Trà chiều

Văn chương & Toán học: Vì sao chẳng dễ dàng chinh phục cả hai lĩnh vực?

Nhìn thoáng qua, toán và văn không có sự tương hỗ như những môn khác và cho đến nay chưa có ai thành công trong cả hai lĩnh vực, song vài lực từ bí ẩn đã kéo chúng lại với nhau. Vấn đề đặt ra là: Bức tường gạch đó bao hàm những gì; cái gì tạo nên lực từ kia?

Published

on

Nhà thơ người Pháp Paul Valéry đã từng bày tỏ niềm ngưỡng mộ lớn lao đối với toán học, rằng: “Tôi tôn thờ môn học tuyệt đẹp này và tôi chẳng hề bận tâm khi tình yêu của tôi mãi không được hồi đáp.” Valéry đâu phải cây bút duy nhất trao lòng nhiệt tâm ấy cho toán học – cũng như có nhiều kẻ si mê toán học trong thế giới văn chương, vì vậy tồn tại nhiều người yêu văn chương trong thế giới toán học dù bức tường gạch đồ sộ dường như chắn ngang giữa hai ngành. Nhìn thoáng qua, toán và văn không có sự tương hỗ như những môn khác và cho đến nay chưa có ai thành công trong cả hai lĩnh vực, song vài lực từ bí ẩn đã kéo chúng lại với nhau. Vấn đề đặt ra là: Bức tường gạch đó bao hàm những gì; cái gì tạo nên lực từ kia?

Toán học thường được phân loại là một môn khoa học, nhưng tôi không nghĩ nó chỉ có thế. Tôi thừa nhận rằng toán học gánh vác một phần các lĩnh vực của khoa học vật lý, và bản thân điều đó được củng cố bởi sự tương tác giữa chúng, tuy nhiên các khám phá toán học vẫn ra đời bất chấp khả năng ứng dụng hay tiện ích của chúng đối với thế giới vật lý. Toán học tiến hóa thuần túy cho chính mình, với đóng góp lớn nhất trong địa hạt này là những lý thuyết mà áp giá trị vào vẻ đẹp thông qua sự lô-gích. Một học thuyết được tạo ra cho các mục đích khác ngoài bản thân nó thì thiếu đi vẻ đẹp tự nhiên. Điều huyền diệu chính là khi một học thuyết vĩ đại sở hữu vẻ đẹp nội tại đã vượt qua chủ thể và tìm thấy sự khả dụng trong các lĩnh vực khác.

Toán học tiến hóa thuần túy cho chính mình, với đóng góp lớn nhất trong địa hạt này là những lý thuyết mà áp giá trị vào vẻ đẹp thông qua sự lô-gích.

Việc sử dụng ngôn từ để miêu tả cái chất thanh nhã cốt lõi của một định lý là bất khả thi. Điều này hết sức trừu tượng và phức tạp. Tôi chỉ có thể mô tả nó tựa như một khúc nhạc tuyệt hảo mà mỗi nốt nhạc không thể thay thế được hay như một bài thơ haiku trong đó chẳng âm tiết nào có thể đổi thay. Vẻ đẹp tôi đang nhắc tới trông giống như sức căng tinh tế gắn kết các khía cạnh của một tác phẩm nghệ thuật lại; một sự yên bình mỏng manh thắt chặt vẻ hoàn mỹ của nó. Và vì vậy cái lực từ đã hút nghệ thuật – và cũng chính là văn chương – về phía toán học chính là vẻ đẹp tôn quý trong lô-gích thuần túy của nó.

Gần ba mươi năm trước tôi đã viết một cuốn sách về những trải nghiệm của tôi khi sống ở Mỹ, và kể từ đó tôi có nhiều cơ hội làm việc cùng các chuyên gia văn học và viết những tiểu luận ngoài lề chuyên ngành của mình. Tôi cảm thấy thoải mái từ lần đầu đặt bút viết bởi tôi coi văn chương và toán học như những loại hình nghệ thuật tương đồng. Bên cạnh đó, lớn lên cùng với cha mẹ đều là nhà văn, từ lâu tôi đã nghĩ viết lách giống như là bản năng tự nhiên của con người. Nói ngắn gọn, tôi chưa từng nghĩ mình sẽ gặp thách thức. Thế nhưng trong quá trình viết tôi đã đương đầu với hàng đống trở ngại. Tôi bắt đầu nhận ra có những điểm khác biệt căn bản giữa toán học và văn chương. Thật khó để đối mặt với việc trở thành một nhà văn trong khi cũng muốn thành nhà toán học. Song viết lách cho tôi một phần thưởng: Tôi được tận tay trải nghiệm những gian truân mà cha mẹ đã bí mật đối mặt với tư cách nhà văn. Tôi bắt đầu đánh giá lại những khó khăn của mình trong tương quan với họ.

Khía cạnh khổ sở nhất khi trở thành nhà toán học là phải liên lục nghiền ngẫm một vấn đề mà không có bất kỳ tiến triển rõ ràng nào. Tôi có thể hiến mình cả ngày lẫn đêm cho bài toán trước mắt mà chẳng hề tìm ra cách giải trong nhiều tuần hoặc thậm chí vài tháng. Thời gian đầu nghiên cứu thường hay trôi đi mà không có sự trì trệ nào nghiêm trọng; suốt thời gian ấy tôi đi từ ý tưởng này đến ý tưởng khác. Nhưng một khi giếng ý tưởng đã cạn, tôi phải cam chịu sự kiệt lực đen tối nhất. Một sức ép vô hình đọng xuống người tôi; mối âu lo ấy làm tôi nghẹt thở. Có lần tôi gác lại mọi thứ trong gần sáu tháng để làm luận văn. Tôi ngày đêm ngẫm nghĩ về chuyện đó, ngay cả trong mơ. Cuối cùng tôi rời Tokyo rồi đi du lịch Gamagori, Inuyama, Kujukuri, và hồ Irako, nhưng mấy cái định kiến của tôi chẳng chịu buông tha. Nó lùng sục tôi khắp mọi nơi: tại nhà trọ, trong công viên, trên trường kỷ, trên lỗ châu mai một lâu đài cổ, bên bờ hồ, trên bãi biển,… Sau sáu tháng, tôi đổ bệnh. Tôi nhượng bộ thử thách rồi kết thúc hành trình của mình. Cuối cùng tôi chẳng có tiến triển gì và bị rút cạn sinh lực.

