Trà chiều

Những bóng ma văn chương vờn quanh Paris muôn đời

Từ Balzac đến Max Jacob, một Cuộc Hành Hương tìm về những Thiên Tài Quá Vãng.

Published

on

THE GHOSTS OF LITERARY GREATNESS THAT FOREVER HAUNT PARIS

Peter Wortsman

Giống như Thánh tích của một vị Thánh là tập hợp những di vật được trưng bày cố định tại nhà tưởng niệm Maison de Balzac – một bảo tàng quý giá náu mình giữa những nếp gấp thời gian ở Quận 16 thuộc Paris, từng chứng nhân cho những tham vọng lớn lao, đồng thời kể lại câu chuyện về từng khoảnh khắc của nhà văn.

Honoré de Balzac (1799 – 1850)
Ảnh. NPR

Trong số những hiện vật này là bộ dụng cụ viết lách, bao gồm dao bào để chuốt đầu nhọn, món quà từ bạn-thư-tín-hóa-nhân-tình của Balzac, và sau này, trở thành vợ ông, Quý Bà Hańska. Một món quà khác cũng từ bà, một cây gậy đặc trưng cũng nằm trong bộ sưu tập, có đầu trên được nạm màu ngọc lam mang dáng hình huy hiệu của dòng tộc nhà văn, và được gắn liền với sợi dây chuyền từ thời thơ ấu của bà. Chủ đề quyển sách của người hâm mộ khác, Delphine de Girardin, La Cane de Monsieur de Balzac (tạm dịch Cây gậy của Monsieur de Balzac) cũng hiện diện; và báu vật ấy sống động như thể ta có thể cảm nhận lòng bàn tay ướt đẫm mồ hôi trên chiếc núm chạm khắc và nghe những thanh âm vọng lại cùng nhịp bước chân trên con đường lát đá tưởng tượng.

Ở một phòng khác là mô phỏng đúc đồng tinh tế lấy mẫu từ bàn tay phải của tiểu thuyết gia với các đốt ngón tay hằn rõ những nếp nhăn mệt mỏi, thèm khát được cầm bút.

Một nơi trang trọng khác được dành cho bộ pha cà phê cafétière của ông, một tách cà phê bằng gốm trắng đặt trên chiếc bình cao như một vương miện, được trang trí với những diềm đỏ và dòng chữ lồng HB, là chén Thánh và vạc lọc đã thúc đẩy quá trình viết lách dài 15 giờ không ngừng nghỉ, một guồng máy đã cho ra đời hơn 20 tác phẩm, nhưng sớm làm trì trệ trái tim ông và cuối cùng là thúc đẩy cái chết trẻ của ông.

Đây, cũng thế, là chiếc bàn viết có chân nhỏ chắc chắn, bục giảng của những sử thi về tấn trò đời. Khắc trên bề mặt bằng gỗ óc chó là những vết xước và đường rãnh tựa chữ tượng hình, một kiểu bản thảo thứ hai, lưu lại sự uyển chuyển của những nét bút chảy tràn caffeine. Balzac tỏ lòng kính trọng với chiếc bàn như với người yêu cùng nhau trải qua gian khổ từ lâu: (Nó) chứng kiến những buồn khổ của tôi, những đau đớn của tôi, niềm vui sướng to lớn, và mọi thứ […] Cánh tay của tôi gần như bào mòn nó bằng sức nặng văn chương”.

*

Alexandre Dumas (1802 – 1870)
Ảnh: IMDb

Những độc giả trung thành của Ba chàng lính ngự lâm hay Bá tước Monte Cristo sẽ được chìm đắm vào con đường lát đá chật hẹp trong tòa lâu đài từng xuất hiện trong các cuốn sách của Alexandre Dumas, mà ông từng gọi là Château de Monte-Cristo, nay được bảo tồn như một địa danh lịch sử ở Port Marley (Yvelines), chỉ cách Paris một chuyến tàu ngắn ra ngoại ô. Được thiết kế theo những mô tả của tác giả, ngôi nhà và những khoảng sân, bao gồm một phòng khách kiểu Moorish được trang trí công phu và một xưởng viết theo trường phái Gothic mà bao quanh là lũy hào nước, phản ánh lối sống hào phóng và xa hoa của ông. “Khi bạn có vinh hạnh được sinh ra trong dòng tộc Dumas, bạn sẽ sống một cuộc đời thượng lưu […] và không từ chối bản thân cho bất cứ một niềm vui nào”, ông đã viết, thành thật đúng nghĩa, và phí hoài gia tài kiếm được từ ngòi bút của mình. Và tinh thần hào hứng ấy vẫn rõ ràng sau khi ông đã qua đời hơn một thế kỷ, ở những thực đơn dính vết thức ăn cùng món trộn ông yêu, món trứng tráng hàu ông thích.

