Trà chiều

Trong cuộc tranh luận dai dẳng về giày cao gót, không có phe nào thắng cuộc cả

Có phải giày cao gót là biểu tượng cho quyền lực? Sự áp bức? Chỉ là thứ phù phiếm? Biểu đạt sự tự tin? Tình dục?
Đều đúng cả.

Published

on

NOBODY WINS IN THE AGE-OLD DEBATE OVER HIGH HEELS

Summer Brennan

Trong ấn bản năm 1977 của Cẩm nang giúp phụ nữ ăn vận hướng tới thành công, chắp bút bởi John T. Molloy (“Chuyên viên tư vấn thời trang nổi tiếng nhất nước Mỹ sẽ cho bạn biết phải mặc gì và vì sao!”), phần giới thiệu có tiêu đề “Những sai lầm của phụ nữ và làm sao để khắc phục.” Theo sau đó là 187 trang đầy những lời khuyên về cách ăn mặc để khiến đồng nghiệp nam và khách hàng xem trọng bạn (đừng mặc gợi cảm, không bao giờ mặc quần tây, luôn mang giày cao gót mũi nhọn đến công sở). Vào thời bấy giờ, và đôi khi bây giờ vẫn thế, rất ít người nghĩ rằng công sở mới là điều cần phải thay đổi, mà thay vào đó, đa số cho rằng nữ nhân viên phải định hình lại để thích ứng với nơi làm việc. Bìa sau có hình một người phụ nữ trẻ trong trang phục công sở, không mỉm cười, với một người đàn ông lớn tuổi đằng sau cô ấy – chính tác giả – với cánh tay gần như chạm vào vai cô ấy.

Dù sao đi nữa, giày cao gót hiện nay là loại giày dép phổ biến nhất dành cho phụ nữ. Nó là giày cho các sự kiện, trưng bày, biểu diễn, quyền lực và tao nhã. Chúng ta đã ban cho nó khả năng biến đổi, và văn hoá của chúng ta là một nền văn hoá ám ảnh với sự biến đổi của người nữ. Trong một vài bối cảnh và sự kiện, thường là những hoàn cảnh trang trọng nhất, giày cao gót còn là trang phục bắt buộc. Giày cao gót với phụ nữ cũng giống cà-vạt với đàn ông: rất khó để trông vừa trang trọng vừa nữ tính mà không có nó. Phụ nữ đã bị cấp trên ép buộc mang giày cao gót khi làm việc hoặc khi thực hiện những nhiệm vụ liên quan đến công việc trong gần như tất cả các ngành nghề, từ nữ phục vụ bàn ở Las Vegas cho đến một kế toán ở PricewaterhouseCoopers; trong buồng máy bay cao 1000km cho đến một bãi biển ở Liên hoan phim Cannes. Nó là đôi giày cho khi chúng ta ở chế độ bật, cho tham vọng, cho chụp hình bìa tạp chí, cho thảm đỏ, cho chương trình trao giải, cho phòng họp, cho phòng xử án, cho toà nhà quốc hội, và cho bục tranh cử.

Hơi ngược đời một chút (hoặc có lẽ là không), trong ngành công nghiệp fetish1 kéo dài hơn 150 năm, giày cao gót cũng luôn được xem là biểu tượng tình dục. Đối với phụ nữ, thứ công khai nhất cũng là thứ kín đáo nhất, riêng tư nhất, và ngược lại.

Đối với phụ nữ, thứ công khai nhất cũng là thứ kín đáo nhất, riêng tư nhất, và ngược lại.

Cùng với việc được coi là đôi giày thích hợp cho sự kiện công chúng nhất, giày cao gót cũng được xem là nữ tính nhất. Rất ít kiểu dáng giày trong lịch sử được xem là dành riêng và đặc trưng cho tính nữ như những đôi giày gót nhọn đương đại (duy nhất loại giày khác có thể so sánh là đôi giày hoa sen cho đôi bàn chân bó của hoàng gia Trung Quốc thời xưa). Trong hai kiểu giày này, chỉ có cao gót thông dụng đến ngày nay. Trừ điểm đặc trưng là cái gót giày, cả hai loại giày này đều để lại dấu chân hình tam giác, nhỏ nhắn đặc trưng.

*

Nữ tính không đồng nghĩa với việc là phụ nữ. Sự nữ tính là thứ gì đó người ta thấy và cảm nhận, nhưng cũng là thứ người ta lảng tránh và chối bỏ, hoặc được nuôi dưỡng và chứng tỏ. Với phụ nữ chuyển giới, những cá nhân song tính hay liên giới tính và những người không xác định giới tính, giày cao gót đôi lúc đóng vai trò quan trọng trong việc thể hiện mong muốn tính nữ bên trong hoặc thừa nhận sự nữ tính, đặc biệt là khi họ đã bị nghi ngờ hoặc chối bỏ trên con đường tiếp cận với tính nữ, bất chấp (hay chính vì) giới tính mà họ được gán cho lúc sinh ra. Hoặc không? Dù sao đi nữa, giày cao gót cũng tạo một hợp âm mạnh mẽ và vang dội trong bản hoà nhạc phức tạp của bản dạng giới tính hiện đại.

