Chuyện người cầm bút

Về thơ

Thơ với tôi là không khí của những buổi trưa ấy. Máy điều hòa chạy lặng lẽ, tĩnh tại và một ánh mắt dõi nhìn những dòng thơ. Thế giới rời rạc nhưng được kết nối.

Published

on

Tôi muốn viết về thơ vào những ngày đầu tiên của tuổi mới. Thực ra, tôi muốn viết về thơ vào những ngày cuối cùng của tuổi cũ. Chính xác hơn thì tôi muốn viết về thơ vào ngày 15.6 khi vừa viết xong hai bài thơ mới sau khoảng thời gian khá lâu không viết được dòng thơ nào thì ý tứ cho hai bài thơ ấy bất ngờ đến với tôi vào một ngày thứ sáu buồn bã, nhiều nước mắt và tôi viết một mạch là xong không những một mà hai bài. Điều này đối với tôi thật đặc biệt. Vì từ trước đến nay, tôi luôn viết thơ rất chậm, cũng giống như viết bất kì thứ gì khác, review về sách hay phim, truyện ngắn hay tiểu thuyết (đã quá lâu rồi tôi không viết tiểu thuyết, đã năm năm có chẵn). Tôi đã không thể viết được thơ một mạch trong vòng vài chục phút hay vài tiếng đồng hồ như bao người. Đa phần những bài thơ tôi viết nhanh thì mất một, hai ngày hay một tuần, lâu thì có khi mất cả tháng hoặc đến hai, ba tháng cũng có nếu tính từ lúc hình thành ý tưởng cho đến khi thận trọng viết một câu rồi hai câu, rồi gọt giũa lại câu từ, hình ảnh và rồi hoàn tất cả bài. Tôi viết thơ mà chậm như người ta viết truyện ngắn vậy, thế nên đến ngày nay, nhiều khi tôi vẫn còn phân vân không biết những gì mình viết ra có phải là thơ không, bởi lẽ dường như thơ là chỗ cho những khoảnh khắc và cảm xúc, hoặc suy tưởng trong những khoảnh khắc, một lát cắt thời gian ngắn gọn hơn là một dòng chảy chậm chạp, rề rà, trôi ngắc ngoải lâu lắc lâu lơ như thế. Càng ngày tôi càng làm mọi thứ một cách chậm chạp và trì hoãn. Chẳng hạn như những dòng này cũng là một ví dụ điển hình cho sự chậm chạp và trì hoãn ấy, lẽ ra tôi đã phải viết nó từ cách nay một tháng hơn, ngay lúc cảm xúc còn mãnh liệt, cuồng nhiệt, dữ dội, hân hoan và buồn bã rồi lại được giải phóng khỏi buồn bã sau khi viết hai bài thơ ấy. Nhưng tôi đã trì hoãn, để rồi bây giờ sau một tháng mới khởi sự viết lại, tôi giống như một người thấy cơm ngon, nóng hổi trước mặt lại không chịu ăn ngay, để khi nó nguội rồi lại dụng công hâm nóng mặc cho việc thưởng thức sự nguội lạnh đôi khi cũng là một cái hay, nó nhắc nhở ta về những điều đã mất nhưng không mất đi hoàn toàn đôi lúc còn tạo ra những cảm xúc ngang trái hơn là việc phải chịu cảnh nó vĩnh viễn không còn hiện diện nữa: cơm vẫn còn đó, nó không thay đổi về lượng, những phép tính về vật chất, nhưng nó thay đổi về tính, nó không còn nóng nữa, nó đã nguội, dù hâm nóng nó thì trạng thái nóng sau khi đã từng nguội lạnh vẫn rất khác so với cái nóng nguyên sơ ban đầu. Vậy nên, tôi không đoan chắc những gì tôi sắp viết dưới đây còn giữ được đầy đủ tinh chất của cái nóng trong hạt cơm vào tháng sáu ngày hôm ấy hay không; nhưng chí ít, tôi sẽ cố gắng tái tạo lại hình dạng vật chất của nó, hình dạng của bát cơm ấy, của thơ, của nỗi buồn, của bầu trời màu cam đỏ ngoài khung cửa sổ như muốn đốt cháy hết những tòa nhà nó bao trùm.

Vì sao tôi muốn viết về thơ?

Đơn giản vì tôi chợt nhận ra mình đã viết kha khá về sách, phim, nhạc, về việc viết, việc đọc, về ti tỉ những thứ vụn vặt tôi góp nhặt trong cuộc sống, nhưng hình như tôi chưa từng một lần nghiêm túc viết về thơ, về việc viết thơ của tôi, một lần trải lòng dông dài về nó thật sự theo kiểu cách của tôi. Trước đây, tôi chỉ viết vài ba phiến đoạn lắn ngắn về thơ vào khoảng năm 2012 khi đang buồn tình. Không hẳn là bây giờ, tôi đã có thêm những suy nghĩ mới, nghiêm túc hơn về thơ so với hồi đó. Có lẽ, tư duy trong thơ tôi vẫn vậy. Chỉ là đột nhiên tôi muốn hồi tưởng lại mối quan hệ giữa tôi và thơ, những gì chúng tôi đã trải qua cùng nhau để suy nghĩ về tương lai. Nếu không viết ra thì tôi sẽ khó lòng hệ thống được những suy nghĩ trong đầu mình.

Hồi học cấp hai và cấp ba, đôi lúc tôi cảm thấy mình thích viết thơ còn hơn cả truyện ngắn hay tiểu thuyết. Với suy nghĩ trẻ con khi đó thì lí do chỉ đơn giản là vì thơ viết nhanh, dễ, thiên về cảm xúc hơn so với hai thứ kia: vừa mất thời gian hơn, vừa khó hơn, vừa dụng công và tính toán nhiều hơn. Tôi vẫn còn nhớ vào những năm cuối cấp hai, tôi mua một loạt tuyển tập thơ in thành cuốn nhỏ do nhà xuất bản Đồng Nai làm, với những nhà thơ Việt Nam chủ yếu từ phong trào Thơ Mới. Tôi đọc say sưa và có những bài thích quá, còn cố gắng lẩm nhẩm đọc nhiều lần để học thuộc, không hiểu sao khi ấy tôi rất thích việc có thể đọc làu làu những bài thơ mình thích cho người khác nghe, tôi cũng thích hình ảnh một người tri thức hễ đụng đến nhà thơ nào là đều có thể trích dẫn ra vài câu thơ của nhà thơ đó, tôi cho rằng việc ấy rất ngầu và muốn mình cũng làm được. Thời ấy, tôi vẫn còn sến súa (có lẽ bây giờ vẫn vậy) và hay mơ mộng yêu đương nên một trong những bài thơ mà tôi thích nhất lúc chuyển giao giữa học cấp hai và cấp ba là bài Em gần gũi, em xa xôi của Tế Hanh. Không hiểu sao tôi lại thấy rất đồng cảm khi đọc bài này, có lẽ vì khi ấy tôi yêu đơn phương nhiều quá chăng.

