Trà chiều

Đảo Của Dân Ngụ Cư – Nơi những mảnh đời lạc lõng tụ hội lại

Chúng ta thường chỉ chú ý đến những điều quan trọng khi mọi thứ đã quá trễ, khi ta đã mất nó.

Published

on

Tôi vừa đọc xong truyện Đảo Của Dân Ngụ Cư của nhà văn Đỗ Phước Tiến. Đây là tác phẩm gốc của bộ phim chuyển thể cùng tên do nữ diễn viên Hồng Ánh lần đầu tiên đảm nhận vai trò đạo diễn. Văn phong của truyện rất giàu hình ảnh, tính từ và mang đặc trưng riêng nhưng có lẽ vì bị ảnh hưởng từ việc xem phim trước mà tôi cảm thấy thích phim của chị hơn cả truyện gốc.

Phim Đảo Của Dân Ngụ Cư khiến tôi khá ngạc nhiên vì tôi để ý rằng những bộ phim của đạo diễn có xuất thân là diễn viên thường chú trọng vào diễn xuất, nhân vật hơn là hình ảnh so với những đạo diễn có xuất thân từ quay phim. Nhưng trong bộ phim đầu tay của mình, Hồng Ánh đã thực sự kể chuyện bằng hình ảnh, chị tạo được ngôn ngữ điện ảnh riêng, những qui tắc riêng trong phim với sự sắp xếp, cấu trúc hình ảnh rõ ràng. Đây là một phim nghệ thuật rất tốt. Tôi cảm động vì chị đã dũng cảm làm phim như vậy. Có lẽ đây là một trong những phim Việt Nam mà tôi thích nhất vài năm gần đây.

Bộ phim mở đầu bằng một hình ảnh rất mạnh: người xem nhìn thấy cánh tay của một người đàn ông nằm trên biển và một cô gái ở đằng xa. Cảnh này không có tiếng tạo ra một cảm giác kì lạ. Hình ảnh đầu tiên của phim đã rất lôi cuốn tôi bởi vì tôi không thể giải thích được, không thể xâu chuỗi hình ảnh hai hình ảnh đó thành một câu chuyện. Hình ảnh ấy khiến tôi suy nghĩ, phân vân liệu người đàn ông đó còn sống hay đã chết, tại sao người con gái kia cứ ngồi trên thuyền thúng và nhìn về người ấy. Sau đó, màn hình chuyển đen, tôi nghe thấy tiếng sóng biển. Và người xem lại nhìn thấy biển lần nữa nhưng lúc này là một thanh niên trẻ đi qua bãi biển. Thế rồi, chúng ta nghe những dòng độc thoại tự sự của anh. Lúc này, tôi bắt đầu có cảm giác lo sợ rằng phim của chị có khả năng trở thành hình ảnh minh họa cho truyện ngắn nguyên tác. Nhưng tôi vui vì điều mình lo lắng đã không thành sự thật. Trong vài phân cảnh đầu tiên, chị đã xây dựng được không khí, giọng điệu và phong cách kể chuyện rất rõ ràng. Một trong những điểm đặc trưng tạo không khí khác lạ là những cảnh quay với góc máy từ trên cao nhìn xuống. Tôi không biết người xem khác cảm thấy như thế nào, nhưng với tôi, việc sử dụng góc máy này một cách có ý thức đã tạo ra bầu không khí rất lạ. Bởi lẽ ở những đoạn cao trào trong một cảnh, người xem thường muốn tiếp cận nhân vật gần hơn để thấy rõ cảm xúc trên khuôn mặt họ, thấy hành động của họ chi tiết hơn; và từ đó, cảm nhận mình là một phần của bộ phim. Thông thường, đạo diễn cũng sẽ làm hài lòng nhu cầu này người xem. Nhưng ở một số cảnh trong Đảo Của Dân Ngụ Cư, Hồng Ánh lại cắt lên góc máy từ trên cao nhìn xuống ngay lúc cao trào của cảnh. Ví dụ: cảnh người vợ tắm cho chồng mình. Lúc người chồng mạnh bạo kéo bà vào bồn tắm, Hồng Ánh lại cắt lên góc cao và dừng ở đó một lúc. Với động tác này, tôi cảm giác chị muốn giữ người xem tiếp cận bộ phim bằng một góc nhìn khách quan, chị khiến họ nhận ra rằng họ chỉ là người xem trung lập, họ không phải là một phần của phim. Hơn nữa, góc máy cao cũng khiến tôi cảm thấy người vợ nhỏ bé và đáng thương. Tôi đã hiểu lầm rằng bà là một người hầu trong cảnh này. Một cảnh khác với cùng cách dựng đó là cảnh Phước và người Khmer đánh nhau. Tôi không nhớ rõ nhưng tôi nghĩ còn những cảnh khác nữa trong phim cũng có cách dựng như thế này.

