Trà chiều

Một góc nhìn chính trị về Giải Nobel Văn chương 2019

Giải Nobel Văn học 2018 và 2019 – trao cho Olga Tokarczuk và Peter Handke – được công bố cùng thời điểm, nguyên nhân vì kết quả năm ngoái bị trì hoãn bởi vụ scandal liên quan đến người chồng của một thành viên viện hàn lâm.

Published

on

Trong hơn một thế kỷ qua, Giải Nobel Văn chương vốn dĩ luôn là màn trình diễn gây tranh cãi, khi phía phê bình chỉ trích những người nhận giải là quá ít tiếng tăm, quá Âu hóa, quá trọng nam, quá thử nghiệm, hay đơn giản chỉ là không xứng đáng với vinh dự bậc nhất trong giới văn chương. Và thứ Năm vừa rồi, Nobel đã đặt chân vào vũng bùn lầy lội hoàn toàn mới khi trao giải cho một nhà văn khuynh-hướng-cánh-tả, Peter Handke, người đã đứng lên phát biểu một bài ca ngợi tại tang lễ của Slobodan Milosevic1, cựu lãnh đạo Nam Tư, người từng hầu tòa vì tội ác chiến tranh.

Năm nay đáng nhẽ phải là cú tái khởi động của Ủy ban Nobel, sau vụ scandal khó coi dính líu đến bạo hành tình dục và sai lầm tài chính, buộc Ủy ban Nobel phải trì hoãn Giải Nobel Văn chương 2018. Năm nay, Viện hàn lâm Thụy Điển đối diện với những kỳ vọng lớn lao và áp lực mạnh mẽ, bởi họ đã hứa hẹn sẽ trao không chỉ một mà đến hai giải thưởng.

Bên cạnh Handke – người nhận Giải Nobel 2019 vào thứ Năm, tiểu thuyết gia Olga Tokarczuk cũng nhận Giải Nobel 2018. Cả hai nhà văn đều đến từ Trung Âu, đều nổi tiếng bởi những quan điểm chính trị bộc trực và thỉnh thoảng trái chiều. Nhưng chính giải thưởng dành cho Handke mới là yếu tố khai hỏa những phản ứng dữ dội, trong đó có lời khiển trách hiếm hoi từ một tổ chức văn học khác, PEN America.

Chủ tịch PEN America, tiểu thuyết gia Jennifer Egan phát biểu trong một tuyên ngôn đại diện cho tổ chức: “Chúng tôi chết lặng trước sự lựa chọn một nhà văn, người đã sử dụng phát ngôn công chúng của mình để đục khoét lịch sử và công khai gửi cứu trợ đến những kẻ gây ra tội ác diệt chủng, như cựu Tổng thống Serbia Slobodan Milosevic và thủ lĩnh Bosnian Serb Radovan Karadzic. Ngay tại thời điểm mà chủ nghĩa dân tộc và lãnh đạo chuyên quyền đang trỗi dậy, những thông tin đánh lạc hướng lan rộng khắp thế giới, cộng đồng văn học xứng đáng nhiều hơn là quyết định này. Chúng tôi hối tiếc sâu sắc lựa chọn của Ủy ban Nobel trong lĩnh vực Văn chương.”

Khi được hỏi về quyết định của viện hàn lâm liên quan đến Handke, Mats Malm – thành viên và thư ký thường trực của viện – phát biểu quyết định này dựa trên những lập trường văn chương và thẩm mỹ, bổ sung rằng: “Tôn chỉ của Viện hàn lâm không phải là cân bằng giữa chất lượng văn chương và những cân nhắc chính trị.”

Trong khi giải thưởng của Handke bị một số phe phái lên án, rất nhiều người trong giới văn chương đã hân hoan chúc mừng Tokarczuk, một tiểu thuyết gia và nhà thơ thử nghiệm từ Ba Lan, người được cả độc giả và giới phê bình yêu quý.

Handke đến từ nước Áo, mẹ ông là người Slovenia. Ông có quan điểm tán thành chủ nghĩa dân tộc và đã công khai bày tỏ hoài nghi về vụ tàn sát người Hồi giáo trong Chiến tranh Balkan. Tokarczuk là người thường xuyên phê bình thành viên chủ nghĩa dân tộc cánh-tả tại Ba Lan, những người đã quy kết bà là kẻ phản bội. Chủ biên người Ba Lan của bà đã từng phải thuê vệ sĩ để bảo vệ bà.

Một số tác gia xuất chúng khác, trong số đó có Hari Kunzru và Salman Rushdie, cũng phê bình quyết định lựa chọn Handke, người từ chối mọi liên hệ thông qua chủ biên người Mỹ. Về phần Tokarczuk, bà có vẻ chẳng mấy bận tâm. Trong một cuộc phỏng vấn với tờ báo Ba Lan Gazeta Wyborcza vào thứ Năm, Tokarczuk nói bà rất vui khi nhận giải Nobel cùng với Handke. “Tôi cũng rất vui khi Peter Handke nhận giải cùng tôi, tôi rất coi trọng ông ấy. Thật tuyệt vì Viện hàn lâm Thụy Điển đã đánh giá cao văn học Trung Âu. Tôi mừng là chúng tôi vẫn còn bám trụ được.”

