Trà chiều

Từ cây bút Thiên Long, tôi nghĩ về cuộc đời

Khởi điểm, TL-023 mà tôi đang sử dụng vốn chẳng có điều gì đặc biệt gắn liền với nó. Nhưng chỉ bằng một việc đơn giản là nó đã ở bên cạnh tôi khoảng thời gian quá lâu; những ngày này, khi cầm nó trên tay, khi viết mà mực vẫn ra đều, tôi bỗng cảm thấy nó đặc biệt – không biết từ lúc nào, cảm giác đặc biệt đó lại hình thành.

Published

on

Có bao nhiêu điều tôi đã suy nghĩ rằng mình sẽ viết vào những thời điểm khác nhau của năm nay; nhưng cuối cùng, tôi đã không viết; và rốt cuộc, bây giờ tôi lại phải suy nghĩ xem mình sẽ viết gì mặc dù tôi vẫn còn nhớ mơ hồ mình đã từng muốn viết gì nhưng không thể cứ đơn giản lấy suy nghĩ của vài tháng trước, hay vài tuần trước mà đắp vào đây là được. Cánh tay và bả vai vẫn còn cảm giác mỏi, lồng ngực vẫn còn cảm giác căng và tức – đôi lúc tựa hồ như có một lực gì đó ép vào; nhưng dù sao, thể trạng hiện tại của tôi cũng đã đỡ hơn cách đây hai tuần rất nhiều nên tôi muốn tranh thủ viết ra một chút – vẫn với lí do cũ: để sau này còn nhớ lại tôi đã suy nghĩ những gì vào năm nay, dù rằng những dòng dưới đây không thể bao hàm được tất cả. Tôi sẽ gõ cho đến khi nào cánh tay, bả vai và lồng ngực bên trái lên tiếng thì dừng lại; tôi mong chúng sẽ cho tôi đủ thời gian.

Dù sao thì có lẽ tôi cũng không thể viết quá dài như những năm về trước – không phải chỉ vì bị căng cơ quanh vùng ngực và bả vai dẫn đến cánh tay đau nhức ngay thời điểm này, có lẽ vì tôi nhận thấy những điều mình từng rất muốn viết ra không còn quá quan trọng để viết ra nữa – hoặc là tôi không còn đủ động lực để viết ra một cách tường tận như đã từng, tôi chỉ muốn điểm lại qua loa cho xong nhiệm vụ không biết từ lúc nào đã tự đặt ra cho mình vào mỗi năm; sau đó, có thể tôi sẽ ngồi thả lỏng hai vai và xem nốt những phần bài giảng còn lại của Aaron Sorkin trên MasterClass – nhân tiện, tôi khá bất ngờ về cách nói chuyện của ông khi giảng dạy. Lúc xem trailer và rồi nhìn poster lớp học của ông, tôi đã thấy khuôn mặt ông thật đạo mạo, nghiêm túc. Điều đó khiến tôi hình dung lớp học của ông cũng sẽ chán hệt như lớp của David Lynch, ông sẽ nói chuyện vòng vo hoặc đi thẳng vào vấn đề nhưng tựu trung là sẽ khô khan, đến mức dù có tưới nước vào thì nước cũng không thể thấm xuống và làm mềm đi mà chỉ có thể trượt qua bề mặt khô đó vì nó đã đông cứng như một khối kim loại. Tôi đã hình dung ông khô khan đến mức như thế. Nào ngờ, ông có lẽ là một trong số rất ít người dạy thực sự có tâm trên MasterClass: ông không nói vòng vo mà đi thẳng vào vấn đề, dẫn chứng rất nhiều ví dụ sinh động hợp với ý ông đang nói đến nỗi có vài video, tôi cứ phải bấm pause và ghi chép lia lịa vào sổ tay để nhớ lời ông nói – tôi còn định sau này khi nào hết đau tay, tôi sẽ gõ ngược lại những gì mình đã ghi chép trong sổ vào máy tính nữa, thế là tôi được ghi lại hai lần những lời ông nói – điều đó sẽ khiến tôi ghi nhớ kĩ hơn một chút, một cách ghi nhớ khá là truyền thống. Thực ra, tôi đã có thể làm một cách khác gọn nhẹ hơn – tôi đã thử và thành công: dùng một micro hoặc earphone có kèm mic, bật Google Translate lên, nhấn vào biểu tượng micro trong Google Translate; sau đó, phát video ông đang nói và chĩa micro vào loa – Google Translate sẽ tự động nhận diện giọng tiếng Anh rồi gõ lại toàn bộ lời ông đang nói. Đương nhiên, GT không thể chuyển đổi lại đúng hoàn toàn nhưng khả năng chính xác có lẽ cũng rơi đâu đó tầm 70 – 80% và tôi chỉ cần chỉnh sửa lại một chút là được, sẽ nhanh hơn rất nhiều so với việc tôi ngồi chép lại toàn bộ lời ông nói vào sổ tay, rồi từ sổ tay gõ lại vào máy tính. Nhưng nếu để GT tự động chuyển đổi âm thanh thành kí tự theo cách kể trên thì có lẽ lời ông nói cũng thành gió thoảng mây bay với tôi. Chưa kể, tôi còn biết một cách chuyển đổi nhanh hơn cách vừa kể nhưng cách này chỉ áp dụng đối với những video không quá nghiêm ngặt chuyện bản quyền. Nếu có một video bài giảng khiến bạn quá hứng thú, bạn muốn lưu trữ lại thông tin trong video thành chữ để tiện đọc lại khi cần thì bạn có thể upload cả video đó (trong điều kiện bạn có file video hoặc biết cách tải file) lên Youtube, set chế độ private, set chế độ ngôn ngữ tiếng Anh (hoặc ngôn ngữ chính xuất hiện trong video đó), làm việc khác, kiểm tra lại Youtube sau khoảng một, hai tiếng hoặc một ngày (tùy theo độ dài của video) và bùm – Youtube đã làm xong file phụ đề tự động cho cả video đó, bạn chỉ cần tải xuống file phụ đề – đuôi nào cũng được nhưng tôi thường chọn đuôi .srt để dễ mở trong Notepad, rồi từ Notepad, tôi sẽ copy – paste vào Word, làm thêm vài bước thủ công nhanh gọn nữa để từ một file phụ đề có timecode thành file word sạch tinh tươm chỉ có chữ. Thế là xong. Lần đầu tiên làm được chuyện này, tôi đã rất khoái trá. Cách này cũng có thể áp dụng với cả một đoạn audio bạn thu âm (đương nhiên, âm thanh bạn thu được phải tốt, to rõ, không có tạp âm). Bạn có thể convert file audio thành video và up lên Youtube rồi làm cách bước tương tự sau đó. Công nghệ quả thật kì diệu. Tôi nhớ mười năm trước đây, tôi chỉ dám mơ mà không nghĩ là mười năm sau, điều này có thể thực hiện được – tuy không hoàn toàn hoàn hảo, Youtube (thực chất cũng là Google) vẫn nhận diện âm thanh sai đôi chỗ, nhưng về cơ bản theo tôi nhận thấy là đúng đến 60 – 70%, bạn vẫn phải đọc soát lại để sửa lỗi sai – tuy vậy, nó cũng đã khiến công việc của bạn nhẹ gánh đi rất nhiều; và có lẽ, Google vẫn luôn cải thiện thuật toán để khả năng chuyển đổi từ âm thanh sang chữ viết ngày càng chính xác hơn.