Giày cao gót và tổ tiên của chúng đã bị kì thị, sau đó được bảo vệ, sau đó lại bị kì thị, bị đánh giá bất công và bắt ép thành gần-như-bắt-buộc-phải-dùng bởi cùng một nền văn hoá cùng một lúc. Là phụ nữ, dù bạn ăn mặc như thế nào, bạn vẫn bị lạc trong một mê cung: đi hướng này thì bạn được khen thưởng, đi hướng khác thì bạn bị phục kích hoặc mắc kẹt. Thật khó để không rơi vào tình trạng thất vọng khi người ta biến lối nói hoa mỹ này thành một kết luận logic, rằng một đôi giày “đúng đắn” thì không nữ tính, còn đôi giày “nữ tính” thì không thể đúng đắn được, vì vậy thể hiện “tính nữ” là việc thiếu khôn ngoan. Chúng ta cứ mãi tranh luận về giày dép của phụ nữ qua cả ngàn năm, bởi vì các luận điểm không xoay quanh thời trang hay văn hoá, hay thậm chí là về giày. Chúng là về chính trị và vai trò của phụ nữ đối với xã hội.

Khi một người phụ nữ cố gắng đảm nhiệm vai trò tối cao, cái câu hỏi rằng cô ấy nên mang giày gì có thể trở nên rất phức tạp. Trong cuộc bầu cử tổng thống Mỹ 2016, ứng cử viên nữ đầu tiên của một đảng lớn, Hillary Clinton đã mang một đôi giày chắc chắn là kết quả của quá trình cân nhắc cực kỳ thận trọng. Giày đế bệt hiển nhiên là không trang trọng cho một sự kiện lớn như vậy nên bà ấy đã mang giày cao gót. Thế nhưng, gót giày quá cao sẽ thể hiện ra là gợi cảm quá, và do đó, không nghiêm túc, đối với cả vị trí và tuổi tác của bà, vì thế giày gót rất thấp là phù hợp. Và bởi vì đế quá thấp, nên nếu đế vuông hay đế xuồng sẽ khiến chúng gần như giống hệt giày nam, nên đế giày của bà cũng rất mảnh. Những đôi giày đế mảnh và thấp như vậy cũng có tên cho chúng: gót mèo con (kitten heels). Những đôi giày này thật ra rất chuẩn, và có lẽ là lựa chọn duy nhất chấp nhận được cho bà Clinton trong trường hợp này, để thể hiện rằng, trong khoảnh khắc ấy, bà vừa nữ tính, nghiêm túc và thời trang, cùng một lúc. Việc ăn mặc hợp thời trang, đặc biệt là với nữ giới được xem như là một biểu hiện của trí thông minh xã hội. Vậy mà trớ trêu thay, một ứng cử viên nữ giới cho cuộc bầu cử tổng thống chỉ có sự lựa chọn duy nhất, và sự lựa chọn này còn có cả chữ “mèo con” trong tên.

Giày “mèo con”
Ảnh: Manolo Blahnik

Điểm tương đồng giữa những nhà hoạt động nữ quyền và phi nữ quyền là: chẳng hề có đường lối nào áp dụng cho giày cao gót cả. Tính từ thời điểm bài viết này ra đời, dường như cứ vài tháng thì sẽ có một vụ tranh cãi liên quan đến giày cao gót đều đặn xuất hiện. Giày cao gót sẽ bị cấm ở đâu đó, và bị bắt buộc ở một chỗ khác, hoặc một nhân vật có sức ảnh hưởng sẽ mang chúng ở một nơi nào đó không thích hợp. Báo chí sẽ đăng tải, những thành phần quá khích trong Twitter nhảy vào. Một nhóm sẽ gièm pha chúng là đại diện của sự đàn áp, ủng hộ chế độ nam quyền, trong khi số khác bảo vệ chúng hay người mang chúng dưới danh nghĩa tôn vinh tính nữ, thể hiện văn hoá, lựa chọn an toàn (lựa chọn – vâng, lại là cái từ này). Có vẻ như là, bất chấp việc chúng ta chọn cái gì, vẫn có một mặt nào đó không được toàn vẹn. Lựa chọn một thứ đồng nghĩa với đánh mất những thứ còn lại. Vậy giày cao gót tốt hay xấu? Ý nghĩa của chúng là gì? Chúng ủng hộ nữ quyền hay chống lại nó? Chúng có biểu đạt quyền lực không? Sự độc lập? Sự áp bức? Tính chuyên nghiệp? Sự tự tin? Tính phù phiếm? Sự quỵ lụy? Tình dục? Chẳng ai đồng tình với ai cả.

Nếu bạn hỏi tôi, thì toàn bộ những ý kiến trên đều đúng.

… Nhưng đi giày cao gót không đau chân à?