Qua việc trao giải cho hai nhà văn châu Âu danh tiếng, viện hàn lâm dường như đã phớt lờ những lời chỉ trích trong quá khứ rằng giải thưởng đã trở nên quá Tây phương và trọng Âu châu. Kể từ giải thưởng đầu tiên được trao vào năm 1901, phần lớn người thắng cuộc là người châu Âu và những tác giả nói ngôn ngữ Anh. Trong lịch sử, phụ nữ cũng không được đại diện đúng mực. Trong số 116 người chiến thắng Giải Nobel Văn học, Tokarczuk là người phụ nữ thứ 15.

Một số người theo dõi văn chương đã trông chờ rằng năm nay, viện hàn lâm sẽ lựa chọn ít nhất một nhà văn không phải người châu Âu; có lẽ sẽ trao giải cho những cái tên phổ biến, trong số đó là tiểu thuyết gia người Kenya Ngũgĩ wa Thiong’o, nhà văn Trung Quốc Tàn Tuyết và nhà thơ người Syria Adunis.

Trong một phát biểu thực hiện năm nay, Anders Olsson, người dẫn dắt ủy ban văn học của viện hàn lâm, thừa nhận rằng tính đa dạng hẳn nên trở thành một ưu tiên và ngụ ý ủy ban sẽ cân nhắc việc đa dạng hóa về mặt địa lý và giới tính khi đưa ra lựa chọn của mình.

“Thời gian trước đây, chúng ta đã có, hẳn nên nói là, một quan điểm văn chương hướng về phương Tây, và giờ chúng ta đã phổ cập cái nhìn của mình ra toàn thế giới,” ông nói trong một bài phỏng vấn video. “Thời gian trước đây, chúng ta đã quá trọng-nam-giới. Hiện nay chúng ta đã có rất nhiều nữ nhà văn thật sự xuất sắc, vì thế giải thưởng và cả quá trình liên quan đến giải thưởng càng trở nên căng thẳng với quy mô rộng lớn hơn.”

Viện hàn lâm đã trì hoãn giải thưởng năm ngoái vì scandal liên quan đến người chồng của một thành viên viện – người bị kết tội cưỡng hiếp và rò rỉ tên của những người chiến thắng. Đây là cuộc khủng hoảng dẫn đến sự ra đi của thành viên ban quản trị và đòi hỏi đến sự can thiệp từ nhà vua Thụy Điển. Sau scandal, viện hàn lâm đã đưa ra nhiều điều chỉnh trong tổ chức, bao gồm việc bổ nhiệm năm cố vấn độc lập để bình chọn người xứng đáng.

Thậm chí, một nhóm những nhân vật có tầm ảnh hưởng văn hóa tại Thụy Điển đã thiết lập một giải thưởng thay thế, the New Academy Prize (tạm dịch Giải Tân Hàn Lâm) để lấp đầy khoảng trống và chứng minh rằng việc tìm kiếm người chiến thắng có thể được thực hiện theo phong cách công khai, đối lập với sự vận hành trong bóng tối của viện hàn lâm. Người chiến thắng được họ lựa chọn là Maryse Conde, nhà văn chuyên viết tiểu thuyết lịch sử từ Guadeloupe.

Về Peter Handke

Handke sinh năm 1942 tại miền nam nước Áo. Cả cha đẻ và cha dượng ông đều phục vụ trong quân đội Đức Wehrmacht. Sau khi mẹ ông tự tử vào năm 1971, Handke thi thoảng sẽ viếng thăm Nam Tư. Phần lớn tuổi thơ ông trải qua tại một Berlin sứt sẹo sau chiến tranh và sau đó, ông học luật tại Đại học Graz. Ông bỏ học năm 1965, sau khi tiểu thuyết đầu tay The Hornets (tạm dịch Những con ong bắp cày) được một chủ biên nhận in. Hiện nay, thành tựu của ông bao gồm tiểu thuyết, luận văn, kịch bản và những tác phẩm kịch khác. Ông hiện sống tại Chaville, vùng ngoại ô Paris kể từ năm 1990.

Peter Handke được vinh danh bởi “công trình có sức ảnh hưởng lớn cùng tài nghệ ngôn ngữ khéo léo để khám phá vùng ngoại biên và đặc trưng riêng biệt của trải nghiệm loài người.”

Những nhà phê bình văn học đã mô tả công trình của ông là avant-garde2, nhưng Handke phủ nhận cái nhãn ấy, tự nhìn nhận mình là một “nhà văn cổ điển bảo thủ.”

Những tác phẩm mà ông dành nhiều thập kỉ để viết, xuất bản lần đầu tại Đức bao gồm A Sorrow Beyond Dreams (tạm dịch Nỗi buồn hơn cả những giấc mơ), tiểu thuyết ngắn dựa trên cái chết của mẹ ông đã nhận được sự hoan nghênh từ giới phê mình. Khi bình tác phẩm trên tờ The New York Times năm 1975, Michael Wood gọi đây là “lễ truy điệu hoành tráng dành cho những sinh mệnh Đức và Áo bị chôn vùi” và “bài viết xuất sắc nhất mà tôi từng được đọc trong nhiều năm.”

