Trà chiều

Brain on Fire – Căn bệnh hiếm gặp suýt hủy hoại đời một cô gái trẻ

Vào năm Susannah 24 tuổi, dù mọi thứ xung quanh (công việc, tình yêu, gia đình) đều đang rất tuyệt vời, nhưng tinh thần cô đột nhiên trở nên tồi tệ, suy sút và có những triệu chứng rất giống bệnh nhân tâm thần (mental illness).

Published

on

Brain on Fire không phải là một phim xuất sắc nếu xét về mặt ngôn ngữ điện ảnh, cách kể chuyện… Nhìn vào điểm số từ Rotten Tomatoes (13%) và Imdb (7.6), ta có thể phần nào hình dung sơ lược đánh giá về phim từ phía giới phê bình và khán giả phổ thông. Với sự chênh lệch điểm số như thế này, có thể tạm rút ra nhận định rằng phim không được lòng giới phê bình và đồng thời lại khá được lòng khán giả. Dù vậy, Brain on Fire là phim độc lập và được trình chiếu lần đầu tiên trong khuôn khổ LHP Toronto International Film Festival (TIFF). Tại buổi họp báo của phim trong TIFF, một nhà báo đã nhận xét rằng Brain on Fire quả là có đề tài nhắm đến liên hoan phim, là kiểu phim dễ được chấp nhận tại các nơi như liên hoan phim hơn. Thế nhưng, Brain on Fire đã thất bại trong chính mặt trận mà lẽ ra bộ phim chiếm được nhiều ưu thế.

Brain on Fire dựa trên câu chuyện có thật về Susannah Cahalan, phóng viên tờ báo New York Post. Vào năm Susannah 24 tuổi, dù mọi thứ xung quanh (công việc, tình yêu, gia đình) đều đang rất tuyệt vời, nhưng tinh thần cô đột nhiên trở nên tồi tệ, suy sút và có những triệu chứng rất giống bệnh nhân tâm thần (mental illness). Cô đã được các bác sĩ tâm thần (psychiatrist) chẩn đoán rằng cô mắc bệnh bipolar disorder (rối loạn lưỡng cực), hoặc schizophrenia (tâm thần phân liệt). Bằng thao tác tự tra cứu trên mạng, chính Susannah cũng từng tin rằng mình bị mắc một trong hai căn bệnh này. Thế nhưng, không một bác sĩ nào cho Susannah biết chính xác cô mắc căn bệnh nào cũng như nguồn gốc, nguyên nhân của nó. Những tưởng rằng cuộc đời Susannah sẽ kết thúc tại bệnh viện tâm thần nào đó, thậm chí là cái chết thì một kì tích đã xuất hiện. Viết đến đây, tôi phân vân không biết nên tiếp tục kể câu chuyện đời thực của Susannah hay không vì nếu tôi tiếp tục kể, 100% khả năng bạn sẽ biết toàn bộ câu chuyện và bị ảnh hưởng cảm xúc rất lớn khi xem phim. Tuy nhiên, nếu không kể hết câu chuyện của Susannah, tôi sẽ khó lòng triển khai bài phân tích chủ yếu đi sâu vào khía cạnh biên kịch của phim. Vì vậy, tôi tách đoạn ở đây. Từ đoạn phía dưới trở xuống sẽ tiết lộ toàn bộ nội dung câu chuyện, bạn nên cân nhắc trước khi tiếp tục đọc.  

Bác sĩ Souhel Najjar đã đến với Susannah trong lúc bệnh tình của cô tưởng chừng đi vào ngõ cụt, không lối thoát cho sự phục hồi. Ông là người duy nhất đã ngồi xuống bên gia đình Susannah, trò chuyện cùng họ về bệnh tình của cô trong suốt gần một tiếng đồng hồ – đây là khoảng thời gian dài gấp bốn lần so với bất kì bác sĩ nào từng thăm khám bệnh của cô trước đó. Bằng việc lắng nghe kĩ lưỡng những miêu tả triệu chứng từ gia đình Susannah, kết hợp với quan sát của bản thân, bác sĩ Souhel đã dự đoán rằng trường hợp của Susannah không phải là mental illness hay neurological illness – những nhóm bệnh cô không có tiền sử trước đó mà là biological illness, không phải là bệnh về tâm thần mà là bệnh về sinh lí. Ông quyết định cho Susannah thực hiện bài kiểm tra vẽ đồng hồ – đây vốn là bài kiểm tra dành cho những bệnh nhân được chẩn đoán mắc bệnh Alzheimer, chủ yếu áp dụng cho người già; trước đó, hầu như không ai áp dụng bài kiểm tra này cho nhóm bệnh có triệu chứng bên ngoài như Susannah, cũng như cho những đối tượng có độ tuổi như cô. Nhưng khi Susannah thực hiện bài kiểm tra vẽ đồng hồ, chìa khóa để giải mã căn bệnh của cô đã hiện ra. Tất cả các con số đều nằm ở phía bên phải đồng hồ còn bên trái thì trống trơn. Điều đó có nghĩa là bán cầu não phải điều khiển chức năng của phần cơ thể bên trái đã bị tê liệt. Đó cũng là hình ảnh tượng trưng cho cách Susannah đã nhìn thế giới ở thời điểm ấy: chỉ một nửa, không đầy đủ, dẫn đến nhận thức bị sai lệch. Sau khi lấy tủy não và xét nghiệm, bác sĩ Souhel đã có kết luận chính thức về trường hợp của Susannah: cô bị mắc bệnh  Anti-NMDA receptor encephalitis (tạm dịch: bệnh viêm não do tự miễn thụ thể NMDA). Từ đó, Souhel đã tiến hành các phương pháp trị liệu cho Susannah và sau một năm, cô hoàn toàn khỏi bệnh. Trong quá trình dần hồi phục, Susannah đã viết hồi kí Brain on Fire: My Month of Madness kể lại khoảng thời gian cô mắc bệnh và điều trị. Bộ phim Brain on Fire dựa trên cuốn hồi kí này để chuyển thể thành phim.    