Đúng là giày cao gót gây ra đau chân, và nó không chỉ đau khi bạn té. Một đôi giày tốt chỉ khiến bạn đau chân sau khi đi bộ một thời gian nhất định, trong khi đôi chất lượng kém thì đau ngay khi vừa mang. Chúng làm trầy da và cấn vào xương. Sự thật không thể trốn tránh là, nếu mang thường xuyên, giày cao gót sẽ có ảnh hưởng xấu vĩnh viễn đến cơ thể. Với một số người, giày cao gót, đặc biệt là những đôi giày gót nhọn stiletto, là đặc trưng của đám phụ nữ dựa hơi đàn ông, với hàng tá cuộc phẫu thuật thẩm mĩ, đôi bàn chân như búp bê Barbie, và – giống như Ivanka Trump – được sinh ra trong nhung lụa và giả vờ như mình đại diện cho sức mạnh phụ nữ; tương tự như phong trào Tiếp Sức Hồng, những mặt hàng nhãn hồng dành riêng cho phái nữ với đơn giá cao hơn 20% mặt hàng dành cho nam giới trong tiệm tạp hoá.

Giày gót nhọn stiletto
Ảnh: Pexels

*

Tuy nhiên, bên ngoài cái địa hạt marketing và quảng cáo siêu-nhân-tạo này, vẫn còn có điều gì đó sâu sắc hơn thế. Giày cao gót sở hữu một nét hấp dẫn phức tạp. Có gì đó hoang dại của dã thú, tựa móng vuốt của loài chim săn mồi hay loài sư tử (và tất nhiên, từ giày cao gót ở tiếng Pháp là les talons – vuốt chim.) Tôi nhớ về dáng giày xuất hiện trong những tác phẩm lộng lẫy mà ám ảnh của nghệ sĩ lai Mĩ-Dominica, Firelei Baez, trong đó, những chiếc gót nhọn, vuốt sắc, trông như thể là mọc thẳng ra từ chính đôi chân. Những dáng hình trong tranh của cô ấy, đầy nhục dục và không thể kiềm chế được, phình ra và nẩy mầm rồi nở hoa thành những hình dáng hoang dã hơn phụ nữ, sắc màu như muốn trào ra, được bao phủ bởi lá, lông chim, tóc và hoa vùng nhiệt đới. Thay vì phải lựa chọn giữa những quả vả đày đoạ lo lắng của Sylvia Plath, dường như những người phụ nữ của Baez’s đã trở thành cây, một cái cây ăn quả xanh có tri giác. Vào một thời kỳ nổi bật trong sự nghiệp của Baez, gần như tất cả các nhân vật của cô, những người mà chân có thể được nhìn thấy trong bức tranh, đều có cái gót nhọn chết người đó, như là một cái sừng mảnh, một cái răng sắc nhọn, hay một cái cọc xuyên thủng vật bất kỳ; bàn chân của họ uốn cong và nhọn, sẵn sàng để chụp con mồi, để thăng bằng hoặc là để nhảy múa.

Firelei Báez | A reconstituted echo (2019)
Ảnh: Artsy

Có gì đó hoang dại của dã thú, tựa móng vuốt của loài chim săn mồi hay loài sư tử (và tất nhiên, từ giày cao gót ở tiếng Pháp là les talons – vuốt chim.)

Bản thân giày đã mang một sức mạnh lạ lùng trong việc gợi mở trí tưởng tượng, từ lâu đã đóng vai trò đóng thế cho cơ thể con người và vai trò xã hội của người đó. Thời thơ ấu, thông qua truyện cổ tích, chúng ta biết rằng giày là vật ma thuật có thể giúp đỡ hoặc phá hoại, là phần thưởng hoặc là vết thương, là sự giải phóng hoặc cầm tù. Chúng có thể biến một con mèo thành thủ tướng và người hầu thành nữ hoàng. Freud mô tả bàn chân như là một biểu tượng gợi dục lâu đời thậm chí trong các truyền thuyết cổ đại; ông nói rằng giày là ẩn dụ cho bộ phận sinh dục của phụ nữ. Mặc dù người ta có nhiều việc phải làm hơn là để tâm đến chuyện, với Freud, liệu có thứ gì không đại diện cho bộ phận sinh dục không, cách hiểu này thêm một hàm nghĩa gây sửng sốt vào nội dung những câu chuyện cổ tích – từ cơn đau như đâm thấu lòng bàn chân của nàng tiên cá khi nàng bước vào thế giới con người, hay cô bé có đôi giày đỏ khiến cô nhảy múa không ngừng cho dù cô không còn muốn, hay là thứ mà Cô bé lọ lem đã thật sự mất vào tay hoàng tử vào đêm dạ hội.

*

Khi hè dần sang thu ở Paris, làn sóng khách du lịch giảm xuống, một lần nữa các con phố lại tràn ngập người dân Paris. Lá cây hạt dẻ ngựa chuyển màu xanh úa, rồi chuyển đốm nâu, rồi rụng từng chiếc từng chiếc xuống nền đá vôi của các công viên được chăm sóc tỉ mỉ. Đèn nê-on của quán cà phê có vẻ như bật mỗi ngày mỗi sớm hơn. Nỗi lo sợ hay mong mỏi mùa hè của tôi, rằng giày cao gót sẽ trở nên lỗi thời cũng biến mất, khi Kinh Đô Ánh Sáng ăn diện cho mùa mới. Chúng lại xuất hiện: nhung đỏ, nhung vàng, hay da thuộc xanh; đen, nâu, xám, tím, hoa, hoạ tiết paisley, trắng. Có giày cao gót nhọn, có gót “mèo con”, xăng-đan cao gót, bốt thấp cao gót. Chúng được mặc chung với áo đầm, quần rộng, váy, quần đùi, đồ bay, quần jeans, abaya, nguyên bộ sậu vải in kiểu Tây Phi,… Và tất nhiên, cũng có giày đế bệt, giày oxford, giày sneaker, giày búp bê, giày lười, bốt, giày moccasin,… Và trong số chúng, giày cao gót vẫn là sự lựa chọn của khá nhiều người.

