Trà chiều

Annyeong: Hơn cả một lời chào

Published

on

“Các bạn vẫn biết Annyeong là ‘Xin chào’ trong tiếng Hàn. Thế nhưng các bạn có biết từ gốc tiếng Hán của nó là gì không? Vốn dĩ câu chào này có một nghĩa hơi khác ‘xin chào’ một chút đấy.”

Cô Linh đã hỏi cả lớp như thế vào ngày đầu tiên của lớp sơ cấp hai tại Trung tâm Ngôn ngữ tiếng Hàn. Khi nghe cô hỏi câu này, tôi hết sức ngạc nhiên vì tôi không nghĩ một câu chào cơ bản, đơn giản như annyeong lại có thể mang một ý nghĩa sâu xa nào đấy. Hơn nữa, tôi vốn tưởng rằng annyeong là từ thuần Hàn, không phải Hán Hàn. Cho đến khi học lớp sơ cấp hai ở thời điểm đó, tôi không quan tâm lắm việc tra gốc từ Hán của những chữ Hàn được học trong lớp. Khi ấy, cả lớp không ai trả lời được câu hỏi của cô. Mọi người im lặng chờ nghe cô giải đáp vì những “tiết lộ” về tiếng Hàn của cô luôn thú vị và khi nói về tiếng Hàn, lúc nào cô cũng tràn đầy sự đam mê, nhiệt huyết.

“Annyeong vốn dĩ xuất phát từ chữ Hán là ‘An ninh’ (安寧) đấy.”

Khi cô vừa nói ra điều này, tôi không thể ngăn bản thân mình “ồ” lên một tiếng. Tôi hết sức ngỡ ngàng, tuy chỉ mỉm cười nhẹ ngoài mặt nhưng thực ra trong đầu tôi đang cười lớn tiếng, cảm giác vô cùng thỏa mãn, hài lòng vì mọi thứ như rơi vào đúng khớp của nó. Annyeong, annyeong, annyeong… Khi đã biết nó đi từ gốc chữ Hán là “An ninh” thì càng đọc càng thấy hợp lí, thấy cách người Hàn phát âm chữ Hán rất gần người Việt. Trong tám tháng ngắn ngủi tôi được học tiếng Hàn, đã không ít lần tôi ngỡ ngàng với việc này. Thế nhưng, trường hợp của chữ Annyeong có lẽ là khiến tôi ngỡ ngàng nhất. Cô Linh giải thích tiếp.

“Annyeonghaseyo là chia động từ sang thể mệnh lệnh của Annyeonghata thôi. Như các bạn đã biết seyo là hãy làm gì đó. Vậy, Annyeonghaseyo nghĩa gốc là, tôi nói từ tiếng Hán luôn nhé. ‘Hãy làm cho bản thân mình an ninh’. Nghĩa là ‘Hãy làm cho bản thân mình an toàn’. Vậy nên cũng có nghĩa là ‘Hãy chú ý cẩn thận’, ‘Hãy giữ gìn sức khỏe’. Nó gần nghĩa với ‘Bảo trọng’ đó. Qua thời gian, dần dần người ta sử dụng nó thành câu chào luôn. Vì vậy, nó có đặc trưng là vừa dùng để chào lúc mới gặp mặt, vừa chào tạm biệt cũng được. Nghĩa là vừa Hello, vừa Goodbye được luôn.”

Tôi thật sự rất rất thích phần giải thích của cô về Annyeonghaseyo. Lời giải thích này đã giúp tôi hiểu ra rất nhiều điều. Khi xem phim Hàn, quả thật tôi có nghe các nhân vật chào nhau lúc mới gặp, lúc tạm biệt đều là “Annyeong”, tuy nhiên tôi cũng không mấy chú ý lắm tới chi tiết này.

Buổi học này đã diễn ra cách đây gần hai năm… Tôi luôn nghĩ rằng tôi sẽ mãi mãi ghi nhớ những điều hay, thú vị cô đã dạy về tiếng Hàn trong lớp. Tuy nhiên, khi thời gian ngày càng chồng từng tầng từng lớp dày đặc mà tôi ngày càng rời xa tiếng Hàn, tôi sợ rằng một lúc nào đó mình sẽ quên hết. Bây giờ, có lẽ cũng đã quá muộn rồi. Kí ức sau hai năm bị biết bao nhiêu câu chuyện từ sách vở, phim ảnh, báo chí, cuộc sống xung quanh ghi đè lên bộ nhớ ít ỏi nên có lẽ phần ghi nhớ về tiếng Hàn không còn nhiều nữa. Vì vậy, dù muộn nhưng tôi vẫn muốn ghi lại được bao nhiêu càng tốt bấy nhiêu. Tôi tự trách mình rất nhiều vì ngày xưa sao không chịu ghi chép ngay khi về nhà sau mỗi buổi học. Hầu như, buổi học nào, cô cũng chỉ ra một điều gì đó thú vị.