Vậy là, thông qua việc kể lại chuyện đời của Susannah, tôi vừa vi phạm nguyên tắc cơ bản của viết review phim: không tiết lộ toàn bộ nội dung phim. Đây là điều tôi cố gắng tránh trong những bài review phim kể từ sau năm 2011 đến nay. Thế nhưng, điều này cũng minh chứng cho việc kịch bản phim bám rất sát vào câu chuyện đời thực. Vậy nên, những ai đã biết câu chuyện đời thực của Susannah Cahalan sẽ có thể đối mặt với nguy cơ rất khó tìm được niềm vui từ việc khám phá cốt truyện khi xem Brain on Fire. Đây cũng chính là vấn đề lớn nhất mà bộ phim gặp phải.

Brain on Fire giữ nguyên toàn bộ tên người thật, địa điểm thật – vốn vẫn còn tồn tại trong đời thực lên phim. Điều đó khiến cho phim bị vướng vào mối ràng buộc chặt chẽ với thực tế, biên độ sáng tạo thêm được cho phép để tăng tính hấp dẫn của câu chuyện bị thu hẹp lại. Đương nhiên, không phải lúc nào việc tôn trọng nguyên tác sít sao cũng sẽ khiến bộ phim kém hấp dẫn bởi có rất nhiều câu chuyện đời thực kịch tích không thua gì phim. Thế nhưng, trong trường hợp của Susannah Cahalan với quyển tự truyện Brain on Fire thì lại khác. Căn bệnh hiếm gặp mà Susannah mắc phải đã hủy hoại trí nhớ của cô trong suốt những tháng mắc bệnh. Cô chỉ có kí ức rất mơ hồ về thời gian điều trị bệnh. Những chuyện cô viết trong Brain on Fire phần lớn dựa vào kí ức của người thân, những người đã chứng kiến cô trong thời gian bị bệnh, những cuộn băng ghi hình tại bệnh viện. Bằng thao tác phỏng vấn, tổng hợp thông tin, những kĩ năng của một nhà báo, Susannah đã viết lại câu chuyện của mình như một người quan sát từ bên ngoài hơn là một người trải nghiệm thực tế. Đây cũng là điều bản thân cô chia sẻ trong nhiều cuộc phỏng vấn. Chính vì vậy, dù chưa đọc Brain on Fire nhưng qua những thông tin đó, tôi nghĩ rằng quyển sách sẽ trình hiện từng bước suy sụp bên ngoài của Susannah khi bị căn bệnh tác động hơn là nội tâm bên trong, thế giới quan đầy bí ẩn, khó thâm nhập của cô trong những ngày ấy. Dù điều này có thực sự đúng với quyển sách hay không thì chính bộ phim Brain on Fire đã thể hiện chính xác đặc tính đó. Vậy nên, thay vì là cuốn phim tâm lí sống động về một cô gái đang hạnh phúc không may mắc phải căn bệnh hiếm gặp – điều mà lẽ ra Brain on Fire có thể làm được, bộ phim đã trở thành đoạn video minh họa mang tính giáo khoa về căn bệnh anti-NMDA receptor encephalitis. Vì lẽ đó, ở Brain on Fire, người xem không thấy được câu chuyện độc lập của một cá nhân mà chỉ thấy câu chuyện tiêu biểu của một cá thể đại diện cho một tập thể. Nếu chỉ tiếp xúc chủ thể trên khía cạnh miêu tả diễn biến của căn bệnh, hầu như không có nhiều khác biệt trong câu chuyện giữa Susannah Cahalan và Emily Gavigan (một bệnh nhân cũng mắc căn bệnh tương tự như Susannah, đã được chẩn đoán đúng bệnh nhờ người nhà xem chương trình về Susannah), hay bất cứ bệnh nhân anti-NMDA receptor encephalitis nào khác. Bộ phim đã thất bại ở mặt khắc họa tâm lí cá nhân.