Thời còn học đại học, tôi cũng có một niềm vui nho nhỏ mà cũng là một cảm giác cơ cực nho nhỏ mỗi lần phỏng vấn nhân vật. Giống như thầy cô hay những anh chị đi trước thường nói: lúc phỏng vấn được một nhân vật kể những câu chuyện, nói những thông tin thú vị thì rất vui; nhưng rồi công đoạn xả băng sau đó khi về nhà cũng rất “phê”. Ban đầu, tôi không hiểu tại sao đã thu âm rồi lại còn ghi chép tốc kí trong sổ tay. Thế là có một lần, tôi không còn nhớ lúc đó đã phỏng vấn ai nhưng tôi chợt nghĩ mình không cần phải ghi chép lia lịa trong sổ tay nữa, cứ để điện thoại thu âm thôi và rồi hai tay để không, thư giãn đằng trước – một phép tâm lí mà sách ngôn ngữ cơ thể có giải thích là cho đối phương thấy bạn không phòng bị chút gì – mắt chăm chú nhìn nhân vật để họ biết rằng tôi luôn lắng nghe (tôi cũng cho rằng điều này sẽ tốt hơn thay vì cứ nhìn họ rồi lại cúi xuống nhìn cuốn sổ và hí hoáy ghi chép). Tôi không biết việc mình làm thế có giúp họ cởi mở hơn không khi chia sẻ, nhưng rốt cuộc sau đó, tôi mới nhận ra sự tai hại khi bước qua công đoạn xả băng. Tôi không thể xả băng (à, tôi mới chợt nhớ ra hình như một số người còn gọi công đoạn này là rã băng – tôi cũng thích cả cái tên này nữa, từ một khối âm thanh liền mạch thống nhất, ta rã băng giống như rã thức ăn đông lạnh để nó biến thành những từ riêng lẻ rõ ràng; rồi từ những từ đó, ta lại chế biến nó thành các món ăn văn bản khác nhau: một câu trích dẫn, một thông tin trong bài báo, tất tần tật các thể loại phi hư cấu; hoặc ta tiến hành bước chế biến sau chế biến – có lẽ gọi là siêu chế biến – để nó thành một văn bản trong thể loại hư cấu như truyện ngắn, tiểu thuyết…) ngay sau khi phỏng vấn vì bận việc gì đó; phải hai, ba ngày sau đó tôi mới thực hiện được công đoạn này – và khi đó, đã đủ thời gian để tôi quên thứ tự trước sau những lời họ nói. Tôi biết chắc rằng mình không thể lấy hết nội dung họ đã nói để đưa vào bài viết, chỉ có thể lấy một vài ý chính phục vụ, tôi nhớ họ có nói ý đó nhưng lại không nhớ ý đó xuất hiện trước hay sau và để tìm lại ý mình cần, tôi phải nghe một đoạn dài, trả tới trả lui file ghi âm mới tìm ra. Lúc đó, tôi mới nhận thấy việc ghi chép vào sổ tay sẽ giống như tạo ra một guideline – nhờ đó, tôi sẽ nhanh chóng tìm được đúng ý mình cần tìm hơn. Thế là từ đó về sau, tôi hầu như không bao giờ dám chểnh mảng nữa, việc ghi âm phải được tiến hành đồng thời với cả ghi chép. Nhưng ngày nay, với công cụ thông minh nhận biết giọng nói của AI, nếu rơi vào tình huống giống ngày xưa, tôi đã có cách rã băng theo kiểu mới. 