*

Marcel Proust (1871 – 1922)
Ảnh: LitHub

Cây gậy đi đường của Monsier Proust vẫn được giữ nguyên trạng, trông hơi cẩu thả, như thể ông chỉ vừa để nó lại trước khi nó rơi xuống chiếc giường có bộ khung đánh bóng sau một đêm khuya đi dạo nào đó, trước khi ngả mình xuống để ghi lại ấn tượng và sự hỗn loạn những ký ức khuấy động. Tấm trải giường xanh lam trông như vừa có người nằm ngủ. Vách ngăn của tấm bình phong được bọc bằng gỗ sồi, như bộ khung thực chất của chiếc giường, để đảm bảo sự cách âm tuyệt đối. Gỗ sồi, than ôi, làm nặng thêm chứng bệnh hen suyển của ông. Bạn thật sự có thể nghe những tiếng ho này tràn khắp không gian.

Các đồ nội thất và đồ vật đã được tập hợp lại trong căn phòng nhỏ bất khả xâm phạm này tại Bảo tàng Carnavelet thuộc quận 3, dựa trên gợi ý của một người bạn ngưỡng mộ ông – Nữ bá tước Anna de Noailles, được tập hợp từ 3 khu nhà ở sau cùng: tại số 102 Đại lộ Haussmann, số 8 Rue Laurent Pichat, và 44 Rue Hamelin ở Quận sáu, nơi Proust cuối cùng đã từ bỏ những vấn vương hồn ma đeo bám tâm trí mình.

Bộ sưu tập bao gồm: một chiếc bàn gỗ khảm trang trí công phu hầu như không được sử dụng, Proust viết hầu hết trên giường, một giá sách, một chiếc ghế dài để đọc có độ ngả tùy chỉnh và nơi tựa khuỷu tay, một tấm thảm, một chiếc đĩa nạm ngọc, một chiếc gương cầm tay, một chiếc bàn chải khắc chữ lồng tên ông, chiếc kẹp giữ cà vạt, đĩa mạ bạc, gậy đi bộ đã nói trên, một chiếc ghế con, tấm bình phong, bàn nhỏ cạnh giường, đèn, gương, các dụng cụ viết, đồng hồ bỏ túi, lịch bàn, lược chải tóc, bàn chải gỗ mun gạt bụi cho mũ và một loại khác bằng gỗ hồng mộc, và một chiếc đón gót bằng ngà – nói ngắn gọn, tất cả những nhu cầu thiết yếu của cuộc sống một nhà văn.

*

Victor Hugo (1802 – 1885)
Ảnh: Britannica

Khi bàn làm việc được trưng bày trong phòng ngủ chính được phục hồi tại Maison Hugo, ở Place des Vosges quận tư, nó tiết lộ, Victor Hugo đã viết đứng. Chính tại đây, ông đã sáng tác phần lớn kiệt tác của mình, Những người khốn khổ, với hơn 1.900 trang giấy, một trong những cuốn tiểu thuyết dài nhất từng được viết ra. Làm thế nào mà đôi chân của ông có thể trụ vững, tôi không thể ngừng tự hỏi, trong sự vô hạn của từ ngữ và thời gian để viết ra chúng? Chẳng lẽ ông không bao giờ mỏi mệt sao? Tôi tưởng tượng ông đang tựa vào núm ngăn kéo bằng gỗ sồi được chạm khắc hình đầu sư tử, lấy sức mạnh từ loài thú ấy và sự dũng cảm của cây sồi.