Song một nhà văn, ngồi suốt ngày đêm bên bàn làm việc sẽ tạo ra đôi chút tiến triển, một vài nét vẽ nguệch ngoạc trên giấy. Bất luận nhanh hay chậm, anh ta có thể nhận ra trang giấy từ từ ken đầy chữ nghĩa. Quá trình sáng tạo của anh ta trở nên hữu hình và nó an ủi anh; anh ta được khích lệ để tiếp tục. Cha tôi thường để lộ ra những biểu hiện đau khổ tột cùng, và đó là lúc ông không thể tự mình ngồi vào bàn làm việc, lúc ông không thể viết tiếp. Ông thiếu đi nguồn khích lệ nếu không cho ông nhìn thấy những bản thảo thô ráp của chính mình. Khi bắt đầu một cuốn tiểu thuyết mới, tâm trạng ông ấy tồi tệ trong hơn một tuần. Chỉ đến khi đã làm nóng người đủ để làm việc, dần dần ông sẽ trở lại với bản chất hòa nhã tự nhiên của chính ông.

Cha tôi thường hay nói rằng phần chật vật nhất của tác phẩm là đoạn mở đầu. Ông gọi nó là “cơn đau đẻ của sự sáng tạo.” Đối với các nhà toán học cũng vậy, phần đầu tiên là cam go nhất, khi ai đó phải chưng cất từ thứ chất lỏng của những ý nghĩ hỗn mang thành cốt lõi của một ý tưởng. Viết chuyên luận thì dễ dàng hơn. Ngay cả một nhà toán học sung mãn cũng dành không quá một tháng mỗi năm để viết tất cả các nghiên cứu của mình. Những gì chúng ta phải chịu đựng là một chuỗi không-bao-giờ-kết-thúc của “cơn đau đẻ.”

Toán học là công việc tất-cả-hoặc-không-có-gì: hoặc là người có thể chứng minh định lý hoặc không thể. Không có vùng xám. Người ta không thể “gần như chứng minh” hay “gần như giải quyết” bất cứ điều gì. Không được phép thỏa hiệp. Học thuyết trọn vẹn buộc phải miễn trừ hết những nhập nhằng. Không gì ngoài sự tuyệt đối – và do đó là cái đẹp – thứ bằng chứng có giá trị liên thành đối với toán học. Tuy nhiên trong văn chương, chẳng phải chuyện gì to tát khi mọi thứ được giải thích. Thực tế, không gian dành sức tưởng tượng của độc giả vẫn luôn bỏ ngỏ. Từ đó có thể nhận thấy rằng văn chương linh động hơn, bằng cách nào đó dễ xử lý hơn toán học. Thế nhưng tôi nghĩ rằng việc căn phòng ấy chứa bất cứ thứ gì ngoại trừ những điều xuất hiện trong câu chuyện có thể gây bất an cho nhà văn.

Toán học là công việc tất-cả-hoặc-không-có-gì: hoặc là người có thể chứng minh định lý hoặc không thể. Không có vùng xám.

Không nhà văn nào hoàn toàn tự tin vào câu chuyện của mình, bất luận đã bao nhiêu lần anh ta hiến dâng bản thân cho tác phẩm, bất luận anh ta sắp xếp và thay đổi nó bao nhiêu chăng nữa. Trường hợp của tôi, tôi không thể nào bàn giao bản thảo của mình cho biên tập viên trừ phi có ai đó khác rà soát lại trước. Người rà soát ấy thường là thành viên gia đình tôi, vì vậy khi đáng lý phải cảm thấy thư giãn, thì tôi cứ lo sợ bị phê bình vì chừa lại chút ít mập mờ trong phần nào đó. Tôi nhớ cha cũng lo lắng về những phản ứng ban đầu đối với thành quả của ông, đặc biệt suốt vài ngày đầu tiên sau khi ông nộp bản thảo, ngay cả khi ông đã trở thành một nhà văn có uy tín. Nhưng một khi biên tập viên đưa ra phán quyết tán thành, ông nhe răng cười như con nít, xóa tan mọi lo lắng, rồi nói, “Thấy chưa? Tôi đã viết nó đấy!” Đó chính là Jirō Nitta1!  

Trong toán học, không ai bảo đảm rằng chắc chắn bạn sẽ đạt được thành tựu nào đó sau một thời gian dài phấn đấu. Nếu như nỗ lực chứng minh định lý vuột ra khỏi khuôn khổ toán học hiện đại hoặc vượt quá nguồn lực toán học, thì nó sẽ không bao giờ được chứng minh, bất kể anh ta đầu tư biết bao công sức. Tệ hơn nữa là khi định lý mà anh ta dồn hết tâm huyết trong thời gian dài để chứng minh, cuối cùng lại sai lầm không thương tiếc. Nỗi lo về kết quả bấp bênh đó có thể dâng lên thành sự kinh hãi điếng người, dần dà nó hủy đi tham vọng của nhà toán học. Đỉnh điểm, anh ta phải chịu đựng áp lực từ giới học thuật. Một nhà toán học do đó phải là một người nhẫn nại và can đảm. Cá nhân tôi không phải khi nào cũng đủ sức chịu đựng nỗi khiếp đảm từ trong thâm tâm và áp lực đến từ bên ngoài, và buộc phải từ bỏ một số dự định trong quá khứ.