Câu chuyện về đôi giày của một người là câu chuyện về địa vị trong xã hội của cô ấy, và dấu chân của chúng ta là dấu vết ta để lại, cho những nơi ta đã đi qua và những nơi ta đang hướng tới. Đây là câu chuyện đương đại nhất về giày của phụ nữ: những đôi giày bí ẩn và có thực, còn mới toanh hay đã được mang mòn, được kinh qua sự hào hứng và nỗi đau, những đôi giày khiến người mang tập tễnh hay như đang bay, đôi giày được làm từ thuỷ tinh, băng hay đá quý, đôi giày chúng ta đánh cắp hay bị trộm mất, đôi giày loang màu hay dính máu của chúng ta. Nỗi đau, niềm hạnh phúc, ước mơ, nỗi khao khát, địa vị, máu: đây là đoạn điệp khúc trong bài hát của người phụ nữ, nói về khi chúng ta đi chệnh choạng, cà nhắc, nhảy múa và bước qua cái thế giới tạp nham này.

Hết.

Chú thích:

  1. Fetish (ái vật, hay bái vật tình dục) chỉ các mối quan tâm tình dục trên những đối tượng không phải là cơ quan sinh dục. Những mối quan tâm này có thể coi như công cụ hỗ trợ để đạt cảm hứng tình dục hoặc có thể trở thành rối loạn tâm thần nếu nó gây ra những đau khổ tâm lý đáng kể cho người mắc hoặc tác động có hại vào các lĩnh vực quan trọng trong đời sống của họ.

Emma Đẹp Thần Thánh dịch.

Bài gốc được thực hiện bởi Summer Brennan, trích từ Object Lessons: High Heel.

Xem tất cả những bài viết của Emma Đẹp Thần Thánh tại đây.


Muôn chuyện phức tạp của phụ nữ!



Book trailer

5 tựa sách cho ngày hè nhàn rỗi

Published

on

By

5-tua-sach-cho-ngay-he-nhan-roi

Từ những cuốn sách phơi bày hậu chứng chiến tranh cho đến những cuốn tiểu thuyết ghi lại thân phận nhỏ bé, mong manh, trôi dạt của con người... Các tác phẩm sau là lựa chọn tuyệt vời cho một ngày hè nhàn rỗi, để tìm thêm lại những phong vị mới.

Đuổi theo ánh sáng – Oliver Stone

Là biên kịch và đạo diễn từng 3 lần đoạt giải Oscar với những tác phẩm nổi tiếng như Express Midnight, Scarface, Salvador, Platoon... cũng như những người ngoại đạo, hành trình vươn đến đỉnh cao trong môn nghệ thuật thứ 7 của Oliver Stone luôn không dễ dàng. Đuổi theo ánh sáng là cuốn hồi ký được ông chắp bút, đưa ta đi từ những ngày đầu tiên ở nước Mỹ huyền diệu, đến tuổi trưởng thành nhiều mới mẻ trong chiến tranh Việt Nam và hành trình nếm mật nằm gai để vươn đến hào quang của Hollywood.

Trong cuốn sách này, ta sẽ thấy bên cạnh một cái tên được ngợi ca cũng là một con người bất toàn, mắc nhiều tội lỗi và cũng có lúc tưởng chừng buông xuôi. Thế nhưng chính quyết tâm, nỗ lực và sức mạnh nội tại đã giúp cho ông vẫn luôn duy trì tình yêu với quỹ đạo đời mình. Đó cũng là một bài học xoay quanh thông điệp luôn luôn vươn lên, từ đó tìm thấy ý nghĩa cho cuộc đời mình.

Với cách viết chân thành, gần gũi, đan kết với nhiều hình tượng, cảnh huống được lấy ra từ các thần thoại cũng như tác phẩm văn chương, phim ảnh nổi tiếng... Đuổi theo ánh sáng không chỉ đơn thuần là một cuốn hồi ký, mà cũng đồng thời là một tác phẩm văn xuôi hấp dẫn về một thời đoạn của tuổi trẻ lạc lối và tuổi trưởng thành không ngừng bỏ cuộc. Một tác phẩm vượt ra khỏi biên giới thể loại để mang đến câu chuyện phổ quát và thông điệp ý nghĩa cho những cá nhân vẫn đang chật vật trên con đường sự nghiệp của bản thân mình.

