩn chứa yếu tố siêu nhiên mà vị tác giả cố gắng khai thác.

Chúng đơn giản xoay quanh những nỗi ám ảnh mà các cá nhân yếu bóng vía hay là nhạy cảm thường cảm nhận được. Chẳng hạn như trong truyện Hắn?, một người đàn ông vì bị ám ảnh bởi một bóng ma trong căn phòng của mình mà đã cưới lấy một người vợ mới, hay ở Nỗi sợ, chỉ vì trên tuyến tàu lửa khi nhìn thấy có 2 người đàn ông xuất hiện trong khu rừng vắng, mà nhân vật chính bỗng dưng cảm thấy trong mình trỗi dậy nỗi sợ chỉ vì không thể lý giải được động cơ của câu chuyện ấy…

Horla và những truyện ngắn khác là tác phẩm mới từ Maupassant

Đây đều là các nhân vật hoàn toàn tỉnh táo, họ nhận thức được những gì xảy ra và khó có thể nói họ có vấn đề riêng về tâm lý. Và vì tính hiện thực đó, Maupassant qua các tác phẩm cũng gửi gắm được bài học của mình. Chẳng hạn trong truyện Bàn tay bị lột da, thông qua nhân vật Pierre B. – một sinh viên trường luật, người xuất thân từ một trong những gia đình danh giá nhất xứ Normandie – ông đã cho thấy chỉ vì chính thói hư vinh cũng như trưởng giả mà y đã mạo phạm đến một phần thân thể của vị phù thủy, từ đó phải chịu cái chết có phần đau đớn.

Hay trong Nỗi sợ, Maupassant cũng khẳng định “cùng với những điều siêu nhiên, nỗi sợ hãi đích thực đã biến mất khỏi hành tinh này, bởi con người ta chỉ thực sự sợ những gì nằm ngoài tầm hiểu biết của mình”. Câu nói này như đại diện cho tất cả những gì ông muốn nhắm tới, về sự nhỏ bé và đầy mông muội của con người với những kỳ bí chưa được lý giải.

Như vậy những tác phẩm này đều được viết bởi một Maupassant khách quan, đứng ở bên ngoài, từ đó đưa ra những lời lý giải hoàn toàn hợp lý. Thế nhưng ở 2 truyện sau là Horla viết năm 1887 và Ai mà biết được? viết năm 1890, thì ta lại thấy có phần ngược lại, khi chính nhà văn dường như không thể thoát được cái bóng của bản thân mình.

Bi kịch của Maupassant

Hai truyện ngắn này có được điểm chung khi nhân vật chính đều là người đàn ông rơi vào loạn trí. Nhân vật chính này đã từng không dưới một lần thừa nhận chính mình như có đến 2 bản thể cùng nhau tồn tại. Một bên kêu gào giữ lại lý trí, trong khi phía còn lại đòi hỏi rất nhiều hành động mang tính tàn phá.

Sự chia đôi này gợi ta nhớ đến trường hợp của bác sĩ Jekyll và ông Hyde tương đối kinh điển trong tác phẩm nổi tiếng của Stevenson. Như vậy chủ đề của Maupassant đã chuyển từ những nỗi sợ tương đối hữu hình thành ra vô hình và khó lý giải, khi được bao bọc bởi những vấn đề có liên quan đến thần kinh cũng như tinh thần.

Tình tiết của những câu chuyện cũng khó nắm bắt. Ở Ai mà biết được?, đó là một người gần như điên loạn bởi sự xuất hiện và rồi biến mất của những vật dụng ngay trong nhà mình một cách liên tục. Còn ở Horla, đó là một sinh vật gần như trong suốt, thứ được nuôi sống bằng sữa và nước, luôn luôn theo dõi vật chủ mà nó bám theo, từ đó khiến họ “sống không bằng chết”.

Maupassant và những ám ảnh tâm trí của bản thân mình

Theo Charlotte Mandell – dịch giả của truyện ngắn này cho nhà xuất bản Melville House, thì “horla” là từ ghép của “hors” (“bên ngoài”), và “la” (“ở đó”). Vì vậy “horla” có nghĩa là “người ngoài cuộc”, “người bên ngoài”, và có thể được dịch theo nghĩa đen là “cái gì ở ngoài đó”. Thế nhưng cũng có những lý giải khác, khi nhiều người xem đây là một sự kết hợp của cụm “hors-la-loi” (tức “ngoài vòng pháp luật”) và “horsain” (có nghĩa là “thứ lạ lùng”).