Ngoài ra, các cảnh sử dụng góc máy từ trên cao cũng khiến tôi tự hỏi đây là góc nhìn khách quan mà Hồng Ánh dùng để kể chuyện, hay là góc nhìn chủ quan của một nhân vật nào đó trong phim. Câu hỏi thú vị này kích thích tôi tiếp tục xem phim để tìm ra câu trả lời. Và tôi không phải chờ quá lâu, câu trả lời nằm ở cảnh nhà hàng đông đúc và có người nhìn thấy một cô gái ngồi ở lầu trên. Tôi nghĩ đó là lúc câu chuyện thật sự bắt đầu, những cảnh trước đó chỉ là để xây dựng lớp nền cho người xem. Cách Hồng Ánh sử dụng khá nhiều góc máy trên cao nhìn xuống từ đầu phim cũng khiến tôi liên tưởng đến một người đang âm thầm quan sát mọi hoạt động, một người đang trốn ở đâu đó. Vậy nên, khi tôi biết được sự tồn tại của Chu, mọi thứ trở nên hợp lý. Sau sự xuất hiện của Chu, vẫn có những cảnh với góc máy cao; trong đó, một số cảnh có thể từ góc nhìn của Chu, số còn lại có thể là góc nhìn khách quan. Nhưng tôi thích điều ấy. Tôi thích cảm giác lẫn lộn khi mình không biết góc nhìn đó là của ai. Tôi cũng để ý thấy đôi khi, góc máy cao đơn thuần chỉ là cách Hồng Ánh mở đầu hay kết thúc một cảnh.

Có vài cảnh trong Đảo Của Dân Ngụ Cư khiến tôi nhớ đến phong cách của Trần Anh Hùng. Tôi nhận thấy chị thường mở đầu cảnh bằng một shot đi theo nhân vật và chị không đổi góc nhiều trong một cảnh, mọi thứ diễn ra với nhịp điệu chậm rãi. Ví dụ: shot dolly từ cửa sổ nhà hàng qua đến người vợ ngồi trước cửa nhà vắng khách, cảnh người vợ lau chùi nhà hàng và người chồng bước ra…

Một điểm nữa tôi lưu ý khi xem Đảo Của Dân Ngụ Cư là việc Hồng Ánh sử dụng cảnh toàn, cảnh trung và trung cận nhiều hơn cảnh cận và đặc tả. Vì chị hạn chế sử dụng cảnh cận (đây chỉ là cảm nhận chủ quan của tôi, tôi không thật sự chắc chắn, có thể chị dùng cảnh toàn, cảnh trung, và cảnh cận cùng số lượng), nên khi cảnh cận xuất hiện, nó tạo hiệu ứng mạnh mẽ hơn. Tôi rất thích cảnh cận hình ảnh con gián chết với những con kiến bò xung quanh, lá khô rơi rụng khắp mọi nơi. Hình ảnh này thể hiện sự chết chóc rõ rệt và khiến tôi cảm nhận được tâm trạng chán chường của nhân vật khi anh nói rằng không muốn mình như một con gián, cố gắng sống sót trong cuộc đời. Cảnh này kết hợp với âm nhạc và sự hòa điệu từ cảnh trước đó đã nâng nỗi buồn lên trong tôi về sự sụp đổ, sự bất ngờ khi mọi thứ không diễn ra theo lẽ tự nhiên nữa. Cảnh trước đó là một cảnh khá hài hước, khi Phước và Miên chạy rượt theo con dê với cái lon cột ở đuôi. Rõ ràng, đó một cảnh hoàn toàn trái ngược với cảnh con gián chết ngay sau đó giữa một bên là sự sống sinh động, một bên là cái chết im lìm.