Tuy nhiên, có thể điều thất bại nói trên cũng nằm trong chủ ý của đạo diễn Gerard Barrett. Trong buổi họp báo ra mắt phim tại TIFF, Barrett đã chia sẻ rằng anh không muốn áp đặt quá nhiều thứ thuộc về phong cách cá nhân lên bộ phim, như thế sẽ mất đi tính thông tin khách quan. Barrett muốn làm Brain on Fire với ý định nâng cao nhận thức cá nhân của người xem về căn bệnh lạ này. Quả thực, về mặt thị giác và phong cách kể chuyện, Brain on Fire không mang chút dấu ấn cá nhân nào, bộ phim hoàn toàn trung tính. Tôi nghĩ chính điểm này đã giết chết bộ phim. Có lẽ Barret đã quên rằng cảm xúc cá nhân cũng là một dạng thông tin quan trọng; khi một thông tin gắn liền với cảm xúc, thông tin đó sẽ trở nên dễ nhớ, dễ tiếp thu hơn rất nhiều. Tuy nhiên, tôi vẫn đồng cảm với quyết định của Barrett khi chợt nhớ đến những bộ phim truyền hình tôi yêu thích kể về những căn bệnh lạ một cách bình dị nhưng vẫn để lại nhiều cảm xúc như: One litre of tear, Taiyou no uta… Rõ ràng, phong cách nghệ thuật cá nhân áp đặt lên những góc máy, thị giác của bộ phim không phải là yếu tố lớn ảnh hưởng đến thành công của dòng phim loại này. Khi xét đến tất cả các nguyên nhân khiến cho Brain on Fire không thể trở thành bộ phim đáng nhớ hơn, tôi nhận ra thất bại cốt lõi vẫn nằm ở kịch bản phim. Việc quá trung thành với câu chuyện đời thực đã khiến Brain on Fire vướng phải một số lỗi cơ bản trong cấu trúc kể chuyện.