Ngẫm nghĩ lại thì năm nay, công việc chủ yếu tôi đã làm cũng có thể gói gọn trong hai chữ “ghi chép” – theo cả nghĩa hẹp lẫn nghĩa rộng. Nhiều tháng liền tôi đã ngồi ghi ghi chép chép lại những phần bài giảng mình tâm đắc trên MasterClass, edX, và các nền tảng giáo dục trực tuyến… Tôi chép nhiều đến nỗi hết cả hai cuốn sổ tay. Ấy thế nhưng cây bút bi Thiên Long màu xanh huyền thoại với số hiệu TL-023, ngòi 0.8 mm vẫn chưa chịu hết mực sau ba năm tôi sử dụng, mặc cho bao nhiêu cuốn sổ đã phải thay; vì là ngòi 0.8 mm nên nét của nó không thanh mảnh, khá to bè, tuy vậy tôi không hiểu sao lượng mực của nó có thể ra nhiều và đậm như thế, qua một thời gian dài vẫn chưa hết mực, mực vẫn tiếp tục đậm và ra đều – cũng chính bởi lí do này mà mặc dù tôi đã khá lăn tăn trước cây bút bi màu đen (và cả xanh) của Muji ngòi 0.5 mm thanh mảnh, viết rất êm tay, nét rất đẹp, cuối cùng tôi vẫn bỏ lại nó không mua vì nghĩ đến cây bút bi Thiên Long màu xanh còn ở nhà không hiểu bằng cách nào tồn tại được đến ba năm (và cả những cây viết Thiên Long khác còn nguyên trong một hộp khi mua sỉ bởi cây tôi đang viết ba năm rồi chưa hết mực nên những anh chị em khác tôi còn chưa có cơ hội đụng đến). Ngày hôm đó, khi còn trong cửa hàng Muji – cả đến khi đã ở quầy thanh toán, tôi vẫn có chút tiếc nuối khi quyết tâm không mua bất kì một cây viết nào dù ưng ý ra sao, bởi lẽ tôi biết rằng chắc phải rất nhiều năm nữa tôi mới quay lại cửa hàng Muji – tôi chẳng có lí do gì để quay lại đó cả, thứ cần mua nhất tôi đã mua xong. Thế nhưng khi về nhà, lúc lại có việc cần ghi chép, tôi cầm cây bút Thiên Long và quyển sổ tay để sẵn gần máy tính lên để làm việc – ngay khi đó, tôi thấy mình không có gì phải hối hận nữa cả. Vẫn như bao lần, mực vẫn đậm lè đậm lét, đậm đến mức tôi thấy nó không có chút thẩm mĩ nào (thật khác xa so với nét thanh mảnh yêu kiều của cây Muji 0.38 hay 0.5 mm), đậm đến mức nếu không may lỡ chạm tay vào phần vừa viết xong thì mực sẽ lem vào tay tôi (nhưng tôi đã quá quen với việc sử dụng nó nên tai nạn này không còn xảy ra thường xuyên nữa). Vậy mà không hiểu sao tôi lại thấy hài lòng và có chút xúc động. Nó vẫn bền bỉ, đáng tin cậy và hữu dụng như thế. Đến bây giờ, tôi vẫn không thể hiểu phép thần kì nào có thể khiến cho một cây viết sử dụng được lâu như vậy – những ba năm – mà trong suốt ba năm đó, tôi lại viết rất nhiều, hết cuốn sổ này đến cuốn sổ khác. Tôi đã không tiếc gì mà không dùng nó. Có việc gì cần tôi cũng lấy nó ra để viết vì tôi mong cho nó mau mau hết mực để tôi còn được dùng các cây viết khác đẹp hơn cả về nét lẫn kiểu dáng bên ngoài. Cây viết này vốn đã chẳng có một ý nghĩa đặc biệt nào với tôi. Nó chỉ là một cây viết bình thường. Chẳng phải giống như trong một bộ phim hay một câu chuyện, có ai đó mua tặng nó cho tôi vào dịp đặc biệt, tôi rất trân quý nó và cố gắng sử dụng nó càng lâu càng tốt. Không, không một điều nào trong những điều trên có thể áp dụng vào trường hợp này mà tất thảy đều ngược lại hoàn toàn. Nó chỉ là một cây viết hết sức bình thường – tôi đã viết câu này đến lần thứ hai rồi để nhấn mạnh sự bình thường của nó. Ban đầu, tôi thậm chí còn đã sử dụng nó với một chút hậm hực – tại sao tôi lại phải viết một cây viết có nét xấu như thế này? Ngòi 0.8 mm là quá to và dày. Nhưng vì công việc, tôi bắt buộc phải sử dụng nó. Tôi đã chẳng có một chút thương hoa tiếc ngọc nào. Tôi dùng nó tàn bạo ngày qua ngày. Nhưng bất kể là lúc tôi đang vui hay buồn, tâm trạng thoải mái hay bực dọc, nó vẫn cần mẫn đáp ứng các tác vụ của tôi một cách đều đặn như người làm việc chuyên nghiệp, không hề có chút phản kháng bằng những lần bỗng dưng viết mà mực không ra – tôi nhớ mình chưa từng phải vung vẩy nó một cách tức giận trong không trung để mực chảy xuống phía ngòi, cũng chưa từng phải hoang phí một tờ giấy nào để quẹt lung tung lên đó hòng cho mực quay trở lại – nó không hư hỏng như nhiều cây viết khác tôi từng viết. Có một thời gian, tôi rất thích sưu tầm viết bi các loại ở tầm giá bình dân – trung bình (hàng cao cấp tôi không bao giờ đụng đến, tôi chỉ thích dùng những thứ thực dụng, lâu bền; không thích dùng những đồ hoa mĩ đắt tiền nhưng mau hư). Tôi mua một loạt nhiều cây viết khác nhau trong tầm giá đó ở nhà sách để trải nghiệm. Nhưng rốt cuộc, có rất nhiều cây viết nét thanh mảnh, kiểu dáng đẹp nhưng chỉ viết được trong khoảng thời gian đầu, đến một lúc nó sẽ xảy ra tình trạng mực không ra đều, nét được nét mất khiến tôi phải làm rất nhiều biện pháp triệu hồi mực quay về lại đầu ngòi bút như vừa kể trên. Điều này với tôi thật khó hiểu vì có nhiều cây tôi chỉ viết được một, hai tuần khi nhìn vào ống mực, tôi thấy mực vẫn còn đậm và dài cả khúc, khoảng cách từ đuôi mực đến đầu ngòi bút vẫn còn khá xa, chưa rút về hết; ấy thế mà dù nhiều cây còn đang trong tình trạng đó, có cố gắng làm bao nhiêu lần mực vẫn không ra lại; qua một thời gian cố gắng thử nhiều cách mà không được, tôi đành phải bỏ dù tiếc mực trong cây viết. Từ đó, đối với tôi, việc dùng được cây bút nào đó trong một năm, thậm chí là nửa năm cũng đã quá đỗi thần kì rồi. Vậy mà bỗng dưng tôi lại được dùng cây viết Thiên Long này – ba năm rồi chưa hết mực (cũng có thể ngay khi tôi viết xong những dòng này, vào ngày mai nó hết mực không chừng).

