Chuyện người cầm bút
Về thơ
Thơ với tôi là không khí của những buổi trưa ấy. Máy điều hòa chạy lặng lẽ, tĩnh tại và một ánh mắt dõi nhìn những dòng thơ. Thế giới rời rạc nhưng được kết nối.

Chuyện người cầm bút
Haruki Murakami rất “pretentious”!

Haruki Murakami rất “pretentious”! Bạn tôi nói với tôi như vậy. Nhân vật của ông thường luôn là những gã trai ngầu lạnh và luôn mồm nói về nhạc jazz. “Pretentious” không có từ tương đương trong tiếng Việt, dịch sát nghĩa là “cố tỏ ra hoặc nghe có vẻ quan trọng hay khôn khéo hơn bạn thực sự là, đặc biệt trong lĩnh vực nghệ thuật và văn chương.”
Bạn tôi học guitar từ nhỏ, chơi đàn hay và ca tình cảm nhưng chưa bao giờ chê bai gu nhạc thị trường của tôi. Nhưng đọc truyện Murakami có vài lần tôi thấy xấu hổ thật, vì giống như ông đang trỏ tay vào mặt tôi và lêu lêu: “Mi không biết chi về âm nhạc cả, cái đồ tầm thường.” Thế là tôi cũng cảm thấy ông Murakami có chút gì đó pretentious thật.
Tôi chột dạ nhìn lại bản thân, vì thấy mình cũng pretentious, nhất là khi nghe ai đó đã qua tuổi teen mà vẫn khen 50 sắc thái với Chạng vạng là tôi bĩu môi trong lòng. Nhưng giờ thì chỉ nói với họ là nếu có cơ hội đọc nhiều hơn, họ sẽ thấy một thế giới khác đẹp hơn thế giới trong những cuốn sách thành công về mặt thương mại nhưng có rất ít giá trị văn chương.
Từ khi nhận ra mình pretentious, tôi thấy nó tràn lan khắp nơi. Tôi vừa đọc một bài phỏng vấn một nhà văn trẻ, trong bài bạn kể tên một loạt nhà văn bạn từng đọc và yêu thích như: Marcel Proust, James Joyce, Nabokov, Oscar Wilde, Shakespeare… Nabokov, Oscar Wilde, Shakespeare là những cái tên quen thuộc nhưng Proust và Joyce là đô hạng nặng. Hai ông không phải là tác giả dành cho số đông. Người ta hay đùa với nhau: “Cuộc đời thì quá ngắn còn Proust thì quá dài.” Thế nên nếu ai đó nói họ đã đọc Proust và Joyce trong tiếng Anh thì tôi xin kính họ một lạy (vì tôi được biết cuốn sách In Search of Lost Time 4.215 trang của Proust mới được dịch sang tiếng Việt một phần nhỏ, còn cuốn nổi tiếng nhất của Joyce là Ulysse thì chắc còn khuya).
Thế nên sau khi kính bạn nhà văn này một lạy, tôi vào tìm Facebook của bạn và thấy rất nhiều bài viết bình về văn, thơ, nhạc, phim. Trong một bài viết bình phim, tôi đếm được 20 tên đạo diễn bạn liệt kê, trong đó có 18 vị tôi không biết tên vì tôi không xem phim nhiều. Những bài viết ngôn từ rất êm và mượt nhưng tôi không hiểu mô tê gì. Trong tôi lại trào lên cảm giác khi đọc truyện nhạc jazz của ông Murakami. Phía dưới rất nhiều like, rất nhiều share, rất nhiều comment.

Tôi nghĩ chẳng lẽ thơ ca phim ảnh (nghệ thuật nói chung) có thể cao vời đến mức nó chỉ là đặc quyền của một nhóm người để bình và hiểu? Rằng những người như tôi (ngoại đạo nhưng có một mức cảm thụ nghệ thuật trung bình) không thể nào cảm nổi? Tôi không tin. Khoa học, triết học - khó cảm hơn nghệ thuật gấp nhiều lần - vẫn có thể được dịch ra ngôn ngữ bình dị (như cuốn triết học Thế giới của Sophie hay những bài giải thích về vũ trụ của nhà vật lý Brian Greene). Tôi tin người ta không cần trang sức cho văn chương và nghệ thuật với lớp xiêm y ngôn từ bóng bẩy, để chúng nghe có vẻ “văn chương” và “nghệ thuật”. Tôi có cảm tưởng, bạn nhà văn – dù sở hữu kiến thức dày (với những cái tên nổi tiếng bạn dẫn ra và những bài viết thâm hậu của bạn) – có chút gì đó pretentious.