Nhân vật Oh Sung Moo trong W – Ảnh: MBC

Kể từ khi biết nguồn gốc của Annyeong, khi xem phim hoặc nghe nhạc Hàn, tôi bỗng dưng vô tình chú ý đến chữ này hơn. Lí do khiến tôi nhớ đến Annyeong nhiều như vậy là vì tháng chín vừa qua, tôi rất nghẹn ngào khi nghe một nhân vật nói câu đơn giản này. Đó là Oh Sung Moo trong W. Có lẽ, cũng nên kể một chút về bộ phim, về tình huống ông nói Annyeong và vì sao nó khiến tôi nghẹn ngào như thế khi xem phim. W kể về chuyện tình giữa Kang Chul, một nhân vật truyện tranh và Oh Yeon Joo, con gái của chính tác giả bộ truyện đã tạo nên Kang Chul. Oh Sung Moo chính là người họa sĩ đã vẽ nên bộ truyện W và là bố của Oh Yeon Joo. Khi thế giới W đến hồi kết thúc, đòi hỏi chỉ có thể tồn tại hoặc Sung Moo hoặc Kang Chul, Sung Moo đã quyết định hi sinh để Yeon Joo đến được với Kang Chul. Khoảnh khắc cuối cùng, khi ông lái xe và dừng xe giữa đường để nhìn con gái từ đằng xa, trước lúc ông tan biến, ông đã nói: “Bố yêu con nhiều lắm. Annyeong.” W có rất nhiều cảnh buồn nhưng tôi không khóc ở bất cứ cảnh nào, thế mà vào cảnh đó, tôi cảm thấy cổ họng như nghẹn lại, mắt ươn ướt nước. Bao nhiêu kí ức về chữ Annyeong khi học trong lớp ùa về. Tôi hiểu được rằng khi Sung Moo nói câu chào ấy với Yeon Joo, nó có rất nhiều nghĩa. Đó có thể là lời chào Yeon Joo vì ông đã phải rất cố gắng để chạy xe đến kịp thời nhìn con gái lần cuối. Đó đồng thời cũng là lời từ biệt con. Hơn nữa, còn có thể hiểu nó theo nghĩa “bảo trọng” như gốc của chữ này, rằng “hãy giữ sức khỏe nhé con gái yêu”, “hãy bình yên nhé con gái yêu”. Tuy nhiên, dù dịch sang tiếng Việt hay tiếng Anh thì cũng chỉ có một lựa chọn mà thôi và sẽ lớp mất đi ít nhất một lớp nghĩa. Trong bản dịch tiếng Việt mà tôi xem của phim14 thì subteam dịch là: “Chào con”. Trong bản dịch tiếng Anh mà tôi thử tìm xem của trang Boxasian thì subteam dịch là: “Goodbye”. Ở trường hợp này, tiếng Việt giữ được hai lớp nghĩa là hello, goodbye cùng lúc nhưng sang tiếng Anh thì chữ Goodbye chỉ còn một lớp nghĩa. Thực ra, nếu truy nguồn gốc của chữ Goodbye để ra nó là xuất phát từ chữ: “God be with you” thì ta cũng có thể thấy là bản thân chữ Goodbye có hai lớp nghĩa, nghĩa “God be with you” lại gần giống với nghĩa gốc “hãy chú ý an toàn” của Annyeong. Vậy là, trong cả tiếng Việt và tiếng Anh đều giữ được hai lớp nghĩa của chữ này, trong đó có một lớp nghĩa giống là “Goodbye” (đây cũng là lớp nghĩa chính yếu, quan trọng nhất ở ngữ cảnh này), và một lớp nghĩa khác ở mỗi ngôn ngữ (tiếng Việt thì giữ được thêm nghĩ Hello, tiếng Anh thì giữ được thêm lớp nghĩa Take care). Dù vậy, tôi vẫn nghĩ nếu thực sự hiểu hết các lớp nghĩa của Annyeong thì khi xem phim, đặc biệt là trong cảnh phim W ấy, sẽ rất thấm. Tôi nghĩ rằng nếu ngày hôm đó, cô Linh không giảng giải cho cả lớp biết nguồn gốc của chữ Annyeong, có lẽ khi xem W đến phân đoạn ấy, tôi đã không xúc động như vậy.