Khởi điểm, TL-023 mà tôi đang sử dụng vốn chẳng có điều gì đặc biệt gắn liền với nó. Nhưng chỉ bằng một việc đơn giản là nó đã ở bên cạnh tôi khoảng thời gian quá lâu; những ngày này, khi cầm nó trên tay, khi viết mà mực vẫn ra đều, tôi bỗng cảm thấy nó đặc biệt – không biết từ lúc nào, cảm giác đặc biệt đó lại hình thành. Nghĩ lại thì, nó đã cùng tôi trải qua ba năm đầy biến động trong cuộc đời, nó chứng kiến mọi buồn vui và nắm rõ mọi mưu cầu tri thức của tôi. Trong năm 2019, nó đã cùng tôi viết lại những câu trích dẫn từ sách, những suy nghĩ thoáng qua của tôi khi đọc sách – để rồi từ những ghi chép vụn vặt, nó trở thành một bài review sách hoàn chỉnh. Trong năm 2020 và 2021, nó cùng tôi lưu giữ lại những ý tứ thú vị, những kiến thức bổ ích trong quá trình tôi học nhạc trên MasterClass, edX… Nó đã giúp tôi tiết kiệm rất nhiều tiền mua bút; trong ba năm vừa qua, tôi không phải tốn một xu nào để mua bút nữa. Nghĩ lại thì, đúng là nó đã làm việc vất vả cùng tôi. Dù tôi còn muốn đồng hành với nó trong một thời gian dài nữa, tôi cũng hiểu một điều là không cây bút nào sẽ tuôn mực mãi mãi như một dòng chảy vĩnh cửu. Sẽ đến lúc nó đình công, sẽ đến lúc nó dừng lại. Có thể ngày mai hoặc ngay bây giờ. Nhưng tôi sẽ mỉm cười chấp nhận – đương nhiên, nếu không chấp nhận thì phải làm sao. Vào đầu năm ngoái, ở phần giới thiệu bản thân trên Facebook tôi đã sửa lại là “0” (phần giới thiệu cũ là Replaceable – tôi cũng muốn viết một chút về dòng chữ này nhưng viết ra thì nó sẽ khá lan man, dài dòng nên tạm thời bỏ qua) – bởi vì lúc đó tôi đã quyết tâm sẽ học nhạc nghiêm túc để có thể làm một bài nhạc hoàn chỉnh nên cảm thấy như mình bắt đầu lại hoàn toàn từ con số 0. Thời gian đầu tiên, con số 0 đó khiến tôi có nhiều cảm xúc lẫn lộn: vừa háo hức, vừa trống rỗng, sợ hãi, hoang mang, xen lẫn niềm vui, hạnh phúc, buồn bã, có khi phấn khích đến nỗi thức cả đêm làm nhạc hoặc học qua video bài giảng, nhưng cũng có những lúc lại nghẹn ngào rưng rưng vì không biết mình nên làm gì, sẽ làm gì. Sau hai năm, đến thời điểm hiện tại, có lẽ tôi đã dần bước qua giai đoạn đó. Khi nhìn lại, tôi cũng giật mình nhận ra đã hai năm rồi mình chuyên tâm học nhạc (dù tôi muốn chuyên tâm 100% nhưng thật khó để đạt được điều đó, tự đánh giá mức độ chuyên cần của mình tôi nghĩ nó chỉ ở tầm 60% – nghĩa là kiến thức và kĩ năng tôi hiện đang có, nếu rơi vào tay một người chuyên tâm hơn thì họ chỉ mất khoảng một năm hoặc ít hơn để đạt được). Điều đó cũng có nghĩa là hai năm rồi tôi không thực sự đọc sách, không thực sự viết; nhưng bù lại để kiếm tiền học nhạc (cho tương lai) và mua nốt một số món đồ còn thiếu (headphone, loa kiểm âm – tôi lập kế hoạch từ đầu năm ngoái rồi), năm nay lại là năm tôi dịch khá nhiều nếu so với tôi của các năm về trước – hai quyển sách trong thời gian ba tháng, dịch đến nỗi xong quyển thứ hai là vai tôi ê ẩm – cơn đau không phát ngay lập tức mà đến sau đó khoảng một, hai tuần. Đúng là niềm vui hoàn tất việc dịch không thể trọn vẹn khi vừa dịch xong, mình lại phát bệnh nhưng cũng qua chuyện này, tôi thấm thía hơn một điều quá đỗi hiển nhiên: sức khỏe là quan trọng nhất, cả về tinh thần lẫn thể chất. Những năm về trước, tôi chỉ bị suy sụp một trong hai cái nên không thấm thía được điều này; năm vừa qua, có những thời điểm cả hai thứ cùng bị sụp đổ khiến tôi cảm giác rất kinh khủng mà vốn dĩ tôi đã định viết nó ra trong bài tổng kết cuối năm – nhưng rốt cuộc, việc chỉ hồi tưởng về nó cũng khiến tôi thấy mệt mỏi nên tôi quyết định không viết nữa. May mắn là tôi đã tạm vượt qua được các vấn đề về tinh thần trước khi đối diện cơn đau vai và tay lần này – tôi đã không hình dung được việc đau ở hai bộ phận này lại có thể dẫn đến cảm giác căng tức ngực và khiến mình có những giây phút tuyệt vọng như thế; nếu tôi đón nhận nó cùng với đợt khủng hoảng tinh thần hồi tháng 10 thì không biết sẽ ra sao. Nhưng bây giờ, tôi đã có lại một chút tinh thần – vẫn chưa quá nhiều đến mức tràn trề năng lượng để hăng hái làm việc này, việc kia nhưng là vừa đủ để tôi tự nhủ những câu nói tích cực cho mình mỗi khi lại có suy nghĩ tiêu cực, đủ để cố gắng sinh hoạt điều độ hơn trước và tập bài giãn cơ mỗi ngày với hi vọng một lúc nào đó nó sẽ hết đau, hết biểu tình và tôi lại có thể thoải mái ngồi đàn, gõ bàn phím, tay cầm sách đọc hoặc làm những việc khác đòi hỏi sự chia đều hoạt động ở hai cánh tay. Bây giờ, tôi phải tạm thời giới hạn bản thân không được đàn hay gõ quá nhiều mỗi ngày (cũng chính vì vậy mà tôi đã phải mất ba ngày để gõ đến đây cho bài viết này, gõ từ năm cũ sang năm mới – có thể lúc trước, tôi chỉ mất mấy tiếng gõ liên tục là xong), bởi khi để tay ở tư thế gõ phím hay đánh đàn, phần khuỷu tay trái của tôi sẽ nhanh mỏi và đôi khi là cảm thấy đau chỉ sau vài phút.

Năm nay (ý tôi là năm vừa qua – tôi vẫn chưa kịp thích nghi được trong cách dùng từ ngữ), sau khi tạm thời vượt qua được những giây phút khủng hoảng tinh thần cao độ, tôi đã đổi dòng giới thiệu bản thân từ “0” thành “I always have myself” – đây cũng là một câu giới thiệu đã cũ, trước đây tôi viết trên Instagram, nhưng câu cũ thì có kèm theo chữ “but”, “but I always have myself”. Chỉ thêm mỗi chữ “but” thôi nhưng câu cũ thành ra lại đáng thương hơn hẳn, kiểu giống như một câu dùng để an ủi bản thân khi quá cô đơn rằng “nhưng lúc nào thì mình cũng có chính mình cơ mà”; mặc dù câu ấy còn có nhiều ý nghĩa khác nữa. Tôi đã quá chán ngán việc tỏ ra bản thân mình đáng thương rồi; đương nhiên, tôi cũng chán ngán luôn cả việc ở khía cạnh ngược lại: tỏ ra mình quá ổn, quá tích cực để không làm phiền mọi người xung quanh, để giữ mọi thứ nếu không ở trạng thái tích cực thì cũng là trung tính. Vậy nên, tôi muốn bỏ chữ “but” trong câu giới thiệu ngày xưa. “I always have myself” – đơn giản là như thế. Đó vừa là câu khẳng định, vừa là mong ước duy nhất của tôi lúc này. Năm 2021 khiến tôi nhận ra những mơ ước trước kia của mình không còn quá thiết yếu nữa; hoặc để thực hiện những ước mơ kia, chí ít và tối thiểu là tôi phải có điều này trước. “Tôi luôn có chính bản thân mình” – tưởng chừng là một điều luôn hiển nhiên đúng với bất kì ai, nhưng qua năm vừa rồi, tôi nhận ra không phải như thế – chí ít là với tôi; đôi khi, người ta phải thực sự nỗ lực, cố gắng mới đúng được với câu đó. “Tôi luôn có chính bản thân mình” – ở đây là toàn vẹn bản thân, khỏe mạnh về cả thể chất lẫn tinh thần. Tôi nhận ra đã có những thời điểm tôi có chính bản thân mình nhưng lại không biết quí trọng điều đó – vì tôi cho đấy là điều hiển nhiên, thế là tôi lại tìm kiếm giải pháp từ những điều nằm bên ngoài. Để rồi khi bị bệnh về tinh thần hoặc thể xác, mà đặc biệt là về tinh thần, người cô đơn vẫn còn hơn người mắc bệnh tâm lí ở chỗ họ luôn có chính bản thân mình, còn người mắc bệnh tâm lí thì không, họ không thể có 100% chính họ, họ chỉ có 60, 70% là họ hoặc ít hơn thế. Và rồi tôi nhận ra, những năm vừa qua tôi không hề yếu đuối về mặt tinh thần như mình nghĩ (hoặc như mọi người nghĩ) bởi lẽ dù buồn như thế nào, tôi luôn có 100% bản thân mình, tôi biết mình đang nghĩ gì và tôi biết vì sao mình buồn, cũng biết cách chung sống hòa bình với nó, tôi chưa bao giờ đánh mất bản thân mình cả. Nhưng vào tháng 10 năm vừa rồi, nếu cho tôi định lượng một cách toán học để dễ hình dung, tôi nghĩ mình đã chỉ có 70% bản thân mình, hoặc có khi là 60%; lần đầu tiên tôi mới có cảm giác mình đang dần đánh mất mình, giống như câu mở đầu kinh điển trong cuốn Nghệ sĩ hình thể của Don DeLillo mà tôi rất thích: “Tôi là Lauren nhưng ngày càng ít đi.” (I’m Lauren. But less and less.) Một câu giới thiệu nhân vật không thể ngắn gọn, súc tích mà gây ấn tượng mạnh mẽ hơn thế nữa. Với tôi đây là một (trong tiếng Anh thực chất là hai, nhưng thôi cứ xem là một) câu văn thiên tài, tôi ấn tượng câu văn này ngay lần đầu tiên đọc cách đây mười năm và cứ nhớ mãi; mỗi khi có dịp nói chuyện về chủ đề văn chương, vào ngữ cảnh thích hợp là tôi cứ lôi câu này ra khen lấy khen để, giới thiệu cho bạn bè đọc cuốn này nếu họ chưa đọc. Câu này có một vị trí đặc biệt với tôi – có thể vì tôi chưa đọc sách đủ nhiều để tìm một câu khác hay hơn. Thú thật, tôi không còn nhớ nội dung toàn bộ quyển sách này, chỉ nhớ đúng mỗi câu văn đó; nhưng trong kí ức mơ hồ của tôi, tôi nhớ khi đọc xong quyển này mình cũng có cảm giác hài lòng, nhớ rằng mình cũng thích không khí, văn phong của Don DeLillo và cũng tự nhủ bản thân nếu có dịp thích hợp thì sẽ đọc thêm một tác phẩm nào đó khác của ông (đến nay, đó vẫn là cuốn duy nhất của ông tôi được đọc). Tôi chỉ không ngờ là cuối cùng, đến năm 2021, tôi mới thực sự thấm thía cảm giác mình ngày càng ít là chính mình hơn, tựa như bản thể của tôi biến thành một lớp layer trong phần mềm đồ họa nào đó và người thiết kế cảm thấy sự có mặt của tôi trong tổng thể bức tranh không cần quá tô đậm nên đã kéo phần Opacity từ 100% dần dần xuống 70 hay 60%. Đó thực sự là một cảm giác không dễ chịu chút nào khi cứ phải đối mặt với hình ảnh tưởng tượng chi tiết và các tiếng kêu gọi thúc giục trong đầu dù tôi thực sự đã không hề có những suy nghĩ đó. Lần đầu tiên tôi đã lún xuống một cái hố sâu đến nỗi tự mình không thể ngoi lên được mà phải cầu cứu sự trợ giúp của bạn bè dù bình thường, tôi vốn không phải là người thích làm phiền người khác. Và tôi thực sự rất biết ơn sự giúp đỡ mình đã nhận được vào thời điểm đó. Xin dành một dòng ở đây để tri ân và cảm ơn.