Tuy nhiên, tình bạn giữa Handke và Slobodan Milosevic cùng lời bình luận của ông – dường như giảm thiểu sức nặng của những vụ thảm sát người Hồi giáo Bosnia tại Serbia – dẫn đến việc ông bị lên án. Trong một cuộc phỏng vấn năm 2006, ông nói về Milosevic: “Tôi nghĩ ông ấy là một người đàn ông bi kịch. Không phải là anh hùng, chỉ là một con người bi kịch thôi. Tôi là nhà văn, không phải là thẩm phán.”

Cũng trong cuộc phỏng vấn này, ông nói mình không hề trông đợi việc nhận Giải Nobel, nguyên nhân đến từ chính vụ tranh cãi này. “Khi tôi còn trẻ hơn thì tôi đã để tâm đấy. Nhưng hiện nay tôi nghĩ là tất cả đã chấm hết sau những lời bình luận về vụ Nam Tư rồi.”

Trong năm ấy, ông được lựa chọn là người chiến thắng giải thưởng danh giá của Đức – Giải Heinrich Heine, nhưng quyết định đã bị thu hồi giữa những phẫn nộ từ phía công chúng. Đáp lại cơn thịnh nộ này, Handke khẳng định rằng ông chưa bao giờ phủ định hoặc giảm thiểu những cuộc thảm sát tại Nam Tư. Khi Handke nhận Giải International Ibsen năm 2014, ông phải đối mặt với những người chống đối ngay tại lễ trao giải.

Tại Mỹ, Farrar, Straus và Giroux đã xuất bản những bản dịch của Handke từ năm 1970, bắt đầu với tuyển tập Kaspar and Other Plays (tạm dịch Kaspar và những vở kịch khác), theo sau đó là tiểu thuyết The Goalie’s Anxiety at the Penalty Kick (tạm dịch Mối lo âu của thủ môn trước những cú đá penalty). Kể từ đó, FSG đã phát hành hơn 15 cuốn sách được viết bởi Handke.

“Handke là một trong những người chú trọng văn phong, tạo nên những vần văn tuyệt vời nhất ở Đức, người đã dành cả sự nghiệp của mình để thám hiểm cả thế giới tự nhiên và thế giới của ý thức con người với sự chính xác tinh xảo, sự hóm hỉnh và đầy dũng khí,” chủ tịch của FSG, Jonathan Galassi phát biểu.

Về Olga Takarczuk   

Tokarczuk sinh năm 1962 tại Sulechow, Ba Lan, là con gái của hai giáo viên. Cha của bà cũng là thủ thư trường, và chính trong thư viện, Tokarczuk đã tìm thấy tình yêu văn chương, ngấu nghiến hết cuốn sách này đến cuốn sách khác.

Nhà văn Ba Lan Olga Tokarczuk nhận Giải Nobel Văn chương 2018 “vì khả năng sáng tạo lối tường thuật, cùng sự say mê tường tận, đại diện cho việc băng qua những ranh giới như một hình thức sự sống.”

Bà theo học chuyên ngành tâm lý tại Đại học Warsaw, sau đó từng làm việc như một nhà tâm lý học trị liệu nhưng cảm thấy mình không phù hợp với công việc. Bà ghi nhận trong một bài phỏng vấn rằng bà từ bỏ công việc sau khi nhận ra bà “còn loạn thần kinh hơn cả bệnh nhân của mình.”

Tokarczuk xuất bản cuốn sách đầu tiên, một tập thơ năm 1989. Năm 1993, bà giành được rất nhiều lời khen ngợi khi xuất bản tiểu thuyết đầu tiên The Journey of the Book-People (tạm dịch Cuộc du hành của Người-Sách), một câu chuyện hư cấu kể về những nhân vật đang kiếm tìm một cuốn sách bí ẩn ở Pyrenees, lấy bối cạnh tại Pháp và Tây Ban Nha thế kỷ 17. Cuốn sách được trao Giải Polish Publisher’s cho tiểu thuyết đầu tay.

Nhưng bước đột phá thật sự của bà được cho là tiểu thuyết thứ ba Prawiek i inne czasy, hay Primeval and Other Times (tạm dịch Thời nguyên sinh và những thời đại khác). Xuất bản lần đầu năm 1996, cuốn sách kể về câu chuyện ba thế hệ của một gia đình người Ba Lan, từ 1914 đến khởi nguyên của kỳ Đại Đồng năm 1980.

Năm 2018, bà trở thành tác giả Ba Lan đầu tiên đoạt Giải Man Booker International với tiểu thuyết Flights (tạm dịch Những chuyến bay), do Jennifer Croft dịch và được Riverhead xuất bản tại Hoa Kỳ. Croft bình luận, “Tác phẩm của bà vừa phổ thông vừa rất Ba Lan.” Là một sê-ri 116 mẩu truyện ngắn về những nhân vật đang trên đường lưu chuyển hoặc ly hương, cuốn sách được khen ngợi là một liều thuốc văn chương, giải độc cho sự cô lập văn hóa, chủ nghĩa bài ngoại và chủ nghĩa dân tộc.