Thế nhưng dù có là gì, thì Maupassant như đang cảm nhận những nỗi ám ảnh đến từ sâu hơn và khó lý giải hơn. Xét về bối cảnh của chính tác giả, thì những truyện này tương đối trùng khớp với thời kỳ mà ông có những dấu hiệu đầu tiên của chứng điên loạn, khi ông xuất hiện nhân cách kép và ngày càng gặp nhiều ảo giác do bệnh giang mai. Một năm sau đó, vào năm 1891, ông có dấu hiệu của chứng hoang tưởng.

Có thể là bởi xuất phát từ những trải nghiệm chính ông kinh qua, nên 2 truyện này trở nên chân thật và đầy ám ảnh đối với người đọc. Nếu được viết từ một người tỉnh táo, thì đây chính là tài năng của sự tưởng tượng. Nhưng với Maupassant thì đó là nỗi đau và sự sợ hãi mà bản thân ông mong muốn giải bày thông qua việc viết.

Như vậy đi từ mục đích sáng tạo ở buổi ban đầu, Maupassant dần dần chuyển sang hành động kể lại điều đã trải qua, và làm sáng tỏ chứng bệnh tâm lý mà thời kỳ đó còn bị che khuất bởi những định kiến mà những quan điểm mang tính thủ cựu. Có thể nói Horla và những truyện ngắn khác không chỉ mở ra cánh cửa khám phá một Maupassant rất khác, mà có thể nói cũng đã góp phần giúp ta hiểu được những gì đã từng xảy đến với một trong những nhà văn lớn của nhân loại.

Anh Đoàn

Đọc bài viết

Phía sau trang sách

Tư duy tích cực tạo thành công: Chìa khóa dẫn đến sự thịnh vượng

Published

on

Tác phẩm Tư duy tích cực tạo thành công của Napoleon Hill và William Clement Stone là một cẩm nang hữu ích cho bất kỳ ai muốn đạt được thành công trong cuộc sống. Cuốn sách không chỉ cung cấp những nguyên tắc và chiến lược hiệu quả để phát triển bản thân mà còn truyền cảm hứng giúp người đọc có một thái độ tích cực hơn trong cuộc sống.

Tư duy tích cực tạo thành công là một tác phẩm kinh điển về chủ đề phát triển bản thân, đã truyền cảm hứng cho hàng triệu người trên khắp thế giới kể từ khi xuất bản lần đầu tiên vào năm 1959, khẳng định vị trí là một trong những tác phẩm self-help bán chạy nhất mọi thời đại. Cuốn sách vén màn bí mật về sức mạnh của tư duy tích cực, giúp người đọc khai phá tiềm năng bản thân và đạt được những thành tựu phi thường trong mọi lĩnh vực của cuộc sống.

Tìm kiếm hình mẫu thành công làm ngọn đuốc soi sáng

Để có thêm động lực và định hướng rõ ràng cho bản thân, tác giả gợi ý rằng người đọc có thể xây dựng cho riêng mình một hình mẫu thành công từ những câu chuyện về người thật, việc thật trong sách báo. Khi dành thời gian tìm hiểu về hành trình của họ, những khó khăn họ đã trải qua và cách họ vượt qua những thử thách đó, ta sẽ có thể biến kinh nghiệm của họ trở thành ngọn đuốc soi sáng cho con đường của chính mình.

Bên cạnh đó, người đọc còn có thể chọn một bức ảnh có ý nghĩa đặc biệt với mình để đặt câu hỏi khi nhìn bức ảnh đó rồi lắng nghe câu trả lời từ chính tâm thức bật ra. Bức ảnh ấy có thể là hình ảnh về mục tiêu ta muốn đạt được, về một giá trị sống mà ta trân trọng, hoặc đơn giản là một khoảnh khắc đẹp trong cuộc sống. Chẳng hạn, nếu người đọc muốn mua nhà nhưng chưa có đủ tài chính thì có thể chọn bức ảnh về một mái ấm khang trang để ngắm nhìn và tự đặt câu hỏi rằng mình phải làm gì để đạt được số tiền sở hữu căn nhà đó. Không phải lúc nào câu trả lời cũng đến ngay lập tức, nhưng việc cụ thể hóa mục tiêu bằng một hình ảnh rõ ràng sẽ giúp người đọc tăng cường ý chí nỗ lực.