Đó cũng là lý do tôi không thích bài viết của các KOL trên mạng, vì bài viết của đa số họ, dù là chia sẻ cá nhân, vẫn mang vẻ không thực thà. Giống như họ đang cố phô ra tất cả những gì họ có (và lắm lúc phô hơn những gì họ có) cho đám đông của họ. Họ pretentious. Tôi tin khởi phát, trong lòng một người viết thực thà (hay người vẽ, người làm thơ…) có một nỗi niềm cần được giãi bày và họ chuyển hóa nó thành con chữ, thành hình vẽ, thành câu thơ. Sau khi tác phẩm hoàn thành, họ có nhu cầu chia sẻ cho công chúng. Nhưng nhu cầu chia sẻ là nhu cầu đến sau nhu cầu giãi bày. Thông thường chỉ những người làm marketing mới luôn giữ trong đầu một target audience (khách hàng mục tiêu). Họ viết cho target audience và cố làm mọi cách để gây ấn tượng với những người đó. Ở trong nghề marketing, tôi biết những người làm nghề này có thể pretentious đến mức nào.
Tôi nghĩ cuộc đời sẽ đẹp hơn khi nó thực thà và không diêm dúa. Nên văn chương và nghệ thuật hay những gì liên quan đến văn chương và nghệ thuật – vốn dĩ xuất phát từ cuộc đời – cũng nên thực thà và giản dị vậy. Hãy để văn chương và nghệ thuật tồn tại trước hết vì bản thân chúng và người sáng tạo ra chúng, hơn là vì ai đó ngoài kia. Như bạn tôi, một người chơi đàn hay và ca tình cảm, thường đàn hát một mình trong phòng và thi thoảng lắm mới đàn cho người khác cùng nghe.
Ưm, xin lỗi, nếu tôi có lỡ nghe pretentious.
Nguyễn Bích Trâm
Chuyện người cầm bút
Abdulrazak Gurnah – nhà văn đoạt giải Nobel không ai biết tới

Tôi muốn viết một chút về việc Abdulrazak Gurnah – nhà văn đã đoạt giải Nobel năm 2021. Như hầu hết mọi người ở đây, tôi chưa bao giờ nghe nói về ông trước đây. Cũng không sao cả, có điều tôi tự nhận mình là người đọc nhiều, và tôi bị hấp dẫn bởi những tác giả/tác phẩm/thể loại không quen thuộc với số đông, bao gồm cả văn học châu Phi.
Nhưng có một điều thú vị là chưa ai từng nghe nói đến Abdulrazak Gurnah. Ông không nằm trong shortlist những tác giả nổi bật nào cả (dù rõ ràng tên ông xuất hiện trong list lưu hành nội bộ của giải Nobel). Cược Stephen King thắng còn dễ hiểu hơn. Nhưng cũng chẳng sao. Đã có nhiều tác giả gây ra cú sốc lớn khi đoạt giải Nobel. Tôi nghĩ đến Kertesz (2002). Tương tự với Tranströmer (2011). Có điều là chắc chắn, giờ đây, Gurnah sẽ được biết đến nhiều hơn khi ông thắng giải Nobel.