Ảnh từ phim You who came from the star

Gần đây, Annyeong lại khiến tôi xúc động trong một ngữ cảnh khác. Khoảng thời gian đọc Chiến tranh và Hòa bình khiến tôi rất nhức đầu. Vì vậy, khi đọc được phân nửa tiểu thuyết đồ sộ ấy, tôi quyết định dừng lại để xem một phim thuần giải trí nhằm xả stress. Tôi không nhớ mình đã suy nghĩ, tính toán thế nào, rốt cuộc tôi lại chọn phim You who came from the star để xem. Thực ra cũng dễ hiểu, đó là một trong những phim góp phần đẩy mạnh làn sóng Hallyu những năm gần đây khi mà phim truyền hình Hàn gây được ảnh hưởng lớn trên toàn châu Á càng ngày càng ít. Tôi rất thích phim You who came from the star ở khía cạnh giải trí, nó khiến tôi có những trận cười thỏa thuê và thực sự nạp lại được năng lượng để tiếp tục đọc Chiến tranh và Hòa bình. Trong You who came from the star, có một bài hát tôi rất thích: đó chính là bài Annyeong do Hyorin trình bày. Có lẽ, vì sợ mất đi lớp nghĩa đặc trưng của Annyeong nên nhà sản xuất phim đã dịch bài này sang tiếng Anh là Hello, Goodbye. Bài Annyeong trong phim là minh chứng rất rõ cho sự đa lớp nghĩa của chữ này. Lợi dụng sự đa lớp nghĩa này, người nhạc sĩ sáng tác đã tạo nên lời bài hát thật xúc động khi dùng phép chơi chữ trong lời. Dưới đây, tôi sẽ trích phần điệp khúc lời bài hát này:

“사랑이 왔는데
그댄 떠난대
기다렸는데
더 볼 수가 없대
늘 바보처럼
흐르는 눈물이 말해
안녕이젠 Goodbye
Hello Hello Hello
Hello Hello.”

“Tình yêu đã đến rồi.
Vậy mà anh nói anh phải ra đi.
Em bảo em sẽ chờ anh.
Nhưng anh lại nói không thể gặp em nữa.
Em như một kẻ ngốc.
Những dòng lệ như muốn nói với em rằng:
Lời chào bây giờ là lời chia tay.
Hello Hello Hello
Hello Hello.”
(tạm dịch từ các bản dịch tiếng Anh tham khảo trên mạng)

Ảnh từ phim You who came from the star

Trong đoạn này, hãy chú ý câu: “안녕이젠 Goodbye”. Trong đó, 안녕 (Annyeong), 이젠 (Ijen là cách gọi tắt của 이제 + 는, có nghĩa: bây giờ). Như tôi đã trình bày ở trên, có thể tạm xem Annyeong có ba lớp nghĩa: Hello, Goodbye, Take care/To be peaceful. Lời bài hát này chính là chỉ định một lớp nghĩa cụ thể cho Annyeong trong ba lớp nghĩa đã biết đó. Tôi tự diễn dịch tâm trạng của cô gái như sau: “Trước đây, chúng ta nói Annyeong khi mới gặp nhau, khi chào tạm biệt nhau, khi dặn dò nhau hãy chú ý cẩn thân. Nhưng bây giờ, anh đã rời xa em rồi. Em hiểu rằng lúc này, giữa chúng ta, Annyeong chỉ có thể là lời chào tạm biệt mà thôi.” Khi xem qua Vietsub bài hát này của những subteam khác nhau trên Youtube, tôi nhận thấy hầu như mọi người đều dịch là: “Lời chào bây giờ là lời chia tay.” Tôi nghĩ rằng đây là một phương án hợp lí vì nó giữ lại được tinh thần gốc trong tiếng Hàn. Subteam dịch ra được tiếng Việt câu này chứng tỏ là dịch trực tiếp từ tiếng Hàn hoặc có am hiểu chút ít về tiếng Hàn chứ không phải dịch thông qua tiếng Anh. Bởi vì, khi đi một vòng dạo qua các trang dịch lời bài này sang tiếng Anh, ở đoạn ấy tôi thấy hầu như đều dịch là: “Goodbye now, goodbye.” Tôi rất bất ngờ khi phát hiện những người dịch đoạn này sang tiếng Anh lại dịch như vậy vì nó không giống lắm tinh thần với câu gốc trong tiếng Hàn. Hơn nữa, thực ra để dịch gần giống nghĩa từ câu tiếng Hàn sang tiếng Anh cũng không phải là khó lắm. Tôi tự hỏi sao họ không dịch là: “Hello is now Goodbye” nhỉ. Sự nghịch lí trong câu này nghe sẽ thú vị hơn “Goodbye now, goodbye” mà. Tuy rằng, trong tiếng Hàn không có ý chỉ sự đối nghịch giữa chủ ngữ – vị ngữ mà chỉ có ý loại trừ bớt nghĩa của chủ ngữ thôi. Dù sao, dịch như thế nào cũng không bằng cảm nhận trực tiếp từ ngôn ngữ gốc.