Ngoài ra, niềm tin chính là nguồn động lực mạnh mẽ giúp mỗi người vượt qua mọi khó khăn và chinh phục mục tiêu. Trong Tư duy tích cực tạo thành công, có một công thức thường được lặp lại nhiều lần để người đọc ghi nhớ là: “Khi con người người nghĩ đến và tin tưởng vào điều gì, họ sẽ có thể đạt được điều đó với thái độ tích cực.” Đây cũng là một biện pháp tự truyền cảm hứng.

Hai mặt của tình thế bức bách: Thành công hay tội ác?

Tư duy tích cực tạo thành công nhấn mạnh tầm quan trọng của tính lương thiện trong hành trình chinh phục thành công. Cuốn sách khẳng định rằng thành công đích thực không chỉ dựa trên kết quả mà còn phải dựa trên phương tiện đạt được kết quả đó. Một người có thể đạt được thành công bằng mưu mô, thủ đoạn, nhưng đó chỉ là thành công giả tạo, thiếu bền vững và không mang lại hạnh phúc thực sự.

Ngoài ra, tác giả cũng bàn về vai trò của tình thế bức bách: nó như một con dao hai lưỡi, có thể đưa con người đến đỉnh cao thành công hoặc vực sâu tội ác. Tình thế bức bách là phép thử cho bản lĩnh, đạo đức và thái độ của mỗi cá nhân. Khi đó, thành công hay thất bại đều tùy thuộc vào thái độ:

Thái độ tích cực: Khi đối mặt với nghịch cảnh, người có thái độ tích cực sẽ biến nó thành cơ hội để học hỏi, rèn luyện và phát triển bản thân. Họ kiên trì nỗ lực, tìm kiếm giải pháp sáng tạo và không bao giờ bỏ cuộc. Nhờ vậy, họ có thể vượt qua mọi khó khăn và gặt hái thành công.

Thái độ tiêu cực: Ngược lại, người có thái độ tiêu cực sẽ dễ dàng gục ngã trước nghịch cảnh. Họ chìm trong lo âu, sợ hãi, nghi ngờ bản thân và tìm kiếm lối thoát bằng những hành vi sai trái. Hậu quả là họ đánh mất bản thân, vướng vào vòng xoáy tội ác và tự hủy hoại cuộc đời.

Từ đó, cuốn sách đưa ra hai công thức đơn giản nhưng đầy ý nghĩa:

Tình thế bức bách + Thái độ tích cực = Thành công
Tình thế bức bách + Thái độ tiêu cực = Tội ác.

Cân bằng cảm xúc, rèn luyện tư duy và đặt mục tiêu hiệu quả

Cảm xúc và lý trí đóng vai trò quan trọng trong cuộc sống, mỗi người cần học cách cân bằng hai yếu tố này để đưa ra những quyết định sáng suốt. Đôi khi, ta cũng nên lắng nghe tiếng nói con tim và hành động theo những gì mình mong muốn. Chẳng hạn, khi phải lựa chọn giữa một công việc ổn định và theo đuổi đam mê, ta cần cân nhắc kỹ lưỡng cả hai yếu tố cảm xúc và lý trí: ta thường dùng lý trí để đánh giá khả năng thực tế của bản thân, nhưng cũng đừng quên lắng nghe tiếng nói con tim.

Bên cạnh đó, tác giả cho rằng mỗi ngày, chúng ta chỉ cần dành 1% thời gian để nghiên cứu, suy nghĩ, lập kế hoạch là đã có nhiều cơ may tạo ra sự khác biệt để vươn đến thành công. Theo ước tính, một ngày có 1440 phút, 1% sẽ tương ứng với 14 phút. Trong 14 phút đó, nếu ta chú tâm suy nghĩ kế hoạch cho những gì mình muốn làm, ta sẽ dần hình thành được thói quen có thể suy nghĩ sáng tạo mọi lúc, mọi nơi: khi rửa chén, lúc ngồi trên xe bus, hay thậm chí là khi đang tắm.