Tôi có biết một nhà toán học đã trải qua khó khăn rất lớn để tạo ra một tác phẩm thiên tài xuất chúng. Giáo sư S. hiện làm việc tại MIT2, song ông đã từng gắn bó với Đại học Michigan với tư cách là một trợ lý giáo sư. Khi ở Michigan, ông tự thách thức bản thân giải quyết một bài toán cổ điển đặc biệt khó, một bài toán đã bị bỏ hoang trong nhiều thập kỷ bởi các nhà toán học khác. Tâm huyết của ông ấy đối với bài toán lớn đến nỗi ông đã không viết được luận văn người ta trông mong ở mình và vì thế bị sa thải khỏi vị trí tại trường đại học. Nhưng không lâu sau đó, ông đã tìm ra một giải pháp đột phá cho bài toán này, một giải pháp ngoạn mục đến nỗi một số vấn đề liên quan cũng bắt đầu được giải quyết. Như thể sự im lặng tuyệt đối đã bị xáo động. Bằng thành quả của mình, Giáo sư S. được mời vào ghế giáo sư toàn thời gian tại MIT. Song đây là trường hợp hiếm hoi. Hầu hết các nhà toán học sẽ không đủ tự lực lẫn tự tin để mạo hiểm công việc vào một mục tiêu mơ hồ như vậy.

Mặt khác, nhà văn có mục tiêu rõ ràng hơn, miễn là họ cống hiến hết mình cho tác phẩm. Biết thế nên tôi có thể hoàn tất công việc trong chừng mực năng lực đủ đáp ứng và khích lệ bản thân. Chuyện là thế, tuy nhiên trong văn chương thời hạn là rào cản, nhất là khi viết cho tạp chí hay mục báo. Tính khí cha tôi thay đổi thất thường tùy vào việc ông đang viết tiểu thuyết cho chính mình hay cho một câu chuyện trên báo. Ông luôn tràn đầy nhiệt tình bất kể công việc là gì, song khí thế dường như khác nhau trong mỗi trường hợp: Ông bị thúc giục bởi sự cấp bách nội tại khi viết tiểu thuyết, nhưng lại cam kết với cái gì đó ngoài lề khi viết cho báo chí. Đôi khi chỉ đơn giản là ông không thể tiếp tục viết báo, ông ám ảnh, sợ hãi rằng bằng cách nào đó ông sẽ khiến tòa soạn thất vọng. Ngay cả gia đình cũng không xoa dịu được nỗi lo trong ông. Một cảnh tượng in sâu vào đầu tôi đó là khi cha tôi lên gác mà không nói lời nào. Quan sát bóng lưng ông trong bộ kimono cũ quá khổ, tôi học được rằng những nhà văn luôn luôn vật lộn với hạn chót; họ thà đón đầu còn hơn làm nô lệ cho chúng.

Đặc trưng định hình áp lực của một nhà toán học là nỗi lo sợ rằng anh ta sẽ chẳng tạo ra được thành quả gì, thậm chí sau khi đau “cơn đau đẻ.” Về phía nhà văn, đó là sức ép phải hoàn thành tác phẩm trong thời hạn nhất định. Điểm chung của cả hai phía là phải đấu tranh để được ngủ mà không âu lo. Khi bị ám ảnh bởi một bài toán, tôi giải nó cả khi tôi mơ. Đôi lúc cảm hứng lóe lên ập thẳng tới tôi đương lúc trên giường. Nhà toán học người Pháp Jules-Henri Poincaré3 từng kinh qua nhiều điều tương tự, và nghe nói hầu hết các ý tưởng đến với ông theo cách này được chứng minh là hợp lý. Không may thay, trường hợp của tôi, chín trên mười ý tưởng không đáng để theo đuổi. Cái còn lại kia, tuy thế, được sử dụng ngay tức khắc và thậm chí có thể mang lại lời giải đúng đắn. Thế là tôi luôn có một cuốn sổ ghi chú trên giường và với lấy chúng ngay khi lời thì thầm của ý tưởng lọt vào đầu tôi. Còn một lý do nữa cho việc này: nếu tôi không chuyển ý tưởng mới ra giấy, tôi sẽ không kiềm giữ được bản thân bình tĩnh và quay lại giấc ngủ.

Đặc trưng định hình áp lực của một nhà toán học là nỗi lo sợ rằng anh ta sẽ chẳng tạo ra được thành quả gì, thậm chí sau khi đau “cơn đau đẻ.” Về phía nhà văn, đó là sức ép phải hoàn thành tác phẩm trong thời hạn nhất định.

Lúc tôi đang ở giữa nghiệp viết, những dòng tôi viết ban ngày trở lại với tôi trong những giấc mơ. Nếu trong mơ tôi bắt gặp cách thức hoàn hảo để diễn tả một dòng mà tôi không thể với tới đương lúc tỉnh táo, tôi liền thức giấc và ghi chép. Đối với nghề viết lách, bảy trên mười ý tưởng đến với tôi trong mơ hóa ra lại tốt, một tỷ lệ khá hơn đáng kể so với số ý tưởng truyền cảm hứng toán học. Tôi không biết tại sao lại như vậy. Có lẽ những suy-nghĩ-trong-mơ không hàm chứa lô-gích mà là thứ cảm thức mỹ học thích hợp cho sáng tạo văn chương hơn so với toán học. Tuy nhiên, ta không thể lờ đi thực tế rằng một phần mười nguồn cảm hứng toán học xảy ra trong những nhà máy giấc mơ (hoặc mười phần mười trong trường hợp Poincaré.) Tôi muốn nói sự nhạy cảm thẩm mỹ là một tố chất trọng yếu trong toán học cũng tương tự như trong văn chương.

