Trà chiều

Brain on Fire – Căn bệnh hiếm gặp suýt hủy hoại đời một cô gái trẻ

Vào năm Susannah 24 tuổi, dù mọi thứ xung quanh (công việc, tình yêu, gia đình) đều đang rất tuyệt vời, nhưng tinh thần cô đột nhiên trở nên tồi tệ, suy sút và có những triệu chứng rất giống bệnh nhân tâm thần (mental illness).

Published

on

Brain on Fire không phải là một phim xuất sắc nếu xét về mặt ngôn ngữ điện ảnh, cách kể chuyện… Nhìn vào điểm số từ Rotten Tomatoes (13%) và Imdb (7.6), ta có thể phần nào hình dung sơ lược đánh giá về phim từ phía giới phê bình và khán giả phổ thông. Với sự chênh lệch điểm số như thế này, có thể tạm rút ra nhận định rằng phim không được lòng giới phê bình và đồng thời lại khá được lòng khán giả. Dù vậy, Brain on Fire là phim độc lập và được trình chiếu lần đầu tiên trong khuôn khổ LHP Toronto International Film Festival (TIFF). Tại buổi họp báo của phim trong TIFF, một nhà báo đã nhận xét rằng Brain on Fire quả là có đề tài nhắm đến liên hoan phim, là kiểu phim dễ được chấp nhận tại các nơi như liên hoan phim hơn. Thế nhưng, Brain on Fire đã thất bại trong chính mặt trận mà lẽ ra bộ phim chiếm được nhiều ưu thế.

Brain on Fire dựa trên câu chuyện có thật về Susannah Cahalan, phóng viên tờ báo New York Post. Vào năm Susannah 24 tuổi, dù mọi thứ xung quanh (công việc, tình yêu, gia đình) đều đang rất tuyệt vời, nhưng tinh thần cô đột nhiên trở nên tồi tệ, suy sút và có những triệu chứng rất giống bệnh nhân tâm thần (mental illness). Cô đã được các bác sĩ tâm thần (psychiatrist) chẩn đoán rằng cô mắc bệnh bipolar disorder (rối loạn lưỡng cực), hoặc schizophrenia (tâm thần phân liệt). Bằng thao tác tự tra cứu trên mạng, chính Susannah cũng từng tin rằng mình bị mắc một trong hai căn bệnh này. Thế nhưng, không một bác sĩ nào cho Susannah biết chính xác cô mắc căn bệnh nào cũng như nguồn gốc, nguyên nhân của nó. Những tưởng rằng cuộc đời Susannah sẽ kết thúc tại bệnh viện tâm thần nào đó, thậm chí là cái chết thì một kì tích đã xuất hiện. Viết đến đây, tôi phân vân không biết nên tiếp tục kể câu chuyện đời thực của Susannah hay không vì nếu tôi tiếp tục kể, 100% khả năng bạn sẽ biết toàn bộ câu chuyện và bị ảnh hưởng cảm xúc rất lớn khi xem phim. Tuy nhiên, nếu không kể hết câu chuyện của Susannah, tôi sẽ khó lòng triển khai bài phân tích chủ yếu đi sâu vào khía cạnh biên kịch của phim. Vì vậy, tôi tách đoạn ở đây. Từ đoạn phía dưới trở xuống sẽ tiết lộ toàn bộ nội dung câu chuyện, bạn nên cân nhắc trước khi tiếp tục đọc.  

Bác sĩ Souhel Najjar đã đến với Susannah trong lúc bệnh tình của cô tưởng chừng đi vào ngõ cụt, không lối thoát cho sự phục hồi. Ông là người duy nhất đã ngồi xuống bên gia đình Susannah, trò chuyện cùng họ về bệnh tình của cô trong suốt gần một tiếng đồng hồ – đây là khoảng thời gian dài gấp bốn lần so với bất kì bác sĩ nào từng thăm khám bệnh của cô trước đó. Bằng việc lắng nghe kĩ lưỡng những miêu tả triệu chứng từ gia đình Susannah, kết hợp với quan sát của bản thân, bác sĩ Souhel đã dự đoán rằng trường hợp của Susannah không phải là mental illness hay neurological illness – những nhóm bệnh cô không có tiền sử trước đó mà là biological illness, không phải là bệnh về tâm thần mà là bệnh về sinh lí. Ông quyết định cho Susannah thực hiện bài kiểm tra vẽ đồng hồ – đây vốn là bài kiểm tra dành cho những bệnh nhân được chẩn đoán mắc bệnh Alzheimer, chủ yếu áp dụng cho người già; trước đó, hầu như không ai áp dụng bài kiểm tra này cho nhóm bệnh có triệu chứng bên ngoài như Susannah, cũng như cho những đối tượng có độ tuổi như cô. Nhưng khi Susannah thực hiện bài kiểm tra vẽ đồng hồ, chìa khóa để giải mã căn bệnh của cô đã hiện ra. Tất cả các con số đều nằm ở phía bên phải đồng hồ còn bên trái thì trống trơn. Điều đó có nghĩa là bán cầu não phải điều khiển chức năng của phần cơ thể bên trái đã bị tê liệt. Đó cũng là hình ảnh tượng trưng cho cách Susannah đã nhìn thế giới ở thời điểm ấy: chỉ một nửa, không đầy đủ, dẫn đến nhận thức bị sai lệch. Sau khi lấy tủy não và xét nghiệm, bác sĩ Souhel đã có kết luận chính thức về trường hợp của Susannah: cô bị mắc bệnh  Anti-NMDA receptor encephalitis (tạm dịch: bệnh viêm não do tự miễn thụ thể NMDA). Từ đó, Souhel đã tiến hành các phương pháp trị liệu cho Susannah và sau một năm, cô hoàn toàn khỏi bệnh. Trong quá trình dần hồi phục, Susannah đã viết hồi kí Brain on Fire: My Month of Madness kể lại khoảng thời gian cô mắc bệnh và điều trị. Bộ phim Brain on Fire dựa trên cuốn hồi kí này để chuyển thể thành phim.    

Vậy là, thông qua việc kể lại chuyện đời của Susannah, tôi vừa vi phạm nguyên tắc cơ bản của viết review phim: không tiết lộ toàn bộ nội dung phim. Đây là điều tôi cố gắng tránh trong những bài review phim kể từ sau năm 2011 đến nay. Thế nhưng, điều này cũng minh chứng cho việc kịch bản phim bám rất sát vào câu chuyện đời thực. Vậy nên, những ai đã biết câu chuyện đời thực của Susannah Cahalan sẽ có thể đối mặt với nguy cơ rất khó tìm được niềm vui từ việc khám phá cốt truyện khi xem Brain on Fire. Đây cũng chính là vấn đề lớn nhất mà bộ phim gặp phải.

Brain on Fire giữ nguyên toàn bộ tên người thật, địa điểm thật – vốn vẫn còn tồn tại trong đời thực lên phim. Điều đó khiến cho phim bị vướng vào mối ràng buộc chặt chẽ với thực tế, biên độ sáng tạo thêm được cho phép để tăng tính hấp dẫn của câu chuyện bị thu hẹp lại. Đương nhiên, không phải lúc nào việc tôn trọng nguyên tác sít sao cũng sẽ khiến bộ phim kém hấp dẫn bởi có rất nhiều câu chuyện đời thực kịch tích không thua gì phim. Thế nhưng, trong trường hợp của Susannah Cahalan với quyển tự truyện Brain on Fire thì lại khác. Căn bệnh hiếm gặp mà Susannah mắc phải đã hủy hoại trí nhớ của cô trong suốt những tháng mắc bệnh. Cô chỉ có kí ức rất mơ hồ về thời gian điều trị bệnh. Những chuyện cô viết trong Brain on Fire phần lớn dựa vào kí ức của người thân, những người đã chứng kiến cô trong thời gian bị bệnh, những cuộn băng ghi hình tại bệnh viện. Bằng thao tác phỏng vấn, tổng hợp thông tin, những kĩ năng của một nhà báo, Susannah đã viết lại câu chuyện của mình như một người quan sát từ bên ngoài hơn là một người trải nghiệm thực tế. Đây cũng là điều bản thân cô chia sẻ trong nhiều cuộc phỏng vấn. Chính vì vậy, dù chưa đọc Brain on Fire nhưng qua những thông tin đó, tôi nghĩ rằng quyển sách sẽ trình hiện từng bước suy sụp bên ngoài của Susannah khi bị căn bệnh tác động hơn là nội tâm bên trong, thế giới quan đầy bí ẩn, khó thâm nhập của cô trong những ngày ấy. Dù điều này có thực sự đúng với quyển sách hay không thì chính bộ phim Brain on Fire đã thể hiện chính xác đặc tính đó. Vậy nên, thay vì là cuốn phim tâm lí sống động về một cô gái đang hạnh phúc không may mắc phải căn bệnh hiếm gặp – điều mà lẽ ra Brain on Fire có thể làm được, bộ phim đã trở thành đoạn video minh họa mang tính giáo khoa về căn bệnh anti-NMDA receptor encephalitis. Vì lẽ đó, ở Brain on Fire, người xem không thấy được câu chuyện độc lập của một cá nhân mà chỉ thấy câu chuyện tiêu biểu của một cá thể đại diện cho một tập thể. Nếu chỉ tiếp xúc chủ thể trên khía cạnh miêu tả diễn biến của căn bệnh, hầu như không có nhiều khác biệt trong câu chuyện giữa Susannah Cahalan và Emily Gavigan (một bệnh nhân cũng mắc căn bệnh tương tự như Susannah, đã được chẩn đoán đúng bệnh nhờ người nhà xem chương trình về Susannah), hay bất cứ bệnh nhân anti-NMDA receptor encephalitis nào khác. Bộ phim đã thất bại ở mặt khắc họa tâm lí cá nhân.