Bây giờ, không hẳn là tôi đã có 100% chính mình như những năm về trước, nhưng tôi cảm giác mình cũng đã hồi phục được 90 – 95%; như thế là đủ tinh thần để tôi tiếp tục cố gắng điều trị, tập luyện cho đến khi cơn đau quanh khớp vai, khuỷu tay và lồng ngực biến mất. Tôi đã định chỉ viết vòng vo về cây bút Thiên Long và Muji rồi kết bài; nhưng rốt cuộc lại tràn lan qua câu chuyện “I always have myself” – tuy nhiên, tôi sẽ không tự trách mình vì đã viết dài dòng thêm ý đó ở đây bởi nó là câu, là điều khi có dịp, tôi đã luôn ngẫm nghĩ, phân tích (thực ra, đây cũng là một câu trích dẫn tôi yêu thích từ trong tác phẩm nào đó tôi không nhớ tên, nguyên văn của nó hình như là: “Sao con người có thể nói mình cô đơn khi họ luôn có chính bản thân mình? Tôi không có một ai cả, không một ai… nhưng tôi luôn có chính bản thân mình.”). Trên máy bay vẫn thường có hướng dẫn tự đeo mặt nạ oxy cho mình trước rồi mới cho người khác – tầm quan trọng của việc luôn có 100% bản thân mình cũng giống như vậy. Đầu tiên, cơ bản nhất là sức khỏe thể chất, có sức khỏe thể chất mới có thể giúp người khác dù là giúp ở khía cạnh thể chất hay tinh thần bởi khi phải đối diện với những cơn đau thể xác của chính mình, người ta thường sẽ chỉ tập trung vào cơn đau đó mà không để ý (hay không còn sức lực để quan tâm) đến cơn đau của người khác; đau đớn thể xác cũng dễ làm ta cáu bẳn hoặc có những suy nghĩ bi quan. Tiếp theo là sức khỏe tinh thần, nếu không có đủ 100% tinh thần vững vàng thì khó lòng có thể giúp đỡ một người gặp vấn đề tâm lí dù mình rất muốn. Với những áp lực cuộc sống ngày nay, tôi nghĩ cũng không có quá nhiều người thực sự có 100% tinh thần – vậy chẳng lẽ phải đợi đến khi mình cảm giác trọn vẹn hoàn toàn mới nâng đỡ được tinh thần người khác? Câu trả lời có lẽ sẽ khác nhau tùy mỗi người nhưng với tôi thì cũng không cần thiết phải như vậy, miễn là về cơ bản bạn phải làm chủ được cảm xúc, tinh thần của chính mình, phải kiểm soát được nó ở mức trên 50%, đừng để con số này xuống thấp quá, nếu nó xuống thấp hơn mức đó – nghĩa là hơn phân nửa thời gian, bạn cảm thấy mình không thể kiểm soát chính mình thì cần cẩn trọng trước khi quyết định giúp đỡ ai đó đang có nhiều suy nghĩ tiêu cực vì việc này giống như con dao hai lưỡi; nếu may mắn thì phần trăm tinh thần của cả hai được nâng lên, nhưng thường thì sự tiêu cực của cả hai sẽ được cộng hưởng và lại đẩy mức phần trăm xuống thấp hơn. Đây chẳng phải là bài học mới mẻ gì mà tôi mới biết trong năm 2021, nhưng nhiều năm về trước, tôi vẫn luôn có ảo tưởng hay hi vọng rằng dù tinh thần đang không vững vàng, mình vẫn có thể giúp đỡ những người khác đang trong cảnh tương tự và cả hai cùng tiến lên. Nhưng nay tôi nhận ra rằng việc đó quá khó khăn, nếu muốn giúp người khác thì tôi phải nâng năng lượng tinh thần của mình lên một con số ổn định trước đã – tối thiểu nó phải ở mức 70 – 80% thì tôi mới đỡ sợ sự tiêu cực của mình tác động ngược lại lên sự tiêu cực đã sẵn có trong người ta.