Có gia đình gồm những nhà văn và bản thân là nhà toán học, tôi nghĩ tôi ý thức tốt về những gì họ nói khi tôi bắt đầu bước chân vào cả hai lĩnh vực. Song tôi đã quá lạc quan. Mặc dù cả văn và toán đều liên quan đến sự sáng tạo và cả đánh giá vẻ đẹp lẫn sự hài hòa, phương pháp luận của chúng đối lập nhau. Toán học dựa trên lô-gích phổ quát được đeo đuổi bởi bản năng và tính nhạy cảm thẩm mỹ của nhà toán học, trong khi văn học đòi hỏi sự độc đáo và nhạy cảm với chữ nghĩa. Vì vậy, vài ngày sau khi làm việc với toán, tôi chẳng thể tạo ra bất cứ thứ văn nào, và ngược lại. Tôi cần chút thời gian để nhảy từ chế độ này sang chế độ khác và trong thời quá độ ấy, mọi thứ lặp đi lặp lại và tôi tiêu tốn hàng đống thời gian trong bứt rứt. Thật lãng phí thời gian tột độ, song tôi gần như chẳng có khả năng chiếm đóng cả hai địa hạt cùng lúc. Có lẽ chỉ mình tôi đổ lỗi cho cái hệ thống bất toàn ấy, nhưng tôi không nghĩ nó đơn giản như vậy.

Theo tôi, bản chất của mọi thứ văn chương, bất kể nó mang hình hài gì, là sự hiện thực hóa đời sống trần thế của chính ai đó. Không có ý niệm về cái chết, hầu như tất cả khổ đau, tuyệt vọng và cô đơn của chúng ta rồi sẽ tiêu vong. Nếu chúng ta là phượng hoàng với cuộc sống bất diệt, ta chẳng bao giờ trải qua chuỗi ngày đen tối hay trái tim tan vỡ, tuyệt nhiên ta cũng chẳng có khả năng vui mừng hay khoái cảm – tất cả chúng là những thành phần trọng yếu trong văn chương.

Văn chương bị ràng buộc sâu sắc với ý niệm về cái chết và các nhà văn chủ tâm lẫn vô thức thêu dệt sợi dây số mệnh con người vào câu chuyện của họ. Những kiệt tác như Genji MonogatariTurezuregusa và Oku-no-Hosomichi4 đều khảo cứu đời sống nhân gian sớm nở tối tàn. Việc ai đó có những nhận thức trần thế như vậy cũng được thấy trong văn học đương đại. Thực tế, với sự quan sát kỹ lưỡng, ngay cả những mô tả xuềnh xoàng nhất cũng tiết lộ sự thấu hiểu của nhà văn về đời người hữu hạn. Trong tiểu thuyết Takeda Shingen của mình, cha tôi đã viết nên một phân cảnh miêu tả cuộc hành binh của đội quân Takeda băng qua một cây cầu hướng tới khu vực Kanto. Khi đoàn quân đến được Kanto, một chiến binh nhà Takeda, kẻ trước đây chưa từng rời khỏi quê hương Koshu, lẩm bẩm, “Không có đá ở đây.” Một nhà phê bình ngợi ca đây là ví dụ về độ chính xác khoa học trong tả cảnh của nhà văn. Tôi nhớ cảm giác chán ngán gây ra bởi cái nhận xét đó. Tôi dám chắc cha tôi có nhiều hàm ý hơn là quan sát địa chất. Tôi cảm thấy ông muốn phác họa chiến binh như một người đàn ông bị sốc bởi nỗi nhớ quê mãnh liệt và bất chợt, gởi gắm con tim mình vuột xa khỏi cảnh vật xung quanh. Bình nguyên Kanto bằng phẳng khiến anh ta hoài niệm về sỏi đá vùng Koshu; anh nhớ ngọn núi, con sông, thung lũng, và rồi khi cơn gió lướt qua, ánh sáng chiếu rọi quê hương anh. Anh nhớ gia đình mình đã bỏ lại. Khoảnh khắc ấy, trí tưởng tượng của anh vượt xa việc so sánh hai dạng địa hình. Thực tế, người lính phải đối mặt với sự nhỏ bé, chóng tàn và quạnh hiu của đời mình tương phản với phẩm cách bất diệt của tự nhiên. Vài chữ nhỏ nhoi được một người lính thốt ra thật khéo truyền tải nỗi ám ảnh của tác giả về cái chết của chính mình.

Hãy tưởng tượng một xứ sở xa lạ trải dài bất tận trước mắt bạn, một quân đoàn khổng lồ những chiến binh diễu qua xứ ấy trên những con chiến mã, và một người lính giữa binh đoàn đó tự gói mình trong nỗi cô đơn. Với điều này, bạn dõi theo tiến trình quan sát của nhà văn: từ một cái nhìn xa xăm, chuyển vào chính diện, liền sau là một pô cận cảnh, và đạt đến một cái nhìn sâu sắc về mặt tâm lý. Theo cách ấy, cha tôi ngụ ý sự thức tỉnh triết học tinh tế ở một người lính vô danh. Ông có sở trường gợi lên nỗi u sầu, cảm thức Wabi5, và sự bình yên của cuộc đời bằng những cảnh quan đối nghịch hùng vĩ. Tôi tin rằng đó là những điều đánh vào trái tim độc giả.

Cả nhà văn lẫn nhà toán học đều khát khao sự vĩnh cữu, điểm khác biệt giữa họ là người trước mưu cầu nó trong cuộc đời chính mình trong khi kẻ sau tìm kiếm nó bên ngoài đời sống cá nhân riêng lẻ. Khi một nhà toán học khám phá chân lý phổ quát, anh ta buộc phải từ bỏ nội tâm hỗn loạn của mình. Chẳng nhà toán học nào lại tốn thời gian cho những ẩn ý đa cảm của đời người hữu hạn, tuy thế anh ta có thể đặt ra giả thuyết về tính vô hạn của chân lý. Các nhà toán học vượt lên trên thế giới; thời gian không dính dáng tới họ. Họ làm đầu óc thích ứng với cái trạng thái mà vượt quá những động lực không-thời gian của thế giới vật chất. Họ bùng cháy cùng lòng sùng kính cái trạng thái ấy; bằng không sẽ chẳng có chân lý nào được khám phá.