*

Paris – Kinh đô Ánh sáng, vẫn ẩn chứa trong mình những vùng ngoại ô tâm tối. Làm thế nào có đủ thời gian để tôi ghé thăm trại giam Drancy trong một nỗ lực tìm về những mảng thơ mờ dần trong kí ức Max Jacob trong ngày chủ nhật lễ thánh xanh xám và u mưa này. Theo lịch Pháp, ngày lễ Saints de Glace (tạm dịch Mùa đông gai đen), theo niềm tin đã tồn tại từ lâu từ thời Trung Cổ và được toan định ngày diễn ra, là ngày dành riêng cho các Thánh Mamert, Pancras và Servais; theo truyền thống được diễn ra vào các ngày 11, 12 và 13 tháng 5; khi tên của các vị Thánh được nông dân khấn nguyện để ngăn chặn sự giảm nhiệt độ đột ngột và sương giá rất nguy hiểm cho mùa màng.

Max Jacob (1876 – 1944)
Ảnh: Museu Picasso

Bầu trời bất chợt chuyển sang màu xám tang thương và đột ngột nổ tung thành những trận mưa trút nước khi xe buýt kéo vào thị trấn. Trời quang mây tạnh, và rồi mây kéo về, mưa lại bùng nổ, không thể định trước.

Khu phức hợp đúc sẵn hình chữ U của Cité de la Muette, một mạo hiểm viễn tưởng trong giai đoạn lập kế hoạch, được xây dựng vào những năm 1930 nhưng chưa bao giờ hoàn thành, ban đầu dự định sẽ đưa các công nhân nhà máy vào một môi trường sống hoàn hảo, lành mạnh. Nhưng các cư dân đã không bao giờ chuyển đến. Kế hoạch thay đổi. Tầm nhìn viễn vông ấy bị phá hủy đến tận cùng đen tối. Từ tháng 8 năm 1941 đến tháng 8 năm 1944, hàng ngàn đàn ông, phụ nữ và trẻ em, trong đấy có Max Jacob, tất cả hậu duệ người Do Thái, đã bị cảnh sát Pháp vây bắt theo lệnh của Gestapo, và không có thức ăn, nước uống hoặc điều kiện vệ sinh nào đầy đủ trong một trại tập trung tạm thời, từ chỗ bị trục xuất đến các trại tử thần ở Ba Lan. Sau khi Paris được giải phóng, Cité đã được sử dụng một thời gian ngắn để huấn luyện các kẻ nằm vùng thực tập, trước khi được thanh tẩy, làm sạch và tân trang lại thành một Habitation à Loyer Modéré (HLM), một dự án nhà ở thu nhập thấp. Nhiều cư dân hiện tại của nó là dân nhập cư Bắc Phi, những người chắc chắn phát ra cái nhìn bối rối và khó chịu với những du khách lần mò khai thác một quá khứ không mấy tốt đẹp.

Một tấm biển ở lối vào Cầu thang số 10 đánh dấu nơi Max Jacob chết. Paris được chống đỡ bằng các tấm bia tưởng niệm của các nhà thơ, nghệ sĩ và nhà soạn nhạc; nhưng điều này đôi khi kéo trũng nhịp đập con tim chúng ta.

Một người đàn ông lập dị, không ngừng mâu thuẫn, một nhà thơ, họa sĩ, tác giả và nhà phê bình nghệ thuật của trường phái Tượng trưng và Siêu thực; người đồng tính, gốc Do Thái, duyên dáng và gắt gỏng; Jacob là một trong những người bạn đầu tiên mà Picasso có ở Paris, và là một chiến hữu của ông tại Bateau Lavoir ở khu phố Montmartre trứ danh – bệ phóng cho những tiên phong nghệ thuật. Theo tiếng gọi của Chúa Kitô, ông chuyển đổi sang Công giáo và đến tu viện Benedictine của vùng Saint Benoît-sur-Loire, ở Loiret, để hầu chuyện cùng Chúa và trốn khỏi toán quân chiếm đóng Đức quốc xã.

Khi bị tố cáo bởi một kẻ nằm vùng, ông bị giải đến Drancy, nơi ông nằm và bị viêm phổi phế quản mà không có thuốc men ở trại tạm giam. Christopher Wood đã ra mặt với những người bạn có ảnh hưởng để cố gắng thay mặt chính quyền nước Đức thả ông ra. Nghệ sĩ, nhà văn và nhà sản xuất phim Jean Cocteau, người có mối giao tế với quân đội Đức cấp cao, đã cố gắng để ông được trả tự do nhưng vô ích. Có tin đồn rằng, khi được hỏi yêu cầu giúp đỡ, người bạn cũ của Picasso đã trả lời rằng: “Max là một thiên thần, ông ta không cần sự giúp đỡ của tôi, ông ấy sẽ mọc cánh và bay đi”.