Ngoài ra, đặt mục tiêu là bước đầu tiên và quan trọng nhất trên kế hoạch chinh phục thành công. Mục tiêu rõ ràng sẽ giúp bạn tập trung nỗ lực, đưa ra quyết định sáng suốt và duy trì động lực để đạt được ước mơ. Tuy nhiên, không phải ai cũng biết cách đặt mục tiêu hiệu quả. Dưới đây là bốn điều quan trọng cần ghi nhớ khi đặt mục tiêu:

1. Viết mục tiêu ra giấy: Khi viết mục tiêu ra giấy, bạn sẽ buộc bản thân phải suy nghĩ cẩn thận về những gì mình muốn đạt được. Việc này giúp bạn tập trung và ghi nhớ mục tiêu tốt hơn.

2. Đặt mốc thời gian: Mốc thời gian giúp bạn chia mục tiêu lớn thành những mục tiêu nhỏ hơn, dễ quản lý hơn. Việc này giúp bạn có động lực để hoàn thành từng bước và tiến đến mục tiêu cuối cùng.

3. Đặt tiêu chuẩn thật cao: Khi đặt tiêu chuẩn cao, bạn sẽ buộc bản thân phải nỗ lực hết mình và phát huy tiềm năng tối đa.

4. Đặt mục tiêu cao: Mục tiêu cao sẽ giúp bạn có tầm nhìn xa và thúc đẩy bạn không ngừng phát triển.

Nhìn chung, Tư duy tích cực tạo thành công đã mang đến cho người đọc những bài học quý giá về sức mạnh của tư duy tích cực trong việc gặt hái thành công và hạnh phúc. Hãy nhớ rằng, thành công không phải là đích đến mà là hành trình. Hành trình chinh phục thành công bắt đầu từ việc nuôi dưỡng tư duy tích cực. Ta cần tin tưởng vào bản thân và những điều kỳ diệu mà cuộc sống có thể mang lại. Từ đó, ước mơ sẽ thành hiện thực bằng chính những hành động mà ta lựa chọn ngay từ hôm nay.

Hoàng Đức Nhiên

Đọc bài viết

Phía sau trang sách

Tình yêu đích thực từ góc nhìn của Thiền sư Thích Nhất Hạnh

Published

on

Trong vô vàn những định nghĩa về tình yêu, quan điểm của Thiền sư Thích Nhất Hạnh về “tình yêu đích thực” được trình bày trong cuốn tiểu luận True Love đã mang đến một sự giản dị, mộc mạc nhưng lại ẩn chứa sức mạnh lay động tâm hồn sâu sắc.

Tình yêu là một trong những chủ đề muôn thuở của nhân loại, luôn ẩn chứa sức hút mãnh liệt và khơi gợi những cảm xúc dạt dào. Nhưng không phải ai cũng hiểu được bản chất của tình yêu. Trong True Love, Thiền sư Thích Nhất Hạnh đã kể lại câu chuyện Thiếu phụ Nam Xương, rồi từ đó rút ra một kết luận mà thoạt nghe sẽ có vẻ vô cùng đơn giản nhưng càng ngẫm nghĩ thì ta càng thấy sự đơn giản ấy chính là vẻ đẹp của minh triết.

Thông điệp ý nghĩa từ ba câu khẳng định trong tình yêu

Đối với thầy, câu chuyện Thiếu phụ Nam Xương có kết cuộc đau lòng là vì người chồng đã không chịu lắng nghe người vợ, anh cứ gạt phăng lời vợ nói, cơn nóng giận đã che mờ tình yêu và cả lí trí. Vợ anh cũng đã không cố gắng hơn để giải thích rõ ràng cho anh hiểu. Chính vì vậy, cả hai người đều không thực sự hiện diện khi ở trước mặt đối phương, họ ở đó nhưng không thực sự ở đó, mà ở trong khoảnh khắc khác, trong những chiều không gian khác. Bi kịch của họ đơn giản chỉ là như thế.

Từ đó, Thiền sư Thích Nhất Hạnh rút ra kết luận là tình yêu thực sự chỉ đơn giản nằm gói gọn trong ba câu sau đây: “Anh ở đây. Em ở đây. Và anh ở đây vì em.” (I’m here. You’re here. And I’m here for you.)