Hẳn là bây giờ bạn đã hiểu được lý do tại sao phải tốn quá nhiều thời gian để vượt qua cầu nối giữa toán và văn. Nó không chỉ liên quan đến kỹ thuật của từng lĩnh vực, mà là một sự chuyển đổi toàn diện về chất trong tâm hồn. Tôi vẫn chưa phải là bậc thầy chuyển đổi sao cho thật suôn sẻ. Thỉnh thoảng tôi thấy nghe nhạc giúp ích khi tôi dịch chuyển từ tư duy toán học sang lối suy nghĩ của một nhà văn. Nhưng không phải nhạc nào cũng làm được. Tôi cần cái gì đó giống như những bản dân ca ngày xưa chạm đến cảm xúc của mình hơn là những kiệt tác cổ điển của Bach hay Mozart. Tôi ước một thứ thuốc tiên cho sự biến đổi này, hoặc giá tôi là một nhẫn giả thần tốc chứ không phải là chú cừu vụng về, cứ nấn ná trên cây cầu nối giữa toán học và văn chương. Sau đó nữa, một phần trong tôi từ chối thừa nhận rằng có thể có thứ thuốc như vậy. Rốt cuộc, tôi vẫn ở trên cây cầu ấy, đi thế này hay bước thế kia, ngập ngừng giữa hai bên, chẳng đến được bờ sông phía nào. Tuy vậy, dường như tôi đang tận hưởng điều đó.

Hết.

Masahiko Fujiwara là nhà toán học và tiểu luận. Sinh ra ở Mãn Châu và lớn lên ở Tokyo, ông lấy bằng Tiến sĩ Toán học tại Đại học Tokyo. Sau khi làm việc tại Đại học Colorado và Đại học Cambridge, ông trở thành giáo sư toàn phần Đại học Ochanomizu, Tokyo. Fujiwara đã giành giải thưởng Câu lạc bộ tiểu luận Nihon cho tác phẩm đầu tay Wakaki Sugakusha no America năm 1977 và từ đó nhiều tác phẩm được xuất bản, bao gồm cả cuốn sách bán chạy nhất năm 2005 Kokka no Hinkaku với hơn hai triệu bản tiêu thụ tại Nhật. Cha ông – Jirō Nitta là tiểu thuyết gia đoạt giải Naoki và mẹ ông – Tei Fujiwara là một tác giả có sách bán chạy.

Chú thích:

  1. Tên người cha của tác giả.
  2. Học viện công nghệ Massachusetts, là một viện đại học nghiên cứu tư thục ở thành phố Cambridge, bang Massachusetts, Hoa Kỳ. MIT nổi tiếng nhờ hoạt động nghiên cứu và giáo dục trong các ngành khoa học vật lý, kỹ thuật, cũng như trong các ngành sinh học, kinh tế học, ngôn ngữ học, và quản lý.
  3. Là một nhà toán học, nhà vật lý lý thuyết, và là một triết gia người Pháp.
  4. Những tác phẩm văn học xuất sắc của Nhật Bản thời Edo.
  5. Wabi-sabi là một thuật ngữ đại diện cho thẩm mỹ Nhật Bản và một thế giới quan của văn hoá Nhật Bản, tập trung vào việc chấp nhận tính phù du và sự không hoàn hảo. Wabi ban đầu tham chiếu đến sự cô độc sống giữa thiên nhiên, xa khỏi xã hội con người; sabi mang nghĩa là “lạnh”, “nghiêng” hoặc “sự héo tàn”. Khoảng thế kỷ thứ 14, những ý nghĩa này bắt đầu thay đổi, mang hàm nghĩa tích cực hơn. Wabi hiện tại bao hàm sự tinh giản hoá, tươi mát hoặc tĩnh lặng một cách mộc mạc, hoặc sự sang trọng được giảm bớt đi, và có thể sử dụng với cả đối tượng tự nhiên và nhân tạo. Nó cũng có thể tham chiếu đến những đường nét lỗi hoặc dị thường phát sinh trong quá trình xây dựng, thứ tạo nên sự độc đáo và sang trọng cho đối tượng. Sabi là vẻ đẹp hoặc sự tĩnh lặng tới theo thời gian, khi sự tồn tại của đối tượng và sự vô thường của nó được chứng thức bởi lớp gỉ sét (hoặc lớp ngả màu do thời gian và không khí tác động) và lớp bên ngoài của nó, hoặc ở bất kì sửa chữa nào có thể nhìn thấy.

3V dịch.

Bài viết gốc được thực hiện bởi Masahiko Fujiwara, đăng tại Asymptote Journal.

Hình ảnh minh họa đầu bài được thực hiện bởi Kevin Kunstadt.


Xem tất cả những bài viết của 3V.


Những bài viết có cùng chủ đề


Trà chiều

Phim chiếu rạp dùng AI thay thế hoa hậu Thùy Tiên: Vô hồn hay cảm xúc?

Published

on

Chiều 4/8, buổi ra mắt phim "Chốt đơn!" diễn ra tại TP HCM. Tại sự kiện, ê-kíp chia sẻ: “Đạo diễn và nhà sản xuất đã tìm ra phương án để thay thế diễn viên chính, để bộ phim có thể được ra rạp. Chúng tôi đã sử dụng công nghệ AI để thay thế nữ chính”.

Trong phim, vai nữ chính Hoàng Linh (trước đó hoa hậu Thùy Tiên thể hiện) vẫn được giữ nguyên, song mặt của Thùy Tiên đã được can thiệp công nghệ AI để làm khác đi. Ngoài ra, ê-kíp cũng sử dụng giọng lồng tiếng để thay thế giọng của Thùy Tiên.

Dân mạng và những người đã xem phim đều tranh luận về việc AI trông giống hay khác Thùy Tiên

Song theo ghi nhận, vì can thiệp công nghệ AI nên hình ảnh của nữ chính tỏ ra thiếu tự nhiên. Biểu cảm nhân vật không mượt mà. Hạn chế này bộc lộ rất rõ ở những chuyển cảnh hay khi nhân vật thay đổi thái độ. Ngoài việc Hoàng Linh trông giống hay khác Thùy Tiên, hình ảnh AI còn gây tranh luận vì độ thật - giả, khả năng truyền tải cảm xúc, vô hồn hay gợi được sự đồng cảm? Đó cũng là lo ngại ban đầu của các đạo diễn cũng như nhiều khán giả.