Jacob không để lại vật lưu niệm nào tại Drancy. Tôi đứng nhìn chằm chằm vào những tấm kim loại nhỏ gắn chặt trên tường từng xuất hiện trong trí nhớ ông, cố gắng rút ra ý nghĩa, nhưng khi một cậu bé phăng phăng băng về phía tôi trên chiếc xe đạp mà tôi buộc phải nhảy qua một bên, chỉ ngay lúc đó tôi mới cảm thấy một sự mạo phạm với nơi trang nghiêm này. Tại sao nhà nước Pháp không chỉ định nó là một di tích lịch sử và để lại Cité de la Muette như một căn phồng trống rỗng không có người ở và bị đồn ma ám?

Nhưng ngay sau đó, The Beggar Woman of Naples, (tạm dịch Người phụ nữ ăn xin ở Napoli) một bài thơ văn xuôi của Max Jacob xuất hiện trong tâm trí tôi. Trong đó, nhà thơ cận thị, được biết đến với kính một bên chèn dưới hàng lông mày ngờ vực và chiếc mũi nổi bật, nhớ lại cách anh thả bố thí vào giỏ một người phụ nữ ăn xin ở Napoli, và ngạc nhiên khi không bao giờ được cảm ơn, cho đến khi cuối cùng anh ta cũng hiểu được rằng vị khất sĩ vô ơn anh vừa bố thí hóa ra là một thùng gỗ màu xanh lá cây chứa một cục đất đỏ và một vài quả chuối thối.

Ngay vừa lúc đó mưa dứt hạt, mây dâng cao và mặt trời ló dạng. Các thánh băng thương xót xen vào. Tốt hơn, tôi nghĩ, Drancy không nên là một kho chuối thối rữa, mà nên là nơi để học đi xe đạp.

Hết.

Ngô Thuận Phát dịch từ bài được thực hiện bởi Peter Wortsman.

Đọc bài gốc tại Literary Hub.


Xem tất cả những bài viết của Ngô Thuận Phát tại đây.


Trà chiều

Thế giới viễn tưởng độc đáo trong bốn bộ phim mang đậm tính thể nghiệm

Published

on

Thế giới của phim khoa học viễn tưởng không phải lúc nào cũng chỉ có AI, robot, hay du hành không gian mà còn vô vàn những điều đặc biệt khác có thể bạn chưa biết.

Năm 2023 vừa qua đã ghi nhận sự phát triển ngày càng mạnh mẽ của AI. Điều đó khiến cho dòng phim khoa học viễn tưởng nhận được nhiều sự quan tâm trở lại. Nhắc đến dòng phim này, người ta vẫn thường đóng khung nó với vài yếu tố tiêu biểu thường gặp như: AI, robot, du hành vũ trụ, thế giới song song… Tuy nhiên, có rất nhiều tác phẩm sci-fi kinh điển đã chứng minh điều ngược lại.

Hãy cùng Bookish khám phá những bộ phim sci-fi không thuần túy là sci-fi vì ở đó, người xem được tận hưởng bữa tiệc điện ảnh đỉnh cao với những hương vị hòa quyện mĩ mãn từ nhiều thể loại khác nhau.

Back to The Future (1985)

Sci-fi x Road Trip Comedies

Cùng với The Terminator, Back To The Future ra đời năm 1985 đã trở thành biểu tượng kinh điển của dòng phim sci-fi lấy chủ đề du hành thời gian. Đó cũng là một trong những nguyên nhân mà bộ phim này được nhắc đến nhiều lần trong Avengers: Endgame lúc cả nhóm quyết định quay về quá khứ.