Tuy nhiên, có thể điều thất bại nói trên cũng nằm trong chủ ý của đạo diễn Gerard Barrett. Trong buổi họp báo ra mắt phim tại TIFF, Barrett đã chia sẻ rằng anh không muốn áp đặt quá nhiều thứ thuộc về phong cách cá nhân lên bộ phim, như thế sẽ mất đi tính thông tin khách quan. Barrett muốn làm Brain on Fire với ý định nâng cao nhận thức cá nhân của người xem về căn bệnh lạ này. Quả thực, về mặt thị giác và phong cách kể chuyện, Brain on Fire không mang chút dấu ấn cá nhân nào, bộ phim hoàn toàn trung tính. Tôi nghĩ chính điểm này đã giết chết bộ phim. Có lẽ Barret đã quên rằng cảm xúc cá nhân cũng là một dạng thông tin quan trọng; khi một thông tin gắn liền với cảm xúc, thông tin đó sẽ trở nên dễ nhớ, dễ tiếp thu hơn rất nhiều. Tuy nhiên, tôi vẫn đồng cảm với quyết định của Barrett khi chợt nhớ đến những bộ phim truyền hình tôi yêu thích kể về những căn bệnh lạ một cách bình dị nhưng vẫn để lại nhiều cảm xúc như: One litre of tear, Taiyou no uta… Rõ ràng, phong cách nghệ thuật cá nhân áp đặt lên những góc máy, thị giác của bộ phim không phải là yếu tố lớn ảnh hưởng đến thành công của dòng phim loại này. Khi xét đến tất cả các nguyên nhân khiến cho Brain on Fire không thể trở thành bộ phim đáng nhớ hơn, tôi nhận ra thất bại cốt lõi vẫn nằm ở kịch bản phim. Việc quá trung thành với câu chuyện đời thực đã khiến Brain on Fire vướng phải một số lỗi cơ bản trong cấu trúc kể chuyện.

Đầu tiên, đó là cách chọn điểm nhìn. Brain on Fire có point of view không đồng nhất. Ở hồi I cho đến khoảng trường đoạn năm của hồi II sau midpoint một chút, phim được kể dưới góc nhìn của Susannah, đoạn mở đầu phim thậm chí còn bắt đầu bằng giọng voice over của cô. Thế nhưng từ cuối hồi II cho đến gần kết thúc phim ở hồi III – phần quan trọng nhất của câu chuyện, phim lại chuyển sang góc nhìn omniscience, hoàn toàn bỏ rơi góc nhìn của Susannah. Vấn đề khó khăn nhất của cô được giải quyết hoàn toàn bởi người khác (cụ thể ở đây là gia đình, bác sĩ Souhel), không phải từ chính cô. Nguyên nhân là do ở thời điểm căn bệnh tiến triển nặng, Susannah đã mất đi ý thức. Trong đời thực, Susannah thừa nhận rằng việc chữa khỏi căn bệnh của cô hoàn toàn do nỗ lực gia đình và may mắn khi cô có cơ duyên được bác sĩ Souhel chữa trị. Phép màu kì diệu này khi đưa vào phim lại không mấy xúc động bởi theo mạch của câu chuyện, khán giả không thấy thỏa mãn do vấn đề của nhân vật chính lại được giải quyết dựa vào may mắn. Yếu tố mang tính cơ duyên nếu xuất hiện ở hồi I hoặc muộn lắm là đầu hồi II sẽ dễ dàng được khán giả chấp nhận; tuy nhiên, ở thời điểm mang tính quyết định như hồi III, khi yếu tố này đột nhiên xuất hiện thì khán giả lại dễ cảm thấy chưng hửng. Đây là lỗi deus ex machina thường gặp trong kịch bản phim. Ví dụ điển hình thường gặp của lỗi này là câu chuyện về một người đàn ông nghèo khó cần một khoản tiền để làm việc gì đó, ông tìm mọi cách để kiếm đủ số tiền nhưng không đạt được mục đích, cho đến cuối phim ông trúng vé số độc đắc và có đủ số tiền mong muốn. Trong câu chuyện này, tấm vé số độc đắc chính là deus ex machina. Cách giải quyết vấn đề bằng deus ex machina sẽ khiến người xem cảm thấy không thỏa mãn vì sự may mắn đến một cách quá tình cờ, đúng lúc – rõ ràng có bàn tay sắp đặt của biên kịch ở đây. Trong đời sống thực tế, dù những chuyện như vậy thỉnh thoảng vẫn xảy ra nhưng tâm lí của người theo dõi dành cho một bộ phim hay một câu chuyện thường sẽ trông đợi vấn đề được giải quyết bằng chính nỗ lực của nhân vật hơn là cơ may. Quay trở lại câu chuyện trong ví dụ, giả sử ngay từ đầu người đàn ông đã biết đâu là tấm vé số trúng giải độc đắc, ông ta cố gắng bằng mọi cách để sở hữu tấm vé phục vụ cho mục đích của mình và ở hồi ba, ông ta có được tấm vé ấy. Khi thay đổi câu chuyện như vậy, lúc này tấm vé số không còn là deus ex machina nữa, nó trở thành mục tiêu cụ thể (goal) của ông để đạt được ước mơ (big dream). Và như thế, câu chuyện trở nên thuyết phục hơn, nhiều cảm xúc hơn với khán giả. Nếu không thể bỏ được deus ex machina ra khỏi câu chuyện thì vấn đề ở đây là thay đổi cách thức, thời điểm nó xuất hiện để nó không còn là deus ex machina nữa. Vấn đề của Brain on Fire cũng tương tự như vấn đề trong câu chuyện ví dụ này. Trên thực tế, bác sĩ Souhel chính là người đã mang đến phép màu cho Susannah và bộ phim cũng không thể loại bỏ bác sĩ ra khỏi câu chuyện được vì ông chính là mấu chốt để chữa trị căn bệnh của Susannah – vấn đề rắc rối lớn nhất mà nhân vật phải đối diện. Tuy nhiên, bác sĩ Souhel xuất hiện quá muộn: ông xuất hiện ở hồi ba, nhanh chóng chữa khỏi bệnh cho Susannah và sau đó phim kết thúc chóng vánh đến mức người xem chưa kịp thấy mối liên hệ giữa ông và Susannah. Như vậy, sẽ ra sao nếu để bác sĩ Souhel xuất hiện sớm hơn? Lúc Susannah chưa bị bệnh hoặc chỉ mới chớm bệnh, ông đang ở đâu? Rõ ràng, nếu kể câu chuyện về Susannah theo góc nhìn của cô hay thậm chí theo góc nhìn omniscience thì bác sĩ Souhel không thể xuất hiện sớm hơn một cách tự nhiên được. Nhưng chính bác sĩ Souhel là người đã giải quyết vấn đề ở hồi ba. Vì vậy, tôi nghĩ đến một cách giải quyết là đổi lại người kể chuyện: câu chuyện Brain on Fire sẽ được kể dưới góc nhìn của bác sĩ Souhel ngay từ hồi I. Như thế, có thể khiến bộ phim dẫn dắt cảm xúc khán giả tốt hơn không?

Ngoài ra, như đã đề cập, một vấn đề nữa của kịch bản phim là chưa thật sự khắc họa được mối quan hệ giữa các nhân vật xoay quanh trung tâm là Susannah. Phim chỉ mới dừng lại ở việc miêu tả sơ lược mối quan hệ giữa cô và gia đình, người yêu, bác sĩ Souhel mà chưa nêu bật được nét đặc trưng riêng trong sự kết nối của họ. Brain on Fire khắc họa mối quan hệ giữa Susannah với các đồng nghiệp tạm ổn nhưng tuyến nhân vật đồng nghiệp chỉ xuất hiện đến khoảng trường đoạn ba của bộ phim và gần như biến mất ở các điểm quan trọng nhất trong câu chuyện. Gia đình, người yêu, bác sĩ Souhel – những người đã ở bên cạnh Susannah trong những thời điểm quan trọng nhất mà lẽ ra nếu mối quan hệ giữa họ và Susannah được khắc họa chi tiết hơn thì có thể câu chuyện sẽ được dẫn dắt bằng nhiều cảm xúc hơn.        

Brain on Fire không phải là một phim hay nhưng nếu xét trên khía cạnh cung cấp thông tin, nâng cao nhận thức về căn bệnh Anti-NMDA receptor encephalitis, nó có thể là tia hi vọng cho ai đó đang mắc phải hoặc có người thân mắc phải căn bệnh này nhưng bị chẩn đoán sai lầm. Nó cũng là lời nhắc nhở về việc cơ thể chúng ta phức tạp ra sao, tinh vi ra sao, và vì quá phức tạp, quá tinh vi, y học vẫn thường bỏ sót những trường hợp hỏng hóc tế vi ở một góc khuất nào đó mà số đông hiếm khi mắc phải. Nhưng những cơ thể ấy, những con người với cơ thể ấy, bất cứ ai cũng đều cần sự cứu rỗi, nhìn nhận và thấu cảm. Với ý nghĩa đó, Brain on Fire không phải là một phim dở và có lẽ không hẳn là một trải nghiệm không xứng đáng dành thời gian cho nó.