Vào năm cấp ba, không nhớ rõ là lớp 10 hay 11, tôi làm thơ liên tục, kiểu thơ tình con cóc nhảy ra nhảy vào mà đến bây giờ đọc lại, tôi vẫn còn thấy xấu hổ, chỉ muốn độn thổ, không hiểu sao lúc ấy mình lại có thể viết như thế. Chính vì là thơ tình (có lẽ không thể gọi là thơ) nên tôi viết rất nhanh, chỉ cần có cảm xúc thì ào ào mấy chục phút là xong. Khi ấy, tôi không hề biết đến việc gọt giũa câu chữ, chọn từ cho thật kĩ, hình ảnh cho thật đắt, tôi chỉ viết theo cảm xúc và khi đọc lại thì sửa sao cho nghe có tí vần điệu là được. Tôi vẫn còn nhớ mình lấy một xấp giấy khổ A4 có kẻ sẵn hàng ngang đã ố vàng được kế thừa từ hai bà chị để viết lên đó những bài thơ tình sến súa bằng chữ viết tay nguệch ngoạc xấu xí của mình. Tôi viết có lẽ cũng khoảng vài chục bài với xấp giấy đó. Không phải khi ấy tôi không biết gõ máy tính, sự thực thì tôi đã viết thơ trên máy tính được một khoảng thời gian trước đó, nhưng tự tôi cũng nhận thấy chúng thật sự dở. Rồi tôi nghe nói rằng quay về viết tay có khi sẽ viết hay hơn vì khi viết tay, bạn được kết nối trực tiếp với những gì bạn viết, con chữ không phải đột nhiên hiện lên như nhảy xổ vào bạn trên màn hình trắng với con chuột nhấp nháy đằng sau, tôi nhớ rằng có ai đó đã nói viết tay như một dòng chảy, bạn tạo ra một dòng chảy xuyên suốt từ não xuống bàn tay, xuống những đầu ngón tay cầm bút, xuống cây bút, xuống ngòi bút, xuống những dòng mực, và những dòng mực truyền xuống những trang giấy, miên man, bất tận không ngừng. Chính sự liên tục và kết nối mật thiết này sẽ khiến cho bạn có khả năng xuất thần hơn khi viết bằng tay so với đánh máy, bạn dễ nảy ra những ý tưởng táo bạo hơn vì dòng chảy mạnh mẽ đó đôi khi sẽ cuốn trôi bạn đến những bến bờ bạn không thể ngờ tới. Vân vân và mây mây. Vì những lập luận hết sức thuyết phục đó, tôi cũng thử thay đổi một phen, trong vòng một, hai tháng viết liền tù tì mấy chục bài thơ bằng tay lên giấy. Tôi cố gắng không đọc lại chúng quá nhiều khi vừa viết xong để giữ cho bản thân sự bất ngờ trong tương lai khi đọc lại lúc nhập liệu vào máy tính. Và khi nhận thấy đã viết đủ nhiều, tôi quyết định đánh máy lại. Khoảnh khắc đó, tôi nhận ra một sự thật chua chát: dù đã viết tay, thơ tôi dở vẫn hoàn dở; thậm chí, có vẻ như vì chữ viết tay của tôi xấu quá, tôi khiến chính tôi mất đi cảm hứng, những bài thơ viết tay dường như còn dở tệ hơn so với những bài thơ đánh máy. Tôi vốn ghét sự xấu xí và nguệch ngoạc, tôi thích sự cẩn thận, chỉn chu, tươm tất, vì thế tôi ghét chữ viết của chính mình bởi nó luôn chỉ ra điều ngược lại. Vừa viết và vừa liên tục nhìn thấy thứ mình ghét mỗi lúc một xuất hiện dày đặc thêm có lẽ là nguyên nhân khiến tôi cảm thấy thơ viết tay của mình dở hơn thơ đánh máy. Chưa kể, vấn đề còn nhọc nhằn hơn khi giờ đây tôi phải rị mọ đọc lại những dòng chữ xấu xí của mình, cố đoán già đoán non ở một số chỗ xem tôi đã viết gì, và rồi phải nhập lại những dòng thơ chính mình cũng không thấy có gì thú vị. Nhưng tôi không thể bỏ phứt nó đi luôn mà không nhập, với bản tính cố hữu là một người thích sưu tầm, nhặt nhạnh, thích giữ lại hơn là vứt đi, tôi vẫn cứ gõ lại những gì chính tôi cũng không thích lắm, nỗi thất vọng của tôi, sự kì vọng hoài công. Trải nghiệm không mấy vui vẻ đó khiến tôi quyết định sau này, tôi sẽ đánh máy trong hầu hết các trường hợp có thể nếu không bị bắt buộc phải viết tay. Với nét chữ xấu xí của mình, tôi vừa khiến cho việc viết tay dở hơn đánh máy, vừa khiến cho mình mất thời gian nhiều hơn khi phải gõ lại những gì mình đã viết. Đương nhiên, đó chỉ là sự bao biện của tôi: viết dở là viết dở, chẳng liên quan gì đến tay hay máy, vấn đề nằm ở tư duy và trải nghiệm đọc, sự chịu khó tìm tòi học hỏi – đó là tất cả những thứ tôi đã thiếu vào năm cấp ba (bây giờ, cũng không hẳn là tôi đã có vẹn toàn những phẩm tính này mọi lúc, mọi nơi).