Tuy nhiên, không giống như The Terminator, Back To The Future mang màu sắc vui nhộn, hài hước của lứa tuổi học trò. Cậu học sinh tuổi teen Marty McFly ở thập niên 80 vô tình bị kéo về quá khứ trên chiếc xe cỗ máy thời gian của nhà khoa học Emmett Brown. Cậu quay trở về thập niên 50 – lúc này bố mẹ cậu cũng ở lứa tuổi học trò như cậu. Để có thể quay về hiện tại năm 80, cậu phải tìm cách hàn gắn mối quan hệ của bố mẹ, nếu không bản thân cậu cũng sẽ không tồn tại ở năm 80. Từ đó, câu chuyện nảy sinh nhiều tình huống dở khóc dở cuối. Nếu như The Terminator là sự phối trộn hoàn hảo giữa thể loại sci-fi và hành động thì Back To The Future lại là màn kết hợp ăn ý giữa thể loại sci-fi và hài hành trình. Bộ phim tốn kinh phí thực hiện là 19 triệu USD nhưng lại có doanh thu phòng vé lên đến 388 triệu USD. Chính vì thành công này mà đạo diễn Robert Zemeckis đã thực hiện hai phần tiếp theo cũng vui nhộn không kém.

Snowpiercer (2013)

Sci-fi x Dystopia

Bong Joon Ho không chỉ tạo ra những bộ phim sâu sắc về đề tài xã hội mà ông còn có khả năng làm phim khoa học viễn tưởng rất chặt chẽ, thuyết phục. Điều này thể hiện rõ nhất qua Snowpiercer. Phim dựa trên tiểu thuyết Pháp Le Transperceneige lấy đề tài hậu tận thế. Trong tương lai, sau một thí nghiệm thất bại, khí hậu toàn cầu biến đổi dẫn đến gần như toàn bộ sinh vật đều bị diệt vong, ngoại trừ một số người may mắn có mặt trên con tàu Snowpiercer chạy vòng quanh Trái đất với động cơ vĩnh cửu. Tại đây, một xã hội thu nhỏ mới lại được hình thành. Dưới bàn tay tài hoa của Bong Joon Ho, Snowpiercer cũng không đơn giản là tác phẩm sci-fi thuần túy mà ông còn lồng ghép vào nhiều thể loại khác nhau: có những phân đoạn hành động mãn nhãn, đồng thời cũng có những phân đoạn dí dỏm, và cách đặt vấn đề về giai tầng xã hội vẫn mang phong cách rất đặc trưng của Bong. 

Eternal Sunshine Of The Spotless Mind (2004)

Sci-fi x Romance

Sẽ như thế nào nếu kết hợp thể loại sci-fi với phim tình cảm? Khi đó, chúng ta sẽ có kiệt tác Eternal Sunshine Of The Spotless Mind của bộ đôi đạo diễn Michel Gondry và biên kịch Charlie Kaufman. Bộ phim sử dụng đề tài “can thiệp kí ức” để khám phá bản năng con người khi tình yêu tan vỡ. Sẽ ra sao nếu khi chia tay một ai đó, bạn có thể xóa toàn bộ những kí ức vui buồn liên quan đến họ ra khỏi tâm trí? Sau khi Joel biết được Clementine – người yêu cũ của anh đã xóa kí ức tình yêu, anh quyết định bản thân mình cũng sẽ thực hiện việc này. Nhưng khi anh khám phá được điều gì đã khiến họ gắn kết rồi lại chia xa, anh nhận ra mình vẫn còn tình cảm dành cho cô. Nếu như công nghệ trong phim là thứ hư cấu thì cảm xúc giữa hai nhân vật trong Eternal Sunshine hoàn toàn chân thực, lay động trái tim người xem, khiến ai cũng phải thổn thức.

Under The Skin (2013)

Sci-fi x Experimental film

Cuối cùng, không thể không nhắc đến bộ phim sci-fi mang tính thể nghiệm, tiên phong đáng nhớ: Under The Skin. Có rất nhiều phim lấy đề tài sinh vật ngoài hành tinh xâm nhập Trái đất, nhưng có lẽ chưa bộ phim nào kể câu chuyện thật đặc biệt nhưng lại với nhịp điệu từ tốn như Under The Skin. Scarlett Johansson trong vai sinh vật ngoài hành tinh vô danh chỉ làm đúng một công việc là đi lang thang trên một chiếc xe tải, lựa chọn những người đàn ông cô đơn làm con mồi. Bộ phim rất kiệm lời thoại, khiến người xem rợn người không chỉ bởi những hình ảnh thị giác lạ mắt mà còn bởi thứ âm nhạc cũng đầy tính thể nghiệm độc đáo của Mica Levi. Tuy nhiên, nếu chỉ tập trung vào thể nghiệm mà bỏ qua nội dung, Under The Skin đã không gây được tiếng vang lớn như thế trong cộng đồng điện ảnh. Sau tất cả, bộ phim của đạo diễn Jonathan Glazer lại khiến người xem trăn trở nhiều về thân phận làm người.