Điểm đánh giá: 6/10
Kodaki

Click to comment

Viết bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Trà chiều

Trịnh Công Sơn nói gì về tình yêu?

Published

on

By

Có lẽ với cố nhạc sĩ Trịnh Công Sơn, tình yêu là một nỗi niềm đau đáu. Đó không chỉ là chủ đề lớn trong các sáng tác của ông mà còn là nguồn cảm hứng sống vô tận: "Sống giữa đời này chỉ có thân phận và tình yêu. Thân phận thì hữu hạn. Tình yêu thì vô cùng. Chúng ta làm cách nào nuôi dưỡng tình yêu để tình yêu có thể cứu chuộc thân phận trên cây thập giá Đời."

Tình yêu, với Trịnh Công Sơn, là diễm tình. Trước hết là phải đẹp, đẹp trong từng lời bội bạc, bước chân quay gót, trong dở dang và tan vỡ. Sẽ có không mối tình rách rưới hay nhầy nhụa, sẽ không có mối tình than khóc lâm ly, sẽ không có luôn cả đau khổ, hoặc nếu có chăng nữa thì đó là nỗi đau khổ đã đành, đã sẵn, và cần được siêu sắc nuôi dưỡng cái giống nòi tình. _ Bửu Ý _ Trích Tâm Tình Với Trịnh Công Sơn

Nhân một ngày tháng hai, khi sắc xuân vẫn đang ướp đầy trong lộc non và tình yêu thì đượm chín trong lòng người, hãy cùng Bookish quay ngược thời gian, trở về mùa xuân năm 1998 và đọc lại những tâm tư rất thân phận của cố nhạc sĩ Trịnh Công Sơn về tình yêu.

"Đành vậy với tình yêu."

Trịnh Công Sơn - Xuân 98

Cho đến cuối thế kỷ này, khi mà những khám phá khoa học đã bóc trần mọi lớp vỏ huyễn hoặc của thế giới quanh ta thì con người vẫn tiếp tục hồn nhiên chất vấn mình và chất vấn nhau: Tình yêu là gì? Tình yêu có thật hay không? Bao nhiêu thế kỷ qua đi và tình yêu cũng thay hình đổi dạng. Đắm chìm vào những cuộc vong thân ngoạn mục, tình yêu đã hoá thân và theo từng thời kỳ, mang những khuôn mặt khác.

Tình yêu cuối thế kỷ này không còn mộng mị nữa. Những giấc mơ hão huyền đã ra đi. Con người đến với tình yêu bằng một ngôn ngữ khác. Có một thứ hình bóng của mộng du len lỏi vào giữa cái điều mà người ta gọi là tình yêu. Và cứ thế người ta lao vào cái điều "tưởng như" ấy một cách đồng bóng và đánh mất dần cái hồn phách thơ mông của những ngày đã xa xưa.

Đừng bao giờ nói một lời có tính cách khẳng định về tình yêu. Mới ngày hôm qua là như thế hôm nay đã khác rồi. Tình yêu tưởng vĩnh viễn ra đi mà không ra đi. Tình yêu vờ như ở lại mà không ở lại. Kể lại một chuyện tình thường khi là kể lại một cái gì đã mất. Nhưng cũng không hiếm những trái tim lạc hướng bỗng một hôm lại ngoạn mục quay về. Không thể nói nhiều về tình yêu mà không mắc lỗi lầm. Cứ để nó yên ở một vị trí nào đó và nhìn ngắm, quan sát hoặc chờ đợi. Tình yêu là bất khả tư nghì.

Không ai điên gì mà tự xưng mình là kẻ biết rõ về tình yêu nhất. Đau khổ cả trăm lần vẫn cứ là một đứa trẻ thơ trong tình yêu. Tình yêu có lẽ là lời nói dối uyên thâm nhất của trái tim. Một trái tim kim cương không tì vết, không thách thức nhưng ngạo nghễ và thích đùa. Một thứ đùa cợt làm bằng bi hài kịch và trên sân khấu của cuôc hành trình đã làm nổ tung ra những cơn thịnh nộ của núi lửa hoặc của những mùa băng rã tuyết tan.

Dù thế nào cũng đừng phỉ báng tình yêu bởi nghĩ cho cùng nó vẫn là nguồn an ủi duy nhất. Nó là trò chơi dối trá cần thiết và qua nó chỉ có con ngưòi mới hiểu được thế nào là đau khổ để rồi có lúc phải thốt lên: Tôi buồn quá....

Tình yêu không có thắng bại. Ở đây không phải đấu trường mặc dù vẫn có những vết thương. Thậm chí đôi khi còn mang đến những cái chết, những cái chết không báo trước nhưng cũng nhuốm đầy đủ màu sắc tai ương, của một kiếp nạn. Những cái chết như thế không còn mới mẻ gì nữa, chỉ đủ gây ngạc nhiên thoáng qua để có dịp nhắc nhở lại một thời kỳ vàng son của triều đại lãng mạn. Thế nhưng ở đâu đó trên các vỉa hè trong lòng các đô thị, nhất là dưới ánh đèn mờ tỏ ở các ngoại ô, tiếng xì xào vẫn cứ vang lên như một ngọn gió xót thương qua các đền thờ của ảo giác. Đó cũng là lời tôn vinh phù phiếm nhằm làm thăng hoa tình yêu hầu khôi phục lại một thứ lòng tin đã bị đánh mất.

Nếu có dịp chạm vào tình yêu thì hãy thử mượn một cỗ xe chở lòng bất kính đến trước. Có thể không hẳn là lòng bất kính mà một cái gì đó gần với sự thờ ơ, lãnh đạm hoặc một phương cách lịch sự bóng bẩy phường tuồng. Đó là lá chắn cần thiết, một thứ bùa hộ mạng để chống đỡ những mũi dao vô đạo có thể gây thương tích bất ngờ trên lòng tự trọng.

Tình yêu hình như không di chuyển trên một mặt phẳng. Nó thường dẫn người trong cuộc đi qua những nơi chốn không hề dự phòng trước. Thế rồi một hôm bỗng dưng mọi chuyện cứ lệch lạc hẳn đi và người trong cuộc thấy mình không còn là mình nữa. Như trong mùa biển động, những con sóng dữ tha hồ nhảy múa và nó rút dần tinh lực của con người.

Có những kẻ thấy được thiên đường. Có những kẻ thấy được địa ngục. Và có không ít những kẻ bị chọc mù đôi mắt khi đi qua tình yêu. Những giấc mơ hồng, những ác mộng đen. Đôi khi có những cái bóng vô hồn ngoan ngoãn tới lui trong không gian vô hình của những câu thần chú. Khi nhóm lửa đốt lòng mình trên những mê hoặccủa lời thề nguyền thì lúc ấy chỉ còn âm binh nói chuyện với âm binh. Giấy vàng bạc bay lả tả phủ hết con đường tỉnh thức để mở ra một cõi đời son phấn ngào ngạt hương hoa mơ mơ, tỉnh tỉnh, muội muội, mê mê nhưng đầy một thứ lạc thú riêng tư, một cõi trời bay bổng.

Chấp nhận tình yêu là chấp nhận một thứ có có, không không, đùa đùa, thật thật. Nó vô hình tướng nhưng làm rã tan hồn phách. Không có nó thì đời sống không biết sẽ tẻ nhạt đến dường nào. Thôi thì đành có nó vậy.

Đọc bài viết

Trà chiều

Goodnight Mommy: Tiếng hát ru từ bóng tối điêu linh

Published

on

By

Dù không phải là người xem nhiều phim kinh dị, Ich seh, Ich seh (Goodnight Mommy) vẫn là phim khá dễ đoán và không có nhiều sáng tạo với tôi. Tôi nghĩ rằng có lẽ những ai đã từng xem qua A tale of two sister (2003) của đạo diễn Kim Jee Won đều sẽ cảm thấy Ich seh, Ich seh không mới. Twist lớn nhất của phim là việc Lukas đã chết được tiết lộ rất rõ ràng qua những hình ảnh ngay từ đầu phim.

Cái chết được thông báo một cách tinh tế

Ich seh, Ich seh mở đầu bằng tiếng hát ru của một dàn hợp ca trong nền màn hình vẫn còn tối. Khung hình dần sáng và chúng ta thấy được những em bé đang đứng hát, chúng ta biết đây là những hình ảnh trong một chương trình truyền hình. Màn hình dần chuyển sang tối và lại chuyển sáng với khung cảnh đồng lúa ngô quay từ trên cao, hai anh em sinh đôi chạy rượt đuổi, len lỏi qua những bụi cây. Phim dành khá nhiều thời gian cho cảnh hai anh em nhún nhảy trên một mảnh đất nứt nẻ, có độ xốp và độ đàn hồi cao. Sau đó, hai cậu chạy đến một cửa hầm, một cậu vào hầm trong lúc một cậu đứng ngắm nhìn bụi cây. Tại đây, bộ phim xuất hiện câu thoại đầu tiên khi cậu bé đứng ngắm bụi cây không thấy người anh em còn lại của mình đâu, cậu chạy đến trước cửa hầm gọi lớn: “Lukas, Lukas, Lukas…” Chúng ta biết cậu bé đã đi qua cửa hầm là Lukas. Sau khi gọi tên Lukas rất nhiều lần nhưng không nhận lại được bất kì sự hồi âm nào, cậu bé còn lại đứng tần ngần trước cửa hầm rất lâu. Đây là một cảnh trung với hình ảnh cậu bé nhỏ nhoi, đơn độc trước cửa hầm đen tối choán cả khung hình. Cảnh này diễn ra có lẽ chừng 7, 8 giây – một thời gian dừng lại đủ lâu để ta nhận thấy ắt hẳn phải có dụng ý. Và rồi cậu bé còn lại đi qua cửa hầm, màn hình tối đen hoàn toàn, chúng ta có thể nghe được tiếng gì đó tựa như tiếng tàu chạy trên đường ray rất nhỏ.