Vậy là, bài viết của tôi đã đi đến hồi kết thúc. Tôi mong những ghi chép này của tôi không chỉ giúp ích bản thân mình mà còn phần nào giúp ích cho những bạn thích xem phim Hàn, thích nghe nhạc Hàn nhưng chưa thể thu xếp học tiếng Hàn được. Hi vọng, cũng như cô Linh đã truyền cảm hứng cho tôi, tôi cũng có thể truyền một chút cảm hứng cho bạn, giúp bạn thấu hiểu hơn về chữ Annyeong khi xem phim, nghe nhạc. Tôi đã muốn viết bài về chữ Annyeong từ lâu nhưng cứ lần lữa mãi. Hôm nay, nhân dịp đầu năm mới, tôi muốn viết bài này như một sự khởi đầu cho chuỗi bài tôi sẽ viết về tiếng Hàn trong thời gian sắp tới. Vì tôi chỉ học tiếng Hàn trong khoảng thời gian ngắn và đã ngừng học từ rất lâu nên số bài viết có lẽ chỉ rất ít, đếm trên đầu ngón tay mà thôi. Tuy vậy, tôi tự nhủ sẽ cố gắng ghi chép thật cẩn thận, cố lôi ra bằng hết những kiến thức đã được học trong khoảng thời gian vô cùng đáng nhớ ấy. Tôi muốn bằng cách nào đó, dù thật nhỏ bé, bày tỏ lòng biết ơn đối với Trung tâm Ngôn ngữ tiếng Hàn vì đã cho tôi được học tiếng Hàn miễn phí trong khoảng thời gian tám tháng, vì đã chọn tôi, vì đã tin vào những điều tôi hứa khi viết đơn xin học. Có lẽ, điều này với trung tâm, với những thầy cô dạy trong trung tâm không hề quan trọng chút nào; thế nhưng bây giờ, tôi muốn giữ lời hứa đó với chính mình dù đã rất muộn màng rồi. Tôi thật sự muốn một lần nữa sống lại khoảng thời gian vừa đẹp đẽ, vừa cô đơn, vừa vui, vừa buồn ấy khi học tiếng Hàn. Tôi muốn trân trọng đến từng giây phút có mặt tại lớp học dù chỉ là bằng việc viết. Qua từng con chữ tuôn ra khi viết bài này cho đến gần kết thúc, vào lúc này đây, tôi thực sự cảm thấy mình như vừa trải qua một tiết học của cô Linh. Có lẽ, như vậy là đủ rồi.


Vì Annyeong có ba lớp nghĩa như chúng ta đã biết; vậy nên, tôi có thể nói.
Annyeong, nỗi buồn.
Và hi vọng, có thể annyeong niềm vui. Đương nhiên, theo nghĩa là “Hello”.
Annyeong.

Kodaki

Click to comment

Viết bình luận

Your email address will not be published. Required fields are marked *

Trà chiều

Thế giới viễn tưởng độc đáo trong bốn bộ phim mang đậm tính thể nghiệm

Published

on

Thế giới của phim khoa học viễn tưởng không phải lúc nào cũng chỉ có AI, robot, hay du hành không gian mà còn vô vàn những điều đặc biệt khác có thể bạn chưa biết.

Năm 2023 vừa qua đã ghi nhận sự phát triển ngày càng mạnh mẽ của AI. Điều đó khiến cho dòng phim khoa học viễn tưởng nhận được nhiều sự quan tâm trở lại. Nhắc đến dòng phim này, người ta vẫn thường đóng khung nó với vài yếu tố tiêu biểu thường gặp như: AI, robot, du hành vũ trụ, thế giới song song… Tuy nhiên, có rất nhiều tác phẩm sci-fi kinh điển đã chứng minh điều ngược lại.

Hãy cùng Bookish khám phá những bộ phim sci-fi không thuần túy là sci-fi vì ở đó, người xem được tận hưởng bữa tiệc điện ảnh đỉnh cao với những hương vị hòa quyện mĩ mãn từ nhiều thể loại khác nhau.