Và có rất nhiều nhà văn lớn hội đủ các yếu tố nhưng không giành được giải, bao gồm: Joyce, Tolstoy, Twain, Ibsen, Zola và Proust. Tôi xin mạnh miệng khẳng định rằng tất cả họ đều đóng góp cho văn chương nhiều hơn Winston Churchill (người đoạt giải Nobel năm 1953). Vì vậy, nếu nhà văn yêu thích của bạn không thắng giải, dù đó là Atwood hay Ngugi, thì họ cũng không đơn độc. Đã có khoảng 120 giải Nobel được trao kể từ khi Sully Prudhomme thắng giải lần đầu tiên năm 1901 (không có giải nào được trao trong Thế chiến 2). Và một lần nữa, hiện nay, hầu hết mọi người cũng chưa từng nghe đến cái tên Sully Prudhomme.
Gurnah có xứng đáng không? Tôi không biết. Tôi chưa đọc bất kì tác phẩm nào của ông. Nhưng dường như ông đã gây ấn tượng với nhiều người. Sự lựa chọn này có phải vì lý do chính trị? Có lẽ. Sự thật là vô số tác phẩm ở các quốc gia khác đã bị làm ngơ trong nhiều năm trời vì Nobel được xem là giải thưởng của giới tinh bông châu Âu. Bao nhiêu tác giả Ấn Độ đã thắng giải kể từ thời của Tagore năm 1913? Zero. Bao nhiêu tác giả Trung Quốc được xướng tên kể từ khi Cao Hành Kiện đoạt giải năm 2000? Một – Mạc Ngôn. (Công bằng mà nói, tôi kiểu đã hy vọng Tàn Tuyết sẽ là người phụ nữ châu Á đầu tiên giành giải này. Một ngày nào đó. Biết đâu…). Tuy nhiên, Ấn Độ và Trung Quốc chiếm đến một phần tư dân số thế giới và cả hai quốc gia này đều có truyền thống văn học lâu đời, phong phú. Thực tế mà nói, truyền thống văn học Trung Quốc có lẽ cũng phong phú và đa dạng như phương Tây. Chỉ là không được tiếp cận rộng rãi.

Vậy, đây là quyết định mang tính chính trị? Vâng, theo một giác độ nào đó thì tất cả những tác phẩm hay đều mang tính chính trị. Nó phản ánh đời sống và các chuẩn mực xã hội, nó là tấm gương phản chiếu thế giới mà chúng ta đã tạo ra.
Thế thì Abdulrazak Gurnah có xứng đáng không? Có thể. Ủy ban Nobel đã công bố rằng Gurnah giành giải vì “sự thâm nhập không khoan nhượng và nhân ái của ông đối với những tác động của chủ nghĩa thực dân và số phận của những người tị nạn trong hố sâu ngăn cách giữa các nền văn hóa và lục địa.” Số phận của những người tị nạn và những người bị gạt ra bên lề xã hội là một trong những vấn đề lớn trong thế giới của chúng ta, và tôi tin rằng nó sẽ còn trở nên quan trọng hơn do hậu quả của tình trạng quá tải dân số và biến đổi khí hậu. Đây chắc chắn là một vấn đề ở Hoa Kỳ. Ở châu Âu vấn đề này thậm chí còn đáng chú ý hơn. Châu Âu đang thay đổi. Scandinavia đang thay đổi (hai bộ phim tôi làm gần đây nói về một người tị nạn Afghanistan ở Đan Mạch và một người tị nạn Chile ở Thụy Điển). Chúng ta đang thay đổi. Thế giới của chúng ta đang thay đổi. Và những người hàng xóm mới của chúng ta cũng đang thay đổi.
Nhưng tôi bận tâm điều gì? Đó là Gurnah rất khó tìm. Tôi đã tìm trên eBay. Chỉ có duy nhất hai bản của cuốn sách nổi tiếng nhất của ông – Paradise (được đề cử giải thưởng Booker và Whitbread ở Hoa Kỳ) với giá là 127 đô la. Tôi chắc rằng sớm muộn gì cũng sẽ thay đổi thôi, nhưng hiện tại, rất khó tiếp cận Gurnah.
Vì vậy, tôi khá vui khi ông chiến thắng. Ông mở ra cánh cửa đi vào một phần thế giới đang thay đổi của chúng ta – thế giới mà đã bị che khuất quá lâu. Và điều này ngày càng trở nên quan trọng hơn. Tôi đang bắt đầu cuộc hành trình vào thế giới của Gurnah với cuốn “Memory of Departure”. Đây là cuốn sách đầu tiên ông viết và tôi thích cái bìa của nó – đây là cách tôi thường dùng để đánh giá một cuốn sách… Tôi tự hỏi không biết có ai muốn đọc chung với tôi không?