Việc sử dụng AI để "đổi đầu", "thay mặt" diễn viên trong phim không chỉ đặt ra những tranh cãi về mặt kỹ thuật và cảm xúc, mà còn chạm đến những câu hỏi lớn hơn về đạo đức, quyền con người và vai trò của con người trong thế giới ngày càng bị chi phối bởi trí tuệ nhân tạo. Khi công nghệ có thể can thiệp vào hình ảnh, giọng nói, thậm chí là tạo ra một bản sao số hoàn hảo của một con người, ranh giới giữa thật và ảo đang trở nên mong manh hơn bao giờ hết.

Trong bối cảnh đó, việc tìm hiểu và trang bị kiến thức về AI không còn là điều xa vời dành riêng cho các chuyên gia công nghệ, mà đã trở thành nhu cầu thiết yếu với mọi cá nhân trong xã hội hiện đại. Hai cuốn sách dưới đây có thể là khởi đầu lý tưởng:

EIGHT - 8 Cách Làm Chủ Trí Thông Minh Nhân Tạo

Cuốn sách cung cấp một cái nhìn thực tế, rõ ràng và gần gũi về cách AI đang dần ảnh hưởng đến mọi khía cạnh của đời sống, từ công việc, giáo dục đến các mối quan hệ cá nhân. Lee Ji-sung đưa ra những lời khuyên giúp người đọc không bị tụt lại phía sau, đồng thời biết cách sử dụng AI như một công cụ hỗ trợ, chứ không phải đối thủ đáng sợ. Đây là cuốn sách dành cho bất kỳ ai đang cảm thấy lo lắng hoặc tò mò trước tốc độ phát triển chóng mặt của công nghệ.

2030 - Những Xu Hướng Lớn Sẽ Định Hình Thế Giới Tương Lai

Không chỉ dừng lại ở AI, 2030 phác họa một bức tranh toàn cảnh về tương lai: dân số già hóa, đô thị hoá cực đoan, phụ nữ nắm giữ vai trò kinh tế, v.v.. Xã hội ngày càng lớn, tiền kỹ thuật số thay thế tiền mặt, và tất nhiên AI hiện diện trong mọi mặt đời sống. Với góc nhìn liên ngành (xã hội học, kinh tế học, công nghệ), tác giả giúp người đọc hiểu được rằng thế giới đang chuyển động theo một logic mới, và ta cần chuẩn bị để thích nghi với logic ấy.

Đọc bài viết

Trà chiều

Sài Gòn – Hồi sinh từ ký ức, vươn mình đến tương lai

Từ ngày 1/7/2025, cái tên “Sài Gòn” chính thức trở lại trên bản đồ hành chính Việt Nam. Đây không phải là tên thành phố, mà là tên của một phường trung tâm thuộc TPHCM. Một sự thay đổi tưởng chừng kỹ thuật, hành chính, nhưng lại gợi lên những suy tư lớn hơn: về ký ức đô thị, về cách chúng ta gọi tên một vùng đất và về hướng đi của tương lai giữa dòng chảy đổi mới.

Published

on

Từ nay, người dân sẽ phải làm quen với những tên gọi mới, địa giới mới và cả cách quản lý mới. Nhưng giữa tất cả những đổi thay ấy, cái tên “Sài Gòn” không trở lại như một nỗi hoài niệm, mà như một sợi chỉ đỏ âm thầm nối liền ký ức và hiện tại: bền bỉ, lặng lẽ nhưng chưa từng đứt đoạn. Một cái tên chưa bao giờ mất đi trong tâm thức người dân, nay được trả về đúng vị trí của nó: chính danh và được ghi nhận.

Tên cũ hồi sinh, đô thị vươn mình

Không chỉ hiện diện trong ký ức của hàng triệu người dân, Sài Gòn còn là mạch nguồn cảm hứng bất tận cho nhiều thế hệ người viết, người sáng tác. Trong đó, có thể kể đến tác giả Phạm Công Luận - một cây bút gắn bó lâu năm với Phương Nam Book và được xem là người dành trọn tâm huyết để viết về Sài Gòn. Gần như mỗi năm, ông lại cho ra đời một tác phẩm mới, nhưng điều đặc biệt là dù đã viết rất nhiều năm, rất nhiều sách, ông vẫn luôn tìm ra được những góc nhìn mới, tinh tế và giàu cảm xúc về vùng đất này.

Từ Sài Gòn ngoảnh lại trăm năm, Hồi ức Phú Nhuận,đến Có một thời ở Chợ LớnMade in Sài Gòn - hai tác phẩm vừa được phát hành đầu năm nay, những trang viết của ông như một hành trình gom nhặt lại những ký ức xưa cũ về Sài Gòn. Chính những tác phẩm ấy là bằng chứng cho thấy: Sài Gòn không chỉ tồn tại trên bản đồ, mà sống động trong văn hóa, tâm tưởng và cả trong từng chi tiết đời sống hàng ngày của người dân.

Bởi vậy, khi cái tên “Sài Gòn” trở lại trong một vị trí hành chính cụ thể, đó không đơn thuần là sự phục dựng danh xưng, mà là sự thừa nhận giá trị văn hóa, tinh thần mà vùng đất này đã và đang mang trong mình. Nhưng câu chuyện không chỉ dừng ở ký ức hay bản sắc. Việc sáp nhập, thay đổi đơn vị hành chính lần này còn là một phần trong chiến lược cải tổ toàn diện, nhằm nâng cao hiệu quả quản lý, tinh gọn bộ máy và hướng đến một đô thị hiện đại.