Back to The Future (1985)

Sci-fi x Road Trip Comedies

Cùng với The Terminator, Back To The Future ra đời năm 1985 đã trở thành biểu tượng kinh điển của dòng phim sci-fi lấy chủ đề du hành thời gian. Đó cũng là một trong những nguyên nhân mà bộ phim này được nhắc đến nhiều lần trong Avengers: Endgame lúc cả nhóm quyết định quay về quá khứ.

Tuy nhiên, không giống như The Terminator, Back To The Future mang màu sắc vui nhộn, hài hước của lứa tuổi học trò. Cậu học sinh tuổi teen Marty McFly ở thập niên 80 vô tình bị kéo về quá khứ trên chiếc xe cỗ máy thời gian của nhà khoa học Emmett Brown. Cậu quay trở về thập niên 50 – lúc này bố mẹ cậu cũng ở lứa tuổi học trò như cậu. Để có thể quay về hiện tại năm 80, cậu phải tìm cách hàn gắn mối quan hệ của bố mẹ, nếu không bản thân cậu cũng sẽ không tồn tại ở năm 80. Từ đó, câu chuyện nảy sinh nhiều tình huống dở khóc dở cuối. Nếu như The Terminator là sự phối trộn hoàn hảo giữa thể loại sci-fi và hành động thì Back To The Future lại là màn kết hợp ăn ý giữa thể loại sci-fi và hài hành trình. Bộ phim tốn kinh phí thực hiện là 19 triệu USD nhưng lại có doanh thu phòng vé lên đến 388 triệu USD. Chính vì thành công này mà đạo diễn Robert Zemeckis đã thực hiện hai phần tiếp theo cũng vui nhộn không kém.

Snowpiercer (2013)

Sci-fi x Dystopia

Bong Joon Ho không chỉ tạo ra những bộ phim sâu sắc về đề tài xã hội mà ông còn có khả năng làm phim khoa học viễn tưởng rất chặt chẽ, thuyết phục. Điều này thể hiện rõ nhất qua Snowpiercer. Phim dựa trên tiểu thuyết Pháp Le Transperceneige lấy đề tài hậu tận thế. Trong tương lai, sau một thí nghiệm thất bại, khí hậu toàn cầu biến đổi dẫn đến gần như toàn bộ sinh vật đều bị diệt vong, ngoại trừ một số người may mắn có mặt trên con tàu Snowpiercer chạy vòng quanh Trái đất với động cơ vĩnh cửu. Tại đây, một xã hội thu nhỏ mới lại được hình thành. Dưới bàn tay tài hoa của Bong Joon Ho, Snowpiercer cũng không đơn giản là tác phẩm sci-fi thuần túy mà ông còn lồng ghép vào nhiều thể loại khác nhau: có những phân đoạn hành động mãn nhãn, đồng thời cũng có những phân đoạn dí dỏm, và cách đặt vấn đề về giai tầng xã hội vẫn mang phong cách rất đặc trưng của Bong. 

Eternal Sunshine Of The Spotless Mind (2004)

Sci-fi x Romance

Sẽ như thế nào nếu kết hợp thể loại sci-fi với phim tình cảm? Khi đó, chúng ta sẽ có kiệt tác Eternal Sunshine Of The Spotless Mind của bộ đôi đạo diễn Michel Gondry và biên kịch Charlie Kaufman. Bộ phim sử dụng đề tài “can thiệp kí ức” để khám phá bản năng con người khi tình yêu tan vỡ. Sẽ ra sao nếu khi chia tay một ai đó, bạn có thể xóa toàn bộ những kí ức vui buồn liên quan đến họ ra khỏi tâm trí? Sau khi Joel biết được Clementine – người yêu cũ của anh đã xóa kí ức tình yêu, anh quyết định bản thân mình cũng sẽ thực hiện việc này. Nhưng khi anh khám phá được điều gì đã khiến họ gắn kết rồi lại chia xa, anh nhận ra mình vẫn còn tình cảm dành cho cô. Nếu như công nghệ trong phim là thứ hư cấu thì cảm xúc giữa hai nhân vật trong Eternal Sunshine hoàn toàn chân thực, lay động trái tim người xem, khiến ai cũng phải thổn thức.