Tokarczuk viết, “Tính lưu động, tính di động và cảm giác viễn vông – đó là những phẩm chất khiến chúng ta trở nên văn minh. Người man rợ không du ngoạn. Họ đơn giản chỉ đi từ địa điểm này sang địa điểm khác hoặc thực hiện những cuộc cướp bóc.”

Trong một cuộc phỏng vấn với tờ The Times, Tokarczuk nói rằng bà đặt bút viết cuốn tiểu thuyết này từ hơn một thập kỷ trước, ngay trước vụ Brexit và những phong trào chủ nghĩa dân tộc diễn ra khắp châu Âu. “Tôi viết cuốn sách này khi thế giới hướng về việc mở rộng vòng tay với tất cả mọi người. Hiện nay, chúng ta lại chứng kiến Liên Minh Châu Âu có lẽ sẽ bị suy yếu dần bởi nhiều chính sách từ những quốc gia như Ba Lan và Hungary, một lần nữa tập trung vào biên giới của họ.”

Bà đồng thời nhắc đến chính sách nhập cư càng ngày càng khắt khe tại Mỹ. “Mười hai năm trước đây, không hề có ai đề cập đến cái ý tưởng xây tường hay ranh giới – cái ý tưởng đầu tiên được thực hiện bởi chế độ độc tài. Vào thời điểm bấy giờ, tôi phải thừa nhận rằng mình đã dám chắc chúng ta đã đi qua cái thời của chủ nghĩa chuyên chế rồi.”

Tại Ba Lan, Tokarczuk là nhân vật có sức ảnh hưởng với tính cách thẳng thắn, được biết đến bởi quan điểm chính trị đối lập với đảng Luật lệ và Công Lý cánh hữu. Bà gặp phải với nhiều lời chỉ trích sau khi xuất bản The Books of Jacob (tạm dịch Những cuốn sách của Jacob), lấy bối cảnh thế kỷ 18 tại Ba Lan, ủng hộ sự đa dạng văn hóa, và đạt giải thưởng văn học hàng đầu tại Ba Lan – Giải Nike năm 2015. Mặc dù được độc giả và nhà phê bình đón nhận, tiểu thuyết đã thu hút nhiều lời lên án sắc bén từ những nhóm chủ nghĩa đế quốc, và Tokarczuk phải chịu đựng những chiến dịch quấy rối, những lời dọa giết và kêu gọi trục xuất. Vào tháng Một, bà thực hiện một bài viết quan điểm trên tờ Times bàn về tình trạng của quốc gia sau vụ mưu sát một vị thị trưởng dẫn đầu đảng Tự do. “Tôi lo lắng về tương lai gần của chúng ta.”

Trong tháng này, khi được hỏi về các tác phẩm của Tokarczuk, Piotr Glinski – bộ trưởng bộ văn hóa Ba Lan – đáp rằng ông đã thử đọc nhưng chưa bao giờ kết thúc bất cứ cuốn sách nào của bà. Vào thứ Năm, Glinski đã chúc mừng Tokarczuk. “Đây là bằng chứng rằng văn hóa Ba Lan được toàn thế giới coi trọng,” ông viết trên Twitter. Donald Tusk, chủ tịch Hội đồng Châu Âu và cựu thủ tướng Ba Lan, cũng đưa ra lời chúc mừng trong một tweet. Ông bổ sung rằng, ông đã đọc xong hết tất cả những cuốn sách của bà.

Nobel văn chương từng gặp phải những scandal nào khác?

Một số người lúc nào cũng gièm pha về người nhận giải, hoặc ít nhất phán xét những người này không hợp với gu thưởng thức của họ. Năm 2016, khi Bob Dylan3 chiến thắng, ông là nhạc sĩ đầu tiên có vinh dự này. Giải thưởng của ông đã kéo theo hàng tuần tranh luận rằng liệu một người viết nhạc có nên đạt giải thưởng văn học không. Tiểu thuyết gia Jodi Picoult viết trên Twitter: “Tôi rất mừng cho Bob Dylan, #NhưngLiệuĐiềuNàyCóNghĩaLàTôiCóThểĐạtGiảiGrammy?”

Giải thưởng trong năm tiếp theo là một sự lựa chọn truyền thống hơn, được trao cho Kazuo Ishiguro, nhà văn Anh được biết đến với tiểu thuyết The Remains of the Day (Tạm dịch Tàn dư của ngày), kể về một quản gia phục vụ Lãnh chúa Anh trong những năm trước Thế chiến thứ II.

Hết.

Mèo Heo dịch từ The New York Times.