Bởi vậy, mô hình hành chính mới không đơn thuần là tinh gọn bộ máy, mà còn là cơ hội để đẩy mạnh ứng dụng công nghệ, hiện đại hóa quản lý, nâng cao chất lượng dịch vụ công và cuộc sống người dân. Đây là một phần trong chiến lược phát triển bền vững, toàn diện và hội nhập sâu rộng mà Việt Nam đang theo đuổi. Và để chiến lược đó đi vào thực tế, không thể thiếu sự góp sức của mỗi cá nhân - những người đang sống, làm việc, học tập và trực tiếp cảm nhận từng thay đổi nhỏ nhất trong đời sống hàng ngày.

Đổi mới không chỉ đến từ chính sách, mà bắt đầu từ chính chúng ta - những người kiến tạo nên diện mạo mới cho đô thị mỗi ngày.

Thế hệ trẻ giữ vai trò tiên phong trong hành trình đổi mới

Đổi mới không phải là khẩu hiệu treo tường, mà là từng hành động cụ thể mỗi ngày: một sinh viên chọn học thêm kỹ năng mềm; một kỹ sư chủ động cập nhật công nghệ mới; một giáo viên thay đổi cách giảng dạy để học sinh dễ tiếp cận tri thức hơn. Con đường học vấn không chỉ là hành trang cá nhân, mà còn là cách mỗi người góp phần xây dựng quốc gia trong thời đại tri thức. Như lời Tổng Bí thư Tô Lâm đã nói: “Mỗi ngày làm việc là một ngày kiến tạo”. Và với người trẻ hôm nay, sự kiến tạo ấy chính là học tập, là tư duy phản biện, là sự dấn thân vào hành trình đổi mới - không chỉ để thay đổi bản thân, mà còn để thay đổi xã hội.

Những thay đổi ấy đang diễn ra ở khắp nơi: từ miền núi, hải đảo xa xôi đến các đô thị trung tâm hay những vùng sáp nhập mới. Và câu chuyện của Sài Gòn hôm nay - một địa danh cũ trở lại trong hình hài hành chính mới chỉ là một lát cắt trong bức tranh cải tổ rộng lớn mà cả nước đang cùng nhau vẽ nên.

Tên gọi có thể đổi. Địa giới có thể gộp. Nhưng khát vọng vươn lên, ý chí tự cường và tinh thần làm chủ vận mệnh thì vẫn còn nguyên vẹn, thậm chí mạnh mẽ hơn bao giờ hết.

Sài Gòn hôm nay đang bước vào một hành trình mới: hành trình của hiện đại, của tinh gọn, của đổi mới. Nhưng trên hết, đó là hành trình mà trong đó, người dân không chỉ là đối tượng của thay đổi, mà là chủ thể kiến tạo.

Một cái tên trở lại. Và cả một thời đại mới - bắt đầu.

Thùy Dương

Đọc bài viết

Trà chiều

Tết Đoan Ngọ ở Việt Nam có gì khác các nước đồng văn?

Published

on

Mỗi năm vào ngày mùng 5 tháng 5 âm lịch, Việt Nam và các nước đồng văn như Trung Quốc, Hàn Quốc và Nhật Bản lại cùng nhau chào đón một dịp lễ truyền thống mang đậm dấu ấn văn hóa phương Đông: Tết Đoan Ngọ. Dù tên gọi và nghi lễ có phần khác biệt, ngày lễ này đều gắn liền với ý nghĩa thanh lọc cơ thể, xua đuổi bệnh tật và bảo vệ sức khỏe trong thời khắc giao mùa quan trọng của năm. Từ bữa cơm "diệt sâu bọ" của người Việt, tục uống rượu hùng hoàng ở Trung Quốc, đến gội đầu và xông hơi bằng thảo dược ở Hàn Quốc; Tết Đoan Ngọ không chỉ phản ánh đời sống tâm linh mà còn cho thấy sự giao thoa và phát triển đa dạng của các nền văn hóa Á Đông.

Nguồn gốc và tục lệ Tết Đoan Ngọ ở Việt Nam

Ở nước ta, Tết Đoan Ngọ được dân gian gọi bằng một cái tên dân dã: Tết diệt sâu bọ vì người ta tin rằng khi ăn món đầu tiên trong ngày này thì sâu bọ, giun sán trong người sẽ bị chết hết. Theo nhà nghiên cứu văn hóa Trần Ngọc Thêm, ngày Tết này của Việt Nam có nguồn gốc chung với các dân tộc Bách Việt sinh sống ở khu vực Nam Trung Hoa và Bắc Đông Dương. Đây là vùng canh tác lúa nước lâu đời, nơi khí hậu mùa hè nóng bức ảnh hưởng xấu đến sức khỏe con người. Tuy nhiên, nhờ vào kinh nghiệm quan sát thời tiết để canh tác, người dân nơi đây đã hình thành nên Tết Đoan Ngọ như một nghi lễ nhằm thích ứng và tận dụng quy luật tự nhiên trong chu kỳ khí hậu hàng năm. 

Đặc biệt hơn, đây còn là ngày mang tính biểu tượng của ngày giỗ Quốc Mẫu Âu Cơ - ngày vô cùng quan trọng trong đời sống văn hóa tâm linh của mỗi người dân Việt. Ca dao ông cha ta có câu: Tháng Năm ngày tết Đoan Dương/ Là ngày giỗ Mẹ Việt Thường Văn Lang.  

Theo truyền thống của dân tộc Việt, người dân ăn tết Đoan Ngọ bằng sự cúng lễ. Tại các làng xã có lễ thần tại đình, đền; ở thôn, xóm có cúng tại miếu còn trong mỗi gia đình, mâm cỗ được dâng lên tổ tiên. Vì đây là thời điểm tiết trời nắng gắt nhất trong năm (Cực Âm – tiết Hạ chí), nên các món ăn thường là đồ nguội, mát mang tính hàn. Những món không thể thiếu trong mâm cỗ cúng Tết Đoan Ngọ ở khắp 3 miền là rượu nếp (cơm rượu) và trái cây. Trái cây được chọn có hình tròn như vải, mận (miền Nam gọi là mận bắc), hạt sen (làm chè). 