Đầu tiên, đó là cách chọn điểm nhìn. Brain on Fire có point of view không đồng nhất. Ở hồi I cho đến khoảng trường đoạn năm của hồi II sau midpoint một chút, phim được kể dưới góc nhìn của Susannah, đoạn mở đầu phim thậm chí còn bắt đầu bằng giọng voice over của cô. Thế nhưng từ cuối hồi II cho đến gần kết thúc phim ở hồi III – phần quan trọng nhất của câu chuyện, phim lại chuyển sang góc nhìn omniscience, hoàn toàn bỏ rơi góc nhìn của Susannah. Vấn đề khó khăn nhất của cô được giải quyết hoàn toàn bởi người khác (cụ thể ở đây là gia đình, bác sĩ Souhel), không phải từ chính cô. Nguyên nhân là do ở thời điểm căn bệnh tiến triển nặng, Susannah đã mất đi ý thức. Trong đời thực, Susannah thừa nhận rằng việc chữa khỏi căn bệnh của cô hoàn toàn do nỗ lực gia đình và may mắn khi cô có cơ duyên được bác sĩ Souhel chữa trị. Phép màu kì diệu này khi đưa vào phim lại không mấy xúc động bởi theo mạch của câu chuyện, khán giả không thấy thỏa mãn do vấn đề của nhân vật chính lại được giải quyết dựa vào may mắn. Yếu tố mang tính cơ duyên nếu xuất hiện ở hồi I hoặc muộn lắm là đầu hồi II sẽ dễ dàng được khán giả chấp nhận; tuy nhiên, ở thời điểm mang tính quyết định như hồi III, khi yếu tố này đột nhiên xuất hiện thì khán giả lại dễ cảm thấy chưng hửng. Đây là lỗi deus ex machina thường gặp trong kịch bản phim. Ví dụ điển hình thường gặp của lỗi này là câu chuyện về một người đàn ông nghèo khó cần một khoản tiền để làm việc gì đó, ông tìm mọi cách để kiếm đủ số tiền nhưng không đạt được mục đích, cho đến cuối phim ông trúng vé số độc đắc và có đủ số tiền mong muốn. Trong câu chuyện này, tấm vé số độc đắc chính là deus ex machina. Cách giải quyết vấn đề bằng deus ex machina sẽ khiến người xem cảm thấy không thỏa mãn vì sự may mắn đến một cách quá tình cờ, đúng lúc – rõ ràng có bàn tay sắp đặt của biên kịch ở đây. Trong đời sống thực tế, dù những chuyện như vậy thỉnh thoảng vẫn xảy ra nhưng tâm lí của người theo dõi dành cho một bộ phim hay một câu chuyện thường sẽ trông đợi vấn đề được giải quyết bằng chính nỗ lực của nhân vật hơn là cơ may. Quay trở lại câu chuyện trong ví dụ, giả sử ngay từ đầu người đàn ông đã biết đâu là tấm vé số trúng giải độc đắc, ông ta cố gắng bằng mọi cách để sở hữu tấm vé phục vụ cho mục đích của mình và ở hồi ba, ông ta có được tấm vé ấy. Khi thay đổi câu chuyện như vậy, lúc này tấm vé số không còn là deus ex machina nữa, nó trở thành mục tiêu cụ thể (goal) của ông để đạt được ước mơ (big dream). Và như thế, câu chuyện trở nên thuyết phục hơn, nhiều cảm xúc hơn với khán giả. Nếu không thể bỏ được deus ex machina ra khỏi câu chuyện thì vấn đề ở đây là thay đổi cách thức, thời điểm nó xuất hiện để nó không còn là deus ex machina nữa. Vấn đề của Brain on Fire cũng tương tự như vấn đề trong câu chuyện ví dụ này. Trên thực tế, bác sĩ Souhel chính là người đã mang đến phép màu cho Susannah và bộ phim cũng không thể loại bỏ bác sĩ ra khỏi câu chuyện được vì ông chính là mấu chốt để chữa trị căn bệnh của Susannah – vấn đề rắc rối lớn nhất mà nhân vật phải đối diện. Tuy nhiên, bác sĩ Souhel xuất hiện quá muộn: ông xuất hiện ở hồi ba, nhanh chóng chữa khỏi bệnh cho Susannah và sau đó phim kết thúc chóng vánh đến mức người xem chưa kịp thấy mối liên hệ giữa ông và Susannah. Như vậy, sẽ ra sao nếu để bác sĩ Souhel xuất hiện sớm hơn? Lúc Susannah chưa bị bệnh hoặc chỉ mới chớm bệnh, ông đang ở đâu? Rõ ràng, nếu kể câu chuyện về Susannah theo góc nhìn của cô hay thậm chí theo góc nhìn omniscience thì bác sĩ Souhel không thể xuất hiện sớm hơn một cách tự nhiên được. Nhưng chính bác sĩ Souhel là người đã giải quyết vấn đề ở hồi ba. Vì vậy, tôi nghĩ đến một cách giải quyết là đổi lại người kể chuyện: câu chuyện Brain on Fire sẽ được kể dưới góc nhìn của bác sĩ Souhel ngay từ hồi I. Như thế, có thể khiến bộ phim dẫn dắt cảm xúc khán giả tốt hơn không?

Ngoài ra, như đã đề cập, một vấn đề nữa của kịch bản phim là chưa thật sự khắc họa được mối quan hệ giữa các nhân vật xoay quanh trung tâm là Susannah. Phim chỉ mới dừng lại ở việc miêu tả sơ lược mối quan hệ giữa cô và gia đình, người yêu, bác sĩ Souhel mà chưa nêu bật được nét đặc trưng riêng trong sự kết nối của họ. Brain on Fire khắc họa mối quan hệ giữa Susannah với các đồng nghiệp tạm ổn nhưng tuyến nhân vật đồng nghiệp chỉ xuất hiện đến khoảng trường đoạn ba của bộ phim và gần như biến mất ở các điểm quan trọng nhất trong câu chuyện. Gia đình, người yêu, bác sĩ Souhel – những người đã ở bên cạnh Susannah trong những thời điểm quan trọng nhất mà lẽ ra nếu mối quan hệ giữa họ và Susannah được khắc họa chi tiết hơn thì có thể câu chuyện sẽ được dẫn dắt bằng nhiều cảm xúc hơn.        

Brain on Fire không phải là một phim hay nhưng nếu xét trên khía cạnh cung cấp thông tin, nâng cao nhận thức về căn bệnh Anti-NMDA receptor encephalitis, nó có thể là tia hi vọng cho ai đó đang mắc phải hoặc có người thân mắc phải căn bệnh này nhưng bị chẩn đoán sai lầm. Nó cũng là lời nhắc nhở về việc cơ thể chúng ta phức tạp ra sao, tinh vi ra sao, và vì quá phức tạp, quá tinh vi, y học vẫn thường bỏ sót những trường hợp hỏng hóc tế vi ở một góc khuất nào đó mà số đông hiếm khi mắc phải. Nhưng những cơ thể ấy, những con người với cơ thể ấy, bất cứ ai cũng đều cần sự cứu rỗi, nhìn nhận và thấu cảm. Với ý nghĩa đó, Brain on Fire không phải là một phim dở và có lẽ không hẳn là một trải nghiệm không xứng đáng dành thời gian cho nó.