Chú thích:

  1. Slobodan Milosevic là Tổng thống Serbia (1989 – 1997) và Tổng thống Cộng hòa Liên bang Nam Từ (1997 – 2000). Sau Chiến tranh Kosovo năm 1999, ông bị khối quân sự NATO do Mỹ dẫn đầu lật đổ và bị buộc tội diệt chủng tại tòa án xử các tội phạm chiến tranh. Theo cáo buộc của phương Tây, ông đã tham gia tích cực vào việc thảm sát nhiều thường dân ở Sarajevo và Sebrenica. Phải đến năm 2015, tòa án quốc tế mới tuyên bố không có đủ chứng cứ để kết tội ông, nhưng khi đó ông đã mất gần 10 năm.
  2. Avant-garde là phong cách thử nghiệm, đột phá hoặc không chính thống áp dụng trong nghệ thuật, văn hóa và xã hội. Những đặc trưng cơ bản của nó là phi truyền thống, cách tân thẩm mỹ cùng sự phản đối ban đầu, thậm chí nó có thể đưa ra những lời phê bình trong mối quan hệ giữa người sản xuất và người tiêu dùng. Avant-garde tranh đấu với giới hạn thông thường về quy chuẩn hoặc nguyên trạng.
  3. Bob Dylan là ca sĩ, nhạc sĩ, diễn viên, họa sĩ, nhà văn và nhà biên kịch người Mỹ. Ông là một trong những nghệ sĩ có ảnh hưởng nhất tới nền âm nhạc nói riêng và văn hóa thế giới nói chung trong suốt năm thập kỷ trở lại đây.

Trà chiều

Thế giới viễn tưởng độc đáo trong bốn bộ phim mang đậm tính thể nghiệm

Published

on

Thế giới của phim khoa học viễn tưởng không phải lúc nào cũng chỉ có AI, robot, hay du hành không gian mà còn vô vàn những điều đặc biệt khác có thể bạn chưa biết.

Năm 2023 vừa qua đã ghi nhận sự phát triển ngày càng mạnh mẽ của AI. Điều đó khiến cho dòng phim khoa học viễn tưởng nhận được nhiều sự quan tâm trở lại. Nhắc đến dòng phim này, người ta vẫn thường đóng khung nó với vài yếu tố tiêu biểu thường gặp như: AI, robot, du hành vũ trụ, thế giới song song… Tuy nhiên, có rất nhiều tác phẩm sci-fi kinh điển đã chứng minh điều ngược lại.

Hãy cùng Bookish khám phá những bộ phim sci-fi không thuần túy là sci-fi vì ở đó, người xem được tận hưởng bữa tiệc điện ảnh đỉnh cao với những hương vị hòa quyện mĩ mãn từ nhiều thể loại khác nhau.

Back to The Future (1985)

Sci-fi x Road Trip Comedies

Cùng với The Terminator, Back To The Future ra đời năm 1985 đã trở thành biểu tượng kinh điển của dòng phim sci-fi lấy chủ đề du hành thời gian. Đó cũng là một trong những nguyên nhân mà bộ phim này được nhắc đến nhiều lần trong Avengers: Endgame lúc cả nhóm quyết định quay về quá khứ.

Tuy nhiên, không giống như The Terminator, Back To The Future mang màu sắc vui nhộn, hài hước của lứa tuổi học trò. Cậu học sinh tuổi teen Marty McFly ở thập niên 80 vô tình bị kéo về quá khứ trên chiếc xe cỗ máy thời gian của nhà khoa học Emmett Brown. Cậu quay trở về thập niên 50 – lúc này bố mẹ cậu cũng ở lứa tuổi học trò như cậu. Để có thể quay về hiện tại năm 80, cậu phải tìm cách hàn gắn mối quan hệ của bố mẹ, nếu không bản thân cậu cũng sẽ không tồn tại ở năm 80. Từ đó, câu chuyện nảy sinh nhiều tình huống dở khóc dở cuối. Nếu như The Terminator là sự phối trộn hoàn hảo giữa thể loại sci-fi và hành động thì Back To The Future lại là màn kết hợp ăn ý giữa thể loại sci-fi và hài hành trình. Bộ phim tốn kinh phí thực hiện là 19 triệu USD nhưng lại có doanh thu phòng vé lên đến 388 triệu USD. Chính vì thành công này mà đạo diễn Robert Zemeckis đã thực hiện hai phần tiếp theo cũng vui nhộn không kém.

Snowpiercer (2013)

Sci-fi x Dystopia

Bong Joon Ho không chỉ tạo ra những bộ phim sâu sắc về đề tài xã hội mà ông còn có khả năng làm phim khoa học viễn tưởng rất chặt chẽ, thuyết phục. Điều này thể hiện rõ nhất qua Snowpiercer. Phim dựa trên tiểu thuyết Pháp Le Transperceneige lấy đề tài hậu tận thế. Trong tương lai, sau một thí nghiệm thất bại, khí hậu toàn cầu biến đổi dẫn đến gần như toàn bộ sinh vật đều bị diệt vong, ngoại trừ một số người may mắn có mặt trên con tàu Snowpiercer chạy vòng quanh Trái đất với động cơ vĩnh cửu. Tại đây, một xã hội thu nhỏ mới lại được hình thành. Dưới bàn tay tài hoa của Bong Joon Ho, Snowpiercer cũng không đơn giản là tác phẩm sci-fi thuần túy mà ông còn lồng ghép vào nhiều thể loại khác nhau: có những phân đoạn hành động mãn nhãn, đồng thời cũng có những phân đoạn dí dỏm, và cách đặt vấn đề về giai tầng xã hội vẫn mang phong cách rất đặc trưng của Bong. 