Tôi vẫn còn nhớ vào năm cấp hai, khi tôi cố gắng viết truyện, cố gắng viết sao cho hay và hấp dẫn, đồng thời cũng cố gắng cải thiện điểm văn lẹt đẹt năm phẩy mấy ở trường để không bị khống chế học sinh giỏi thì tôi đã rất thất vọng khi hai bà chị – những độc giả duy nhất của tôi lúc đó bảo truyện tôi chán, còn điểm văn trong trường thì chính thức biến tôi thành học sinh khá dù điểm trung bình các môn cộng lại là trên tám phẩy. Mọi thứ dường như khựng lại, ở yên một chỗ, không sao tiến triển được. Chị ba khi ấy khuyên tôi: “Muốn viết hay, trước hết em cần phải đọc nhiều đã. Không cần phải cố gắng viết quá nhiều đâu, cứ đọc nhiều rồi tự dưng một lúc nào đó sẽ viết hay.” Tôi biết lời khuyên này cũng chí lí (sau này thì tôi nhận ra rằng nó quá chính xác, đến nỗi gần như một thứ chân lí), nhưng không hiểu sao đứa tôi lúc đó lại không chịu nghe theo. Tôi đã ham viết hơn ham đọc. Tôi nhớ ngày ấy mình có thích một ca sĩ nào đó, và người ấy có nói câu này (chẳng biết có phải là Đàm Vĩnh Hưng không): “Hát hay không bằng hay hát.” Thế là tôi cũng đem câu ấy áp dụng y hệt vào việc viết: “Viết hay không bằng hay viết.” Đó giống như câu thần chú của tôi mỗi lần tôi buồn vì bị điểm văn kém, mỗi lần tôi nản lòng không muốn viết truyện nữa khi về nhà sau những giờ học hay trong suốt ba tháng hè lủi thủi một mình. Tôi đã niệm câu thần chú đó để trấn an mình, để tiếp tục viết những câu chuyện cứ đè nén trong đầu, những câu chuyện mà tôi nghĩ mình không thể không viết ra (ngày nay, khi đọc lại những truyện tôi đã viết hồi cấp hai, cấp ba và thậm chí là cấp một, tôi cảm thấy rất xấu hổ, tôi sẽ chỉ giữ lại nó cho riêng mình như một tập album lưu lại những hình ảnh về đời sống văn chương đã xa xưa của tôi). Nhưng đương nhiên, kì tích không thể xảy ra ngay trong những năm cấp ba ấy chỉ vì tôi cố gắng viết nhiều, cứ cắm đầu cắm cổ mà viết trong khi chẳng chịu đọc gì, chất dinh dưỡng nạp vào không đủ thì những gì xuất ra làm sao thơm ngon được. Giá mà lúc ấy, tôi có thể thay câu: “Viết hay không bằng hay viết” thành “Viết hay không bằng hay đọc” sớm hơn. Vào những năm đại học, khi tôi cố gắng dành thời gian để đọc nhiều hơn, kiềm nén ham muốn viết thì khi viết trở lại, tôi thấy kết quả thay đổi rõ rệt. Sự thay đổi đó đến với tôi thật bất ngờ. Tôi bỏ viết hẳn năm đầu đại học chỉ để đọc, rồi khi so sánh những gì mình vừa viết với những gì đã viết một năm trước đó, tôi gần như không tin được là lối viết của mình đã thay đổi nhiều như thế. Tôi có cảm giác giống như một kì tích, giống như một năm đã qua không hề tồn tại, nó chỉ là cái chớp mắt, đêm trước tôi vẫn còn viết rất ngô nghê, ngủ một giấc tỉnh dậy và thử viết thì chợt nhận ra sự ngô nghê đó đã bớt đi chút ít, theo một cách không ngờ tới, tôi bỗng dưng biết được mình sẽ viết như thế nào, sắp xếp câu chữ ra sao. Nhưng dù có cảm giác như thế, tôi biết nó không phải là một kì tích, nó là sự hồi đáp của văn chương khi tôi bỏ ra đủ cố gắng cần phải có để bước qua giai đoạn mới. Tôi nhận ra rằng cũng giống như viết, khi bạn đọc, thời gian trôi qua rất nhanh. Việc đọc dường như vừa kéo dài vừa rút ngắn lại dòng thời gian tự nhiên.

Chuyện ít đọc tạo ra một cục diện dở tệ với tôi những năm trung học: viết văn trong trường điểm kém, viết truyện dở và đương nhiên là viết thơ cũng dở. Việc chỉ đọc những nhà thơ tình viết theo thể thơ tự do trong phong trào Thơ Mới khiến định nghĩa của tôi về thơ bị bó hẹp đi rất nhiều. Tôi không biết cách triển khai một bài thơ như thế nào ngoài việc dùng thật nhiều tính từ mĩ miều để miêu tả cảm xúc rồi cường điệu nó lên. Đương nhiên, đến ngày nay tôi vẫn không cho rằng phong cách của Thơ Mới là như vậy. Chỉ đơn giản là lúc đó tôi không biết làm một bài thơ cũng cần chút tư duy lí trí, một ý nghĩ làm nền để bài thơ có thể đứng vững – hoặc có thể thơ không cần đứng vững, nó có thể điên cuồng nghiêng ngả chuệch choạc như một người lướt khướt say nhưng lối viết của tôi luôn cần giữ lại chút tỉnh táo, tôi không thể hoàn toàn điên nên khi chỉ viết theo cảm xúc thuần nhất, thơ của tôi dễ bị rơi vào trạng thái sến một cách vô duyên. Vào năm đầu đại học, sau khi dành hẳn một năm đọc sách (chỉ truyện ngắn và tiểu thuyết), tôi gần như bỏ hẳn viết thơ trong ba năm: 2008, 2009, 2010. Đơn giản vì khi ấy, truyện ngắn và tiểu thuyết khiến tôi thích thú hơn, tôi vẫn không đọc thơ đủ nhiều để biết cách viết một bài thơ.

Tôi không muốn viết chi tiết về năm 2011 dù chính năm ấy đã tạo ra sự biến chuyển lớn trong cách suy nghĩ của tôi về thơ, là năm tôi đã viết ra được một số bài thơ dù chỉ đếm trên đầu ngón tay nhưng sau này tôi không có cảm giác xấu hổ khi đọc lại. Đó là năm tôi đã gặp em. Trước khi gặp em, như một cơ duyên, tôi đã đọc hết toàn bộ khoảng trăm bài thơ em viết được đăng trên mạng. Nếu không gặp em năm đó, tôi nghĩ mình đã bỏ hẳn thơ vì trong suốt ba năm chỉ tập trung vào truyện ngắn và tiểu thuyết, tôi nhận thấy thơ không thú vị bằng hai thứ kia bởi tôi vẫn không biết cách triển khai thơ khác đi. Tôi đã nghĩ thơ không thật sự phù hợp với nhịp sống và cách tư duy của tôi – đến bây giờ tôi vẫn cho là như vậy. Nhưng mùa hè năm ấy, em đã chỉ tôi lối để thỉnh thoảng bước vào thơ, nhìn ngắm khung cảnh đẹp đẽ nơi ấy bằng Wislawa Szymborska, Joseph Brodsky, Charles Bukowski… và bằng chính em. Bỗng dưng tôi biết cách viết một bài thơ như thế nào dù việc ấy chỉ xảy ra đôi khi.

Năm 2012 có lẽ là năm tôi đọc thơ nhiều nhất tính cả đến thời điểm hiện tại. Đó là lúc em đã bỏ đi. Sau những trận khóc vào sáng sớm khi vừa tỉnh dậy, sau những lần cầu nguyện được gặp em trong mơ mỗi tối trước khi ngủ, đến tháng chín năm ấy, tôi quyết định gạt đi những ủ rũ tiêu cực để tìm em trong thơ, bằng cách đọc thơ theo tên tác giả từ A – Z như em đã có lần nói rằng đó là cách em đọc. Tôi tìm em thật tích cực như thế cũng là để lần cuối cùng chia tay em thật tích cực trong tư tưởng. Tôi vẫn còn nhớ cảm giác khi ấy, tôi tranh thủ đọc thơ vào những buổi trưa tĩnh lặng khi đèn đã tắt, khi mọi người đã ngủ, một không khí không khác gì buổi đêm được tạo dựng trong phòng. Thơ với tôi là không khí của những buổi trưa ấy. Máy điều hòa chạy lặng lẽ, tĩnh tại và một ánh mắt dõi nhìn những dòng thơ. Thế giới rời rạc nhưng được kết nối. Và quả thực, khi đọc nhiều ta có thể viết nhiều. Đó là khoảng thời gian tôi đã làm được điều tưởng chừng không thể: viết ba mươi bài thơ trong vòng một tháng. Đến nay, vẫn chưa khi nào tôi viết được thơ nhiều như thế.