Màn hình lại chuyển sáng và chúng ta thấy khung cảnh một cậu bé sinh đôi nằm trên tấm ván đen đang lướt chầm chậm giữa hồ. Đó là một cảnh toàn. Mặt hồ rất trong và tấm ván rất đen đến nỗi ta không thể thấy được lằn ngăn cách giữa cậu bé đang nằm trên tấm ván và bóng hình cậu bé phản chiếu dưới nước. Ta cảm thấy như hình và bóng của cậu bé dính liền với nhau mà không có sự phân chia giữa tấm ván và mặt nước. Qua thị giác, ta cảm thấy như thể đang có hai cậu bé; nhưng thực chất, bằng lí trí ta biết là chỉ có một cậu bé. Đến đây, tôi đã hiểu là có một cậu bé chết rồi, có thể đó là Lukas và cậu chết ngay thời điểm đi qua cửa hầm hoặc trong giây phút nào đó khi cậu bé còn lại đứng tần ngần trước cửa. Cửa hầm mà từ bên ngoài chúng ta không nhìn thấy bất cứ thứ gì như tượng trưng cho cánh cửa dẫn đến địa ngục, là cầu nối giữa sự sống và cái chết. Hình ảnh cậu bé nằm trên mặt hồ khiến hiện thực như có gì đó sai lệch giữa hình và bóng, giữa thực tế và ảo ảnh đã đưa ra gợi ý khá rõ ràng cho người xem: cậu bé còn lại giờ đây đã đơn độc nhưng vẫn tìm được sự kết nối với người đã chết, hai cậu không thể tách rời nhau như hình với bóng. Lúc này, tôi nghĩ thầm trong đầu với sự thán phục rằng phim thật tinh tế, chỉ bằng những hình ảnh đơn giản như thế đã đủ khiến người xem hiểu được có một trong hai cậu bé chết rồi. Ich seh, Ich seh mở đầu thật hứa hẹn và tôi đã chờ đợi bộ phim làm được nhiều hơn thế.

Với những ai chưa đoán ra thông tin Lukas đã chết, bộ phim cũng cung cấp rất nhiều gợi ý cho người xem trước khi việc này được tiết lộ rành mạch qua lời người mẹ ở cuối phim. Gần nửa đầu phim, chúng ta chỉ toàn nghe cậu bé còn lại gọi tên Lukas. Cái tên Lukas được gọi lên liên hồi rất nhiều lần, chúng ta biết được tên Lukas từ rất sớm trong khi chúng ta không biết tên cậu bé còn lại, mãi đến gần giữa phim, chúng ta mới biết cậu bé còn lại tên là Elias. Đây là một dụng ý rõ ràng. Thông thường, những gì được gọi đến nhiều hơn là những gì đã mất đi và chúng ta gọi nó với sự hối tiếc. Con người là thế, luôn trân trọng những gì đã mất và mấy ai nhận ra cái chưa mất đi cũng đáng trân trọng không kém. Chi tiết này phần nào đó tương tự như thế. Ngoài ra, còn một chi tiết nữa dễ nhận ra hơn là Lukas không bao giờ trực tiếp nói điều cậu muốn nói với bất kì ai ngoại trừ Elias. Khi chỉ có cậu và Elias, cậu sẽ trò chuyện bình thường. Nhưng khi có người ngoài xen giữa cậu và Elias, cậu sẽ chỉ trao đổi với Elias; khi muốn nói bất kì điều gì với người ngoài, cậu sẽ nói nhỏ qua tai Elias, sau đó Elias nói lớn lại cho người kia biết. Trong phim, ngoài những cảnh trò chuyện với người mẹ mà một số người xem có thể bị đánh lừa việc bà lờ Lukas đi là do đang giận cậu thì chúng ta còn có những cảnh sau để thấy rõ điều này: cảnh hai anh em chạy đến nhà thờ và nói chuyện với người thanh niên đang quét dọn ở đây, cảnh hai anh em đối phó với người của hội chữ thập đỏ.

Tôi đã đọc qua một số ý kiến bình luận của khán giả xem phim tại IMDB, trang web của Roger Ebert, trang Rotten Tomatoes và nhận ra là có rất nhiều người cũng đoán biết trước việc Lukas đã chết qua những phút đầu tiên của phim hoặc qua một số chi tiết cứ lặp đi lặp lại suốt phim. Vì vậy, họ không cảm thấy bất ngờ khi người mẹ tiết lộ việc này ở hồi ba của phim. Có một số khán giả thậm chí còn bình luận rằng việc Lukas đã chết thậm chí không thể xem là twist của phim. Nếu dụng ý của Franz và Fiala là để chi tiết này làm twist thì tôi cho rằng đây là thất bại vì rất nhiều người đã đoán ra việc này từ sớm; tôi đã chờ đợi cú twist phải là một điều khác, hoặc ngược lại với những gì tôi đã dự đoán. Cũng có khả năng, Franz và Fiala không muốn tạo kịch tích qua tình tiết này mà chỉ muốn người xem tập trung vào câu chuyện nên họ không quan trọng liệu người xem có đoán được quá sớm hay không.

Mầm mống bạo lực của Elias đến từ đâu?

Ich seh, Ich seh có cấu trúc đảo chiều khá thú vị: nửa đầu phim được kể với góc nhìn của hai đứa trẻ mang không khí kinh dị, nửa cuối phim được kể với góc nhìn của người mẹ mang không khí hiện thực. Nửa đầu phim có thể sẽ khiến khán giả đồng cảm, thương hai anh em sinh đôi và căm giận người mẹ, nửa cuối phim có thể sẽ khiến khán giả có cảm xúc ngược lại. Tôi nghĩ có lẽ Franz và Fiala sẽ mong muốn khán giả đồng cảm với cả hai bên sau khi bộ phim kết thúc. Tuy nhiên, tôi không thể nào đồng cảm với hai cậu bé sinh đôi. Với tôi, phim đã xây dựng thất bại mặt tâm lí của hai đứa trẻ và chỉ thành công với người mẹ. Khi phim kết thúc, có lẽ rất nhiều người sẽ nhận ra thông điệp cảnh tỉnh về tình trạng thờ ơ, thiếu sự quan tâm, thấu hiểu giữa bố mẹ và con cái được thể hiện khá rõ ràng. Tuy nhiên, thông điệp của Ich seh, Ich seh sẽ có sức mạnh hơn nếu như phim khiến người xem đồng cảm với hai anh em sinh đôi hơn, đặc biệt là với Elias. Dưới đây, tôi sẽ phân tích một số điểm yếu hoặc bất hợp lí trong cách xây dựng tâm lí của hai đứa trẻ.

Khi phim kết thúc, người xem có thể hiểu rằng do cú sốc tinh thần về cái chết của Lukas đã khiến Elias bị mắc bệnh tâm thần, cậu không kiểm soát được những ảo ảnh và hành vi bản thân; vì vậy, hành động tra tấn và giết mẹ ở cuối phim của cậu là hoàn toàn có thể cảm thông. Nhưng tôi vẫn cảm thấy cậu không đáng để cảm thông bằng người mẹ. Ngay từ đầu, phim đã cho người xem thấy tâm lí không bình thường của hai đứa trẻ qua sở thích kì lạ: sưu tầm những con rệp và bỏ vào trong chiếc hộp chứa đất, giả định rằng đó là môi trường sống của con rệp. Hai cậu bé đặt chiếc hộp này ngay trong phòng ngủ. Tôi không kì thị những người yêu côn trùng nhưng xét trên bình diện chung, những đứa trẻ thường sẽ không có sở thích này. Rõ ràng, qua việc chọn cho hai đứa bé sở thích hơi khác biệt với số đông, Franz và Fiala đã ngầm gieo vào tiềm thức khán giả rằng hai cậu bé này có sự lập dị. Tôi sẽ không đánh đồng sở thích với tính lập dị chỉ với chi tiết này, nhưng Franz và Fiala không dừng ở đây. Hình ảnh con rệp lặp đi lặp lại xuyên suốt phim; trong đó, có hai hành động trong giấc mơ của Elias đáng chú ý là: việc cậu để con rệp bò lên người mẹ cậu rồi chui tọt vào miệng bà, việc cậu rạch bụng mẹ và rất nhiều con rệp bò ra từ bụng bà. Tuy rằng, hai hành động này chỉ diễn ra trong giấc mơ và lại vào thời điểm mẹ cậu còn băng kín khuôn mặt, cậu nghi ngờ đó không phải là mẹ nhưng chúng ta có thể thấy nó ẩn chứa sự gian ác, mầm mống của bạo lực ngay trong tiềm thức cậu. Hai hành động ấy rất khác với cách hành xử bình thường của trẻ con khi nghĩ rằng một người lạ nào đó đang giả dạng mẹ chúng. Nếu một đứa trẻ không có mầm mống bạo lực, cách xử sự của chúng có thể khác nhau tùy theo tính cách nhưng việc làm tổn thương đến người khác không phải là việc đầu tiên chúng nghĩ đến. Phản ứng thông thường của chúng sẽ là khóc thét lên, nhưng ở đây, Elias đã đủ lớn để kiềm chế cảm xúc nên phương án này bị loại bỏ. Phương án thích hợp hơn là dò hỏi những người thân khác về người xa lạ đó. Tôi nghĩ Elias hoàn toàn có thể gọi điện hỏi bố hoặc bất cứ người thân, họ hàng nào trong gia đình về mẹ cậu, về lần cuối cùng họ nhìn thấy mẹ cậu và có thể một ai đó sẽ biết được ý định phẫu thuật thẩm mĩ của bà rồi nói lại cho cậu biết. Nhưng bộ phim đã bỏ qua phương án đó, hoặc Elias không thể nghĩ đến cách nào khác hơn để tìm người mẹ thật ngoài việc tra tấn người mà cậu nghĩ là mẹ giả. Như vậy, rõ ràng mầm mống bạo lực đã có trong cậu. Mầm mống ấy từ đâu ra? Có phải mẹ cậu đã gieo vào cho cậu không? Nếu đúng là mẹ cậu đã gieo vào cho cậu thì bộ phim thành công trong việc phản ánh thông điệp sự vô tâm của các bậc phụ huynh dẫn đến hành vi bạo lực của con cái. Thế nhưng, ta hãy thử khảo sát lại một số tình tiết trong phim để xem có đúng là mẹ cậu đã gieo vào cậu sự bạo lực không.