Eternal Sunshine Of The Spotless Mind (2004)

Sci-fi x Romance

Sẽ như thế nào nếu kết hợp thể loại sci-fi với phim tình cảm? Khi đó, chúng ta sẽ có kiệt tác Eternal Sunshine Of The Spotless Mind của bộ đôi đạo diễn Michel Gondry và biên kịch Charlie Kaufman. Bộ phim sử dụng đề tài “can thiệp kí ức” để khám phá bản năng con người khi tình yêu tan vỡ. Sẽ ra sao nếu khi chia tay một ai đó, bạn có thể xóa toàn bộ những kí ức vui buồn liên quan đến họ ra khỏi tâm trí? Sau khi Joel biết được Clementine – người yêu cũ của anh đã xóa kí ức tình yêu, anh quyết định bản thân mình cũng sẽ thực hiện việc này. Nhưng khi anh khám phá được điều gì đã khiến họ gắn kết rồi lại chia xa, anh nhận ra mình vẫn còn tình cảm dành cho cô. Nếu như công nghệ trong phim là thứ hư cấu thì cảm xúc giữa hai nhân vật trong Eternal Sunshine hoàn toàn chân thực, lay động trái tim người xem, khiến ai cũng phải thổn thức.

Under The Skin (2013)

Sci-fi x Experimental film

Cuối cùng, không thể không nhắc đến bộ phim sci-fi mang tính thể nghiệm, tiên phong đáng nhớ: Under The Skin. Có rất nhiều phim lấy đề tài sinh vật ngoài hành tinh xâm nhập Trái đất, nhưng có lẽ chưa bộ phim nào kể câu chuyện thật đặc biệt nhưng lại với nhịp điệu từ tốn như Under The Skin. Scarlett Johansson trong vai sinh vật ngoài hành tinh vô danh chỉ làm đúng một công việc là đi lang thang trên một chiếc xe tải, lựa chọn những người đàn ông cô đơn làm con mồi. Bộ phim rất kiệm lời thoại, khiến người xem rợn người không chỉ bởi những hình ảnh thị giác lạ mắt mà còn bởi thứ âm nhạc cũng đầy tính thể nghiệm độc đáo của Mica Levi. Tuy nhiên, nếu chỉ tập trung vào thể nghiệm mà bỏ qua nội dung, Under The Skin đã không gây được tiếng vang lớn như thế trong cộng đồng điện ảnh. Sau tất cả, bộ phim của đạo diễn Jonathan Glazer lại khiến người xem trăn trở nhiều về thân phận làm người.

Hoàng Đức Nhiên

Đọc bài viết

Trà chiều

The Terminator & Blade Runner: Hai tượng đài điện ảnh độc đáo của thập niên 80

Published

on

Cùng ra mắt vào thập niên 80, The Terminator (1984) và Blade Runner (1982) đều là hai kiệt tác điện ảnh độc đáo, góp phần rất lớn trong việc tạo ra diện mạo mới cho thể loại sci-fi.

Bài viết này sẽ dẫn dắt bạn khám phá những vấn đề khác nhau được đặt ra trong hai phim: từ những dòng suy tư về mối liên hệ nhân quả giữa hành động và thời gian trong The Terminator đến không gian đô thị đậm chất noir và những truy vấn về bản chất con người trong Blade Runner.

The Terminator (1984)

The Terminator là bước đột phá ngoạn mục trong sự nghiệp điện ảnh của đạo diễn James Cameron. Vào thời điểm ra mắt, bộ phim gây ấn tượng bởi việc pha trộn nhiều đặc tính giữa các thể loại khác nhau, mang đến màu sắc mới cho dòng phim sci-fi.

The Terminator kể câu chuyện về một người máy sát thủ ra đời năm 2029, được trao nhiệm vụ quay về năm 1984 để giết người phụ nữ trẻ tên là Sarah Connor. Sarah hoàn toàn không biết rằng cuộc đời cô có ảnh hưởng đáng kể đến số phận nhân loại và cô có thể chết bất cứ lúc nào dưới sự truy sát của cỗ máy bất khả chiến bại được gọi là Kẻ Hủy Diệt. Kyle Reese cũng đến từ tương lai nhưng nhiệm vụ của anh là bảo vệ Sarah – người mẹ của thủ lĩnh tương lai.

Với cốt truyện như thế, The Terminator vừa có những pha hành động mãn nhãn, vừa có nhiều tầng suy tư phức tạp về dòng chảy của thời gian, về phương thức thay đổi một sự kiện trong quá khứ có thể dẫn đến tương lai khác biệt hoàn toàn – đây vốn là chủ đề hiếm gặp trong phim hành động ở giai đoạn đó. Ngoài ra, những bản nhạc nền tạo không khí căng thẳng của nhạc sĩ Brad Fiedel cũng góp phần lớn vào thành công của phim.