Nguyễn Bích Trâm
dịch từ bài viết của Danny Wool
Tiêu đề do dịch giả tự đặt.
Chuyện người cầm bút
Trăn trở về nghề dịch: Nỗi lòng mấy ai hiểu?

Hôm gửi đi bản dịch cuốn sách, nhắn tin khoe Thầy, Thầy nhắn lại: “Chúc em luôn vui thú với công việc bạc bẽo này”.
“Công việc bạc bẽo này” ấy là dịch sách. Năm cấp hai, khi vốn tiếng Anh chỉ nằm trong phạm vi chia thì hiện tại hay quá khứ, thêm /s/ hay /ed/ vào động từ, mình đã mơ trở thành dịch giả tiếng Anh. Ước ao đó nằm ngay ngắn trên trang giấy học trò bên cạnh những mộng tưởng khác như du hành trong thiên hà và cưới hoàng tử đẹp trai siêu cấp vũ trụ.
Hồi vào Đại học, thấy bạn bè thành phố bắn tiếng Anh rào rào, mình ngẩn tò te. Những lúc tránh nhìn vào trang giấy đặc con chữ lạ, tránh nghe những đoạn trò chuyện không hiểu mô tê, mình nghĩ mình sẽ là dịch giả tiếng Anh duy nhất trên đời không biết tiếng Anh. Và mình, tất nhiên, đã chôn vùi mộng tưởng đó.
Nhưng vì thích đọc sách, đến một lúc mình thấy muốn đọc sách ngoại văn, nhưng làm gì biết chữ mà đọc. Cảm thấy dốt tiếng Anh như thế đủ rồi, mình dẹp hết sách Cambridge, tài liệu luyện IELTS và nghiêm túc đọc bộ Harry Potter 7 tập mà bản tiếng Việt mình gần như thuộc. Những quyển sách tiếng Anh tiếp theo, đọc hiểu chừng 20-30% nhưng hiếm khi nào mình dừng lại để tra từ vựng. Mình đọc kiêu kỳ như một độc giả tiếng Anh tinh hoa (giả vờ).
Bốn năm gần như chỉ đọc sách tiếng Anh cho đến một lúc đột nhiên cảm được phong cách tưng tửng của Joseph Heller trong Catch-22. Bốn năm ám ảnh với tiếng Anh cho đến một hôm trong mơ thấy mình nói tiếng Anh. Bốn năm tập tành dịch dọt cho đến một ngày sếp không còn nhìn bài dịch của mình và bảo: “Em bị điên à?” (Không, mình đùa đó. Cảm ơn những người sếp những ngày đầu đã không đuổi việc vì mình dịch dở quá. Và đến bây giờ vẫn vậy.)
Bao nhiêu thời gian cho đến hôm nay, thấy mộng tưởng ngông cuồng thuở nào được vật chất hoá trong hình hài một cuốn sách. Cảm giác thật khó tả. Nhưng trớ trêu, mộng tưởng hết ngông cuồng lại hoá thành hiện thực bạc bẽo.
Nghề dịch bạc bẽo vì không biết có ai sống tốt nhờ nó không. Nhuận dịch của nhóm dịch giả giỏi nhất trong nghề này chắc bằng lương của một vị trí thường thường bậc trung trong những ngành “thời thượng” khác. Cô Diệp đùa: “Nghề dịch con làm tay trái thôi, đừng làm hai tay. Trong một bài phỏng vấn, dịch giả Thiên Nga nói cổ sống ổn với nghề dịch, nhưng té ra cổ sống có một mình”.