Ngẫm nghĩ lại, việc tôi đột nhiên viết về cây bút bi Thiên Long TL-023 ngòi 0.8 mm mà tôi đã sử dụng suốt ba năm qua cũng có chút liên quan đến cốt lõi tinh thần tôi trong năm 2021 và mong ước dành cho 2022. Tôi mong sức khỏe tinh thần và thể chất của mình có thể ổn định như nó – bất kể khi nào cần là dùng được ngay với hiệu suất ổn định, mượt mà, không gặp trục trặc hay lỗi kĩ thuật nào và có thể kéo dài vòng đời hơn dự kiến – chỉ để tôi có thể ở lại đây thêm chút nữa, làm những việc tôi muốn làm, yêu thêm cuộc đời này, giúp đỡ ai đó trong khả năng có thể nếu họ cần sự giúp đỡ của tôi.

PS:

Nhưng mà, Muji dùng cũng rất ổn định. Tôi đã được một người bạn tặng cây Muji mực đen 0.5 mm. Vì nét của cây này quá đẹp nên tôi chỉ dùng nó cho đúng mỗi việc kí tặng sách. Hình như tôi đã dùng nó trong khoảng hai năm, cho đến năm ngoái khi học lớp “Lược sử âm nhạc”, có một số ngày tôi quên bỏ cây Thiên Long vào lại hộp bút (vì về nhà đã bỏ ra ngoài để ghi chép lúc xem MasterClass hay xem gì đó) nên tôi dùng luôn cây Muji nét đẹp đó để chép lại bài giảng trong tập (nghĩ lại thì hơi phí phạm) và chỉ sau hai, ba buổi chép lia lịa như thế, nó hết sạch mực. Nếu không thì tôi nghĩ mình sẽ còn dùng được nó lâu hơn. Ngay lúc tôi nghĩ mình phải chia tay Muji rồi thì lại tình cờ gặp bạn, bạn lại tặng tôi Muji mực đen nhưng lần này là ngòi 0.38 mm. Nét 0.38 mm lại càng thanh mảnh hơn 0.5 mm, mỗi cái đều có một vẻ đẹp riêng nhưng cái nào viết cũng trơn mượt, cầm thích tay, hiệu suất ổn định – chỉ có điều, vòng đời của nó vẫn không thể nào dài một cách khó hiểu như cây Thiên Long tôi đang dùng. Sau một hồi dông dài, tóm lại là tôi vẫn thích cả hai.

Kodaki

Bạn có thể mua bút Thiên Long TL-023 ngòi 0.8 mm theo đường dẫn ở dưới đây:

Click to comment

Viết bình luận

Your email address will not be published. Required fields are marked *

Trà chiều

Thế giới viễn tưởng độc đáo trong bốn bộ phim mang đậm tính thể nghiệm

Published

on

Thế giới của phim khoa học viễn tưởng không phải lúc nào cũng chỉ có AI, robot, hay du hành không gian mà còn vô vàn những điều đặc biệt khác có thể bạn chưa biết.

Năm 2023 vừa qua đã ghi nhận sự phát triển ngày càng mạnh mẽ của AI. Điều đó khiến cho dòng phim khoa học viễn tưởng nhận được nhiều sự quan tâm trở lại. Nhắc đến dòng phim này, người ta vẫn thường đóng khung nó với vài yếu tố tiêu biểu thường gặp như: AI, robot, du hành vũ trụ, thế giới song song… Tuy nhiên, có rất nhiều tác phẩm sci-fi kinh điển đã chứng minh điều ngược lại.

Hãy cùng Bookish khám phá những bộ phim sci-fi không thuần túy là sci-fi vì ở đó, người xem được tận hưởng bữa tiệc điện ảnh đỉnh cao với những hương vị hòa quyện mĩ mãn từ nhiều thể loại khác nhau.

Back to The Future (1985)

Sci-fi x Road Trip Comedies

Cùng với The Terminator, Back To The Future ra đời năm 1985 đã trở thành biểu tượng kinh điển của dòng phim sci-fi lấy chủ đề du hành thời gian. Đó cũng là một trong những nguyên nhân mà bộ phim này được nhắc đến nhiều lần trong Avengers: Endgame lúc cả nhóm quyết định quay về quá khứ.

Tuy nhiên, không giống như The Terminator, Back To The Future mang màu sắc vui nhộn, hài hước của lứa tuổi học trò. Cậu học sinh tuổi teen Marty McFly ở thập niên 80 vô tình bị kéo về quá khứ trên chiếc xe cỗ máy thời gian của nhà khoa học Emmett Brown. Cậu quay trở về thập niên 50 – lúc này bố mẹ cậu cũng ở lứa tuổi học trò như cậu. Để có thể quay về hiện tại năm 80, cậu phải tìm cách hàn gắn mối quan hệ của bố mẹ, nếu không bản thân cậu cũng sẽ không tồn tại ở năm 80. Từ đó, câu chuyện nảy sinh nhiều tình huống dở khóc dở cuối. Nếu như The Terminator là sự phối trộn hoàn hảo giữa thể loại sci-fi và hành động thì Back To The Future lại là màn kết hợp ăn ý giữa thể loại sci-fi và hài hành trình. Bộ phim tốn kinh phí thực hiện là 19 triệu USD nhưng lại có doanh thu phòng vé lên đến 388 triệu USD. Chính vì thành công này mà đạo diễn Robert Zemeckis đã thực hiện hai phần tiếp theo cũng vui nhộn không kém.

Snowpiercer (2013)

Sci-fi x Dystopia

Bong Joon Ho không chỉ tạo ra những bộ phim sâu sắc về đề tài xã hội mà ông còn có khả năng làm phim khoa học viễn tưởng rất chặt chẽ, thuyết phục. Điều này thể hiện rõ nhất qua Snowpiercer. Phim dựa trên tiểu thuyết Pháp Le Transperceneige lấy đề tài hậu tận thế. Trong tương lai, sau một thí nghiệm thất bại, khí hậu toàn cầu biến đổi dẫn đến gần như toàn bộ sinh vật đều bị diệt vong, ngoại trừ một số người may mắn có mặt trên con tàu Snowpiercer chạy vòng quanh Trái đất với động cơ vĩnh cửu. Tại đây, một xã hội thu nhỏ mới lại được hình thành. Dưới bàn tay tài hoa của Bong Joon Ho, Snowpiercer cũng không đơn giản là tác phẩm sci-fi thuần túy mà ông còn lồng ghép vào nhiều thể loại khác nhau: có những phân đoạn hành động mãn nhãn, đồng thời cũng có những phân đoạn dí dỏm, và cách đặt vấn đề về giai tầng xã hội vẫn mang phong cách rất đặc trưng của Bong. 

Eternal Sunshine Of The Spotless Mind (2004)

Sci-fi x Romance

Sẽ như thế nào nếu kết hợp thể loại sci-fi với phim tình cảm? Khi đó, chúng ta sẽ có kiệt tác Eternal Sunshine Of The Spotless Mind của bộ đôi đạo diễn Michel Gondry và biên kịch Charlie Kaufman. Bộ phim sử dụng đề tài “can thiệp kí ức” để khám phá bản năng con người khi tình yêu tan vỡ. Sẽ ra sao nếu khi chia tay một ai đó, bạn có thể xóa toàn bộ những kí ức vui buồn liên quan đến họ ra khỏi tâm trí? Sau khi Joel biết được Clementine – người yêu cũ của anh đã xóa kí ức tình yêu, anh quyết định bản thân mình cũng sẽ thực hiện việc này. Nhưng khi anh khám phá được điều gì đã khiến họ gắn kết rồi lại chia xa, anh nhận ra mình vẫn còn tình cảm dành cho cô. Nếu như công nghệ trong phim là thứ hư cấu thì cảm xúc giữa hai nhân vật trong Eternal Sunshine hoàn toàn chân thực, lay động trái tim người xem, khiến ai cũng phải thổn thức.