Điểm đánh giá: 6/10
Kodaki

Click to comment

Viết bình luận

Your email address will not be published. Required fields are marked *

Trà chiều

Thế giới viễn tưởng độc đáo trong bốn bộ phim mang đậm tính thể nghiệm

Published

on

Thế giới của phim khoa học viễn tưởng không phải lúc nào cũng chỉ có AI, robot, hay du hành không gian mà còn vô vàn những điều đặc biệt khác có thể bạn chưa biết.

Năm 2023 vừa qua đã ghi nhận sự phát triển ngày càng mạnh mẽ của AI. Điều đó khiến cho dòng phim khoa học viễn tưởng nhận được nhiều sự quan tâm trở lại. Nhắc đến dòng phim này, người ta vẫn thường đóng khung nó với vài yếu tố tiêu biểu thường gặp như: AI, robot, du hành vũ trụ, thế giới song song… Tuy nhiên, có rất nhiều tác phẩm sci-fi kinh điển đã chứng minh điều ngược lại.

Hãy cùng Bookish khám phá những bộ phim sci-fi không thuần túy là sci-fi vì ở đó, người xem được tận hưởng bữa tiệc điện ảnh đỉnh cao với những hương vị hòa quyện mĩ mãn từ nhiều thể loại khác nhau.

Back to The Future (1985)

Sci-fi x Road Trip Comedies

Cùng với The Terminator, Back To The Future ra đời năm 1985 đã trở thành biểu tượng kinh điển của dòng phim sci-fi lấy chủ đề du hành thời gian. Đó cũng là một trong những nguyên nhân mà bộ phim này được nhắc đến nhiều lần trong Avengers: Endgame lúc cả nhóm quyết định quay về quá khứ.

Tuy nhiên, không giống như The Terminator, Back To The Future mang màu sắc vui nhộn, hài hước của lứa tuổi học trò. Cậu học sinh tuổi teen Marty McFly ở thập niên 80 vô tình bị kéo về quá khứ trên chiếc xe cỗ máy thời gian của nhà khoa học Emmett Brown. Cậu quay trở về thập niên 50 – lúc này bố mẹ cậu cũng ở lứa tuổi học trò như cậu. Để có thể quay về hiện tại năm 80, cậu phải tìm cách hàn gắn mối quan hệ của bố mẹ, nếu không bản thân cậu cũng sẽ không tồn tại ở năm 80. Từ đó, câu chuyện nảy sinh nhiều tình huống dở khóc dở cuối. Nếu như The Terminator là sự phối trộn hoàn hảo giữa thể loại sci-fi và hành động thì Back To The Future lại là màn kết hợp ăn ý giữa thể loại sci-fi và hài hành trình. Bộ phim tốn kinh phí thực hiện là 19 triệu USD nhưng lại có doanh thu phòng vé lên đến 388 triệu USD. Chính vì thành công này mà đạo diễn Robert Zemeckis đã thực hiện hai phần tiếp theo cũng vui nhộn không kém.

Snowpiercer (2013)

Sci-fi x Dystopia

Bong Joon Ho không chỉ tạo ra những bộ phim sâu sắc về đề tài xã hội mà ông còn có khả năng làm phim khoa học viễn tưởng rất chặt chẽ, thuyết phục. Điều này thể hiện rõ nhất qua Snowpiercer. Phim dựa trên tiểu thuyết Pháp Le Transperceneige lấy đề tài hậu tận thế. Trong tương lai, sau một thí nghiệm thất bại, khí hậu toàn cầu biến đổi dẫn đến gần như toàn bộ sinh vật đều bị diệt vong, ngoại trừ một số người may mắn có mặt trên con tàu Snowpiercer chạy vòng quanh Trái đất với động cơ vĩnh cửu. Tại đây, một xã hội thu nhỏ mới lại được hình thành. Dưới bàn tay tài hoa của Bong Joon Ho, Snowpiercer cũng không đơn giản là tác phẩm sci-fi thuần túy mà ông còn lồng ghép vào nhiều thể loại khác nhau: có những phân đoạn hành động mãn nhãn, đồng thời cũng có những phân đoạn dí dỏm, và cách đặt vấn đề về giai tầng xã hội vẫn mang phong cách rất đặc trưng của Bong. 