Ở đầu phim, mẹ cậu đã đưa ra một số qui tắc cho cậu: phải đóng kín rèm vào ban ngày; mẹ sẽ luôn ở trong phòng, khi có việc gì cần, cậu phải gõ cửa trước khi vào; nếu có khách đến nhà tìm mẹ thì bảo rằng mẹ không có nhà; không đi chơi quá xa ngoài khu vực nhà; không để bất cứ động vật nào trong nhà. Vì những qui tắc này, cậu bắt đầu nghi ngờ rằng người đang bó băng kín mặt nói chuyện với mình không phải là mẹ, bởi với cậu: “Trước đây, mẹ luôn dịu dàng và chăm sóc mình, mẹ chẳng có bất kì đòi hỏi nào vô lí. Mẹ không cấm mình để động vật trong nhà. Người này không phải là mẹ mình.” Như vậy, trước đây, người mẹ này không đối xử bạo lực với cậu; có thể như bao người mẹ khác, bà sẽ chỉ trừng phạt cậu một cách nhẹ nhàng khi cậu có sai phạm; dù là thế nào thì suy nghĩ đó của cậu cũng đồng nghĩa với việc bà không gieo vào cậu bất cứ kí ức tồi tệ nào trước đây. Vì mẹ đã từng đối xử rất tốt với Elias nên Elias nghi ngờ khi bà có biểu hiện thay đổi. Trong những qui tắc bà đặt ra cho Elias, chỉ có hai qui tắc ảnh hưởng trực tiếp đến cậu: “không đi chơi quá xa ngoài khu vực nhà” và “không để bất cứ động vật nào trong nhà”; những qui tắc còn lại đều không có gì quá đáng. Tại sao bà không cho Elias đi chơi quá xa ngoài khu vực nhà? Bởi bà sợ cậu sẽ lại gặp tai nạn và qua đời như Lukas, đây là tâm lí rất dễ đồng cảm với người mẹ vừa mất đứa con. Tại sao bà không cho Elias để bất cứ động vật nào trong nhà? Tôi nghĩ rằng bộ phim đã tiết lộ câu trả lời cho câu hỏi này thông qua một chi tiết ẩn dụ ở đầu phim. Đó là cảnh Elias đánh răng trong nhà tắm, cậu nhìn thấy một con rệp đang bò trên vách tường nhà. Khuôn hình trong cảnh này dừng lại rất lâu ở hình ảnh con rệp từ từ bò lên cao và khi đến mé vách tường, do không giữ được thăng bằng, nó rớt xuống. Một lần nữa, đây là hình ảnh ám chỉ có người đã chết. Sau đó, chúng ta biết rằng hai anh em Lukas và Elias có sở thích sưu tập những con côn trùng, những con rệp. Như vậy, quay ngược lại hình ảnh trước đó, có thể Franz và Fiala đã cho chúng ta gợi ý về nguyên nhân cái chết của Lukas: cậu đi qua đường hầm đó, nhìn thấy một côn trùng đẹp đẽ, cậu đã chết khi cố gắng lấy con côn trùng đó, có thể là do ngã trên vách núi hoặc bị một đoàn tàu đâm phải. Nếu tạm chấp nhận giả thuyết này, ta sẽ thấy rất hợp lí khi mẹ - vốn cũng là một người yêu động vật lại cấm Elias để động vật trong nhà vì bà nghĩ rằng đó là nguyên nhân khiến Lukas chết đi. Như vậy, những qui tắc người mẹ đưa ra đều hợp lí, không có gì quá đáng, bà cũng không gieo mầm mống bạo lực trước đó cho Elias. Thế thì, trong khoảng thời gian bà băng kín mặt sau khi trở về từ cuộc phẫu thuật thẩm mĩ, bà có đối xử điều gì tàn nhẫn đến mức không thể chấp nhận được với Elias chăng? Khi suy nghĩ lại, chúng ta có thể thấy hành động tàn ác nhất của bà là việc đã đổ những con rệp của Elias vào bể nước cậu ngâm con mèo khi nghĩ rằng mẹ cậu đã giết mèo của cậu. Vậy bà có giết mèo của Elias không? Bộ phim không cho chúng ta thấy rõ điều này nhưng dựa trên phân tích từ những chi tiết trong phim, tôi cho rằng bà không giết mèo của cậu. Bởi vì bà đã nói rằng bà không thích để động vật trong nhà nên nếu bà giết mèo, bà hoàn toàn có thể đem xác mèo vứt ở bờ hồ gần nhà hoặc chôn ở một nơi nào đó trong rừng. Với tâm lí của một người nội trợ, dù đang tuyệt vọng và giận dữ thế nào, tôi chắc rằng bà cũng không quên việc này bởi để xác mèo trong nhà mà không phát hiện sớm sẽ bốc ra mùi rất hôi thối. Tâm lí người bất ổn không thể nào chịu nổi thứ mùi xú uế đó. Do đó, tôi cho rằng con mèo đã chết vì một nguyên nhân nào đó khác. Elias đã bị sự nghi ngờ và thù hận làm mù quáng. Thay vì hỏi trực tiếp mẹ, cậu lại chọn cách khiêu khích bà bằng việc ngâm xác mèo trong bể nước và đặt trước phòng khách. Rõ ràng, đây cũng là cách cư xử biểu hiện tâm lí bất thường trong nội tại, trẻ em bình thường không cư xử như thế.

Qua phân tích khi khảo sát lại bộ phim, ta có thể thấy người mẹ không làm gì quá đáng với Elias khi bà băng kín mặt, bà chỉ nổi giận và gắt gỏng với cậu – điều này hoàn toàn có thể chấp nhận được vì bà cũng là người đang suy sụp tâm lí vì tai nạn của Elias, vụ li hôn với chồng; còn trước đó, bà vốn đối xử tốt với Elias. Như vậy, mầm mống bạo lực trong cậu thực tế không phải từ bà mà chúng ta chỉ có thể tạm chấp nhận đó là thứ bẩm sinh trong cậu, minh chứng là hành động của cậu trong những giấc mơ, sở thích và cách giải quyết vấn đề kì quặc của cậu bên ngoài; đó có thể là bản chất của cậu trước cả khi Lukas mất.