Trong một ngày tháng sáu năm 2018, tôi nằm trên băng ghế dựng tạm từ ba chiếc ghế rời, tắt hết đèn vào lúc năm rưỡi hơn, dõi mắt nhìn ra khung cửa với bầu trời xanh vương chút xám, tiếng mưa rơi xối xả bên ngoài làm âm thanh nền cho cảnh tượng ấy. Tôi suy nghĩ về thơ trong sự cô tịch bình yên đó. Thế giới như đang phân mảnh khi tôi nằm trên ba chiếc ghế rời, ngoài kia là tiếng mưa rơi. Bỗng nhiên tôi có cảm giác thơ chính là như thế, là cảnh tượng này, không gian này, thời gian này, là tôi đang nằm đây. Thơ là một dòng chảy kết nối tất cả sự rời rạc lại với nhau. Như căn phòng những buổi trưa ấy. Như căn phòng buổi chiều mưa này. Nhưng không phải theo phương pháp cơ học. Cũng không phải theo cơ cấu cắt ghép như một môn thủ công nào đó. Và khả thể mới do thơ tạo ra từ những mảnh vụn cũng không hề vững chãi và thực tế, cũng không có tham vọng vững chãi hay thậm chí là trường tồn. Nó chờ đợi để tiếp tục được phân mảnh và tạo ra những mối liên kết khác: như cách những hạt mưa rơi độc lập nhưng hòa quyện vào nhau, như những chiếc ghế tuy có vẻ là cố định nhưng vị trí của chúng chỉ là tạm bợ, người ta có thể dễ dàng dịch chuyển chúng đến bất cứ nơi đâu, kết hợp chúng với bất cứ thứ gì để tạo ra những ngữ cảnh mới, những cách hiểu mới cho một cái ghế. Thơ cũng giống như thế. Nó ở đó nhưng không ở đó. Người ta thường nói một nửa sự thật không phải là sự thật, một nửa tình yêu không phải là tình yêu. Nhưng với tôi, một nửa thơ thì vẫn là thơ. Bởi lẽ khác với những thứ kia – những thứ đòi hỏi một sự vẹn toàn thì mới đích thực là nó, thơ chối bỏ sự toàn bích như một thể thống nhất. Bạn chỉ có thể nắm một phần và rồi hình dung thể thống nhất của nó theo cách nghĩ của bạn. Hình dáng một bài thơ tùy biến trong đầu mỗi người theo cách như thế. Chính sự nửa vời ấy là vẻ đẹp của thơ. Vẻ đẹp của nỗi mơ hồ mênh mông xa vắng.

Trong buổi chiều mưa đơn độc tưởng chừng như vô tận ấy, khi nằm trên những chiếc ghế rời và ngước nhìn bầu trời xanh xám ngoài kia, tôi đã viết những dòng-có-lẽ-là-thơ này:

“tôi thu mình trong màu xanh ô cửa sổ
nằm trên ba chiếc ghế xếp cạnh nhau
giang sơn nhỏ hình thành khi ngoài kia
tiếng mưa rơi tựa sóng vỗ
căn phòng này sẽ trôi cùng tôi đến đâu
giữa thành phố mười triệu dân này”

Vũ Lập Nhật

Click to comment

Viết bình luận

Your email address will not be published. Required fields are marked *

Chuyện người cầm bút

Nguyễn Hoàng Mai: “Sứ đoàn Iwakura” là duyên lành của tôi với Phương Nam Book

Khi dịch sách, tôi đã học hỏi được nhiều về sự dẫn dắt, sắp xếp bố cục logic của Ian Nish – một chuyên gia, nhà nghiên cứu lịch sử người Anh – người đã dành phần lớn cuộc đời mình để cống hiến cho việc nghiên cứu lịch sử quan hệ ngoại giao của Nhật Bản.

Published

on

By

Sứ đoàn Iwakura là tác phẩm nghiên cứu về chuyến du khảo nhằm canh tân Nhật Bản thời Minh Trị dưới góc nhìn của người phương Tây. Để giúp độc giả hiểu rõ hơn về Sứ đoàn Iwakura, Bookish đã có cuộc phỏng vấn với nhà văn Nguyễn Hoàng Mai – đồng dịch giả của quyển sách.  

Nguyễn Hoàng Mai là tác giả của hai tác phẩm đầy cảm xúc về tuổi trẻ: Đung đưa trên những đám mây (tiểu thuyết, 2018), Bây giờ mình đi đâu (tập truyện ngắn, 2019). Hiện nay, cô đang sinh sống và làm việc tại Tokyo. Tuy đã xa Việt Nam nhiều năm, Hoàng Mai vẫn đọc và thường xuyên theo dõi tình hình văn chương nước nhà. Sứ đoàn Iwakura là tác phẩm dịch thuật đầu tiên của Nguyễn Hoàng Mai được Phương Nam Book xuất bản.

Những tác phẩm văn học của Nguyễn Hoàng Mai thường có chủ đề tập trung vào nỗi cô đơn, tình yêu, suy tư về cuộc đời của người trẻ; vậy nguyên nhân nào khiến bạn quyết định dịch tác phẩm Sứ đoàn Iwakura do học giả Ian Nish biên soạn – đặc biệt là khi tác phẩm sử học này lại có sự khác biệt khá xa với chủ đề bạn thường sáng tác trong văn học?

Năm 2018, tôi vẫn là nghiên cứu sinh thuộc trường Đại học Soka (Soka University, Tokyo, Nhật Bản) khi đó vừa hoàn thành xong tập truyện mới, đang trong giai đoạn “giải lao”. Thời điểm ấy, tôi đã may mắn được một biên tập viên của Phương Nam Book mời tham gia dịch thử những cuốn sách sẽ ra mắt trong đợt kỷ niệm Minh Trị Duy Tân 150 năm.

Trong những cuốn sách tôi được giới thiệu, có tác phẩm Sứ đoàn Iwakura do học giả Ian Nish biên soạn. Thật trùng hợp, tôi cũng đang nghiên cứu về văn học thời kỳ Minh Trị, có tìm hiểu về Sứ đoàn Iwakura. Về chuyến đi lịch sử này, vốn được xem như dấu mốc quan trọng trong công cuộc Duy Tân Minh Trị, thường được ví như chuyến du hành của Columbus hay “Tây du ký” thời hiện đại để tìm hiểu, quan sát thế giới mới. Những nhà tri thức tiêu biểu thời Minh Trị đã vượt biển ra đi với sứ mệnh vẽ nên Nhật Bản, cùng vận mệnh Châu Á tương lai. Sau khi tìm hiểu, tham khảo ý kiến từ các giáo sư ở trường đang học, tôi càng chắc hơn về những giá trị đặc biệt cuốn sách sẽ mang lại cho độc giả Việt Nam.

Là một người viết trẻ, tôi vẫn đi trên con đường sáng tác tiểu thuyết, truyện ngắn hư cấu riêng. Nhưng thời điểm ấy, với những lý do như vậy, tôi đã cố gắng để không bỏ lỡ “duyên lành” được góp phần chuyển ngữ cuốn sách đặc biệt như thế.

Hoàng Mai dịch Sứ đoàn Iwakura từ tiếng Anh hay tiếng Nhật? Mai có thể chia sẻ một chút về quá trình dịch và hoàn thành cuốn sách để độc giả hiểu hơn được không?