Under The Skin (2013)

Sci-fi x Experimental film

Cuối cùng, không thể không nhắc đến bộ phim sci-fi mang tính thể nghiệm, tiên phong đáng nhớ: Under The Skin. Có rất nhiều phim lấy đề tài sinh vật ngoài hành tinh xâm nhập Trái đất, nhưng có lẽ chưa bộ phim nào kể câu chuyện thật đặc biệt nhưng lại với nhịp điệu từ tốn như Under The Skin. Scarlett Johansson trong vai sinh vật ngoài hành tinh vô danh chỉ làm đúng một công việc là đi lang thang trên một chiếc xe tải, lựa chọn những người đàn ông cô đơn làm con mồi. Bộ phim rất kiệm lời thoại, khiến người xem rợn người không chỉ bởi những hình ảnh thị giác lạ mắt mà còn bởi thứ âm nhạc cũng đầy tính thể nghiệm độc đáo của Mica Levi. Tuy nhiên, nếu chỉ tập trung vào thể nghiệm mà bỏ qua nội dung, Under The Skin đã không gây được tiếng vang lớn như thế trong cộng đồng điện ảnh. Sau tất cả, bộ phim của đạo diễn Jonathan Glazer lại khiến người xem trăn trở nhiều về thân phận làm người.

Hoàng Đức Nhiên

Đọc bài viết

Trà chiều

The Terminator & Blade Runner: Hai tượng đài điện ảnh độc đáo của thập niên 80

Published

on

Cùng ra mắt vào thập niên 80, The Terminator (1984) và Blade Runner (1982) đều là hai kiệt tác điện ảnh độc đáo, góp phần rất lớn trong việc tạo ra diện mạo mới cho thể loại sci-fi.

Bài viết này sẽ dẫn dắt bạn khám phá những vấn đề khác nhau được đặt ra trong hai phim: từ những dòng suy tư về mối liên hệ nhân quả giữa hành động và thời gian trong The Terminator đến không gian đô thị đậm chất noir và những truy vấn về bản chất con người trong Blade Runner.

The Terminator (1984)

The Terminator là bước đột phá ngoạn mục trong sự nghiệp điện ảnh của đạo diễn James Cameron. Vào thời điểm ra mắt, bộ phim gây ấn tượng bởi việc pha trộn nhiều đặc tính giữa các thể loại khác nhau, mang đến màu sắc mới cho dòng phim sci-fi.

The Terminator kể câu chuyện về một người máy sát thủ ra đời năm 2029, được trao nhiệm vụ quay về năm 1984 để giết người phụ nữ trẻ tên là Sarah Connor. Sarah hoàn toàn không biết rằng cuộc đời cô có ảnh hưởng đáng kể đến số phận nhân loại và cô có thể chết bất cứ lúc nào dưới sự truy sát của cỗ máy bất khả chiến bại được gọi là Kẻ Hủy Diệt. Kyle Reese cũng đến từ tương lai nhưng nhiệm vụ của anh là bảo vệ Sarah – người mẹ của thủ lĩnh tương lai.

Với cốt truyện như thế, The Terminator vừa có những pha hành động mãn nhãn, vừa có nhiều tầng suy tư phức tạp về dòng chảy của thời gian, về phương thức thay đổi một sự kiện trong quá khứ có thể dẫn đến tương lai khác biệt hoàn toàn – đây vốn là chủ đề hiếm gặp trong phim hành động ở giai đoạn đó. Ngoài ra, những bản nhạc nền tạo không khí căng thẳng của nhạc sĩ Brad Fiedel cũng góp phần lớn vào thành công của phim.

Tất cả những nhân tố đó đã khiến phim trở thành một mảnh ghép quan trọng của văn hóa đại chúng đến tận ngày nay. Câu nói “I'll be back” của nhân vật Kẻ Hủy Diệt trong phim được sử dụng phổ biến, trở thành slogan thương hiện cho chính Arnold Schwarzenegger.

Từ năm 1984 đến nay, The Terminator đã sản xuất 6 phần phim: The Terminator (1984), Terminator 2: Judgment Day (1991), Terminator 3: Rise of the Machines (2003), Terminator Salvation (2009), Terminator Genisys (2015), Terminator: Dark Fate (2019). Tất cả những phần phim này đều đạt được doanh thu khủng, riêng phần đầu tiên The Terminator đã trụ vững ở vị trí số 1 trên bảng xếp hạng phòng vé ở Mỹ trong suốt hai tuần. Năm 2008, The Terminator đã được Thư viện Quốc hội Hoa Kỳ đưa vào Viện lưu trữ phim quốc gia để bảo tồn với lí do là bộ phim “nổi bật ở phương diện văn hóa, lịch sử, và mĩ học”.                          

Blade Runner (1982)

Không may mắn như The Terminator, Blade Runner của đạo diễn Ridley Scott là một tuyệt tác có số phận khá hẩm hiu khi vừa ra đời. Tuy nhiên, qua nhiều thập kỉ với những bản dựng khác nhau, tác phẩm này đã trở thành một tượng đài lớn của thể loại sci-fi.

Dựa trên tiểu thuyết gốc Do Androids Dream Of Electric Sheep? của nhà văn Philip K. Dick, Blade Runner vẽ nên viễn cảnh ảm đạm của thế giới vào năm 2019. Khi đó, thế giới tràn ngập những replicant – người máy có hình dạng giống con người, được tạo ra với vòng đời ngắn ngủi để làm những công việc nguy hiểm phục vụ cho con người. Một nhóm replicant bất mãn trước việc này đã làm một cuộc phản loạn, quay trở về Trái Đất và giết con người. Rick Deckard, một cảnh sát đã nghỉ hưu ở Los Angeles nhận nhiệm vụ phải truy lùng và tận diệt toàn bộ nhóm replicant nổi loạn này.

Blade Runner là sự pha trộn giữa sci-fi, trinh thám và phim noir – thể loại phim hình sự tội phạm mang đậm phong cách Hollywood, thường thể hiện thái độ hoài nghi, mỉa mai. Thông qua hành trình của Rick Deckard, bộ phim đặt ra nhiều câu hỏi triết học về tính người, thế nào là một con người.