Hoàng Đức Nhiên

Đọc bài viết

Trà chiều

The Terminator & Blade Runner: Hai tượng đài điện ảnh độc đáo của thập niên 80

Published

on

Cùng ra mắt vào thập niên 80, The Terminator (1984) và Blade Runner (1982) đều là hai kiệt tác điện ảnh độc đáo, góp phần rất lớn trong việc tạo ra diện mạo mới cho thể loại sci-fi.

Bài viết này sẽ dẫn dắt bạn khám phá những vấn đề khác nhau được đặt ra trong hai phim: từ những dòng suy tư về mối liên hệ nhân quả giữa hành động và thời gian trong The Terminator đến không gian đô thị đậm chất noir và những truy vấn về bản chất con người trong Blade Runner.

The Terminator (1984)

The Terminator là bước đột phá ngoạn mục trong sự nghiệp điện ảnh của đạo diễn James Cameron. Vào thời điểm ra mắt, bộ phim gây ấn tượng bởi việc pha trộn nhiều đặc tính giữa các thể loại khác nhau, mang đến màu sắc mới cho dòng phim sci-fi.

The Terminator kể câu chuyện về một người máy sát thủ ra đời năm 2029, được trao nhiệm vụ quay về năm 1984 để giết người phụ nữ trẻ tên là Sarah Connor. Sarah hoàn toàn không biết rằng cuộc đời cô có ảnh hưởng đáng kể đến số phận nhân loại và cô có thể chết bất cứ lúc nào dưới sự truy sát của cỗ máy bất khả chiến bại được gọi là Kẻ Hủy Diệt. Kyle Reese cũng đến từ tương lai nhưng nhiệm vụ của anh là bảo vệ Sarah – người mẹ của thủ lĩnh tương lai.

Với cốt truyện như thế, The Terminator vừa có những pha hành động mãn nhãn, vừa có nhiều tầng suy tư phức tạp về dòng chảy của thời gian, về phương thức thay đổi một sự kiện trong quá khứ có thể dẫn đến tương lai khác biệt hoàn toàn – đây vốn là chủ đề hiếm gặp trong phim hành động ở giai đoạn đó. Ngoài ra, những bản nhạc nền tạo không khí căng thẳng của nhạc sĩ Brad Fiedel cũng góp phần lớn vào thành công của phim.

Tất cả những nhân tố đó đã khiến phim trở thành một mảnh ghép quan trọng của văn hóa đại chúng đến tận ngày nay. Câu nói “I'll be back” của nhân vật Kẻ Hủy Diệt trong phim được sử dụng phổ biến, trở thành slogan thương hiện cho chính Arnold Schwarzenegger.

Từ năm 1984 đến nay, The Terminator đã sản xuất 6 phần phim: The Terminator (1984), Terminator 2: Judgment Day (1991), Terminator 3: Rise of the Machines (2003), Terminator Salvation (2009), Terminator Genisys (2015), Terminator: Dark Fate (2019). Tất cả những phần phim này đều đạt được doanh thu khủng, riêng phần đầu tiên The Terminator đã trụ vững ở vị trí số 1 trên bảng xếp hạng phòng vé ở Mỹ trong suốt hai tuần. Năm 2008, The Terminator đã được Thư viện Quốc hội Hoa Kỳ đưa vào Viện lưu trữ phim quốc gia để bảo tồn với lí do là bộ phim “nổi bật ở phương diện văn hóa, lịch sử, và mĩ học”.                          

Blade Runner (1982)

Không may mắn như The Terminator, Blade Runner của đạo diễn Ridley Scott là một tuyệt tác có số phận khá hẩm hiu khi vừa ra đời. Tuy nhiên, qua nhiều thập kỉ với những bản dựng khác nhau, tác phẩm này đã trở thành một tượng đài lớn của thể loại sci-fi.