Tôi cũng thích cách Hồng Ánh chèn những cảnh hoang tàn của nhà hàng vào giữa câu chuyện chính đang diễn ra. Từ đoạn đầu phim, chị cho người xem thấy cảnh nhà hàng bị tàn phá. Người xem biết trước cái kết của câu chuyện, nhưng khi họ gần như đã quên cái kết đó, chị lại nhắc họ về sự thật không thể thay đổi ấy, tựa như, sự tàn phá đó không chỉ ở đoạn cuối, có thể nó đã bắt đầu ngay từ khởi điểm hay đâu đó ở đoạn giữa – khi mọi thứ dường như đang phát triển theo hướng tốt hơn. Sự u sầu, mệt mỏi, không khí ngột ngạt dường như bao trùm lên cả căn nhà.

Cách Hồng Ánh sử dụng âm thanh trong phim cũng đặc biệt. Tôi thích cách sử dụng âm thanh trong cảnh mở đầu nhưng còn nhiều cảnh khác tôi cũng thích.

Thứ nhất, cảnh Phước bắt chước tiếng gà gáy. Đầu tiên, Phước gáy rất to và rồi nhận ra khi làm như thế có thể sẽ bị phát hiện nên Phước phải im lặng. Cảnh này thật sự rất dễ thương khiến tôi liên tưởng đến những cảnh lãng mạn trong phim Hàn Quốc.

Thứ hai, là cảnh Phước và Chu làm tình. Không cần sử dụng tiếng thở, hay những tiếng động khác, chỉ cần hình ảnh và nhạc, phim vẫn truyền tải được cảm xúc của họ trong đêm đầu tiên.

Thứ ba là cảnh Chu ném hai con chim đất nung qua cửa sổ. Tôi chờ tiếng vỡ khi hai con chim bị ném xuống đất, nhưng không có tiếng động gì cả. Âm thanh đó chỉ ở trong đầu người xem nếu họ muốn có một tiếng động nào đó tương tự như vậy. Cảnh này khiến tôi nhớ đến một cảnh trong Tony Takitani của Jun Ichikawa. Trong Tony Takitani, có cảnh Tony làm rơi chiếc đĩa xuống sàn, người xem có thể thấy mảnh đĩa vỡ tung nhưng họ không thể nghe âm thanh của nó. Hình ảnh ấy như dự đoán trước tương lai tối tăm của Tony. Nhưng trong phim Đảo Của Dân Ngụ Cư, Hồng Ánh sử dụng phương pháp này với mục đích và ý nghĩa khác. Chị không cho người xem thấy hình ảnh hai con chim vỡ, người xem chỉ thấy Chu ném hai con chim qua cửa sổ, rồi chị cắt qua hình ảnh bầu trời xanh, và cảnh này đã thật sự chạm đến cảm xúc của tôi, phần nào đó nó giúp tôi hiểu thêm về Chu để rồi cảm thấy thương Chu hơn. Trong suy nghĩ của cô gái ấy, hai con chim đất nung mà cô ném qua cửa sổ thật sự có thể bay, chúng không vỡ, chúng bay về phía bầu trời xanh ấy, chúng được tự do. Chu muốn được tự do như hai con chim đó, nhưng Chu không thể tự giải thoát mình, không thể mang tự do đến cho bản thân. Chu chết trong sự giam cầm, và có lẽ mẹ cô cũng vậy.

Tôi thích nhạc của nhạc sĩ Nguyễn Mạnh Duy Linh. Những bản nhạc được sử dụng ở nửa đầu phim chỉ có tiếng piano (tôi không chắc chắn, có lẽ vì piano là tiếng tôi nghe thấy rõ nhất), với rất ít nốt nhạc và thường có nhiều khoảng lặng dài giữa các nốt như thể âm thanh rải rác trong không gian ấy muốn mời gọi người xem bước vào câu chuyện. Sau đó, nhạc sĩ dần sử dụng nhiều nốt hơn, nhiều nhạc cụ hơn. Vì vậy, âm nhạc rất phù hợp với không khí phim, nó đi theo tiến triển câu chuyện.