Tất cả những nhân tố đó đã khiến phim trở thành một mảnh ghép quan trọng của văn hóa đại chúng đến tận ngày nay. Câu nói “I'll be back” của nhân vật Kẻ Hủy Diệt trong phim được sử dụng phổ biến, trở thành slogan thương hiện cho chính Arnold Schwarzenegger.

Từ năm 1984 đến nay, The Terminator đã sản xuất 6 phần phim: The Terminator (1984), Terminator 2: Judgment Day (1991), Terminator 3: Rise of the Machines (2003), Terminator Salvation (2009), Terminator Genisys (2015), Terminator: Dark Fate (2019). Tất cả những phần phim này đều đạt được doanh thu khủng, riêng phần đầu tiên The Terminator đã trụ vững ở vị trí số 1 trên bảng xếp hạng phòng vé ở Mỹ trong suốt hai tuần. Năm 2008, The Terminator đã được Thư viện Quốc hội Hoa Kỳ đưa vào Viện lưu trữ phim quốc gia để bảo tồn với lí do là bộ phim “nổi bật ở phương diện văn hóa, lịch sử, và mĩ học”.                          

Blade Runner (1982)

Không may mắn như The Terminator, Blade Runner của đạo diễn Ridley Scott là một tuyệt tác có số phận khá hẩm hiu khi vừa ra đời. Tuy nhiên, qua nhiều thập kỉ với những bản dựng khác nhau, tác phẩm này đã trở thành một tượng đài lớn của thể loại sci-fi.

Dựa trên tiểu thuyết gốc Do Androids Dream Of Electric Sheep? của nhà văn Philip K. Dick, Blade Runner vẽ nên viễn cảnh ảm đạm của thế giới vào năm 2019. Khi đó, thế giới tràn ngập những replicant – người máy có hình dạng giống con người, được tạo ra với vòng đời ngắn ngủi để làm những công việc nguy hiểm phục vụ cho con người. Một nhóm replicant bất mãn trước việc này đã làm một cuộc phản loạn, quay trở về Trái Đất và giết con người. Rick Deckard, một cảnh sát đã nghỉ hưu ở Los Angeles nhận nhiệm vụ phải truy lùng và tận diệt toàn bộ nhóm replicant nổi loạn này.

Blade Runner là sự pha trộn giữa sci-fi, trinh thám và phim noir – thể loại phim hình sự tội phạm mang đậm phong cách Hollywood, thường thể hiện thái độ hoài nghi, mỉa mai. Thông qua hành trình của Rick Deckard, bộ phim đặt ra nhiều câu hỏi triết học về tính người, thế nào là một con người.

Nhưng không chỉ sâu sắc về nội dung, Blade Runner còn là bữa tiệc chiêu đãi về thị giác qua cách bộ phim thể hiện không gian đô thị tương lai với những màn hình quảng cáo lớn, đèn neon luôn lấp lánh và đường phố lúc nào cũng nhộn nhịp. Cảm hứng thị giác của phim kết hợp từ những bức tranh cổ điển của danh họa Edward Hopper và các khu phố với những tòa nhà chọc trời ở Hong Kong. Sự kết hợp này đã tạo nên không gian thị giác ấn tượng của phim khi con người bị nhấn chìm trong công nghệ. Mĩ thuật của phim tạo ảnh hưởng lớn đến cách xây dựng không gian cho những phim sci-fi hay hành động của Hollywood ra đời sau đó như: The Matrix (1999), bộ ba Dark Knight (2005 – 2012) của đạo diễn Christopher Nolan, Ghost in the Shell (2017)…

Ngày nay, Blade Runner đã có một chỗ đứng không thể thay thế trong dòng phim sci-fi với nhiều ảnh hưởng mang tính định hình về mĩ thuật, tư duy về cách kể chuyện và nhân vật. Blade Runner 2049 – phần tiếp theo của phim ra đời vào năm 2017, đúng 35 năm kể từ phần đầu tiên đã không làm người hâm mộ thất vọng với điểm số trên Rotten Tomatoes lên đến 88%.

Hoàng Đức Nhiên

Đọc bài viết

Trà chiều

Hai tác phẩm định hình dấu ấn cá nhân của đạo diễn James Cameron và Christopher Nolan

Published

on

Đạo diễn James Cameron và đạo diễn Christopher Nolan đều là những cá nhân kiệt xuất trong ngành điện ảnh với nhiều bộ phim kinh điển vừa đạt được doanh thu khủng, vừa có giá trị nghệ thuật cao.

Tuy nhiên, khi nhắc đến hai vị đạo diễn tài danh này, có hai tác phẩm đặc biệt mà người hâm mộ điện ảnh không thể nào bỏ lỡ.Hãy cùng Bookish khám phá những dấu ấn đặc trưng cá nhân của đạo diễn James Cameron trong Avatar và của đạo diễn Christopher Nolan trong Inception.  

Avatar (2009)

Năm 2009, bộ phim sci-fi Avatar của đạo diễn James Cameron ra đời đã tạo nên bước ngoặt lớn cho sự phát triển công nghệ điện ảnh. Lần đầu tiên, cả thế giới được xem một bộ phim 3D. Kĩ thuật thị giác đột phá đã khiến trải nghiệm của phim cực kì sống động.