Sứ đoàn Iwakura dịch từ nguyên tác tiếng Anh The Iwakura Mission in America & Europe: A New Assessment của học giả người Anh Ian Nish, với đóng góp của các học giả khác. Tôi cùng Nguyên Tâm chuyển ngữ từ tiếng Anh, đồng thời tham khảo các nguồn tài liệu từ tiếng Nhật. Trong quá trình dịch, đôi lúc tôi gặp khó khăn, thiếu tự tin, bởi những từ ngữ mang tính học thuật, khi đó tôi đã cố gắng đối chiếu giữa cả bản tiếng Anh lẫn tiếng Nhật, tham khảo thêm lời giải đáp từ những giáo sư trong trường, cũng như tham khảo thêm tài liệu từ những nguồn khác để tìm được cách dịch phù hợp. Tôi và đồng dịch giả đã trao đổi, thống nhất những thuật ngữ, để bảo đảm nội dung cuốn sách được mạch lạc.

Vì dịch covid, việc ra mắt sách chậm đến 3 năm nhưng cũng vừa hay đúng vào dịp Nhật Bản –  Việt Nam kỷ niệm 50 năm quan hệ ngoại giao và 150 năm chuyến đi của Sứ đoàn Iwakura. Trộm nghĩ, cũng giống như cái duyên, cái kết đẹp cho quá trình cố gắng nỗ lực của nhiều người tâm huyết với lịch sử thời Minh Trị vậy. Qua đây tôi cũng cảm ơn các biên tập viên giàu kinh nghiệm của Phương Nam Book, đặc biệt là anh Huỳnh Duy Lộc, đã góp phần đưa cuốn sách đến tay bạn đọc một cách chỉn chu nhất.

Sau khi dịch Sứ đoàn Iwakura, với những hiểu biết cặn kẽ hơn về thời Minh Trị, Mai có hứng thú sáng tác thể loại văn học dã sử nói chung, cũng như về thời Minh Trị nói riêng không?

Tôi thích lịch sử Nhật Bản cũng như lịch sử Việt Nam, thế giới nói chung. Nghiên cứu về lịch sử là tìm về những bài học, những giá trị phục vụ cho hiện tại, vẽ nên tương lai.

Lịch sử nước Nhật nói chung và lịch sử thời Minh Trị nói riêng còn nhiều điều để lật lại, để khai thác. Lịch sử Việt Nam cũng có những câu chuyện rất hay. Từ nhỏ, tôi đã thích những câu chuyện dã sử có đan xen những yếu tố huyền ảo, không chỉ về tình yêu mà còn mang lại ý nghĩa thời đại sâu sắc. Sau khi dịch cuốn Sứ đoàn Iwakura, tôi vẫn suy nghĩ, tìm hiểu về đề tài ấy.

Sứ đoàn Iwakura là tác phẩm đầu tiên mà Mai thực hiện công việc chuyển ngữ sau một thời gian dài sáng tác văn học. Từ việc dịch, bạn có suy tư gì về việc viết trong quá trình làm việc với tác phẩm này không? 

Tôi nghĩ, sáng tác văn học là một công việc cô đơn, cần sự đào sâu vào bản ngã, thế giới của chính mình, còn làm một dịch giả thì không thể thỏa mãn bản ngã của người dịch mà cần sự chuẩn xác, tính cẩn trọng cao. Tuy nhiên, viết văn, dịch sách lại gặp nhau ở điểm chung: cần sự uyển chuyển trong câu từ tiếng Việt. Để có được điều này, dịch giả phải không ngừng học hỏi, bổ sung vốn từ vựng, trong quá trình chuyển ngữ phải lựa chọn được những từ ngữ sao cho phù hợp nhất.

Khi dịch sách, tôi đã học hỏi được nhiều về sự dẫn dắt, sắp xếp bố cục logic của Ian Nish – một chuyên gia, nhà nghiên cứu lịch sử người Anh – người đã dành phần lớn cuộc đời mình để cống hiến cho việc nghiên cứu lịch sử quan hệ ngoại giao của Nhật Bản.

Thời gian tới, Mai có dự định tiếp tục dịch sách không? Mai có thể chia sẻ những dự định sắp tới của mình trên con đường viết lách?

Sau khi thử sức với đề tài nghiên cứu lịch sử, thì tiếp theo tôi mong muốn được dịch những cuốn sách thể loại sở trường của mình là: tiểu thuyết, truyện ngắn, mong được giới thiệu những tác phẩm đoạt giải thưởng uy tín của văn học Nhật như giải Akutagawa, Naoki… đến với độc giả.

Tôi cũng đang trong quá trình tự trau dồi vốn ngoại ngữ, tiếp thu nhiều nguồn tác phẩm, tư liệu văn học nước ngoài để có thể viết những cuốn sách hay nhất trong khả năng mình. Hiện tại tôi đang viết một cuốn sách với chủ đề âm nhạc đường phố cùng với một người bạn thuộc thế hệ Gen Z cũng là ca sĩ nhạc sĩ, và một cuốn sách về chữa lành tâm trí. Hy vọng những dự án này sẽ hoàn thành tốt đẹp, có duyên được ra mắt bạn đọc trong thời gian tới.

Cảm ơn Mai đã dành thời gian trò chuyện với Bookish, chúc bạn sẽ phát triển hơn nữa trong tương lai.

Đọc bài viết

Chuyện người cầm bút

Jon Fosse: “Bản thân văn học biết nhiều thứ hơn lý thuyết văn học”

Published

on

By

Jon Fosse

Jon Fosse, 64 tuổi, đã trở thành chủ nhân mới nhất của giải Nobel Văn chương vì “những vở kịch và các áng văn giúp cất lên tiếng nói cho những điều không thể nói ra”. Cuộc phỏng vấn sau đây được đăng trên The New Yorker vào năm 2022, xoay quanh các cuốn tiểu thuyết, những tác phẩm kịch và công việc dịch thuật của nhà văn người Na Uy.

Giải Nobel Văn học 2023 đã được trao cho nhà văn người Na Uy Jon Fosse.

Dễ thấy yếu tố tôn giáo tràn ngập trong các tác phẩm của ông. Điều đó và văn học đã gặp được nhau như thế nào?

Tôi đã có một bước ngoặt lớn trong cuộc đời mình liên quan đến việc bước vào những điều chưa thể biết trước. Tôi là người vô thần, nhưng tôi không thể giải thích điều gì xảy ra khi mà tôi viết, hoặc là điều gì khiến nó xảy ra, nó đến từ đâu? Tôi không thể biết. Ta luôn có thể giải thích não bộ một cách khoa học, nhưng lại bất khả để hiểu động cơ, tinh thần của nó. Đó là một cái gì đó khác. Bản thân văn học biết nhiều thứ hơn lý thuyết văn học.

Asle trong bộ 7 cuốn Septology của tôi cũng nghĩ điều tương tự thế về Chúa: “Bởi vì Chúa vừa là sự vắng mặt rất xa, vâng, là thế đấy, và, vừa là một sự hiện diện rất gần.”