Về nhân vật, tôi rất thích vai diễn Xiếm Hoa của diễn viên Ngọc Hiệp. Cô không xuất hiện nhiều nhưng để lại ấn tượng mạnh mẽ trong các cảnh cô tham gia. Cô diễn vai một người vợ không hạnh phúc, một người mẹ hiền lành. Giọng cười không chút run sợ của cô khi chồng phát hiện bí mật khiến tôi thật sự ngạc nhiên. Tôi cũng thích cách Hồng Ánh kết cảnh với hình ảnh tay cô nắm lấy con dao. Tôi nghĩ cô sẽ cố gắng lấy hết sức để rút con dao, để đấu tranh lại, để đâm người chồng. Thế nhưng cảnh này lại kết thúc với cảnh cận cho thấy bàn tay đầy máu nắm con dao. Hình ảnh ấy như muốn nói cô muốn đấu tranh lại, nhưng sự đấu tranh đó không thành công. Cuối cùng, có lẽ cô cũng là người chịu nhiều đau khổ nhất. Một trong những điều tôi nhớ nhất về Xiếm Hoa là hình ảnh cô treo đèn lồng đỏ trước cửa nhà hàng. Theo tôi nhớ, có hai cảnh như vậy. Cảnh đầu là lúc mọi thứ đang yên ổn, nhà hàng còn đông khách. Cảnh thứ hai là khi cơn bão tới, nhà hàng hầu như không có khách và trông cô rất buồn. Ở lần thứ hai ấy, tôi cảm thấy rất thương cô. Lúc đầu, tôi không để ý lắm khi cô treo đèn lồng đỏ mỗi đêm. Nhưng khi cảnh đó lặp lại lần thứ hai ở gần cuối phim, với cơn bão đang đến, nhiều lá rơi rụng hơn, vắng khách hơn, với cảnh trung cận để thấy cô run rẩy trong cơn lạnh, tôi thật sự thấy buồn. Hình ảnh đèn lồng đỏ cũng khiến tôi nhớ đến phim Đèn lồng đỏ treo cao của Trương Nghệ Mưu.

Ngoài ra, tôi cũng thích cách Hồng Ánh bỏ một vài cảnh để đẩy nhanh câu chuyện của phim. Ví dụ: chị chỉ cho thấy cảnh Phước trèo lên và ngắm Chu, sau đó, người xem có thể thấy họ đã khá thân thiết với nhau. Không có cảnh lần đầu gặp gỡ với những câu hỏi căn bản như tên tuổi, hay những câu tương tự như thế. Tôi nghĩ đó là sự lựa chọn đúng. Và chị cũng không cho thấy những cảnh khá quan trọng ở một số phân đoạn, đặc biệt là phân đoạn cuối: cảnh Chu chết như thế nào. Người xem chỉ nghe thấy tiếng hét của bà vợ. Sau đó, người xem thấy cảnh khủng khiếp ấy qua góc nhìn của Phước. Và cuối cùng là góc cận khuôn mặt chết của Chu. Tôi rất thích cách xử lí này. Khi người xem không thấy toàn bộ diễn biến của câu chuyện, họ sẽ ngạc nhiên hơn vì họ không biết chuyện gì đã xảy ra, và sẽ diễn ra. Người xem chỉ có thể thấy kết quả. Điều ấy khiến tôi nhớ đến cuộc sống của chúng ta. Chúng ta thường chỉ chú ý đến những điều quan trọng khi mọi thứ đã quá trễ, khi ta đã mất nó. Cảnh này cũng vậy. Mọi người thường nhận ra vấn đề khi đã quá muộn, và cuối cùng, họ mất những gì quan trọng đối với họ.

Kodaki

Click to comment

Viết bình luận

Your email address will not be published. Required fields are marked *

Trà chiều

Thế giới viễn tưởng độc đáo trong bốn bộ phim mang đậm tính thể nghiệm

Published

on

Thế giới của phim khoa học viễn tưởng không phải lúc nào cũng chỉ có AI, robot, hay du hành không gian mà còn vô vàn những điều đặc biệt khác có thể bạn chưa biết.

Năm 2023 vừa qua đã ghi nhận sự phát triển ngày càng mạnh mẽ của AI. Điều đó khiến cho dòng phim khoa học viễn tưởng nhận được nhiều sự quan tâm trở lại. Nhắc đến dòng phim này, người ta vẫn thường đóng khung nó với vài yếu tố tiêu biểu thường gặp như: AI, robot, du hành vũ trụ, thế giới song song… Tuy nhiên, có rất nhiều tác phẩm sci-fi kinh điển đã chứng minh điều ngược lại.

Hãy cùng Bookish khám phá những bộ phim sci-fi không thuần túy là sci-fi vì ở đó, người xem được tận hưởng bữa tiệc điện ảnh đỉnh cao với những hương vị hòa quyện mĩ mãn từ nhiều thể loại khác nhau.

Back to The Future (1985)

Sci-fi x Road Trip Comedies

Cùng với The Terminator, Back To The Future ra đời năm 1985 đã trở thành biểu tượng kinh điển của dòng phim sci-fi lấy chủ đề du hành thời gian. Đó cũng là một trong những nguyên nhân mà bộ phim này được nhắc đến nhiều lần trong Avengers: Endgame lúc cả nhóm quyết định quay về quá khứ.