Vào năm 2154, nguồn tài nguyên Trái đất trở nên cạn kiệt dưới sự khai thác của con người dẫn đến khủng hoảng năng lượng. Lúc bấy giờ, tập đoàn RDA đang khai thác unobtanium – một loại khoáng sản có giá trị tại Pandora, một hành tinh tươi tốt mang sự sống giống Trái Đất nhưng lại có bầu khí quyển độc hại cho con người. Pandora là nơi sinh sống của người Na'vi da xanh, có hình dáng và trí óc giống con người. Để tìm hiểu về người Navi và sinh quyển ở Pandora, các nhà khoa học sử dụng cơ thể người lai Na’vi gọi là các Avatar, được hoạt động thông qua liên kết thần kinh với những người có kiểu gen phù hợp. Jake Sully là một cựu lính thủy quân được giao nhiệm vụ trà trộn vào hành tinh Pandora. Quá trình thực hiện nhiệm vụ đã khiến anh bị giằng xé giữa việc tuân theo mệnh lệnh hay bảo vệ xứ sở mà anh đã trót xem là quê nhà.

Đạo diễn James Cameron đã mất đến 15 năm để thực hiện Avatar từ lúc bộ phimcòn là ý tưởng năm 1994 cho đến khi ra đời năm 2009. Sở dĩ bộ phim mất nhiều thời gian như vậy là do Cameron không chỉ trau chuốt về mặt nghệ thuật mà còn cả kĩ thuật: từ công đoạn làm việc với chuyên gia ngôn ngữ để tạo ra tiếng Na’vi với hơn 1000 từ, cho đến việc tạo ra kĩ thuật 3D. Sự kì công này khiến Avatar chiều lòng được cả khán giả đại chúng lẫn giới hàn lâm. Avatar luônđứng đầu danh sách phim ăn khách nhất mọi thời đại với doanh thu lên đến 2,7 tỉ USD, và chỉ bị Avengers: Endgame vượt mặt vào năm 2019 sau suốt 10 năm thống trị bảng vàng.            

Avatar 3 dự kiến sẽ ra mắt vào năm 2025, tiếp tục hứa hẹn mang đến những thành tích khủng trong tương lai. 

James Cameron

Inception (2010)

Hầu như những bộ phim của đạo diễn Christopher Nolan đều có các yếu tố như: du hành thời gian, tìm hiểu bản chất thế giới… khiến người xem vừa rối não lẫn rối lòng. Và Inception chính là một tác phẩm hội tụ đủ các yếu tố làm nên thương hiệu Nolan, trở thành một tượng đài khó quên trong lòng người hâm mộ.

Inception là một trải nghiệm điện ảnh đáng nhớ khi Nolan cố gắng hình tượng hóa kiến trúc tư duy của con người, biến tiềm thức trở thành không gian vật lí cho các hoạt động đánh cắp được diễn ra. Bộ phim kể về một tên trộm có khả năng đi vào giấc mơ của người khác. Dom Cobb không trộm gì cả, anh chỉ trộm ý niệm. Bằng việc thâm nhập vào tiềm thức của đối tượng, anh có thể lấy thông tin mà đến cả những tay hacker sừng sỏ nhất cũng không thể làm được. Trong thế giới điệp viên, Cobb là vũ khí tối thượng. Nhưng kể cả vũ khí cũng có nhược điểm, khi Cobb gần như mất tất cả mọi thứ, anh được giao một nhiệm vụ cuối cùng để chuộc lỗi. Lần này, Cobb không gặt lấy ý niệm, anh gieo nó. Liệu anh và đồng đội có thành công?

Christopher Nolan

Inception có một kịch bản hoàn hảo, từng thế giới giấc mơ xuất hiện trong phim vừa chính xác, tinh tế, đôi khi lại hài hước. Thời gian là chủ đề yêu thích của Nolan và ông luôn tìm được cách thể nghiệm thú vị, có thể thấy rõ điều này qua cả phim InterstellarDunkirk. Nhưng trong Inception, thời gian không chỉ là chủ đề mà còn là công cụ kể chuyện khi tái hiện lại hoàn hảo nỗi ám ảnh của kẻ cắp giấc mơ. Từ đó, bộ phim đặt ra nhiều câu hỏi hóc búa: liệu rằng ta có đang sống trong thời gian thực, khi nào thì một giấc mơ trở thành thực tế, khi nào thì thực tế hóa ra lại chỉ là một giấc mơ, ta đang thức hay còn mơ?

Thông qua Inception, Nolan lồng ghép rất nhiều khái niệm về sự logic giấc mơ, đảo ngược các nguyên tắc vật lí, cho thấy những thực tại có thể vỡ vụn ra sao… Tất cả hòa quyện vào nhau, tạo thành một tác phẩm sci-fi tâm lí đỉnh cao mà có lẽ nhiều thập kỉ sau, vẫn còn khiến người ta trầm trồ.

Hoàng Đức Nhiên

Đọc bài viết

Cafe sáng