Ngay cả khi Septology hoàn toàn không phải tự truyện, thì vẫn có những suy nghĩ cũng như đặc điểm giống hệt với tôi, chẳng hạn như là vẻ ngoài với tóc hoa râm. Tôi quyết định biến nó thành tự truyện bằng cách làm cho Asle trông giống như tôi, để trước là phù hợp hơn với thể loại này, và sau đó là viết nó theo cách thức của tôi, như một nhà văn. Nhưng có những suy nghĩ, đặc biệt là ở những phần mang tính tiểu luận, sẽ là rất gần với lối suy nghĩ của tôi. Chẳng hạn, ý tưởng cho rằng Chúa ở gần đến mức mà ta không thể trải nghiệm, nhưng Ngài cũng xa đến mức ta không nghĩ đến. 

Có sự tiếp nối với con người ông trước bước ngoặt kia không? Hay chỉ đơn thuần là sự rạn nứt?

Ồ, vâng, có sự liên tục trong các tác phẩm. Tất cả những điều mà tôi nói đến đều “ở bên ngoài”. Việc viết là một cái gì đó khác. Người viết văn trong tôi, anh ấy luôn luôn kiên định. Tôi không chắc anh ấy có tỉnh táo hay không, nhưng anh ấy vẫn luôn như thế.

Ân sủng có ý nghĩa gì với ông?

Tôi đã suy nghĩ rất nhiều về khái niệm đó.

Nó quan trọng với tôi.

Và tôi cũng vậy. Đó là một khái niệm quan trọng. Đôi khi viết được, tôi coi đó như là một món quà, như một ân huệ. Tôi không xứng đáng theo cách nào đó để có được nó. Khi ta ngồi đây với nhau - tôi không cảm thấy rằng mình xứng đáng để có điều này. Cả khi những vở kịch tôi viết được đưa lên sân khấu lớn, thì mỗi một lần đều tốn rất nhiều công sức để các diễn viên phải học lời thoại, làm quen phối cảnh cũng như mọi thứ. Tôi khiến cho rất nhiều người bỏ công bỏ sức, và tôi nghĩ mình không xứng đáng với điều đó. Nó còn nhiều hơn những gì tôi xứng đáng có.

Biết viết và viết được hay đó là ân sủng. Và tôi nghĩ có lẽ cuộc sống tự nó đã là một loại ân sủng. Tôi hoàn toàn có thể hiểu được những người quyết định rời bỏ cuộc đời. Đó là một nơi khủng khiếp theo rất nhiều cách. Cũng có thể coi cái chết như một ân sủng. Ở đây mọi lúc mọi nơi chắc là khủng khiếp lắm.

Các tác phẩm của Jon Fosse. Ảnh The New York Times.

Nó liên quan đến sự đau khổ?

Trong thế giới sa ngã này, theo Kitô giáo, cuộc sống là một loại quà tặng và cũng đồng thời chính là ân sủng. Nhưng rồi mọi chuyện trở nên nghịch lý. Mọi thứ đối với tôi, theo một cách nào đó, đều sẽ kết thúc trong sự nghịch lý. Và đôi khi tôi thấy mình chứa đầy những sự mâu thuẫn đến nỗi khó có thể hiểu được làm cách nào mà tôi-bên-ngoài và tôi-văn-chương có thể ở kề cạnh nhau, và trở thành một.

Ông viết rất hay về tuổi thơ. Tuổi thơ có phải là thời gian không có nghịch lý?

Tôi phải nói vì nó rất quan trọng đối với riêng tôi: lúc 7 tuổi, tôi đã cận kề cái chết trong một tai nạn. Và rồi, từ ở ngoài kia [chỉ về phía xa], tôi có thể thấy mình đang ngồi đây - tôi thấy mình như thế. Và mọi thứ đều yên bình, tôi nhìn những ngôi nhà và thấy khá chắc mình đã thấy chúng vào lần cuối cùng đi khám bác sĩ. Mọi thứ lung linh và rất yên bình, một trạng thái hạnh phúc, giống như đám mây đầy hạt ánh sáng vậy. Trải nghiệm này là quan trọng nhất trong thời thơ ấu. Và nó đã tạo nên tôi với tư cách là một con người, có cả mặt tốt cũng như mặt xấu, và cũng đã tạo ra tôi như một nghệ sĩ.

Đầu tiên tôi đọc tất cả tiểu thuyết của ông, sau đó tôi đọc tất cả các vở kịch của ông. Và điều thú vị với tôi về các vở kịch là chúng thường miêu tả những cảnh ghen tuông một cách dồn nén và rất đau đớn. Điều này lại ít thấy hơn trong các tiểu thuyết. Vì sao lại thế?

Chủ đề hay nhất cho một vở kịch là sự ghen tuông. Đó là “chuyện thường ngày ở huyện” đã có từ thời cổ đại: chỉ đặt 2 người lên trên sân khấu và rồi để người thứ ba bước vào. Sau đó bạn sẽ có được kịch tính ngay lập tức. Thậm chí có thể tạo ra chỉ giữa 2 người, như tôi đã làm trong một số vở kịch của mình.

Đó là một điều khá đau đớn đối với tôi khi đọc.

Vâng, nó hơi giống Tennessee Williams [1] Nhưng đó cũng là lý do vì sao tôi thấy mệt mỏi với việc viết kịch - bởi nó dễ dàng tạo ra cảm giác ghen tuông. Khi tồn tại thứ ấy, tôi thường nghĩ rằng, theo ngôn ngữ thầm lặng của vở kịch, sẽ có cái chết.

Với ông loại tình yêu nào thì đáng tin cậy trong một thế giới sa ngã?

Tôi nghĩ là các vở kịch đều đang nói điều gì đó về tình yêu. Không phải tôi biết câu trả lời đâu. Nhưng tôi cảm giác những gì tôi viết đều đúng ở khía cạnh nào đó. Đó không phải chủ nghĩa hiện thực, và cũng không phải hoàn toàn chỉ là hư cấu.

Và đó là cách mà tôi có thể đưa ra câu trả lời khôn ngoan. Trong sáng tạo của tôi. Chúng khôn ngoan hơn và biết nhiều hơn người viết ra nó đứng dưới tư cách của một con người. Nó lớn hơn thế. Tôi nghĩ đó là món quà của mọi nền văn học vĩ đại. Đối với tôi, tình yêu là thứ gì đó vô cùng độc đáo, nhưng lại đồng thời cũng rất phổ quát. Nhưng để biến sự độc đáo của tình yêu thành văn học đích thực, cần phải tạo ra một cái gì đó xứng đáng hơn.

Mối quan hệ giữa kịch và tiểu thuyết của ông đôi khi là về nhịp điệu - một sự xen lẫn âm thanh rất có chủ ý, ngắt quãng giữa lời nói và suy nghĩ?

Đúng rồi. Theo một cách nào đó, tất cả đều là về nhịp điệu, ngay cả trong một bức tranh. Có nhịp điệu giữa các yếu tố hoặc mối quan hệ giữa chúng. Nhịp điệu thì rất dễ nói, nhưng lại rất khó để biết chính xác nó là cái gì hoặc đang làm gì. Tất cả những khái niệm này - như sự duyên dáng, tình yêu, nhịp điệu - chúng rất dễ dùng nhưng lại khó hiểu theo cách thực tế. Nhưng nó cũng rất hiển nhiên có mặt ở đó. Khi có nhịp điệu, bạn biết điều đó. Khi có tình yêu, bạn cảm nhận được. Và đối với tôi, cả Chúa cũng vậy. Tôi khá chắc Chúa cũng hiện diện. Tuy nhiên, tôi thường không thấy như vậy.