Under The Skin (2013)

Sci-fi x Experimental film

Cuối cùng, không thể không nhắc đến bộ phim sci-fi mang tính thể nghiệm, tiên phong đáng nhớ: Under The Skin. Có rất nhiều phim lấy đề tài sinh vật ngoài hành tinh xâm nhập Trái đất, nhưng có lẽ chưa bộ phim nào kể câu chuyện thật đặc biệt nhưng lại với nhịp điệu từ tốn như Under The Skin. Scarlett Johansson trong vai sinh vật ngoài hành tinh vô danh chỉ làm đúng một công việc là đi lang thang trên một chiếc xe tải, lựa chọn những người đàn ông cô đơn làm con mồi. Bộ phim rất kiệm lời thoại, khiến người xem rợn người không chỉ bởi những hình ảnh thị giác lạ mắt mà còn bởi thứ âm nhạc cũng đầy tính thể nghiệm độc đáo của Mica Levi. Tuy nhiên, nếu chỉ tập trung vào thể nghiệm mà bỏ qua nội dung, Under The Skin đã không gây được tiếng vang lớn như thế trong cộng đồng điện ảnh. Sau tất cả, bộ phim của đạo diễn Jonathan Glazer lại khiến người xem trăn trở nhiều về thân phận làm người.

Hoàng Đức Nhiên

Đọc bài viết

Trà chiều

The Terminator & Blade Runner: Hai tượng đài điện ảnh độc đáo của thập niên 80

Published

on

Cùng ra mắt vào thập niên 80, The Terminator (1984) và Blade Runner (1982) đều là hai kiệt tác điện ảnh độc đáo, góp phần rất lớn trong việc tạo ra diện mạo mới cho thể loại sci-fi.

Bài viết này sẽ dẫn dắt bạn khám phá những vấn đề khác nhau được đặt ra trong hai phim: từ những dòng suy tư về mối liên hệ nhân quả giữa hành động và thời gian trong The Terminator đến không gian đô thị đậm chất noir và những truy vấn về bản chất con người trong Blade Runner.

The Terminator (1984)

The Terminator là bước đột phá ngoạn mục trong sự nghiệp điện ảnh của đạo diễn James Cameron. Vào thời điểm ra mắt, bộ phim gây ấn tượng bởi việc pha trộn nhiều đặc tính giữa các thể loại khác nhau, mang đến màu sắc mới cho dòng phim sci-fi.

The Terminator kể câu chuyện về một người máy sát thủ ra đời năm 2029, được trao nhiệm vụ quay về năm 1984 để giết người phụ nữ trẻ tên là Sarah Connor. Sarah hoàn toàn không biết rằng cuộc đời cô có ảnh hưởng đáng kể đến số phận nhân loại và cô có thể chết bất cứ lúc nào dưới sự truy sát của cỗ máy bất khả chiến bại được gọi là Kẻ Hủy Diệt. Kyle Reese cũng đến từ tương lai nhưng nhiệm vụ của anh là bảo vệ Sarah – người mẹ của thủ lĩnh tương lai.

Với cốt truyện như thế, The Terminator vừa có những pha hành động mãn nhãn, vừa có nhiều tầng suy tư phức tạp về dòng chảy của thời gian, về phương thức thay đổi một sự kiện trong quá khứ có thể dẫn đến tương lai khác biệt hoàn toàn – đây vốn là chủ đề hiếm gặp trong phim hành động ở giai đoạn đó. Ngoài ra, những bản nhạc nền tạo không khí căng thẳng của nhạc sĩ Brad Fiedel cũng góp phần lớn vào thành công của phim.

Tất cả những nhân tố đó đã khiến phim trở thành một mảnh ghép quan trọng của văn hóa đại chúng đến tận ngày nay. Câu nói “I'll be back” của nhân vật Kẻ Hủy Diệt trong phim được sử dụng phổ biến, trở thành slogan thương hiện cho chính Arnold Schwarzenegger.

Từ năm 1984 đến nay, The Terminator đã sản xuất 6 phần phim: The Terminator (1984), Terminator 2: Judgment Day (1991), Terminator 3: Rise of the Machines (2003), Terminator Salvation (2009), Terminator Genisys (2015), Terminator: Dark Fate (2019). Tất cả những phần phim này đều đạt được doanh thu khủng, riêng phần đầu tiên The Terminator đã trụ vững ở vị trí số 1 trên bảng xếp hạng phòng vé ở Mỹ trong suốt hai tuần. Năm 2008, The Terminator đã được Thư viện Quốc hội Hoa Kỳ đưa vào Viện lưu trữ phim quốc gia để bảo tồn với lí do là bộ phim “nổi bật ở phương diện văn hóa, lịch sử, và mĩ học”.                          