Eternal Sunshine Of The Spotless Mind (2004)

Sci-fi x Romance

Sẽ như thế nào nếu kết hợp thể loại sci-fi với phim tình cảm? Khi đó, chúng ta sẽ có kiệt tác Eternal Sunshine Of The Spotless Mind của bộ đôi đạo diễn Michel Gondry và biên kịch Charlie Kaufman. Bộ phim sử dụng đề tài “can thiệp kí ức” để khám phá bản năng con người khi tình yêu tan vỡ. Sẽ ra sao nếu khi chia tay một ai đó, bạn có thể xóa toàn bộ những kí ức vui buồn liên quan đến họ ra khỏi tâm trí? Sau khi Joel biết được Clementine – người yêu cũ của anh đã xóa kí ức tình yêu, anh quyết định bản thân mình cũng sẽ thực hiện việc này. Nhưng khi anh khám phá được điều gì đã khiến họ gắn kết rồi lại chia xa, anh nhận ra mình vẫn còn tình cảm dành cho cô. Nếu như công nghệ trong phim là thứ hư cấu thì cảm xúc giữa hai nhân vật trong Eternal Sunshine hoàn toàn chân thực, lay động trái tim người xem, khiến ai cũng phải thổn thức.

Under The Skin (2013)

Sci-fi x Experimental film

Cuối cùng, không thể không nhắc đến bộ phim sci-fi mang tính thể nghiệm, tiên phong đáng nhớ: Under The Skin. Có rất nhiều phim lấy đề tài sinh vật ngoài hành tinh xâm nhập Trái đất, nhưng có lẽ chưa bộ phim nào kể câu chuyện thật đặc biệt nhưng lại với nhịp điệu từ tốn như Under The Skin. Scarlett Johansson trong vai sinh vật ngoài hành tinh vô danh chỉ làm đúng một công việc là đi lang thang trên một chiếc xe tải, lựa chọn những người đàn ông cô đơn làm con mồi. Bộ phim rất kiệm lời thoại, khiến người xem rợn người không chỉ bởi những hình ảnh thị giác lạ mắt mà còn bởi thứ âm nhạc cũng đầy tính thể nghiệm độc đáo của Mica Levi. Tuy nhiên, nếu chỉ tập trung vào thể nghiệm mà bỏ qua nội dung, Under The Skin đã không gây được tiếng vang lớn như thế trong cộng đồng điện ảnh. Sau tất cả, bộ phim của đạo diễn Jonathan Glazer lại khiến người xem trăn trở nhiều về thân phận làm người.

Hoàng Đức Nhiên

Đọc bài viết

Trà chiều

The Terminator & Blade Runner: Hai tượng đài điện ảnh độc đáo của thập niên 80

Published

on

Cùng ra mắt vào thập niên 80, The Terminator (1984) và Blade Runner (1982) đều là hai kiệt tác điện ảnh độc đáo, góp phần rất lớn trong việc tạo ra diện mạo mới cho thể loại sci-fi.

Bài viết này sẽ dẫn dắt bạn khám phá những vấn đề khác nhau được đặt ra trong hai phim: từ những dòng suy tư về mối liên hệ nhân quả giữa hành động và thời gian trong The Terminator đến không gian đô thị đậm chất noir và những truy vấn về bản chất con người trong Blade Runner.

The Terminator (1984)

The Terminator là bước đột phá ngoạn mục trong sự nghiệp điện ảnh của đạo diễn James Cameron. Vào thời điểm ra mắt, bộ phim gây ấn tượng bởi việc pha trộn nhiều đặc tính giữa các thể loại khác nhau, mang đến màu sắc mới cho dòng phim sci-fi.

The Terminator kể câu chuyện về một người máy sát thủ ra đời năm 2029, được trao nhiệm vụ quay về năm 1984 để giết người phụ nữ trẻ tên là Sarah Connor. Sarah hoàn toàn không biết rằng cuộc đời cô có ảnh hưởng đáng kể đến số phận nhân loại và cô có thể chết bất cứ lúc nào dưới sự truy sát của cỗ máy bất khả chiến bại được gọi là Kẻ Hủy Diệt. Kyle Reese cũng đến từ tương lai nhưng nhiệm vụ của anh là bảo vệ Sarah – người mẹ của thủ lĩnh tương lai.

Với cốt truyện như thế, The Terminator vừa có những pha hành động mãn nhãn, vừa có nhiều tầng suy tư phức tạp về dòng chảy của thời gian, về phương thức thay đổi một sự kiện trong quá khứ có thể dẫn đến tương lai khác biệt hoàn toàn – đây vốn là chủ đề hiếm gặp trong phim hành động ở giai đoạn đó. Ngoài ra, những bản nhạc nền tạo không khí căng thẳng của nhạc sĩ Brad Fiedel cũng góp phần lớn vào thành công của phim.

Tất cả những nhân tố đó đã khiến phim trở thành một mảnh ghép quan trọng của văn hóa đại chúng đến tận ngày nay. Câu nói “I'll be back” của nhân vật Kẻ Hủy Diệt trong phim được sử dụng phổ biến, trở thành slogan thương hiện cho chính Arnold Schwarzenegger.