Được biết ông đang dịch cuốn The Plains của Gerald Murnane[2]?

Tôi không biết làm sao mà tôi lại đọc Murnane. Trước đây ông chưa từng được dịch sang tiếng Na Uy. Tôi đã đọc về ông ở đâu đó và cảm thấy ông là một nhà văn thú vị. The Plains là cuốn tiểu thuyết nổi tiếng và được dịch nhiều nhất của Murnane. Nó cũng đã được dịch sang tiếng Thụy Điển và tiếng Đan Mạch. Về văn học, tôi có thể đọc tiếng Đức và tiếng Anh, nhưng tôi thích đọc bằng tiếng Scandinavi hơn. Vì vậy, tôi đã đọc nó bằng tiếng Thụy Điển và tôi thực sự thấy thích. Sau đó tôi đã quyết định tự chuyển ngữ nó.

Biết rằng ông đang dịch Murnane làm tôi nhớ đến cây vĩ cầm Hardanger[3], với hai lớp dây nằm song song nhau. Có vẻ như ông và Murnane có chung một số suy nghĩ?

Đó là một hình tượng đẹp. Thật hiếm khi gặp được một giọng văn có ý nghĩa. Nó giống như là tình bạn mới vậy, và không xảy ra một cách thường xuyên.

Làm thế nào để ông dịch The Plains sang tiếng Nynorsk[4]?

Tôi sống ở Áo, nơi có phong cảnh bằng phẳng rộng lớn được gọi là Đồng bằng Pannonia. Nó trông hơi giống phong cảnh nước Úc.

Tôi cảm thấy Murnane có giọng văn và cách nhìn khá độc đáo. Tôi chưa bao giờ đọc bất cứ thứ gì như cuốn sách này, nhưng nó giống với văn bản của tôi - cảm giác xa cách nhưng cũng gần gũi. Chúng tôi đang viết theo những cách khác nhau, nhưng có thể nói có một cách nhìn tương tự ẩn đằng sau nó.

Có lẽ là tính kỷ luật hoặc sự tập trung?

Khi tôi viết, mọi thứ cần phải chính xác cũng như chuẩn xác. Tôi không chấp nhận ngay cả nếu sai dấu phẩy. Tôi biết điều đó. Nếu tôi thay đổi điều gì đó ở trang 4, thì tôi sẽ phải thay đổi thêm điều gì khác ở nơi nào khác. Tôi không biết mình có thể tạo ra bao nhiêu mối liên hệ như vậy. Khi bước vào một vũ trụ theo một cách nào đó, bạn đã tách ra khỏi thế giới thực. Khi bạn tạo nên vũ trụ của mình, thì nó sẽ không còn là của bạn.

Có một logic nào đó trong điều đó ư?

Với tư cách là một nhà văn, tôi thấy nó rất cần thiết - một việc phải làm chính xác hoặc như thế này hoặc thế kia. Là một độc giả, khi đọc, bạn sẽ thấy nó logic.

Tôi có thể nói rằng viết mà không cần thiết thì chẳng để làm gì cả. Và đó là sức mạnh của nó. Tôi nghĩ là có hàng nghìn quy tắc tôi phải tuân theo khi viết tiểu thuyết. Hầu hết chúng sẽ nói không với điều này hoặc là nói có đối với điều kia. Để tuân thủ những quy tắc này và lắng nghe chúng, đòi hỏi phải có trí nhớ cũng như năng lực tinh thần mà tôi nghĩ mình không có khả năng sở hữu trong tư cách của một con người. Nhưng tôi nghĩ chúng ta còn nhiều khả năng hơn cả những gì mà chúng ta biết. Con người có khả năng làm những điều kỳ lạ.

Trong đó có cả khả năng, hoặc cũng có thể là sự hiểu biết, để sắp xếp các phần thành một tổng thể?

Vâng, đó là tất cả về tổng thể, về cảm giác trọn vẹn. Và chính sự trọn vẹn đó là linh hồn của văn bản. Thông điệp sẽ đến từ sự trọn vẹn của nó, từ ngôn ngữ thầm lặng của nó. Chính cái toàn thể vẫn sẽ im lặng và khăng khăng đòi im lặng. Và để tạo nên sự trọn vẹn này, mọi bộ phận đều phải khớp nối và hướng về nó. Và đây là điều mà một con người theo nghĩa bình thường không bao giờ có thể đạt được một cách có ý thức.

Đó là lý do tại sao tôi không muốn lên kế hoạch gì cả, không muốn biết trước bất cứ điều gì hết. Tôi chỉ tin tưởng vào việc viết thôi. Khi tôi sáng tác, có thể là 1, 5, 10 trang, nhưng theo một cách nào đó, mọi thứ đều đã có sẵn ở đó. Cho đến lúc đó, ít nhiều nó đã được xác định.

Lược dịch từ bài phỏng vấn Merve Emre, đăng trên The New Yorker ngày 13.11.2022


Một số chú thích diễn giải thêm cho bạn đọc:

[1] Tennessee Williams là một nhà viết kịch người Mỹ. Ông được coi là một trong ba nhà viết kịch xuất sắc nhất của kịch nói Mỹ trong thế kỷ XX. Một trong những tác phẩm nổi tiếng của ông là Chuyến tàu mang tên dục vọng.

[2] Nhà văn nổi tiếng người Úc. Năm nay ông đứng thứ 3 trong danh sách đặt cược cho giải Nobel Văn chương, sau Tàn Tuyết và Jon Fosse.

[3] Một loại nhạc cụ đặc trưng của Na Uy, giống violin nhưng có tận 2 lớp dây.

[4] Một trong hai loại ngôn ngữ chính được dùng ở Na Uy, nhưng kém phổ biến hơn loại còn lại. Jon Fosse nổi tiếng về việc sử dụng thứ phương ngữ này.

Đọc bài viết

Chuyện người cầm bút

Phạm Công Luận và những tâm tình về “Hồi ức Phú Nhuận”

Cho dù “Hồi ức Phú Nhuận” không phải là sách biên khảo nhưng cũng cần được sắp xếp tương đối mạch lạc theo từng nhóm nội dung để độc giả dễ theo dõi, để có cái nhìn từ khái quát đến từng lãnh vực, sau đó đọng lại là những tâm tình của người sống ở đó.

Published

on

By

Hồi ức Phú Nhuận tập hợp những bài viết của nhà báo Phạm Công Luận về dòng chảy thời gian đi qua một vùng đất bằng việc sưu tầm và ghi lại những hồi ức tản mạn không chỉ của riêng tác giả – một người sinh ra, lớn lên và gắn bó với Phú Nhuận, mà còn từ lời kể của nhiều cư dân nơi đây qua các thế hệ.