Nghề dịch bạc bẽo vì người dịch dại dột từ bỏ vị thế quyền lực của người đọc để trở thành mục tiêu bị mổ xẻ, xâu xé. Độc giả - được miễn trừ khỏi quá trình chuyển hoá bản dịch đau đớn của dịch giả - có xu hướng đánh giá bản dịch bằng tâm thế của người đọc tiếng mẹ đẻ. Và có nhận xét từ những “nhà phê bình” mà Clifford E. Landers trong cuốn Literary Translation nói là có thể khiến dịch giả mới vào nghề bẻ bút và quay xe sang ngành khác.
Nghề dịch bạc bẽo vì mỗi lần dịch là mỗi lần bước vào một cuộc vật lộn mà dịch giả biết trước mình sẽ thua. Hành động dịch - dù dịch giả vắt kiệt bản thân đến đâu - cũng sẽ chỉ giống như “nhìn tấm thảm thêu Flemish từ hướng lộn ngược” (lời của Cervantes).
Giống quyển sách này, tiêu đề gốc là Frankly In Love, nhân vật chính là cậu thiếu niên tên Frankly đang yêu, nhưng tình yêu của cậu chồng lớp những lời nói dối. Nên Frankly In Love vừa là câu chuyện Frankly đang yêu nhưng cũng là lời cảnh cáo: Này, thật thà mà yêu! Tiêu đề tiếng Việt chỉ chuyển tải được một nghĩa. Dịch giả - một bàn thua.
Dịch giả mà mệt thật. Bạc bẽo thế vẫn có người “vui thú” làm, nếu không vui thú mắc gì mang nghiệp chướng này vào thân? Có những công việc làm xong thấy nhẹ như vừa trả được món nợ đời, nhưng mỗi lần chấm hết câu cuối trong bản dịch một quyển sách dù hay dù dở, mình đều thấy buồn như chia tay một người bạn.
Thế bao giờ người dịch dịch xong một quyển sách? Dịch giả Nham Hoa bảo là “không bao giờ”. Người dịch có nhu cầu khẩn thiết để chỉnh sửa bản dịch liên tu bất tận - thậm chí khi nó đã xuất bản. Lúc cầm trên tay quyển sách này, mình thấy xấu hổ, vì nhận ra có nhiều chỗ mình đã có thể làm tốt hơn, kĩ hơn. Nhưng thôi để bạn ra đi và hy vọng mình trở thành người đồng hành tốt hơn trong quyển sách kế.
Tính đến lúc này, câu chuyện nghe có vẻ giống một nỗ lực tự thân đạt thành quả (nếu mình kể chuyện không quá tệ). Nhưng chính là mình làm màu, quyển sách là sự hợp thành của vô số mối duyên lành. Khi gửi sách cho người bạn giúp mình nhiều trong quá trình dịch, bạn đùa: “Thế tên tao để đâu?” Có thể chỉ duy nhất tên mình xuất hiện trên bìa sách, nhưng còn nhiều cái tên khác - tên người anh, người chị, người bạn, người thầy, người cô - mình xin được ghi trong lòng, để cảm tạ.
Nguyễn Bích Trâm
Bạn có thể tìm mua sách Thật thà mà yêu đã được xuất bản ở Việt Nam theo đường dẫn dưới đây:
Thật Thà Mà Yêu
-
Book trailer3 tháng ago
Bức thư tình gửi đến Việt Nam từ một nhà thơ người Mỹ
-
Trà chiều3 tháng ago
Bình yên như hoàng hôn của mỗi chúng ta
-
Chuyện người cầm bút3 tháng ago
Linda Lê – Khi nỗi buồn lấp lánh như những hạt ngọc nơi khóe mắt
-
Top sách hay3 tháng ago
Việt Nam trong “đa vũ trụ” sẽ như thế nào?
-
Top sách hay3 tháng ago
Xử trí ra sao khi phải đối mặt với những lựa chọn khó khăn trong cuộc đời?
-
Top sách hay3 tháng ago
Khám phá những cuốn sách của bộ đôi tác giả “Nếu biết trăm năm là hữu hạn”
-
Trà chiều3 tháng ago
Vĩnh Biệt Mùa Hè… chỉ mới cách đây một năm
-
Sáng tác3 tháng ago
Truyện ngắn: Thiếu nhi đánh cờ tướng (Kỳ Y)