Gã du đãng chúng ta đang lùng kiếm – Le Thi Diem Thuy

Thuộc thế hệ thứ 2 của những cây bút “di dân”, Gã du đãng chúng ta đang lùng kiếm tuy có dung lượng tương đối khiêm tốn, nhưng nội dung mà nó truyền tải lại vô cùng lớn về mặt cảm xúc cũng như ấn tượng đến từ người đọc. Đó là hành trình tìm lại cội nguồn, xác định bản lai diện mục của một cá nhân với lai lịch “dị thường” qua thứ văn chương đẹp đẽ, thơ mộng với nhiều hình ảnh ám ảnh nối nhau cho đến vô cùng. Le Thi Diem Thuy sở hữu ma thuật của từ ngữ, để nhào nặn nó thành những ấn tượng không thể nào phai.

Cõi người và thân phận ấy cũng mong manh như con bướm suốt đời lưu cữu trong thứ thủy tinh trong suốt và nhìn thấu được. Kiếp người di dân cũng mãi tạc ghi vào mã gene mình ám ảnh về nước, dẫu là cái hồ trong khu dân cư hay thứ nước biển mặn chát của những con thuyền lênh đênh trên biển... thì cũng hình thành ở họ nỗi sợ nguyên thủy về số phận mình và thân phận mình giữa dòng chìm nổi. Le Thi Diem Thuy nắm bắt được chúng một cách tinh tế, và dàn trải ra giữa các trang viết một cách chân thành mà không lên gân.

Về mặt văn chương, Le Thi Diem Thuy cùng Ocean Vuong là 2 nhà văn đại diện cho khả năng nắm bắt được từng khoảnh khắc và cấp đông nó cho đến vĩnh cửu. Gã du đãng chúng ta đang lùng kiếm hay Một thoáng ta rực rỡ ở nhân gian là các tác phẩm có nhiều tầng nghĩa, làm xúc động cả những ký ức cá nhân hay nỗi đau cộng đồng. Và sức ám ảnh ấy sẽ lại khởi đầu mỗi khi những dòng chữ đầu tiên hiện ra và người đọc bị cuốn theo dòng nước ấy.

Những kẻ tuyệt vọng – Minh Tran Huy

Văn chương di dân khắc ghi trong lòng người đọc rất nhiều ấn tượng xoay quanh chủ nghĩa hiện thực, thế nhưng với Minh Tran Huy, cô đã làm điều đó một cách văn chương và vị nghệ thuật đến không ngờ đến. Ở Những kẻ tuyệt vọng ta sẽ không tìm thấy những gia đình tan nát của các thuyền nhân, ta cũng không thấy những chật vật hòa nhập với cuộc sống mới một cách hiển hình... mà thay vào đó là sự giao hòa của những tâm thức với các câu chuyện mang tính đại diện khác lạ.

Cuốn sách kể về chuyện tình vô cùng tươi đẹp của Lise và chàng Louis đầy những khát khao nhưng hành trình đến được với nhau cũng đã trải qua không ít khó khăn cũng như thách thức. Từ Việt Nam đến những lâu đài nước Pháp, từ những công viên bên bờ sông vắng lặng đến tàn tích lâu đài của thời Trung cổ... Cuốn sách xé toạc những đường biên không – thời gian để mang đến một tác phẩm lạ lẫm, thách thức, không ngừng chờ được giải đáp.

Điều ta tìm thấy trong tiểu thuyết này là sự giao thoa của Đông với Tây, của quá khứ với hiện đại, của Á và Âu trong sự tương đồng và phát triển thêm từ Trọng Thủy – Mỵ Châu đến Tristan - Iseult, hay bộ tứ Tấm Cám – Lọ Lem – Bạch Tuyết – Công chúa ngủ trong rừng.... Mang đậm màu sắc của Angela Carter trong không khí Gothic được phối trộn với trọng tâm di dân, đây là cuốn tiểu thuyết được đẩy đến đường biên của những thể nghiệm, đòi hỏi một sự truy tầm giá trị sâu xa hơn việc thưởng thức. Có thể nói Minh Tran Huy đã viết nên một tác phẩm ấn tượng, độc đáo và không thể quên.

Khát khao cây cỏ - Michael Pollan

Từ trước đến nay, trong các tác phẩm nghiên cứu, con người luôn chứng minh mình là chủ nhân của mọi thứ, là đối tượng tác động, là tác nhân chủ chốt... Nhưng với Khát khao cây cỏ, Michael Pollan đã thực hiện điều ngược lại, khi đặt ra một câu hỏi vô cùng thách thức, rằng thực vật nghĩ gì về ta, liệu con người có thật là phía nắm chuôi, quyết định mọi thứ cho giống loài vốn được ngầm hiểu là không có trí thông minh hay nhạy bén này?

Câu hỏi nói trên đã được giải đáp qua 4 phần lớn xoay quanh loài táo, tulip, cần sa và khoai tây, gắn với khát khao vị ngọt, vẻ đẹp, niềm hứng thú và sự an toàn. Từ các rừng táo ở nước Mỹ đến các thùng container trồng cần sa nhân tạo ở Amsterdam, từ ngày hiện tại trong công nghệ biến đổi gen ở khoai tây cho đến nhiều thế kỷ trước khi cơn sốt tulip vẫn còn là thứ gì đó cực kỳ bùng nổ... Pollan từng bước dẫn ta vào mạng lưới gắn kết đặc biệt, để biết con người xét cho đến cùng chỉ là một cực của các mối quan hệ, trong tính chủ động cũng như bị động.