Câu khẳng định đầu tiên mang hàm ý rằng anh đang ở đây ngay giây phút này khi đối diện với em, bằng trăm phần trăm con người anh, không hề có sự tản mác, phân mảnh đi bất cứ nơi đâu. Một điều tưởng chừng đơn giản nhưng thực ra trong cuộc sống bộn bề lo toan này, việc một người có thể tập trung hoàn toàn tinh lực của mình khi đối diện trước một người mà không bị vướng bận tâm trí bởi điều gì khác cũng thật khó khăn.

Câu khẳng định thứ hai là sự tiếp nối ý từ câu đầu tiên. Anh ở đây, và em cũng đang ở đây. Anh ghi nhận sự tồn tại của em, em ghi nhận sự tồn tại của anh. Vì em cũng đang ở đây cùng anh trong giây phút này nên em không cô đơn, em không tản mác, em không phân mảnh.

Câu khẳng định cuối cùng là một sự quả quyết mạnh mẽ: Anh ở đây, anh dành hết trăm phần trăm sự tồn tại của mình ở đây là vì chính em, không vì ai khác cả. Vậy nên, em có thể yên tâm mà thổ lộ tất cả mọi điều với anh, vì trong giây phút này, hai ta đều cùng hiện diện.

Thông qua đó, ba câu khẳng định này có thể diễn dịch lại thành thông điệp phổ quát như sau:

“I’m here”: Khẳng định sự hiện diện trọn vẹn của bản thân, tập trung toàn bộ sự chú ý và tinh thần vào người mình yêu thương. Trong cuộc sống bận rộn, việc dành trọn vẹn tâm trí cho đối phương là điều không dễ dàng, nhưng lại vô cùng quan trọng để xây dựng một mối quan hệ bền vững.

“You’re here”: Ghi nhận sự tồn tại của đối phương, trân trọng và thấu hiểu cảm xúc, suy nghĩ của họ. Khi cả hai cùng “ở đây”, họ sẽ cảm nhận được sự kết nối sâu sắc, chia sẻ và đồng hành trong từng khoảnh khắc.

“And I’m here for you”: Thể hiện sự cam kết, dành trọn vẹn tình yêu và sự quan tâm cho người mình yêu thương. Lời khẳng định này mang đến sự an toàn, tin tưởng và là động lực để cả hai cùng vượt qua mọi khó khăn trong cuộc sống.

Ba câu khẳng định tưởng chừng đơn giản nhưng lại là chìa khóa cho một tình yêu đích thực. Khi cả hai cùng thực hiện được điều này, họ sẽ tạo dựng được một mối quan hệ bền chặt, hạnh phúc và viên mãn.

Chìa khóa cho một mối quan hệ tốt đẹp

Để thực sự “ở đây”, mỗi người cần học cách chánh niệm, tập trung vào hiện tại, gạt bỏ những lo toan, phiền muộn và dành trọn vẹn sự chú ý cho đối phương. Khi ta thực sự “ở đây”, ta sẽ cảm nhận được trọn vẹn vẻ đẹp của người mình yêu thương, thấu hiểu những cảm xúc và suy nghĩ của họ. Tình yêu đích thực không chỉ là những khoảnh khắc lãng mạn, mà còn là sự cam kết và hy sinh cho nhau. Khi yêu thương ai đó, ta sẵn sàng dành thời gian, tâm sức và cả những hy sinh để cùng nhau xây dựng hạnh phúc.

Giao tiếp là yếu tố quan trọng trong bất kỳ mối quan hệ nào. Lắng nghe cởi mở và thấu hiểu là cách để hai người kết nối tâm hồn, chia sẻ những cảm xúc, suy nghĩ và vun đắp tình cảm ngày càng sâu sắc.

Tình yêu đích thực không phải là điều viển vông hay khó kiếm tìm. Nó ẩn chứa trong chính những khoảnh khắc bình dị của cuộc sống, chỉ cần ta biết trân trọng và gìn giữ. Ba câu khẳng định của Thiền sư Thích Nhất Hạnh là lời nhắc nhở nhẹ nhàng nhưng sâu sắc về cách để vun đắp và nuôi dưỡng một tình yêu thương bền chặt, viên mãn.

Hoàng Đức Nhiên

Đọc bài viết

Cafe sáng