Tuy nhiên, không giống như The Terminator, Back To The Future mang màu sắc vui nhộn, hài hước của lứa tuổi học trò. Cậu học sinh tuổi teen Marty McFly ở thập niên 80 vô tình bị kéo về quá khứ trên chiếc xe cỗ máy thời gian của nhà khoa học Emmett Brown. Cậu quay trở về thập niên 50 – lúc này bố mẹ cậu cũng ở lứa tuổi học trò như cậu. Để có thể quay về hiện tại năm 80, cậu phải tìm cách hàn gắn mối quan hệ của bố mẹ, nếu không bản thân cậu cũng sẽ không tồn tại ở năm 80. Từ đó, câu chuyện nảy sinh nhiều tình huống dở khóc dở cuối. Nếu như The Terminator là sự phối trộn hoàn hảo giữa thể loại sci-fi và hành động thì Back To The Future lại là màn kết hợp ăn ý giữa thể loại sci-fi và hài hành trình. Bộ phim tốn kinh phí thực hiện là 19 triệu USD nhưng lại có doanh thu phòng vé lên đến 388 triệu USD. Chính vì thành công này mà đạo diễn Robert Zemeckis đã thực hiện hai phần tiếp theo cũng vui nhộn không kém.

Snowpiercer (2013)

Sci-fi x Dystopia

Bong Joon Ho không chỉ tạo ra những bộ phim sâu sắc về đề tài xã hội mà ông còn có khả năng làm phim khoa học viễn tưởng rất chặt chẽ, thuyết phục. Điều này thể hiện rõ nhất qua Snowpiercer. Phim dựa trên tiểu thuyết Pháp Le Transperceneige lấy đề tài hậu tận thế. Trong tương lai, sau một thí nghiệm thất bại, khí hậu toàn cầu biến đổi dẫn đến gần như toàn bộ sinh vật đều bị diệt vong, ngoại trừ một số người may mắn có mặt trên con tàu Snowpiercer chạy vòng quanh Trái đất với động cơ vĩnh cửu. Tại đây, một xã hội thu nhỏ mới lại được hình thành. Dưới bàn tay tài hoa của Bong Joon Ho, Snowpiercer cũng không đơn giản là tác phẩm sci-fi thuần túy mà ông còn lồng ghép vào nhiều thể loại khác nhau: có những phân đoạn hành động mãn nhãn, đồng thời cũng có những phân đoạn dí dỏm, và cách đặt vấn đề về giai tầng xã hội vẫn mang phong cách rất đặc trưng của Bong. 

Eternal Sunshine Of The Spotless Mind (2004)

Sci-fi x Romance

Sẽ như thế nào nếu kết hợp thể loại sci-fi với phim tình cảm? Khi đó, chúng ta sẽ có kiệt tác Eternal Sunshine Of The Spotless Mind của bộ đôi đạo diễn Michel Gondry và biên kịch Charlie Kaufman. Bộ phim sử dụng đề tài “can thiệp kí ức” để khám phá bản năng con người khi tình yêu tan vỡ. Sẽ ra sao nếu khi chia tay một ai đó, bạn có thể xóa toàn bộ những kí ức vui buồn liên quan đến họ ra khỏi tâm trí? Sau khi Joel biết được Clementine – người yêu cũ của anh đã xóa kí ức tình yêu, anh quyết định bản thân mình cũng sẽ thực hiện việc này. Nhưng khi anh khám phá được điều gì đã khiến họ gắn kết rồi lại chia xa, anh nhận ra mình vẫn còn tình cảm dành cho cô. Nếu như công nghệ trong phim là thứ hư cấu thì cảm xúc giữa hai nhân vật trong Eternal Sunshine hoàn toàn chân thực, lay động trái tim người xem, khiến ai cũng phải thổn thức.