Dựa trên tiểu thuyết gốc Do Androids Dream Of Electric Sheep? của nhà văn Philip K. Dick, Blade Runner vẽ nên viễn cảnh ảm đạm của thế giới vào năm 2019. Khi đó, thế giới tràn ngập những replicant – người máy có hình dạng giống con người, được tạo ra với vòng đời ngắn ngủi để làm những công việc nguy hiểm phục vụ cho con người. Một nhóm replicant bất mãn trước việc này đã làm một cuộc phản loạn, quay trở về Trái Đất và giết con người. Rick Deckard, một cảnh sát đã nghỉ hưu ở Los Angeles nhận nhiệm vụ phải truy lùng và tận diệt toàn bộ nhóm replicant nổi loạn này.

Blade Runner là sự pha trộn giữa sci-fi, trinh thám và phim noir – thể loại phim hình sự tội phạm mang đậm phong cách Hollywood, thường thể hiện thái độ hoài nghi, mỉa mai. Thông qua hành trình của Rick Deckard, bộ phim đặt ra nhiều câu hỏi triết học về tính người, thế nào là một con người.

Nhưng không chỉ sâu sắc về nội dung, Blade Runner còn là bữa tiệc chiêu đãi về thị giác qua cách bộ phim thể hiện không gian đô thị tương lai với những màn hình quảng cáo lớn, đèn neon luôn lấp lánh và đường phố lúc nào cũng nhộn nhịp. Cảm hứng thị giác của phim kết hợp từ những bức tranh cổ điển của danh họa Edward Hopper và các khu phố với những tòa nhà chọc trời ở Hong Kong. Sự kết hợp này đã tạo nên không gian thị giác ấn tượng của phim khi con người bị nhấn chìm trong công nghệ. Mĩ thuật của phim tạo ảnh hưởng lớn đến cách xây dựng không gian cho những phim sci-fi hay hành động của Hollywood ra đời sau đó như: The Matrix (1999), bộ ba Dark Knight (2005 – 2012) của đạo diễn Christopher Nolan, Ghost in the Shell (2017)…

Ngày nay, Blade Runner đã có một chỗ đứng không thể thay thế trong dòng phim sci-fi với nhiều ảnh hưởng mang tính định hình về mĩ thuật, tư duy về cách kể chuyện và nhân vật. Blade Runner 2049 – phần tiếp theo của phim ra đời vào năm 2017, đúng 35 năm kể từ phần đầu tiên đã không làm người hâm mộ thất vọng với điểm số trên Rotten Tomatoes lên đến 88%.

Hoàng Đức Nhiên

Đọc bài viết

Trà chiều

Hai tác phẩm định hình dấu ấn cá nhân của đạo diễn James Cameron và Christopher Nolan

Published

on

Đạo diễn James Cameron và đạo diễn Christopher Nolan đều là những cá nhân kiệt xuất trong ngành điện ảnh với nhiều bộ phim kinh điển vừa đạt được doanh thu khủng, vừa có giá trị nghệ thuật cao.

Tuy nhiên, khi nhắc đến hai vị đạo diễn tài danh này, có hai tác phẩm đặc biệt mà người hâm mộ điện ảnh không thể nào bỏ lỡ.Hãy cùng Bookish khám phá những dấu ấn đặc trưng cá nhân của đạo diễn James Cameron trong Avatar và của đạo diễn Christopher Nolan trong Inception.  

Avatar (2009)

Năm 2009, bộ phim sci-fi Avatar của đạo diễn James Cameron ra đời đã tạo nên bước ngoặt lớn cho sự phát triển công nghệ điện ảnh. Lần đầu tiên, cả thế giới được xem một bộ phim 3D. Kĩ thuật thị giác đột phá đã khiến trải nghiệm của phim cực kì sống động.

Vào năm 2154, nguồn tài nguyên Trái đất trở nên cạn kiệt dưới sự khai thác của con người dẫn đến khủng hoảng năng lượng. Lúc bấy giờ, tập đoàn RDA đang khai thác unobtanium – một loại khoáng sản có giá trị tại Pandora, một hành tinh tươi tốt mang sự sống giống Trái Đất nhưng lại có bầu khí quyển độc hại cho con người. Pandora là nơi sinh sống của người Na'vi da xanh, có hình dáng và trí óc giống con người. Để tìm hiểu về người Navi và sinh quyển ở Pandora, các nhà khoa học sử dụng cơ thể người lai Na’vi gọi là các Avatar, được hoạt động thông qua liên kết thần kinh với những người có kiểu gen phù hợp. Jake Sully là một cựu lính thủy quân được giao nhiệm vụ trà trộn vào hành tinh Pandora. Quá trình thực hiện nhiệm vụ đã khiến anh bị giằng xé giữa việc tuân theo mệnh lệnh hay bảo vệ xứ sở mà anh đã trót xem là quê nhà.