Người mẹ đáng thương

Về người mẹ, tôi đã có dự cảm mơ hồ rằng bà chính là mẹ thật của hai anh em ngay từ cảnh bà chơi trò đoán nhân vật/đồ vật được dán trên trán với Elias. Nhìn cách bà chơi với con, nhẫn nại hỏi và đoán, cách bà mỉm cười và ánh mắt của bà, tôi không hề cảm thấy rằng đây là một người xa lạ đang cố lẻn vào nhà với mục đích xấu. Sau đó, trong phim có một cảnh quay đằng sau lưng bà, chúng ta có thể thấy dáng người bà ngồi trên giường rất cô đơn, đôi vai run run. Tiếp theo là cảnh bà đứng trước gương, ngắm nhìn mình trong gương, làn gió từ khung cửa sổ đang mở khiến chiếc áo ngủ mỏng manh bà mặc bay phất phơ. Đây cũng là cảnh được sử dụng trong trailer phim. Tôi có thể hiểu vì sao người ta chọn cảnh này bỏ vào trailer. Đơn giản là hình ảnh một người phụ nữ quấn băng kín, đứng trước gương trong chiếc váy mỏng phất phơ như thế rất dễ đem lại cảm giác kì dị và chút sợ hãi. Tuy nhiên, khi xem cảnh này trong mạch phim, tôi lại cảm thấy đây là một cảnh rất buồn. Hình ảnh đó thể hiện sự cô đơn, tâm trạng hoang mang, lạc lõng của người mẹ. Bà không tìm được sự kết nối với ai, bà không biết bày tỏ nỗi lòng của mình như thế nào, bà chỉ biết đứng trước gương, đối diện với chính mình, và có thể bà cũng đang thấy xa lạ với chính mình trong khuôn mặt quấn băng đó. Ngay từ cảnh ấy, tôi đã chắc chắn đó không phải là bất cứ linh hồn ma quỉ nào đang chiếm ngự cơ thể bà, chẳng có linh hồn tà ác nào nhập vào vật chủ rồi lại ngắm nhìn vật chủ trong gương như thế. Đó chính là bà. Còn giả thiết một người lạ phẫu thuật và đóng giả làm bà ư? Cũng không thể. Giả sử có một người đã giết bà hoặc giấu bà ở nơi nào đó vì muốn chiếm lấy căn nhà hay vì mục đích nào khác, người ấy không cần phải dụng công phẫu thuật cả khuôn mặt và ở trong nhà lâu như thế, lại đặt rất nhiều bánh pizza đủ dùng cho cả năm, chưa kể là còn phải cố gắng giả giọng nói – một thứ vốn chẳng dễ dàng chút nào. Những việc này quá tốn công sức trong khi người đó có thể chỉ đơn giản là quấn băng, mặc áo của người mẹ rồi trở về nhà giống như vừa trải qua đợt phẫu thuật và sau đó chỉ cần giết luôn cậu bé Elias, hoặc đơn giản hơn là đánh thuốc mê, trói và nhốt cậu ở đâu đó rồi hoàn thành việc mình muốn làm. Như vậy, giả thuyết có một người lạ giả làm bà cũng rất khó có thể xảy ra, bà chỉ có thể là mẹ thật của hai đứa trẻ.

Vì tôi đã đoán ra hai chi tiết quan trọng nhất sẽ được tiết lộ ở nửa sau phim như thế nên tôi rất mong mình đã đoán sai, bộ phim sẽ khác đi, hoặc sẽ là điều gì đó bất ngờ và xúc động mạnh mẽ hơn. Tuy nhiên, rốt cuộc tôi đã dự đoán đúng hai chi tiết này. Vì vậy, tôi chỉ còn bất ngờ cách cư xử tàn nhẫn của cậu bé Elias với mẹ. Như những gì tôi đã phân tích ở trên, sự bạo lực đó phần lớn là bản năng của Elias, không phải do sự vô tâm của người mẹ. Đạo diễn Bá Vũ có nói rằng: “Dù các bậc phụ huynh đối xử với con cái tốt như thế nào, chỉ cần thử một ngày hay một khoảng thời gian đối xử khác đi với con, tệ hơn với con rồi sẽ thấy con mình cũng thay đổi cách đối xử với mình, cũng sẽ đối xử tệ lại với mình vì trẻ con rất dễ học từ xung quanh, rất dễ bị lây nhiễm cái xấu.” Tôi không hoàn toàn phản đối ý kiến này của anh. Tuy nhiên, ý kiến này vẫn có phần áp đặt và không thực sự đầy đủ. Ở đây, anh nhấn mạnh khả năng dễ học hỏi và lây nhiễm của đứa trẻ nhưng lại quên mất rằng trẻ con vốn rất nhạy cảm, chúng đặt nhiều tình thương cho cha mẹ nên dễ giận dỗi khi họ không đối xử tốt với chúng dù chỉ là một chút, nhưng đồng thời chỉ cần họ tỏ thái độ ăn năn, chúng cũng sẽ rất dễ tha thứ bởi đó là người chúng yêu thương.

Vào nửa đầu phim, tôi đã rất cảm động trước tình cảm Elias dành cho mẹ. Cậu đặt bức hình mẹ trong phòng, luôn nhìn bức hình ấy và cầu nguyện mẹ sớm quay trở về với cậu. Tuy nhiên, vào hồi cuối của phim, tôi nhận ra tình yêu đó của cậu chỉ là sự ích kỉ. Nếu cậu thực sự yêu mẹ, giây phút cậu lắng nghe mẹ nói phải nhiều hơn, giây phút cậu đấu tranh mâu thuẫn nội tâm phải nhiều hơn, cậu phải phần nào đó cảm nhận nỗi đau của mẹ mà chùng tay nhiều hơn. Trong phim, cậu cũng có những giây phút dừng lại suy nghĩ nhưng nó vẫn quá ít, quá yếu ớt trước sự nghi ngờ mù quáng và cái ác trong cậu. Đạo diễn Bá Vũ luôn nhấn mạnh lỗi của người mẹ, anh nói rằng: “Người mẹ quá vô tâm khi ngay cả bài hát con mình yêu thích nhất cũng không nhớ được. Vì vậy mới dẫn đến bi kịch gia đình như thế. Giá mà bà chịu ngồi xuống nói chuyện với con một chút thay vì đặt ra những qui luật hà khắc và mắng mỏ con như thế thì có thể mọi chuyện đã được cứu vãn.” Anh nhấn mạnh lỗi của người mẹ hơn là lỗi đứa con. Tuy vậy, anh quên mất rằng nếu người mẹ đó quá vô tâm thì làm sao cậu bé ấy lại luôn muốn tìm người mẹ dịu dàng trước đây của mình như thế. Rõ ràng, trong tâm lí của Elias, mẹ cậu đã từng là người rất tốt và bà chỉ trở nên xấu xí trong mắt cậu kể từ khi bà lờ đi sự tồn tại của Lukas – vốn đã chết và được tái tạo lại bằng sự tiếc thương của cậu. Với một người không đối diện nổi thực tế, để bảo vệ thế giới ảo tưởng do mình tự tạo ra, người đó sẽ tránh xa bất cứ ai có nguy cơ hủy diệt thế giới đó. Khi Lukas vừa mới mất, vì tự trách móc lỗi lầm do mình gây ra, Elias đã tưởng tượng rằng Lukas còn sống. Tôi nghĩ rằng khi ấy, mẹ cậu vẫn chăm sóc Elias như trước đây nhưng vì cậu cứ một mực trách móc việc bà vô tình với Lukas, bà quá mệt mỏi bởi bản thân cũng đang rất đau đớn nên đã tạm thời bỏ lơ cậu. Và từ trách móc chính mình, để không phải quá ray rứt, trong vô thức Elias chuyển sự trách móc sang người mẹ: lỗi là bà đã quá vô tâm. Có thể rất nhiều người sẽ có chung ý kiến như anh Bá Vũ, sẽ trách móc người mẹ rằng không quan tâm con mình nhiều hơn, không hỏi han con mình nhiều hơn nhưng có bao giờ họ tự hỏi rằng tại sao không phải ngược lại, tại sao Elias không quan tâm đến mẹ nhiều hơn, không hỏi han mẹ nhiều hơn sau tai nạn đó. Nếu như Elias quan tâm đến mẹ nhiều hơn, cậu cũng đã biết được nỗi phiền muộn của mẹ, biết được việc bà đi phẫu thuật thẩm mĩ. Những ai trách móc người mẹ có bao giờ nghĩ rằng bà đã dịu dàng với con mình quá đủ rồi, bà đã chịu đựng quá đủ rồi không? Bà vừa phải gánh lấy nỗi đau mất một đứa con, vừa li dị chồng và đứa con còn lại cũng chẳng cảm thông với bà, chỉ mãi sống trong thế giới ảo tưởng do nó tự dựng lên. Đau lắm chứ. Rất đau. Và bà phải một mình gánh lấy tất cả. Một số người có thể nói rằng không thể trách cậu bé được vì cậu bé còn nhỏ, làm sao hiểu được những chuyện như thế này, rằng phản ứng bình thường của trẻ con là như thế. Nhưng như tôi đã viết, đứa trẻ nào cũng có sự nhạy cảm của nó và khi thực sự yêu thương cha mẹ, chúng sẽ dễ dàng nhận ra nỗi đau của họ.