Under The Skin (2013)

Sci-fi x Experimental film

Cuối cùng, không thể không nhắc đến bộ phim sci-fi mang tính thể nghiệm, tiên phong đáng nhớ: Under The Skin. Có rất nhiều phim lấy đề tài sinh vật ngoài hành tinh xâm nhập Trái đất, nhưng có lẽ chưa bộ phim nào kể câu chuyện thật đặc biệt nhưng lại với nhịp điệu từ tốn như Under The Skin. Scarlett Johansson trong vai sinh vật ngoài hành tinh vô danh chỉ làm đúng một công việc là đi lang thang trên một chiếc xe tải, lựa chọn những người đàn ông cô đơn làm con mồi. Bộ phim rất kiệm lời thoại, khiến người xem rợn người không chỉ bởi những hình ảnh thị giác lạ mắt mà còn bởi thứ âm nhạc cũng đầy tính thể nghiệm độc đáo của Mica Levi. Tuy nhiên, nếu chỉ tập trung vào thể nghiệm mà bỏ qua nội dung, Under The Skin đã không gây được tiếng vang lớn như thế trong cộng đồng điện ảnh. Sau tất cả, bộ phim của đạo diễn Jonathan Glazer lại khiến người xem trăn trở nhiều về thân phận làm người.

Hoàng Đức Nhiên

Đọc bài viết

Trà chiều

The Terminator & Blade Runner: Hai tượng đài điện ảnh độc đáo của thập niên 80

Published

on

Cùng ra mắt vào thập niên 80, The Terminator (1984) và Blade Runner (1982) đều là hai kiệt tác điện ảnh độc đáo, góp phần rất lớn trong việc tạo ra diện mạo mới cho thể loại sci-fi.

Bài viết này sẽ dẫn dắt bạn khám phá những vấn đề khác nhau được đặt ra trong hai phim: từ những dòng suy tư về mối liên hệ nhân quả giữa hành động và thời gian trong The Terminator đến không gian đô thị đậm chất noir và những truy vấn về bản chất con người trong Blade Runner.

The Terminator (1984)

The Terminator là bước đột phá ngoạn mục trong sự nghiệp điện ảnh của đạo diễn James Cameron. Vào thời điểm ra mắt, bộ phim gây ấn tượng bởi việc pha trộn nhiều đặc tính giữa các thể loại khác nhau, mang đến màu sắc mới cho dòng phim sci-fi.

The Terminator kể câu chuyện về một người máy sát thủ ra đời năm 2029, được trao nhiệm vụ quay về năm 1984 để giết người phụ nữ trẻ tên là Sarah Connor. Sarah hoàn toàn không biết rằng cuộc đời cô có ảnh hưởng đáng kể đến số phận nhân loại và cô có thể chết bất cứ lúc nào dưới sự truy sát của cỗ máy bất khả chiến bại được gọi là Kẻ Hủy Diệt. Kyle Reese cũng đến từ tương lai nhưng nhiệm vụ của anh là bảo vệ Sarah – người mẹ của thủ lĩnh tương lai.

Với cốt truyện như thế, The Terminator vừa có những pha hành động mãn nhãn, vừa có nhiều tầng suy tư phức tạp về dòng chảy của thời gian, về phương thức thay đổi một sự kiện trong quá khứ có thể dẫn đến tương lai khác biệt hoàn toàn – đây vốn là chủ đề hiếm gặp trong phim hành động ở giai đoạn đó. Ngoài ra, những bản nhạc nền tạo không khí căng thẳng của nhạc sĩ Brad Fiedel cũng góp phần lớn vào thành công của phim.

Tất cả những nhân tố đó đã khiến phim trở thành một mảnh ghép quan trọng của văn hóa đại chúng đến tận ngày nay. Câu nói “I'll be back” của nhân vật Kẻ Hủy Diệt trong phim được sử dụng phổ biến, trở thành slogan thương hiện cho chính Arnold Schwarzenegger.

Từ năm 1984 đến nay, The Terminator đã sản xuất 6 phần phim: The Terminator (1984), Terminator 2: Judgment Day (1991), Terminator 3: Rise of the Machines (2003), Terminator Salvation (2009), Terminator Genisys (2015), Terminator: Dark Fate (2019). Tất cả những phần phim này đều đạt được doanh thu khủng, riêng phần đầu tiên The Terminator đã trụ vững ở vị trí số 1 trên bảng xếp hạng phòng vé ở Mỹ trong suốt hai tuần. Năm 2008, The Terminator đã được Thư viện Quốc hội Hoa Kỳ đưa vào Viện lưu trữ phim quốc gia để bảo tồn với lí do là bộ phim “nổi bật ở phương diện văn hóa, lịch sử, và mĩ học”.                          

Blade Runner (1982)

Không may mắn như The Terminator, Blade Runner của đạo diễn Ridley Scott là một tuyệt tác có số phận khá hẩm hiu khi vừa ra đời. Tuy nhiên, qua nhiều thập kỉ với những bản dựng khác nhau, tác phẩm này đã trở thành một tượng đài lớn của thể loại sci-fi.