Đạo diễn James Cameron đã mất đến 15 năm để thực hiện Avatar từ lúc bộ phimcòn là ý tưởng năm 1994 cho đến khi ra đời năm 2009. Sở dĩ bộ phim mất nhiều thời gian như vậy là do Cameron không chỉ trau chuốt về mặt nghệ thuật mà còn cả kĩ thuật: từ công đoạn làm việc với chuyên gia ngôn ngữ để tạo ra tiếng Na’vi với hơn 1000 từ, cho đến việc tạo ra kĩ thuật 3D. Sự kì công này khiến Avatar chiều lòng được cả khán giả đại chúng lẫn giới hàn lâm. Avatar luônđứng đầu danh sách phim ăn khách nhất mọi thời đại với doanh thu lên đến 2,7 tỉ USD, và chỉ bị Avengers: Endgame vượt mặt vào năm 2019 sau suốt 10 năm thống trị bảng vàng.            

Avatar 3 dự kiến sẽ ra mắt vào năm 2025, tiếp tục hứa hẹn mang đến những thành tích khủng trong tương lai. 

James Cameron

Inception (2010)

Hầu như những bộ phim của đạo diễn Christopher Nolan đều có các yếu tố như: du hành thời gian, tìm hiểu bản chất thế giới… khiến người xem vừa rối não lẫn rối lòng. Và Inception chính là một tác phẩm hội tụ đủ các yếu tố làm nên thương hiệu Nolan, trở thành một tượng đài khó quên trong lòng người hâm mộ.

Inception là một trải nghiệm điện ảnh đáng nhớ khi Nolan cố gắng hình tượng hóa kiến trúc tư duy của con người, biến tiềm thức trở thành không gian vật lí cho các hoạt động đánh cắp được diễn ra. Bộ phim kể về một tên trộm có khả năng đi vào giấc mơ của người khác. Dom Cobb không trộm gì cả, anh chỉ trộm ý niệm. Bằng việc thâm nhập vào tiềm thức của đối tượng, anh có thể lấy thông tin mà đến cả những tay hacker sừng sỏ nhất cũng không thể làm được. Trong thế giới điệp viên, Cobb là vũ khí tối thượng. Nhưng kể cả vũ khí cũng có nhược điểm, khi Cobb gần như mất tất cả mọi thứ, anh được giao một nhiệm vụ cuối cùng để chuộc lỗi. Lần này, Cobb không gặt lấy ý niệm, anh gieo nó. Liệu anh và đồng đội có thành công?

Christopher Nolan

Inception có một kịch bản hoàn hảo, từng thế giới giấc mơ xuất hiện trong phim vừa chính xác, tinh tế, đôi khi lại hài hước. Thời gian là chủ đề yêu thích của Nolan và ông luôn tìm được cách thể nghiệm thú vị, có thể thấy rõ điều này qua cả phim InterstellarDunkirk. Nhưng trong Inception, thời gian không chỉ là chủ đề mà còn là công cụ kể chuyện khi tái hiện lại hoàn hảo nỗi ám ảnh của kẻ cắp giấc mơ. Từ đó, bộ phim đặt ra nhiều câu hỏi hóc búa: liệu rằng ta có đang sống trong thời gian thực, khi nào thì một giấc mơ trở thành thực tế, khi nào thì thực tế hóa ra lại chỉ là một giấc mơ, ta đang thức hay còn mơ?

Thông qua Inception, Nolan lồng ghép rất nhiều khái niệm về sự logic giấc mơ, đảo ngược các nguyên tắc vật lí, cho thấy những thực tại có thể vỡ vụn ra sao… Tất cả hòa quyện vào nhau, tạo thành một tác phẩm sci-fi tâm lí đỉnh cao mà có lẽ nhiều thập kỉ sau, vẫn còn khiến người ta trầm trồ.

Hoàng Đức Nhiên

Đọc bài viết

Cafe sáng