Blade Runner (1982)

Không may mắn như The Terminator, Blade Runner của đạo diễn Ridley Scott là một tuyệt tác có số phận khá hẩm hiu khi vừa ra đời. Tuy nhiên, qua nhiều thập kỉ với những bản dựng khác nhau, tác phẩm này đã trở thành một tượng đài lớn của thể loại sci-fi.

Dựa trên tiểu thuyết gốc Do Androids Dream Of Electric Sheep? của nhà văn Philip K. Dick, Blade Runner vẽ nên viễn cảnh ảm đạm của thế giới vào năm 2019. Khi đó, thế giới tràn ngập những replicant – người máy có hình dạng giống con người, được tạo ra với vòng đời ngắn ngủi để làm những công việc nguy hiểm phục vụ cho con người. Một nhóm replicant bất mãn trước việc này đã làm một cuộc phản loạn, quay trở về Trái Đất và giết con người. Rick Deckard, một cảnh sát đã nghỉ hưu ở Los Angeles nhận nhiệm vụ phải truy lùng và tận diệt toàn bộ nhóm replicant nổi loạn này.

Blade Runner là sự pha trộn giữa sci-fi, trinh thám và phim noir – thể loại phim hình sự tội phạm mang đậm phong cách Hollywood, thường thể hiện thái độ hoài nghi, mỉa mai. Thông qua hành trình của Rick Deckard, bộ phim đặt ra nhiều câu hỏi triết học về tính người, thế nào là một con người.

Nhưng không chỉ sâu sắc về nội dung, Blade Runner còn là bữa tiệc chiêu đãi về thị giác qua cách bộ phim thể hiện không gian đô thị tương lai với những màn hình quảng cáo lớn, đèn neon luôn lấp lánh và đường phố lúc nào cũng nhộn nhịp. Cảm hứng thị giác của phim kết hợp từ những bức tranh cổ điển của danh họa Edward Hopper và các khu phố với những tòa nhà chọc trời ở Hong Kong. Sự kết hợp này đã tạo nên không gian thị giác ấn tượng của phim khi con người bị nhấn chìm trong công nghệ. Mĩ thuật của phim tạo ảnh hưởng lớn đến cách xây dựng không gian cho những phim sci-fi hay hành động của Hollywood ra đời sau đó như: The Matrix (1999), bộ ba Dark Knight (2005 – 2012) của đạo diễn Christopher Nolan, Ghost in the Shell (2017)…

Ngày nay, Blade Runner đã có một chỗ đứng không thể thay thế trong dòng phim sci-fi với nhiều ảnh hưởng mang tính định hình về mĩ thuật, tư duy về cách kể chuyện và nhân vật. Blade Runner 2049 – phần tiếp theo của phim ra đời vào năm 2017, đúng 35 năm kể từ phần đầu tiên đã không làm người hâm mộ thất vọng với điểm số trên Rotten Tomatoes lên đến 88%.

Hoàng Đức Nhiên

Đọc bài viết

Trà chiều

Hai tác phẩm định hình dấu ấn cá nhân của đạo diễn James Cameron và Christopher Nolan

Published

on

Đạo diễn James Cameron và đạo diễn Christopher Nolan đều là những cá nhân kiệt xuất trong ngành điện ảnh với nhiều bộ phim kinh điển vừa đạt được doanh thu khủng, vừa có giá trị nghệ thuật cao.

Tuy nhiên, khi nhắc đến hai vị đạo diễn tài danh này, có hai tác phẩm đặc biệt mà người hâm mộ điện ảnh không thể nào bỏ lỡ.Hãy cùng Bookish khám phá những dấu ấn đặc trưng cá nhân của đạo diễn James Cameron trong Avatar và của đạo diễn Christopher Nolan trong Inception.  

Avatar (2009)

Năm 2009, bộ phim sci-fi Avatar của đạo diễn James Cameron ra đời đã tạo nên bước ngoặt lớn cho sự phát triển công nghệ điện ảnh. Lần đầu tiên, cả thế giới được xem một bộ phim 3D. Kĩ thuật thị giác đột phá đã khiến trải nghiệm của phim cực kì sống động.