Những câu chuyện về Johnny Hạt Táo, đặc tính có kế hoạch theo trường phái Apollo hay hoang dã của Dionysus... đã đưa người đọc không chỉ lướt qua lịch sử mà các loài cây gắn liền, mà cũng đồng thời là một biên niên sử về các khao khát và niềm đắm say của nhân loại này. Có thể xem đây là một tác phẩm rực rỡ, bao quát và choáng ngợp về mối gắn kết giữa con người cùng tự nhiên.

Con đường thủy vào Trung Hoa - Milton Osborne

Những ngày gần đây câu chuyện xoay quanh sông Mekong bỗng nóng trở lại trong việc xây dựng kênh đào Phù Nam và những được – mất sau đó. Chính điều này cũng đưa ta về lại với quá khứ của hơn 100 năm trước, khi những người Pháp tiên phong đã cố gắng tìm con đường thủy cho việc giao thương nối liền từ điểm tận cùng đổ ra biển Đông trên đất An Nam với thượng nguồn từ dãy Himalaya ở nơi đầu mút Trung Quốc.

Con sông hùng vĩ phần nào dự báo tầm vóc của cuộc thám hiểm, và quả đúng như thế, những gì được Milton Osborne kể lại có thể được xem như một bằng chứng lịch sử, nhưng cũng có thể quan niệm đó là một cuốn tiểu thuyết phiêu lưu nói gót những Thuyền trưởng Corcoran hay tác phẩm của Conrad danh tiếng... Những khó khăn, thách thức; sự thịnh vượng, trù phú nhưng cũng nguy hiểm chết người của miền nhiệt đới... cho ta thấy rằng con đường khai sáng của nơi mẫu quốc chưa khi nào là dễ, chưa cần bàn đến niềm tin, ý dân hay là những thứ thuộc về tư tưởng.

Bằng việc khai thác nguồn sử liệu phong phú và cách kể chuyện cuốn hút, Con đường thủy vào Trung Hoa là một tác phẩm đáng đọc, nên đọc, để biết về những khó khăn của con đường khai sáng văn minh, cũng như sự huyền diệu của miền nhiệt đới từ trăm năm trước hay trăm năm sau vẫn mãi như vậy.

Đọc bài viết

Trà chiều

Thế giới viễn tưởng độc đáo trong bốn bộ phim mang đậm tính thể nghiệm

Published

on

Thế giới của phim khoa học viễn tưởng không phải lúc nào cũng chỉ có AI, robot, hay du hành không gian mà còn vô vàn những điều đặc biệt khác có thể bạn chưa biết.

Năm 2023 vừa qua đã ghi nhận sự phát triển ngày càng mạnh mẽ của AI. Điều đó khiến cho dòng phim khoa học viễn tưởng nhận được nhiều sự quan tâm trở lại. Nhắc đến dòng phim này, người ta vẫn thường đóng khung nó với vài yếu tố tiêu biểu thường gặp như: AI, robot, du hành vũ trụ, thế giới song song… Tuy nhiên, có rất nhiều tác phẩm sci-fi kinh điển đã chứng minh điều ngược lại.

Hãy cùng Bookish khám phá những bộ phim sci-fi không thuần túy là sci-fi vì ở đó, người xem được tận hưởng bữa tiệc điện ảnh đỉnh cao với những hương vị hòa quyện mĩ mãn từ nhiều thể loại khác nhau.

Back to The Future (1985)

Sci-fi x Road Trip Comedies

Cùng với The Terminator, Back To The Future ra đời năm 1985 đã trở thành biểu tượng kinh điển của dòng phim sci-fi lấy chủ đề du hành thời gian. Đó cũng là một trong những nguyên nhân mà bộ phim này được nhắc đến nhiều lần trong Avengers: Endgame lúc cả nhóm quyết định quay về quá khứ.

Tuy nhiên, không giống như The Terminator, Back To The Future mang màu sắc vui nhộn, hài hước của lứa tuổi học trò. Cậu học sinh tuổi teen Marty McFly ở thập niên 80 vô tình bị kéo về quá khứ trên chiếc xe cỗ máy thời gian của nhà khoa học Emmett Brown. Cậu quay trở về thập niên 50 – lúc này bố mẹ cậu cũng ở lứa tuổi học trò như cậu. Để có thể quay về hiện tại năm 80, cậu phải tìm cách hàn gắn mối quan hệ của bố mẹ, nếu không bản thân cậu cũng sẽ không tồn tại ở năm 80. Từ đó, câu chuyện nảy sinh nhiều tình huống dở khóc dở cuối. Nếu như The Terminator là sự phối trộn hoàn hảo giữa thể loại sci-fi và hành động thì Back To The Future lại là màn kết hợp ăn ý giữa thể loại sci-fi và hài hành trình. Bộ phim tốn kinh phí thực hiện là 19 triệu USD nhưng lại có doanh thu phòng vé lên đến 388 triệu USD. Chính vì thành công này mà đạo diễn Robert Zemeckis đã thực hiện hai phần tiếp theo cũng vui nhộn không kém.