Từ năm 1984 đến nay, The Terminator đã sản xuất 6 phần phim: The Terminator (1984), Terminator 2: Judgment Day (1991), Terminator 3: Rise of the Machines (2003), Terminator Salvation (2009), Terminator Genisys (2015), Terminator: Dark Fate (2019). Tất cả những phần phim này đều đạt được doanh thu khủng, riêng phần đầu tiên The Terminator đã trụ vững ở vị trí số 1 trên bảng xếp hạng phòng vé ở Mỹ trong suốt hai tuần. Năm 2008, The Terminator đã được Thư viện Quốc hội Hoa Kỳ đưa vào Viện lưu trữ phim quốc gia để bảo tồn với lí do là bộ phim “nổi bật ở phương diện văn hóa, lịch sử, và mĩ học”.                          

Blade Runner (1982)

Không may mắn như The Terminator, Blade Runner của đạo diễn Ridley Scott là một tuyệt tác có số phận khá hẩm hiu khi vừa ra đời. Tuy nhiên, qua nhiều thập kỉ với những bản dựng khác nhau, tác phẩm này đã trở thành một tượng đài lớn của thể loại sci-fi.

Dựa trên tiểu thuyết gốc Do Androids Dream Of Electric Sheep? của nhà văn Philip K. Dick, Blade Runner vẽ nên viễn cảnh ảm đạm của thế giới vào năm 2019. Khi đó, thế giới tràn ngập những replicant – người máy có hình dạng giống con người, được tạo ra với vòng đời ngắn ngủi để làm những công việc nguy hiểm phục vụ cho con người. Một nhóm replicant bất mãn trước việc này đã làm một cuộc phản loạn, quay trở về Trái Đất và giết con người. Rick Deckard, một cảnh sát đã nghỉ hưu ở Los Angeles nhận nhiệm vụ phải truy lùng và tận diệt toàn bộ nhóm replicant nổi loạn này.

Blade Runner là sự pha trộn giữa sci-fi, trinh thám và phim noir – thể loại phim hình sự tội phạm mang đậm phong cách Hollywood, thường thể hiện thái độ hoài nghi, mỉa mai. Thông qua hành trình của Rick Deckard, bộ phim đặt ra nhiều câu hỏi triết học về tính người, thế nào là một con người.

Nhưng không chỉ sâu sắc về nội dung, Blade Runner còn là bữa tiệc chiêu đãi về thị giác qua cách bộ phim thể hiện không gian đô thị tương lai với những màn hình quảng cáo lớn, đèn neon luôn lấp lánh và đường phố lúc nào cũng nhộn nhịp. Cảm hứng thị giác của phim kết hợp từ những bức tranh cổ điển của danh họa Edward Hopper và các khu phố với những tòa nhà chọc trời ở Hong Kong. Sự kết hợp này đã tạo nên không gian thị giác ấn tượng của phim khi con người bị nhấn chìm trong công nghệ. Mĩ thuật của phim tạo ảnh hưởng lớn đến cách xây dựng không gian cho những phim sci-fi hay hành động của Hollywood ra đời sau đó như: The Matrix (1999), bộ ba Dark Knight (2005 – 2012) của đạo diễn Christopher Nolan, Ghost in the Shell (2017)…

Ngày nay, Blade Runner đã có một chỗ đứng không thể thay thế trong dòng phim sci-fi với nhiều ảnh hưởng mang tính định hình về mĩ thuật, tư duy về cách kể chuyện và nhân vật. Blade Runner 2049 – phần tiếp theo của phim ra đời vào năm 2017, đúng 35 năm kể từ phần đầu tiên đã không làm người hâm mộ thất vọng với điểm số trên Rotten Tomatoes lên đến 88%.

Hoàng Đức Nhiên

Đọc bài viết

Trà chiều

Hai tác phẩm định hình dấu ấn cá nhân của đạo diễn James Cameron và Christopher Nolan

Published

on

Đạo diễn James Cameron và đạo diễn Christopher Nolan đều là những cá nhân kiệt xuất trong ngành điện ảnh với nhiều bộ phim kinh điển vừa đạt được doanh thu khủng, vừa có giá trị nghệ thuật cao.

Tuy nhiên, khi nhắc đến hai vị đạo diễn tài danh này, có hai tác phẩm đặc biệt mà người hâm mộ điện ảnh không thể nào bỏ lỡ.Hãy cùng Bookish khám phá những dấu ấn đặc trưng cá nhân của đạo diễn James Cameron trong Avatar và của đạo diễn Christopher Nolan trong Inception.  

Avatar (2009)

Năm 2009, bộ phim sci-fi Avatar của đạo diễn James Cameron ra đời đã tạo nên bước ngoặt lớn cho sự phát triển công nghệ điện ảnh. Lần đầu tiên, cả thế giới được xem một bộ phim 3D. Kĩ thuật thị giác đột phá đã khiến trải nghiệm của phim cực kì sống động.