Dựa trên tiểu thuyết gốc Do Androids Dream Of Electric Sheep? của nhà văn Philip K. Dick, Blade Runner vẽ nên viễn cảnh ảm đạm của thế giới vào năm 2019. Khi đó, thế giới tràn ngập những replicant – người máy có hình dạng giống con người, được tạo ra với vòng đời ngắn ngủi để làm những công việc nguy hiểm phục vụ cho con người. Một nhóm replicant bất mãn trước việc này đã làm một cuộc phản loạn, quay trở về Trái Đất và giết con người. Rick Deckard, một cảnh sát đã nghỉ hưu ở Los Angeles nhận nhiệm vụ phải truy lùng và tận diệt toàn bộ nhóm replicant nổi loạn này.

Blade Runner là sự pha trộn giữa sci-fi, trinh thám và phim noir – thể loại phim hình sự tội phạm mang đậm phong cách Hollywood, thường thể hiện thái độ hoài nghi, mỉa mai. Thông qua hành trình của Rick Deckard, bộ phim đặt ra nhiều câu hỏi triết học về tính người, thế nào là một con người.

Nhưng không chỉ sâu sắc về nội dung, Blade Runner còn là bữa tiệc chiêu đãi về thị giác qua cách bộ phim thể hiện không gian đô thị tương lai với những màn hình quảng cáo lớn, đèn neon luôn lấp lánh và đường phố lúc nào cũng nhộn nhịp. Cảm hứng thị giác của phim kết hợp từ những bức tranh cổ điển của danh họa Edward Hopper và các khu phố với những tòa nhà chọc trời ở Hong Kong. Sự kết hợp này đã tạo nên không gian thị giác ấn tượng của phim khi con người bị nhấn chìm trong công nghệ. Mĩ thuật của phim tạo ảnh hưởng lớn đến cách xây dựng không gian cho những phim sci-fi hay hành động của Hollywood ra đời sau đó như: The Matrix (1999), bộ ba Dark Knight (2005 – 2012) của đạo diễn Christopher Nolan, Ghost in the Shell (2017)…

Ngày nay, Blade Runner đã có một chỗ đứng không thể thay thế trong dòng phim sci-fi với nhiều ảnh hưởng mang tính định hình về mĩ thuật, tư duy về cách kể chuyện và nhân vật. Blade Runner 2049 – phần tiếp theo của phim ra đời vào năm 2017, đúng 35 năm kể từ phần đầu tiên đã không làm người hâm mộ thất vọng với điểm số trên Rotten Tomatoes lên đến 88%.

Hoàng Đức Nhiên

Đọc bài viết

Trà chiều

Hai tác phẩm định hình dấu ấn cá nhân của đạo diễn James Cameron và Christopher Nolan

Published

on

Đạo diễn James Cameron và đạo diễn Christopher Nolan đều là những cá nhân kiệt xuất trong ngành điện ảnh với nhiều bộ phim kinh điển vừa đạt được doanh thu khủng, vừa có giá trị nghệ thuật cao.

Tuy nhiên, khi nhắc đến hai vị đạo diễn tài danh này, có hai tác phẩm đặc biệt mà người hâm mộ điện ảnh không thể nào bỏ lỡ.Hãy cùng Bookish khám phá những dấu ấn đặc trưng cá nhân của đạo diễn James Cameron trong Avatar và của đạo diễn Christopher Nolan trong Inception.  

Avatar (2009)

Năm 2009, bộ phim sci-fi Avatar của đạo diễn James Cameron ra đời đã tạo nên bước ngoặt lớn cho sự phát triển công nghệ điện ảnh. Lần đầu tiên, cả thế giới được xem một bộ phim 3D. Kĩ thuật thị giác đột phá đã khiến trải nghiệm của phim cực kì sống động.