Snowpiercer (2013)

Sci-fi x Dystopia

Bong Joon Ho không chỉ tạo ra những bộ phim sâu sắc về đề tài xã hội mà ông còn có khả năng làm phim khoa học viễn tưởng rất chặt chẽ, thuyết phục. Điều này thể hiện rõ nhất qua Snowpiercer. Phim dựa trên tiểu thuyết Pháp Le Transperceneige lấy đề tài hậu tận thế. Trong tương lai, sau một thí nghiệm thất bại, khí hậu toàn cầu biến đổi dẫn đến gần như toàn bộ sinh vật đều bị diệt vong, ngoại trừ một số người may mắn có mặt trên con tàu Snowpiercer chạy vòng quanh Trái đất với động cơ vĩnh cửu. Tại đây, một xã hội thu nhỏ mới lại được hình thành. Dưới bàn tay tài hoa của Bong Joon Ho, Snowpiercer cũng không đơn giản là tác phẩm sci-fi thuần túy mà ông còn lồng ghép vào nhiều thể loại khác nhau: có những phân đoạn hành động mãn nhãn, đồng thời cũng có những phân đoạn dí dỏm, và cách đặt vấn đề về giai tầng xã hội vẫn mang phong cách rất đặc trưng của Bong. 

Eternal Sunshine Of The Spotless Mind (2004)

Sci-fi x Romance

Sẽ như thế nào nếu kết hợp thể loại sci-fi với phim tình cảm? Khi đó, chúng ta sẽ có kiệt tác Eternal Sunshine Of The Spotless Mind của bộ đôi đạo diễn Michel Gondry và biên kịch Charlie Kaufman. Bộ phim sử dụng đề tài “can thiệp kí ức” để khám phá bản năng con người khi tình yêu tan vỡ. Sẽ ra sao nếu khi chia tay một ai đó, bạn có thể xóa toàn bộ những kí ức vui buồn liên quan đến họ ra khỏi tâm trí? Sau khi Joel biết được Clementine – người yêu cũ của anh đã xóa kí ức tình yêu, anh quyết định bản thân mình cũng sẽ thực hiện việc này. Nhưng khi anh khám phá được điều gì đã khiến họ gắn kết rồi lại chia xa, anh nhận ra mình vẫn còn tình cảm dành cho cô. Nếu như công nghệ trong phim là thứ hư cấu thì cảm xúc giữa hai nhân vật trong Eternal Sunshine hoàn toàn chân thực, lay động trái tim người xem, khiến ai cũng phải thổn thức.

Under The Skin (2013)

Sci-fi x Experimental film

Cuối cùng, không thể không nhắc đến bộ phim sci-fi mang tính thể nghiệm, tiên phong đáng nhớ: Under The Skin. Có rất nhiều phim lấy đề tài sinh vật ngoài hành tinh xâm nhập Trái đất, nhưng có lẽ chưa bộ phim nào kể câu chuyện thật đặc biệt nhưng lại với nhịp điệu từ tốn như Under The Skin. Scarlett Johansson trong vai sinh vật ngoài hành tinh vô danh chỉ làm đúng một công việc là đi lang thang trên một chiếc xe tải, lựa chọn những người đàn ông cô đơn làm con mồi. Bộ phim rất kiệm lời thoại, khiến người xem rợn người không chỉ bởi những hình ảnh thị giác lạ mắt mà còn bởi thứ âm nhạc cũng đầy tính thể nghiệm độc đáo của Mica Levi. Tuy nhiên, nếu chỉ tập trung vào thể nghiệm mà bỏ qua nội dung, Under The Skin đã không gây được tiếng vang lớn như thế trong cộng đồng điện ảnh. Sau tất cả, bộ phim của đạo diễn Jonathan Glazer lại khiến người xem trăn trở nhiều về thân phận làm người.

Hoàng Đức Nhiên

Đọc bài viết

Trà chiều

The Terminator & Blade Runner: Hai tượng đài điện ảnh độc đáo của thập niên 80

Published

on

Cùng ra mắt vào thập niên 80, The Terminator (1984) và Blade Runner (1982) đều là hai kiệt tác điện ảnh độc đáo, góp phần rất lớn trong việc tạo ra diện mạo mới cho thể loại sci-fi.

Bài viết này sẽ dẫn dắt bạn khám phá những vấn đề khác nhau được đặt ra trong hai phim: từ những dòng suy tư về mối liên hệ nhân quả giữa hành động và thời gian trong The Terminator đến không gian đô thị đậm chất noir và những truy vấn về bản chất con người trong Blade Runner.

The Terminator (1984)

The Terminator là bước đột phá ngoạn mục trong sự nghiệp điện ảnh của đạo diễn James Cameron. Vào thời điểm ra mắt, bộ phim gây ấn tượng bởi việc pha trộn nhiều đặc tính giữa các thể loại khác nhau, mang đến màu sắc mới cho dòng phim sci-fi.