Một đứa trẻ khác

Việc Ich seh, Ich seh khai thác mối quan hệ giữa người mẹ và con trai, trong đó vì một nguyên nhân nào đó, người mẹ đối xử lạnh lùng với con khiến tôi nhớ đến một phim cũng khai thác mối quan hệ tương tự là L'enfant d'en haut (2012) của đạo diễn Ursula Meier. Người mẹ trẻ trong phim này cũng đối xử rất lạnh lùng với con trai mình. Cô sinh ra cậu trong sự bồng bột của tuổi trẻ với mối tình chớp nhoáng nên cậu không có cha. Cậu sống chung nhà với cô nhưng cô không cho phép cậu gọi mình là mẹ mà phải gọi là chị kể cả khi ở nhà hay ra bên ngoài. Cô thờ ơ, không quan tâm đến cậu, không chăm sóc cho cậu và vẫn tiếp tục buông thả mình với những người đàn ông khác. Nhiều lúc, cô lên xe của một người đàn ông xa lạ và đi cả hàng tuần không trở về nhà. Cậu rất cô đơn, không có được tình thương lẫn vật chất, cậu phải ăn trộm những dụng cụ trượt tuyết của khách du lịch rồi bán lại cho những người khách khác để lấy tiền sinh sống. Mẹ của cậu đôi khi trở về nhà sau khi đã tiêu hết tiền và không ngại ngần lấy số tiền ít ỏi cậu cướp được từ việc ăn trộm để tiếp tục sống những ngày tháng chìm trong men rượu. Như thế đã quá tệ bạc nhưng vẫn chưa đủ: mẹ cậu hay là chị cậu, chưa một lần cho cậu ngủ chung giường, chưa một lần ôm cậu vào lòng khi ngủ. Vậy cậu có thù hận mẹ, có ý định chạy trốn khỏi mẹ, có ý định không cho mẹ tiền nữa, có ý định tra tấn mẹ để mẹ sợ hay thậm chí là giết mẹ như Elias không? Cậu hoàn toàn có thể đối xử tệ với mẹ như cách mẹ đã đối xử tệ với cậu. Ở cậu, mầm mống bạo lực vì bị đối xử tệ bạc mà mẹ đã gieo vào thậm chí còn rõ rệt hơn rất nhiều lần Elias. Nhưng không, cậu đã không chọn cách làm như Elias, cậu thậm chí còn không đối xử bạo lực với mẹ. Cậu cũng quan sát và bắt chước hành vi của người lớn nhưng theo một cách khác. Cậu nhận thấy rằng những người đàn ông muốn ngủ chung với mẹ thì phải trả tiền cho mẹ. Thế là, khi cậu quá cô đơn, khi cậu chỉ muốn được một lần ngủ chung giường với mẹ, cậu đã hỏi mẹ rằng cậu cần phải trả bao nhiêu tiền cho việc đó. Người mẹ ra một mức và cậu trả. Vì ngạc nhiên với cách hành xử của con trai mình, người mẹ nâng mức giá cao hơn mà cô nghĩ rằng cậu không thể trả được. Thế nhưng, cậu vẫn trả. Nhìn cách cậu cố gắng moi những đồng bạc lẻ từ những túi quần của mình để tập hợp cho đủ số tiền mà mẹ yêu cầu khiến tôi thấy đau lòng và vô cùng yêu mến cậu. Tôi đã rất muốn khóc ở cảnh ấy. Cuối cùng, người mẹ ấy vẫn nhận số tiền và cậu được ngủ chung với mẹ. Rất lâu rồi cậu mới được ngủ chung với mẹ. Đó là một cảnh ban đầu có vẻ tàn nhẫn nhưng sau đó lại vô cùng ấm áp vì chúng ta vừa nhìn thấy được tình yêu dành cho mẹ của cậu, vừa nhìn thấy được mẹ cậu cũng đã bắt đầu nhận ra tình yêu đó, có chút ăn năn và hối lỗi. Simon-tên cậu bé ấy, cũng không phải là một người quá lớn để nói rằng đã phát triển đầy đủ về mặt nhận thức, đã trưởng thành để thông cảm và hiểu chuyện hơn Elias, thực chất cậu ấy cũng chỉ là một đứa trẻ bằng tuổi với Elias.

Cảnh trong phim L’Enfant d’en haut

Thông qua việc dẫn chứng lại tình tiết ấy trong phim L'enfant d'en haut, tôimuốn nhấn mạnh thêm lần nữa rằng mầm mống bạo lực là thứ bẩm sinh trong Elias nên cậu mới có thể tàn nhẫn với mẹ như thế, không tin tưởng mẹ như thế, không lắng nghe mẹ như thế khi mẹ cậu chỉ vừa đối xử lạnh lùng với cậu một chút. Cậu là một đứa trẻ quá ích kỉ và thiếu sự cảm thông. Sự ích kỉ này có thể đến từ việc trước đây mẹ cậu đã quá nuông chiều cậu khiến cậu chỉ biết nghĩ cho bản thân, chỉ biết mỗi mình đau mà không để ý đến nỗi đau của mẹ. Một mối quan hệ muốn tốt đẹp, dù là bất cứ mối quan hệ nào, kể cả mối quan hệ giữa mẹ và con cũng cần phải có sự cố gắng của cả hai phía. Trong Ich seh, Ich seh, tôi có thể thấy được sự cố gắng của người mẹ, tôi hoàn toàn cảm thông với bà. Nhưng còn về phía Elias, như những gì ở trên tôi đã phân tích, tôi hoàn toàn không thể đồng cảm với cậu bé chút nào. Thậm chí, tôi còn rất ghét cậu bé. Với tôi, cậu là người lập dị, ích kỉ, tàn nhẫn bẩm sinh. Ở cảnh Elias hành hạ mẹ mình, cậu đeo một chiếc mặt nạ tương tự với hình mẫu các chiến binh ta vẫn hay thấy trong các phim siêu anh hùng. Qua đó, người xem cũng có thể ngầm hiểu mầm mống bạo lực trong cậu còn xuất phát từ những bộ phim siêu anh hùng cậu xem trên truyền hình. Thế nhưng với tôi, đây là một chi tiết pay off khá gượng ép bởi không có set up ở phía trước. Rõ ràng ngay từ đầu phim, chúng ta thấy chương trình cậu xem là một chương trình ca nhạc, radio cậu vẫn hay nghe cũng không đề cập gì đến bạo lực. Nếu như ngay từ đầu, bộ phim có thêm cảnh mẹ cậu không quan tâm gì đến việc cậu xem truyền hình như thế nào, bên cạnh việc xem chương trình ca nhạc, cậu cũng đã chăm chú xem những phim bạo lực – trong đó có phim mà nhân vật đeo mặt nạ giống như cậu đeo ở cuối phim xuất hiện. Khi sửa lại như thế, cảnh cậu đeo mặt nạ cuối phim tra hỏi mẹ sẽ tự nhiên và không gượng ép; hơn nữa, thông điệp về sự vô tâm của bậc cha mẹ ảnh hưởng thế nào đến con cái sẽ được nhấn mạnh hơn, hợp lí hơn.

Vì những yếu tố thừa và thiếu đó, thông điệp bộ phim đã không thực sự tác động đến tôi nhiều. Đó là thứ thông điệp tôi nhận ra bằng lí trí nhưng về mặt cảm xúc và câu chuyện, bộ phim không xây dựng đủ nền tảng tâm lí nhân vật vững chắc để tôi hoàn toàn thẩm thấu được sức nặng của thông điệp ấy bằng cả lí trí và cảm xúc. Với riêng tôi, đây là thất bại của phim. Tôi cho rằng lí do của thất bại này là vì Ich seh, Ich seh đã khiến tôi đồng cảm với người mẹ nhiều hơn Elias. Lẽ ra, để thông điệp đó được nhấn mạnh, sự đồng cảm này phải chia đều cho cả hai nhân vật, thậm chí còn phải khiến người xem đồng cảm với Elias nhiều hơn là người mẹ thì việc truyền tải thông điệp trọn vẹn mới thành công. Hơn nữa, bộ phim cần phải xây dựng một số tình tiết khác đi đôi chút, nên cho Elias bớt lập dị một chút, nên để cho mầm mống bạo lực của Elias xuất phát từ người mẹ rõ rệt hơn, không nên để bất cứ chi tiết nào khiến khán giả có cảm tưởng mầm mống bạo lực trong cậu là thứ bẩm sinh. Với tôi, kịch bản phim đã xây dựng tâm lí Elias rất một chiều và khiên cưỡng. Tôi không bị thuyết phục bởi diễn biến tâm lí của cậu, tôi cảm thấy rõ ràng sự cố tình sắp đặt của Franz và Fiala bắt cậu phải hành động như thế này, như thế kia để bộ phim được diễn ra như những gì chúng ta đã biết.

Một kết thúc giả định

Qua những phân tích về một số điểm yếu và bất hợp lí trong cách xử lí kịch bản phim theo góc nhìn của tôi, tôi nghĩ ra một phương án sửa kịch bản ở đoạn cuối để khắc phục những điểm tôi đã nêu ở trên. Chúng ta vẫn giữ lại cơ bản nội dung phim cho đến cảnh cậu bé bôi keo dán sắt vào miệng mẹ rồi sau đó dùng kéo cắt để cố tách hai môi bà ra và bà bị chảy máu. Với tôi, sự bạo lực ở đây đã đủ, cần phải dừng lại. Sau đó, Elias sẽ phản ứng mạnh mẽ hơn với ảo ảnh Lukas mà cậu đã tạo ra bởi những lời gào thét của mẹ, những giọt nước mắt của mẹ, nỗi đau thể xác của mẹ dần tác động đến cậu; có thể cậu sẽ tin hoặc không tin người đó là mẹ mình nhưng qua việc chứng kiến hậu quả của những gì mình đang làm sẽ đánh thức lương tri cậu, cậu nhớ lại những ngày mẹ đã từng đối xử tốt với mình. Lukas đương nhiên không dễ dàng bị Elias thuyết phục chỉ với vài lời nói đơn giản. Elias cố giành lấy cây kéo từ tay của Lukas để cắt dây trói cho mẹ nhưng không được. Thế là, cậu và Lukas tự đánh nhau nhưng thực chất là Elias đang tự vật lộn với chính mình, đang tự đánh nhau với chính mình. Khi nhìn thấy cảnh tượng đó, người mẹ vì cố ngăn cản Elias tự làm tổn thương bản thân mình mà đã bảo cậu dừng lại đi, đừng đánh nhau với Lukas nữa, Lukas đã không còn sống, cậu chỉ đang tự làm tổn thương mình thôi. Elias dù muốn bảo vệ mẹ nhưng cậu vẫn không chấp nhận việc Lukas đã chết, cậu vẫn tiếp tục thấy hình ảnh Lukas và cuối cùng Lukas đâm cậu, hay cậu tự đâm chính mình bằng chiếc kéo. Cậu rút kéo ra khỏi người và cắt dây cởi trói cho mẹ. Trước khi nhắm mắt, cậu vẫn nhìn thấy hình ảnh Lukas đang đứng nhìn cậu. Cậu mỉm cười và trút hơi thở cuối cùng. Trong sự đau đớn vì lại bị mất người con còn sót lại, mẹ cậu hóa điên, bà tự sát. Cuối cùng vẫn là cảnh ba mẹ con đoàn tụ ở cánh đồng lúa ngô.