Vào năm 2154, nguồn tài nguyên Trái đất trở nên cạn kiệt dưới sự khai thác của con người dẫn đến khủng hoảng năng lượng. Lúc bấy giờ, tập đoàn RDA đang khai thác unobtanium – một loại khoáng sản có giá trị tại Pandora, một hành tinh tươi tốt mang sự sống giống Trái Đất nhưng lại có bầu khí quyển độc hại cho con người. Pandora là nơi sinh sống của người Na'vi da xanh, có hình dáng và trí óc giống con người. Để tìm hiểu về người Navi và sinh quyển ở Pandora, các nhà khoa học sử dụng cơ thể người lai Na’vi gọi là các Avatar, được hoạt động thông qua liên kết thần kinh với những người có kiểu gen phù hợp. Jake Sully là một cựu lính thủy quân được giao nhiệm vụ trà trộn vào hành tinh Pandora. Quá trình thực hiện nhiệm vụ đã khiến anh bị giằng xé giữa việc tuân theo mệnh lệnh hay bảo vệ xứ sở mà anh đã trót xem là quê nhà.

Đạo diễn James Cameron đã mất đến 15 năm để thực hiện Avatar từ lúc bộ phimcòn là ý tưởng năm 1994 cho đến khi ra đời năm 2009. Sở dĩ bộ phim mất nhiều thời gian như vậy là do Cameron không chỉ trau chuốt về mặt nghệ thuật mà còn cả kĩ thuật: từ công đoạn làm việc với chuyên gia ngôn ngữ để tạo ra tiếng Na’vi với hơn 1000 từ, cho đến việc tạo ra kĩ thuật 3D. Sự kì công này khiến Avatar chiều lòng được cả khán giả đại chúng lẫn giới hàn lâm. Avatar luônđứng đầu danh sách phim ăn khách nhất mọi thời đại với doanh thu lên đến 2,7 tỉ USD, và chỉ bị Avengers: Endgame vượt mặt vào năm 2019 sau suốt 10 năm thống trị bảng vàng.            

Avatar 3 dự kiến sẽ ra mắt vào năm 2025, tiếp tục hứa hẹn mang đến những thành tích khủng trong tương lai. 

James Cameron

Inception (2010)

Hầu như những bộ phim của đạo diễn Christopher Nolan đều có các yếu tố như: du hành thời gian, tìm hiểu bản chất thế giới… khiến người xem vừa rối não lẫn rối lòng. Và Inception chính là một tác phẩm hội tụ đủ các yếu tố làm nên thương hiệu Nolan, trở thành một tượng đài khó quên trong lòng người hâm mộ.

Inception là một trải nghiệm điện ảnh đáng nhớ khi Nolan cố gắng hình tượng hóa kiến trúc tư duy của con người, biến tiềm thức trở thành không gian vật lí cho các hoạt động đánh cắp được diễn ra. Bộ phim kể về một tên trộm có khả năng đi vào giấc mơ của người khác. Dom Cobb không trộm gì cả, anh chỉ trộm ý niệm. Bằng việc thâm nhập vào tiềm thức của đối tượng, anh có thể lấy thông tin mà đến cả những tay hacker sừng sỏ nhất cũng không thể làm được. Trong thế giới điệp viên, Cobb là vũ khí tối thượng. Nhưng kể cả vũ khí cũng có nhược điểm, khi Cobb gần như mất tất cả mọi thứ, anh được giao một nhiệm vụ cuối cùng để chuộc lỗi. Lần này, Cobb không gặt lấy ý niệm, anh gieo nó. Liệu anh và đồng đội có thành công?

Christopher Nolan

Inception có một kịch bản hoàn hảo, từng thế giới giấc mơ xuất hiện trong phim vừa chính xác, tinh tế, đôi khi lại hài hước. Thời gian là chủ đề yêu thích của Nolan và ông luôn tìm được cách thể nghiệm thú vị, có thể thấy rõ điều này qua cả phim InterstellarDunkirk. Nhưng trong Inception, thời gian không chỉ là chủ đề mà còn là công cụ kể chuyện khi tái hiện lại hoàn hảo nỗi ám ảnh của kẻ cắp giấc mơ. Từ đó, bộ phim đặt ra nhiều câu hỏi hóc búa: liệu rằng ta có đang sống trong thời gian thực, khi nào thì một giấc mơ trở thành thực tế, khi nào thì thực tế hóa ra lại chỉ là một giấc mơ, ta đang thức hay còn mơ?

Thông qua Inception, Nolan lồng ghép rất nhiều khái niệm về sự logic giấc mơ, đảo ngược các nguyên tắc vật lí, cho thấy những thực tại có thể vỡ vụn ra sao… Tất cả hòa quyện vào nhau, tạo thành một tác phẩm sci-fi tâm lí đỉnh cao mà có lẽ nhiều thập kỉ sau, vẫn còn khiến người ta trầm trồ.

Hoàng Đức Nhiên

Đọc bài viết

Cafe sáng