Ngoài ra, ẩm thực Tết Đoan Ngọ cũng có nhiều điểm khác nhau ở 3 miền. Miền Bắc thường có bánh gio trên bàn cúng, từ Thanh Hóa vào đến Huế thường nấu xôi ăn với thịt vịt. Người dân từ Đà Nẵng đến Quảng Ngãi thường cho trẻ nhỏ vào vườn hái quả ăn, một số ít gia đình nấu xôi chè cúng lễ. Trong khi đó, người nông dân miền Nam thường đúc bánh lọt, nấu chè trôi nước và xôi gấc cúng tổ tiên rồi cả nhà quây quần cùng nhau ăn. Với tư duy tiếp biến làm mới cách chế biến, trang trí, phong vị các món chay truyền thống cùng mong muốn giao thoa ẩm thực 3 miền, bạn có thể tham khảo công thức món chè trôi nước tam sắc trong cuốn Thanh tịnh mâm cỗ Việt của hai tác giả Hồ Đắc Thiếu Anh Nguyễn Hồ Tiếu Anh.

Nguồn gốc và tục lệ Tết Đoan Ngọ ở Trung Quốc 

Khác với Việt Nam, ý nghĩa ngày tết Đoan Ngọ của người Trung Hoa gắn với tích về ông Khuất Nguyên nước Sở cuối thời chiến quốc. Là một nhà thơ và chính trị gia nước Sở, ông nổi tiếng vì lòng yêu nước và tài văn chương. Sau khi bị vu cáo và thất sủng, ông sống trong đau khổ và sáng tác thiên "Ly Tao" thể hiện nỗi lòng. Những ngày cuối đời, ông bị đày đến Giang Nam, rồi trong tuyệt vọng, đã tự vẫn bằng cách ôm đá nhảy xuống sông Mịch La. Theo truyền thuyết ấy, hàng năm người ta tổ chức ngày mồng 5 tháng 5 là ngày Tết Đoan Ngọ để tưởng nhớ ông. 

Cũng theo tích trên, sau khi Khuất Nguyên trầm mình xuống sông Mịch La, người dân Trung Quốc xưa đã tổ chức chèo thuyền ra cứu ông nhưng không thành. Từ đó, truyền thống đua thuyền rồng vào ngày Tết Đoan Ngọ ra đời để tưởng niệm ông. Ngoài ra, người Trung Quốc còn giữ nhiều phong tục đặc trưng trong dịp lễ này như đeo túi thơm để xua đuổi tà ma, hái thuốc, hái trà và tổ chức lễ hội rước rồng ở một số vùng dân tộc thiểu số như người Mèo.

Hoạt động đua thuyền rồng trong ngày Tết Đoan Ngọ

Về ẩm thực, người Trung Quốc ăn bánh ú (zongzi) với nhiều loại nhân tùy vùng như thịt, đậu xanh, long nhãn, trứng muối hay bột dẻ…và uống rượu hùng hoàng - một loại rượu có pha khoáng chất màu vàng, được tin là có thể xua đuổi sâu bọ và tà khí.

Nguồn gốc và tục lệ ở Hàn Quốc 

Còn tại xứ sở kim chi, ngày Tết Đoan Ngọ được biết đến với tên gọi Dano (단오) hay Surinal (수릿날). Ở đây, “Suri” có nghĩa là “Thần”, là “cao”, tức là vị thần tối cao, ám chỉ mặt trời. Tết Đoan Ngọ báo cho mọi người biết ánh nắng chói chang của mùa hè sắp lan tỏa khắp nơi, cây cối hoa màu cũng sắp tới thời điểm sinh trưởng tốt tươi nhất trong năm. Người ta tổ chức các hoạt động ăn chơi nhằm tượng trưng cho sức mạnh và sự cường tráng, cầu nguyện cho mùa màng bội thu không bị sâu bệnh phá hoại.

Phong tục tập quán truyền thống tiêu biểu nhất của Hàn Quốc trong ngày Tết Đoan Ngọ là đấu vật truyền thống Ssireum. Trước kia, người giành chiến thắng trên sân đấu vật thường được thưởng một con bê. Vào ngày Tết Đoan Ngọ xa xưa, phụ nữ thường kéo nhau ra suối gội đầu bằng nước lá cỏ Thạch Dương Bồ, rồi chơi đánh đu. Đến cả các cô gái đài các giới thượng lưu ngày thường chỉ quanh quẩn trong dinh thự, nhưng tới Tết Đoan Ngọ cũng được cha mẹ cho phép ra ngoài ngắm cảnh.

Bánh Suritteok và Yaktteok là hai loại bánh truyền thống làm từ gạo, các loại hạt và lá cây được người Hàn thưởng thức trong ngày 5/5 này. Nếu như bánh Suritteok chỉ đơn giản là chiếc bánh ngải cứu hình bánh xe thì những chiếc bánh Yaktteok đa dạng hơn khá nhiều. Cũng được làm từ gạo không dính nấu chín nhưng không phải với lá ngải cứu mà với các loại hạt khác nhau và tạo thành những hình dáng phong phú.

Như vậy, không chỉ là dịp đánh dấu bước chuyển quan trọng trong chu kỳ mùa vụ và thời tiết, Tết Đoan ngọ còn là tấm gương phản chiếu bản sắc văn hóa riêng của các quốc gia Á Đông. Dù cùng chung cội nguồn từ nền văn minh nông nghiệp lúa nước và chịu ảnh hưởng của triết lý phương Đông, mỗi dân tộc lại sáng tạo nên những phong tục, nghi lễ mang màu sắc riêng. Việc tiếp nối và gìn giữ các giá trị này không chỉ giúp mỗi dân tộc lưu giữ ký ức văn hóa truyền thống, mà còn góp phần tạo nên sự đa dạng và sâu sắc trong di sản tinh thần chung của khu vực.

Hà Nhi

Đọc bài viết

Cafe sáng