Tôi nghĩ rằng khi sửa lại một chút kịch bản ở đoạn cuối như thế, khán giả sẽ đồng cảm nhiều hơn với Elias, cảm xúc bộ phim mang đến sẽ mạnh mẽ hơn nên thông điệp đến với người xem cũng tự nhiên hơn, không phải là thứ gượng ép bằng suy nghĩ của lí trí. Đây cũng là điểm khiến Ich seh, Ich seh thua xa A tale of two sister về mặt tác động đến cảm xúc dù hai bộ phim có nội dung tương tự nhau. Với tôi, Ich seh, Ich seh nên được làm như một phim tâm lí hơn là phim kinh dị bởi khi đó, tâm lí nhân vật sẽ được đào sâu hơn khiến câu chuyện trở nên thuyết phục hơn. Điểm đáng tiếc nhất của Ich seh, Ich seh là đã xây dựng hình ảnh người mẹ thành công nhưng lại quá sơ sài và gượng ép trong việc khắc họa tâm lí của Elias vốn phải phức tạp  hơn, có chiều sâu hơn, tinh tế hơn; vì không làm được những điều đó, sự tra tấn của cậu ở cuối phim mang vẻ ngoài giống như sự phi lí của cái ác nhiều hơn là sự bộc phát những ẩn ức vì đã phải kiềm nén quá lâu do yếu tố môi trường và tâm lí. Có lẽ đây cũng chính là lí do bộ phim không được lọt vào vòng đề cử chính thức ở hạng mục Phim nước ngoài xuất sắc nhất của giải Oscar. Tôi cảm thấy điều này hoàn toàn hợp lí.

Kết luận

Đạo diễn David O. Russell từng nói rằng: “Rất nhiều bộ phim hay ẩn chứa nhiều bộ phim hay khác bên trong chúng.” Ich seh, Ich seh cũng ẩn chứa rất nhiều bộ phim hay bên trong nhưng đáng tiếc bản thân chính nó lại không phải là phim hay. Ich seh, Ich seh chỉ hay phân nửa đầu phim. Kể từ sau cảnh hai cậu bé bị linh mục đưa về nhà, bộ phim đã mất đi vẻ đẹp và sự tinh tế ban đầu bằng biện pháp đẩy mạnh kịch tích và thúc ép tâm lí khiên cưỡng. Có lẽ, Ich seh, Ich seh là cách tiếp cận ngập ngừng của Franz và Fiala khi phải lựa chọn kể lại câu chuyện này theo hướng kinh dị hay tâm lí. Dù đa phần các hệ thống xếp Ich seh, Ich seh vào nhóm phim kinh dị (Horror) nhưng IMDB xếp thể loại phim là Drama, Mystery, Thriller. Tôi hoàn toàn đồng tình cách sắp xếp này. Với tôi, Ich seh, Ich seh không phải là phim kinh dị không đáng sợ mà là phim tâm lí đen tối còn hơi non, thiếu chút nữa đã có thể chạm đến điểm sâu mà lẽ ra nó cần chạm đến. Vì vậy, tôi phải nói Ich seh, Ich seh không hay trong cảm giác rất tiếc nuối.

Điểm đánh giá: 7/10
Kodaki

Đọc bài viết

Trà chiều

Tiếng vọng từ tường đá như một câu thơ xanh xao, u buồn

Published

on

By

Tiếng vọng từ tường đá (Voice from the Stone) là phim kinh dị tâm lí không quá câu nệ vào việc tạo ra sự hồi hộp, căng thẳng – vốn là cách làm quen thuộc ở dòng phim này. Ngược lại, phim xoáy sâu vào tâm lí nhân vật khi họ đối diện với những thực tại mà bản thân không thể lí giải được.

Tiếng vọng từ tường đá lấy bối cảnh trong một tòa lâu đài hoang vắng ở Tuscany (Ý) vào những năm 1950. Cô y tá Verena (Emilia Clarke) được thuê đến đây để chăm sóc Jakob - cậu bé đột ngột trở nên câm lặng sau khi mẹ cậu mất vì bệnh nặng. Verena càng cố gắng để Jakob có thể nói lại thì càng ngày, cô càng dấn vào sâu hơn những bí mật đang bị che giấu trong tòa lâu đài. Cô đã không thể ngờ rằng có một thế lực tà ác đang cố gắng giăng bẫy mình.

Tiếng vọng từ tường đá được chuyển thể từ tiểu thuyết cùng tên (La voce della pietra) của nhà văn Silvio Raffo. Cuốn tiểu thuyết này đã được đưa vào danh sách shortlist của giải thưởng Strega (giải thưởng văn học danh giá nhất nước Ý) năm 1997. Silvio Raffo không chỉ là nhà văn, ông còn là một dịch giả tập trung dịch rất nhiều tác phẩm văn học của những nữ tác giả Anh, Mỹ từ tiếng Anh sang tiếng Ý. Đặc biệt, ông nổi tiếng với những bản dịch thơ của Emily Dickinson sang tiếng Ý. Có lẽ công việc dịch thuật đã ảnh hưởng trở lại đến công việc sáng tác của ông. Bởi vì qua câu chuyện trong Tiếng vọng từ tường đá, người xem có thể thấy được ông rất am hiểu tâm lí của phụ nữ, của người mẹ với con, của người vợ với chồng.

Tiếng vọng từ tường đá cũng tràn ngập âm hưởng về bệnh tật, cái chết, sự bất tử - những chủ đề chính trong thơ của Emily Dickinson. Do đó, khi chuyển thể câu chuyện này, đạo diễn Eric D. Howell đã cố gắng để sao cho từng phân cảnh trong phim đều như một câu thơ xanh xao, u buồn. Điều này thể hiện qua cách Howell sử dụng ánh sáng trong phim. Những cảnh ngoại trong phim phần lớn được bao phủ bởi lớp sương mù dày đặc khiến người xem dễ liên tưởng đến thứ không khí uể oải đặc trưng tương tự của London trong những ngày sương mù. Trong khi đó, những cảnh nội của phim được thiết kế với tông màu chủ đạo là nâu xám lại khiến người xem như bị vây lấy bởi những điều bí ẩn xưa cũ trong ngôi nhà. Như vậy, dù là trong cảnh nội hay cảnh ngoại, người xem cũng sẽ khó lòng thoát khỏi giây phút nào nỗi buồn, sự cô đơn của nhân vật.

Ngoài ra, rất nhiều chi tiết trong Tiếng vọng từ tường đá cho thấy sự ảnh hưởng từ những tác phẩm của Edgar Allan Poe: The Black Cat, The Fall of the House of Usher… Trong Tiếng vọng từ tường đá, có một đoạn nhân vật nhắc đến tập tục chôn mèo sống trong những bức tường liền kề với tường nhà hàng xóm để xua đuổi những điềm dữ - chi tiết này dễ khiến người xem liên tưởng đến tác phẩm The Black Cat của Poe. Tuy nhiên, bản thân đạo diễn Eric D. Howell lại cho rằng bộ phim mang không khí gần với phim Rebecca (đoạt giải Oscar phim xuất sắc nhất năm 1941) của đạo diễn Hitchcock: “Tiếng vọng từ tường đá có một kịch bản khiến bạn phải thét lên khi trùm chăn đọc dưới ánh đèn flash. Nó giống như diễn lại câu chuyện thần tiên của Hitchcock nhưng đặt dưới bối cảnh Tuscany năm 1950 với những nhân vật bí ẩn và một hồn ma phản diện.”

Trong Tiếng vọng từ tường đá, người xem sẽ gặp lại Emilia Clarke – nàng Louisa kiều diễm năm nào của Trước ngày em đến (Me before you). Verena cũng có tính cách mạnh mẽ tương tự như Louisa. Nhưng khác với Lou, nàng không còn gia đình, nàng cô độc hơn; và vì thế, nàng đồng thời vừa mạnh mẽ hơn, vừa yếu đuối hơn. Ở Tiếng vọng từ tường đá, Emilia vẫn tận dụng được ưu điểm là nụ cười tươi sáng như trong Trước ngày em đến. Nhưng thêm vào đó, nàng còn có đôi mắt u buồn khiến người xem như bị cuốn vào sâu bên trong đôi mắt ấy ở những cảnh cận. Vậy nên, Verena của Emilia rất có thể sẽ khiến bạn vui cùng nàng, khóc cùng nàng – một con người cô độc cần được yêu thương. Nàng sẽ thành công hay thất bại trong công cuộc tìm lại giọng nói cho cậu bé Jakob trầm tính? Cũng như, nàng sẽ thành công hay thất bại trong công cuộc tìm hạnh phúc cho chính mình?

Kodaki

Đọc bài viết

Cafe sáng