Vào năm 2154, nguồn tài nguyên Trái đất trở nên cạn kiệt dưới sự khai thác của con người dẫn đến khủng hoảng năng lượng. Lúc bấy giờ, tập đoàn RDA đang khai thác unobtanium – một loại khoáng sản có giá trị tại Pandora, một hành tinh tươi tốt mang sự sống giống Trái Đất nhưng lại có bầu khí quyển độc hại cho con người. Pandora là nơi sinh sống của người Na'vi da xanh, có hình dáng và trí óc giống con người. Để tìm hiểu về người Navi và sinh quyển ở Pandora, các nhà khoa học sử dụng cơ thể người lai Na’vi gọi là các Avatar, được hoạt động thông qua liên kết thần kinh với những người có kiểu gen phù hợp. Jake Sully là một cựu lính thủy quân được giao nhiệm vụ trà trộn vào hành tinh Pandora. Quá trình thực hiện nhiệm vụ đã khiến anh bị giằng xé giữa việc tuân theo mệnh lệnh hay bảo vệ xứ sở mà anh đã trót xem là quê nhà.

Đạo diễn James Cameron đã mất đến 15 năm để thực hiện Avatar từ lúc bộ phimcòn là ý tưởng năm 1994 cho đến khi ra đời năm 2009. Sở dĩ bộ phim mất nhiều thời gian như vậy là do Cameron không chỉ trau chuốt về mặt nghệ thuật mà còn cả kĩ thuật: từ công đoạn làm việc với chuyên gia ngôn ngữ để tạo ra tiếng Na’vi với hơn 1000 từ, cho đến việc tạo ra kĩ thuật 3D. Sự kì công này khiến Avatar chiều lòng được cả khán giả đại chúng lẫn giới hàn lâm. Avatar luônđứng đầu danh sách phim ăn khách nhất mọi thời đại với doanh thu lên đến 2,7 tỉ USD, và chỉ bị Avengers: Endgame vượt mặt vào năm 2019 sau suốt 10 năm thống trị bảng vàng.            

Avatar 3 dự kiến sẽ ra mắt vào năm 2025, tiếp tục hứa hẹn mang đến những thành tích khủng trong tương lai. 

James Cameron

Inception (2010)

Hầu như những bộ phim của đạo diễn Christopher Nolan đều có các yếu tố như: du hành thời gian, tìm hiểu bản chất thế giới… khiến người xem vừa rối não lẫn rối lòng. Và Inception chính là một tác phẩm hội tụ đủ các yếu tố làm nên thương hiệu Nolan, trở thành một tượng đài khó quên trong lòng người hâm mộ.

Inception là một trải nghiệm điện ảnh đáng nhớ khi Nolan cố gắng hình tượng hóa kiến trúc tư duy của con người, biến tiềm thức trở thành không gian vật lí cho các hoạt động đánh cắp được diễn ra. Bộ phim kể về một tên trộm có khả năng đi vào giấc mơ của người khác. Dom Cobb không trộm gì cả, anh chỉ trộm ý niệm. Bằng việc thâm nhập vào tiềm thức của đối tượng, anh có thể lấy thông tin mà đến cả những tay hacker sừng sỏ nhất cũng không thể làm được. Trong thế giới điệp viên, Cobb là vũ khí tối thượng. Nhưng kể cả vũ khí cũng có nhược điểm, khi Cobb gần như mất tất cả mọi thứ, anh được giao một nhiệm vụ cuối cùng để chuộc lỗi. Lần này, Cobb không gặt lấy ý niệm, anh gieo nó. Liệu anh và đồng đội có thành công?

Christopher Nolan

Inception có một kịch bản hoàn hảo, từng thế giới giấc mơ xuất hiện trong phim vừa chính xác, tinh tế, đôi khi lại hài hước. Thời gian là chủ đề yêu thích của Nolan và ông luôn tìm được cách thể nghiệm thú vị, có thể thấy rõ điều này qua cả phim InterstellarDunkirk. Nhưng trong Inception, thời gian không chỉ là chủ đề mà còn là công cụ kể chuyện khi tái hiện lại hoàn hảo nỗi ám ảnh của kẻ cắp giấc mơ. Từ đó, bộ phim đặt ra nhiều câu hỏi hóc búa: liệu rằng ta có đang sống trong thời gian thực, khi nào thì một giấc mơ trở thành thực tế, khi nào thì thực tế hóa ra lại chỉ là một giấc mơ, ta đang thức hay còn mơ?

Thông qua Inception, Nolan lồng ghép rất nhiều khái niệm về sự logic giấc mơ, đảo ngược các nguyên tắc vật lí, cho thấy những thực tại có thể vỡ vụn ra sao… Tất cả hòa quyện vào nhau, tạo thành một tác phẩm sci-fi tâm lí đỉnh cao mà có lẽ nhiều thập kỉ sau, vẫn còn khiến người ta trầm trồ.

Hoàng Đức Nhiên

Đọc bài viết

Cafe sáng