Trong bài phỏng vấn này, Bookish sẽ giúp bạn đọc khám phá quá trình nhà báo Phạm Công Luận đã tái hiện một Phú Nhuận từ cổ chí kim qua từng trang sách trong Hồi ức Phú Nhuận diễn ra như thế nào, cũng như những khó khăn mà anh phải đối mặt. Hãy cùng tìm hiểu bạn nhé.

Trong quá trình thực hiện Hồi ức Phú Nhuận, anh có gặp phải những khó khăn nào khi tìm ý tưởng, nguồn tư liệu, hay nhân vật để phỏng vấn không? Nếu có, anh đã vượt qua những khó khăn đó bằng cách nào?

Viết sách tư liệu luôn có những thách thức từ việc ý tưởng tổ chức cho đến tập hợp tài liệu, cuốn Hồi ức Phú Nhuận cũng vậy. Cần có những ý tưởng cốt lõi từ cách tổ chức các chương mục cho đến thể hiện từng bài. Ở từng đề tài, nếu không tìm ra nhân chứng để phỏng vấn hoặc tài liệu hay thì dễ đi vào bế tắc. Khi gặp trường hợp đó, tôi xếp lại, khai triển một bài viết khác và lúc nào đó sẽ quay lại đề tài cũ khi thấy đã có những thứ cần thiết để viết nó ra.    

Bài viết nào trong Hồi ức Phú Nhuận khiến anh tâm đắc nhất? Anh có thể chia sẻ lí do tại sao không?

Có hai dạng bài tôi cảm thấy tâm đắc trong cuốn này.

Một là những bài tôi tìm được tư liệu hay, viết được những đề tài hầu như không ai viết về, mà lâu nay bản thân tôi luôn thắc mắc: bài viết về gốc gác của chợ Ga, về nhà hàng bò bảy món Ánh Hồng nổi tiếng khắp Sài thành một thời, về xóm cô đầu ở Phú Nhuận trước 1945, về đất Phán Hùng trong đường Cô Giang v.v...   

Hai là những bài được viết với nhiều cảm xúc, hầu hết nằm trong phần ôn chuyện xưa, về ẩm thực và về những con hẻm.  

Hồi ức Phú Nhuận được chia thành 9 phần (8 phần nội dung chính và 1 phần phụ lục) để bao quát những khía cạnh khác nhau trong đời sống Phú Nhuận. Từ khi bắt đầu viết sách, anh có hình dung trước là sách sẽ có 9 phần với các chủ đề như thế để lên kế hoạch viết không hay anh viết bài trước rồi trong quá trình tập hợp lại bài viết cho cuốn sách, anh mới chia bài viết theo chủ đề? Theo anh, phương pháp nào đem lại nhiều hiệu quả hơn?

Cuốn sách này, cho dù không phải là sách biên khảo nhưng cũng cần được sắp xếp tương đối mạch lạc theo từng nhóm nội dung để độc giả dễ theo dõi, để có cái nhìn từ khái quát đến từng lãnh vực, sau đó đọng lại là những tâm tình của người sống ở đó. Dù ban đầu đã có ý định sắp xếp một cách tương đối, khi viết tôi chọn những đề tài mình có hứng thú hoặc có tư liệu hay để viết trước. Sau một thời gian, tôi rà soát lại từng phần nội dung và tiến hành bù đắp những chỗ còn thiếu bằng những bài khác. Có thể cách của tôi không đúng bài bản nhưng ít ra nó giúp tôi duy trì được cảm hứng để viết một cuốn sách khá “lắm chuyện” như vầy.     

Trong Hồi ức Phú Nhuận, có những bài viết kể về các con đường, quán ăn và tiệm cà phê hiện đã không còn tồn tại. Vậy anh tìm kiếm và ghi lại những thông tin này bằng cách nào? Làm sao để anh cân bằng tính trung thực và chi tiết khi tái hiện những ký ức trong Hồi ức Phú Nhuận?

Tôi sống ở Phú Nhuận từ nhỏ đến nay nên không quá khó khăn để nhận diện những gì từng tồn tại và mất đi trong hơn nửa thế kỷ qua. Bên cạnh đó, còn có những nhân chứng chung quanh tôi, họ có thể kể về những quán xá họ từng lui tới, ăn uống ở đó hay về những gì đã xảy ra từ rất lâu trên một con đường. Trang “Phú Nhuận ngày xưa” trên Facebook do tôi lập ra, là nơi tập hợp những người từng hay đang gắn bó với vùng đất này cũng góp phần cung cấp cho tôi tư liệu về các quán, các nhà hàng trong quận, bên cạnh những câu chuyện ở lãnh vực khác.

Đã là hồi ức thì có “nhớ nhớ, quên quên” không tránh khỏi thiếu sót, tôi hạn chế tối đa điều đó bằng cách đối chiếu với các ý kiến khác nhau trên trang “Phú Nhuận ngày xưa” về một sự kiện, đưa ra trước cộng đồng để hỏi ý kiến và gửi bản thảo cho một số người quen nhờ xem giúp và phát hiện lỗi nếu có. Sau khi ra sách, tôi vẫn tiếp tục theo dõi dư luận để nếu cần thì đính chính hay chỉnh sửa sau.    

Hồi ức Phú Nhuận vừa có hình ảnh tư liệu, vừa có tranh minh họa của họa sĩ Phạm Công Tâm. Đâu là tiêu chí để anh quyết định lựa chọn giữa hình ảnh hay tranh minh họa cho một bài viết?

Việc chọn tranh hay ảnh minh họa cho phù hợp bài vở nằm trong góc nhìn từ nghề báo của tôi. Hầu hết bài trong sách được minh họa bằng ảnh, nhất là bài tài liệu. Bên cạnh đó có một số bài được minh họa bằng tranh màu nước, do không có ảnh đủ thể hiện được nội dung và còn giúp trang sách mềm mại hơn, đẹp hơn.

Sau Hồi ức Phú Nhuận, kế hoạch sáng tác tiếp theo của anh là gì? Anh có dự định viết thêm về Phú Nhuận hoặc những quận khác không?

Cho dù Phú Nhuận vẫn còn nhiều điều hay để khám phá và chia sẻ, tôi chưa có ý định viết tiếp ở dạng một cuốn sách mà sẽ dành thời gian cho những đề tài khác.

Tôi vừa viết xong bản thảo cuốn sách về Chợ Lớn, một khu vực đô thị không nhiều người phía Sài Gòn có điều kiện tiếp cận theo chiều sâu. Cuộc sống ở đó, với đa số là di dân người Hoa có những đặc thù riêng, rất thú vị để tìm hiểu. Qua cuốn này, tôi mong có thể phản ánh được một phần nhỏ đời sống, tâm tình, sinh hoạt của vài thế hệ người sống trong Chợ Lớn trong gần trăm năm qua. Đó là một nơi mà một số nhà văn, ký giả nước ngoài như Gontran de Poncins, Georges Ribon hay Kermendec... đã đến và ở lại một thời gian để viết những bài báo và cuốn sách thật lý thú.    

Cảm ơn tác giả Phạm Công Luận vì đã dành thời gian cho một cuộc chia sẻ sâu với Bookish. Chúc anh luôn thành công với những dự án trong tương lai.

Đọc bài viết

Cafe sáng