Nhưng không chỉ sâu sắc về nội dung, Blade Runner còn là bữa tiệc chiêu đãi về thị giác qua cách bộ phim thể hiện không gian đô thị tương lai với những màn hình quảng cáo lớn, đèn neon luôn lấp lánh và đường phố lúc nào cũng nhộn nhịp. Cảm hứng thị giác của phim kết hợp từ những bức tranh cổ điển của danh họa Edward Hopper và các khu phố với những tòa nhà chọc trời ở Hong Kong. Sự kết hợp này đã tạo nên không gian thị giác ấn tượng của phim khi con người bị nhấn chìm trong công nghệ. Mĩ thuật của phim tạo ảnh hưởng lớn đến cách xây dựng không gian cho những phim sci-fi hay hành động của Hollywood ra đời sau đó như: The Matrix (1999), bộ ba Dark Knight (2005 – 2012) của đạo diễn Christopher Nolan, Ghost in the Shell (2017)…

Ngày nay, Blade Runner đã có một chỗ đứng không thể thay thế trong dòng phim sci-fi với nhiều ảnh hưởng mang tính định hình về mĩ thuật, tư duy về cách kể chuyện và nhân vật. Blade Runner 2049 – phần tiếp theo của phim ra đời vào năm 2017, đúng 35 năm kể từ phần đầu tiên đã không làm người hâm mộ thất vọng với điểm số trên Rotten Tomatoes lên đến 88%.

Hoàng Đức Nhiên

Đọc bài viết

Trà chiều

Hai tác phẩm định hình dấu ấn cá nhân của đạo diễn James Cameron và Christopher Nolan

Published

on

Đạo diễn James Cameron và đạo diễn Christopher Nolan đều là những cá nhân kiệt xuất trong ngành điện ảnh với nhiều bộ phim kinh điển vừa đạt được doanh thu khủng, vừa có giá trị nghệ thuật cao.

Tuy nhiên, khi nhắc đến hai vị đạo diễn tài danh này, có hai tác phẩm đặc biệt mà người hâm mộ điện ảnh không thể nào bỏ lỡ.Hãy cùng Bookish khám phá những dấu ấn đặc trưng cá nhân của đạo diễn James Cameron trong Avatar và của đạo diễn Christopher Nolan trong Inception.  

Avatar (2009)

Năm 2009, bộ phim sci-fi Avatar của đạo diễn James Cameron ra đời đã tạo nên bước ngoặt lớn cho sự phát triển công nghệ điện ảnh. Lần đầu tiên, cả thế giới được xem một bộ phim 3D. Kĩ thuật thị giác đột phá đã khiến trải nghiệm của phim cực kì sống động.

Vào năm 2154, nguồn tài nguyên Trái đất trở nên cạn kiệt dưới sự khai thác của con người dẫn đến khủng hoảng năng lượng. Lúc bấy giờ, tập đoàn RDA đang khai thác unobtanium – một loại khoáng sản có giá trị tại Pandora, một hành tinh tươi tốt mang sự sống giống Trái Đất nhưng lại có bầu khí quyển độc hại cho con người. Pandora là nơi sinh sống của người Na'vi da xanh, có hình dáng và trí óc giống con người. Để tìm hiểu về người Navi và sinh quyển ở Pandora, các nhà khoa học sử dụng cơ thể người lai Na’vi gọi là các Avatar, được hoạt động thông qua liên kết thần kinh với những người có kiểu gen phù hợp. Jake Sully là một cựu lính thủy quân được giao nhiệm vụ trà trộn vào hành tinh Pandora. Quá trình thực hiện nhiệm vụ đã khiến anh bị giằng xé giữa việc tuân theo mệnh lệnh hay bảo vệ xứ sở mà anh đã trót xem là quê nhà.

Đạo diễn James Cameron đã mất đến 15 năm để thực hiện Avatar từ lúc bộ phimcòn là ý tưởng năm 1994 cho đến khi ra đời năm 2009. Sở dĩ bộ phim mất nhiều thời gian như vậy là do Cameron không chỉ trau chuốt về mặt nghệ thuật mà còn cả kĩ thuật: từ công đoạn làm việc với chuyên gia ngôn ngữ để tạo ra tiếng Na’vi với hơn 1000 từ, cho đến việc tạo ra kĩ thuật 3D. Sự kì công này khiến Avatar chiều lòng được cả khán giả đại chúng lẫn giới hàn lâm. Avatar luônđứng đầu danh sách phim ăn khách nhất mọi thời đại với doanh thu lên đến 2,7 tỉ USD, và chỉ bị Avengers: Endgame vượt mặt vào năm 2019 sau suốt 10 năm thống trị bảng vàng.            

Avatar 3 dự kiến sẽ ra mắt vào năm 2025, tiếp tục hứa hẹn mang đến những thành tích khủng trong tương lai. 

James Cameron

Inception (2010)

Hầu như những bộ phim của đạo diễn Christopher Nolan đều có các yếu tố như: du hành thời gian, tìm hiểu bản chất thế giới… khiến người xem vừa rối não lẫn rối lòng. Và Inception chính là một tác phẩm hội tụ đủ các yếu tố làm nên thương hiệu Nolan, trở thành một tượng đài khó quên trong lòng người hâm mộ.

Inception là một trải nghiệm điện ảnh đáng nhớ khi Nolan cố gắng hình tượng hóa kiến trúc tư duy của con người, biến tiềm thức trở thành không gian vật lí cho các hoạt động đánh cắp được diễn ra. Bộ phim kể về một tên trộm có khả năng đi vào giấc mơ của người khác. Dom Cobb không trộm gì cả, anh chỉ trộm ý niệm. Bằng việc thâm nhập vào tiềm thức của đối tượng, anh có thể lấy thông tin mà đến cả những tay hacker sừng sỏ nhất cũng không thể làm được. Trong thế giới điệp viên, Cobb là vũ khí tối thượng. Nhưng kể cả vũ khí cũng có nhược điểm, khi Cobb gần như mất tất cả mọi thứ, anh được giao một nhiệm vụ cuối cùng để chuộc lỗi. Lần này, Cobb không gặt lấy ý niệm, anh gieo nó. Liệu anh và đồng đội có thành công?

Christopher Nolan

Inception có một kịch bản hoàn hảo, từng thế giới giấc mơ xuất hiện trong phim vừa chính xác, tinh tế, đôi khi lại hài hước. Thời gian là chủ đề yêu thích của Nolan và ông luôn tìm được cách thể nghiệm thú vị, có thể thấy rõ điều này qua cả phim InterstellarDunkirk. Nhưng trong Inception, thời gian không chỉ là chủ đề mà còn là công cụ kể chuyện khi tái hiện lại hoàn hảo nỗi ám ảnh của kẻ cắp giấc mơ. Từ đó, bộ phim đặt ra nhiều câu hỏi hóc búa: liệu rằng ta có đang sống trong thời gian thực, khi nào thì một giấc mơ trở thành thực tế, khi nào thì thực tế hóa ra lại chỉ là một giấc mơ, ta đang thức hay còn mơ?

Thông qua Inception, Nolan lồng ghép rất nhiều khái niệm về sự logic giấc mơ, đảo ngược các nguyên tắc vật lí, cho thấy những thực tại có thể vỡ vụn ra sao… Tất cả hòa quyện vào nhau, tạo thành một tác phẩm sci-fi tâm lí đỉnh cao mà có lẽ nhiều thập kỉ sau, vẫn còn khiến người ta trầm trồ.

Hoàng Đức Nhiên

Đọc bài viết

Cafe sáng