Vào năm 2154, nguồn tài nguyên Trái đất trở nên cạn kiệt dưới sự khai thác của con người dẫn đến khủng hoảng năng lượng. Lúc bấy giờ, tập đoàn RDA đang khai thác unobtanium – một loại khoáng sản có giá trị tại Pandora, một hành tinh tươi tốt mang sự sống giống Trái Đất nhưng lại có bầu khí quyển độc hại cho con người. Pandora là nơi sinh sống của người Na'vi da xanh, có hình dáng và trí óc giống con người. Để tìm hiểu về người Navi và sinh quyển ở Pandora, các nhà khoa học sử dụng cơ thể người lai Na’vi gọi là các Avatar, được hoạt động thông qua liên kết thần kinh với những người có kiểu gen phù hợp. Jake Sully là một cựu lính thủy quân được giao nhiệm vụ trà trộn vào hành tinh Pandora. Quá trình thực hiện nhiệm vụ đã khiến anh bị giằng xé giữa việc tuân theo mệnh lệnh hay bảo vệ xứ sở mà anh đã trót xem là quê nhà.

Đạo diễn James Cameron đã mất đến 15 năm để thực hiện Avatar từ lúc bộ phimcòn là ý tưởng năm 1994 cho đến khi ra đời năm 2009. Sở dĩ bộ phim mất nhiều thời gian như vậy là do Cameron không chỉ trau chuốt về mặt nghệ thuật mà còn cả kĩ thuật: từ công đoạn làm việc với chuyên gia ngôn ngữ để tạo ra tiếng Na’vi với hơn 1000 từ, cho đến việc tạo ra kĩ thuật 3D. Sự kì công này khiến Avatar chiều lòng được cả khán giả đại chúng lẫn giới hàn lâm. Avatar luônđứng đầu danh sách phim ăn khách nhất mọi thời đại với doanh thu lên đến 2,7 tỉ USD, và chỉ bị Avengers: Endgame vượt mặt vào năm 2019 sau suốt 10 năm thống trị bảng vàng.            

Avatar 3 dự kiến sẽ ra mắt vào năm 2025, tiếp tục hứa hẹn mang đến những thành tích khủng trong tương lai. 

James Cameron

Inception (2010)

Hầu như những bộ phim của đạo diễn Christopher Nolan đều có các yếu tố như: du hành thời gian, tìm hiểu bản chất thế giới… khiến người xem vừa rối não lẫn rối lòng. Và Inception chính là một tác phẩm hội tụ đủ các yếu tố làm nên thương hiệu Nolan, trở thành một tượng đài khó quên trong lòng người hâm mộ.

Inception là một trải nghiệm điện ảnh đáng nhớ khi Nolan cố gắng hình tượng hóa kiến trúc tư duy của con người, biến tiềm thức trở thành không gian vật lí cho các hoạt động đánh cắp được diễn ra. Bộ phim kể về một tên trộm có khả năng đi vào giấc mơ của người khác. Dom Cobb không trộm gì cả, anh chỉ trộm ý niệm. Bằng việc thâm nhập vào tiềm thức của đối tượng, anh có thể lấy thông tin mà đến cả những tay hacker sừng sỏ nhất cũng không thể làm được. Trong thế giới điệp viên, Cobb là vũ khí tối thượng. Nhưng kể cả vũ khí cũng có nhược điểm, khi Cobb gần như mất tất cả mọi thứ, anh được giao một nhiệm vụ cuối cùng để chuộc lỗi. Lần này, Cobb không gặt lấy ý niệm, anh gieo nó. Liệu anh và đồng đội có thành công?

Christopher Nolan

Inception có một kịch bản hoàn hảo, từng thế giới giấc mơ xuất hiện trong phim vừa chính xác, tinh tế, đôi khi lại hài hước. Thời gian là chủ đề yêu thích của Nolan và ông luôn tìm được cách thể nghiệm thú vị, có thể thấy rõ điều này qua cả phim InterstellarDunkirk. Nhưng trong Inception, thời gian không chỉ là chủ đề mà còn là công cụ kể chuyện khi tái hiện lại hoàn hảo nỗi ám ảnh của kẻ cắp giấc mơ. Từ đó, bộ phim đặt ra nhiều câu hỏi hóc búa: liệu rằng ta có đang sống trong thời gian thực, khi nào thì một giấc mơ trở thành thực tế, khi nào thì thực tế hóa ra lại chỉ là một giấc mơ, ta đang thức hay còn mơ?

Thông qua Inception, Nolan lồng ghép rất nhiều khái niệm về sự logic giấc mơ, đảo ngược các nguyên tắc vật lí, cho thấy những thực tại có thể vỡ vụn ra sao… Tất cả hòa quyện vào nhau, tạo thành một tác phẩm sci-fi tâm lí đỉnh cao mà có lẽ nhiều thập kỉ sau, vẫn còn khiến người ta trầm trồ.

Hoàng Đức Nhiên

Đọc bài viết

Cafe sáng