The Terminator kể câu chuyện về một người máy sát thủ ra đời năm 2029, được trao nhiệm vụ quay về năm 1984 để giết người phụ nữ trẻ tên là Sarah Connor. Sarah hoàn toàn không biết rằng cuộc đời cô có ảnh hưởng đáng kể đến số phận nhân loại và cô có thể chết bất cứ lúc nào dưới sự truy sát của cỗ máy bất khả chiến bại được gọi là Kẻ Hủy Diệt. Kyle Reese cũng đến từ tương lai nhưng nhiệm vụ của anh là bảo vệ Sarah – người mẹ của thủ lĩnh tương lai.

Với cốt truyện như thế, The Terminator vừa có những pha hành động mãn nhãn, vừa có nhiều tầng suy tư phức tạp về dòng chảy của thời gian, về phương thức thay đổi một sự kiện trong quá khứ có thể dẫn đến tương lai khác biệt hoàn toàn – đây vốn là chủ đề hiếm gặp trong phim hành động ở giai đoạn đó. Ngoài ra, những bản nhạc nền tạo không khí căng thẳng của nhạc sĩ Brad Fiedel cũng góp phần lớn vào thành công của phim.

Tất cả những nhân tố đó đã khiến phim trở thành một mảnh ghép quan trọng của văn hóa đại chúng đến tận ngày nay. Câu nói “I'll be back” của nhân vật Kẻ Hủy Diệt trong phim được sử dụng phổ biến, trở thành slogan thương hiện cho chính Arnold Schwarzenegger.

Từ năm 1984 đến nay, The Terminator đã sản xuất 6 phần phim: The Terminator (1984), Terminator 2: Judgment Day (1991), Terminator 3: Rise of the Machines (2003), Terminator Salvation (2009), Terminator Genisys (2015), Terminator: Dark Fate (2019). Tất cả những phần phim này đều đạt được doanh thu khủng, riêng phần đầu tiên The Terminator đã trụ vững ở vị trí số 1 trên bảng xếp hạng phòng vé ở Mỹ trong suốt hai tuần. Năm 2008, The Terminator đã được Thư viện Quốc hội Hoa Kỳ đưa vào Viện lưu trữ phim quốc gia để bảo tồn với lí do là bộ phim “nổi bật ở phương diện văn hóa, lịch sử, và mĩ học”.                          

Blade Runner (1982)

Không may mắn như The Terminator, Blade Runner của đạo diễn Ridley Scott là một tuyệt tác có số phận khá hẩm hiu khi vừa ra đời. Tuy nhiên, qua nhiều thập kỉ với những bản dựng khác nhau, tác phẩm này đã trở thành một tượng đài lớn của thể loại sci-fi.

Dựa trên tiểu thuyết gốc Do Androids Dream Of Electric Sheep? của nhà văn Philip K. Dick, Blade Runner vẽ nên viễn cảnh ảm đạm của thế giới vào năm 2019. Khi đó, thế giới tràn ngập những replicant – người máy có hình dạng giống con người, được tạo ra với vòng đời ngắn ngủi để làm những công việc nguy hiểm phục vụ cho con người. Một nhóm replicant bất mãn trước việc này đã làm một cuộc phản loạn, quay trở về Trái Đất và giết con người. Rick Deckard, một cảnh sát đã nghỉ hưu ở Los Angeles nhận nhiệm vụ phải truy lùng và tận diệt toàn bộ nhóm replicant nổi loạn này.

Blade Runner là sự pha trộn giữa sci-fi, trinh thám và phim noir – thể loại phim hình sự tội phạm mang đậm phong cách Hollywood, thường thể hiện thái độ hoài nghi, mỉa mai. Thông qua hành trình của Rick Deckard, bộ phim đặt ra nhiều câu hỏi triết học về tính người, thế nào là một con người.

Nhưng không chỉ sâu sắc về nội dung, Blade Runner còn là bữa tiệc chiêu đãi về thị giác qua cách bộ phim thể hiện không gian đô thị tương lai với những màn hình quảng cáo lớn, đèn neon luôn lấp lánh và đường phố lúc nào cũng nhộn nhịp. Cảm hứng thị giác của phim kết hợp từ những bức tranh cổ điển của danh họa Edward Hopper và các khu phố với những tòa nhà chọc trời ở Hong Kong. Sự kết hợp này đã tạo nên không gian thị giác ấn tượng của phim khi con người bị nhấn chìm trong công nghệ. Mĩ thuật của phim tạo ảnh hưởng lớn đến cách xây dựng không gian cho những phim sci-fi hay hành động của Hollywood ra đời sau đó như: The Matrix (1999), bộ ba Dark Knight (2005 – 2012) của đạo diễn Christopher Nolan, Ghost in the Shell (2017)…

Ngày nay, Blade Runner đã có một chỗ đứng không thể thay thế trong dòng phim sci-fi với nhiều ảnh hưởng mang tính định hình về mĩ thuật, tư duy về cách kể chuyện và nhân vật. Blade Runner 2049 – phần tiếp theo của phim ra đời vào năm 2017, đúng 35 năm kể từ phần đầu tiên đã không làm người hâm mộ thất vọng với điểm số trên Rotten Tomatoes lên đến 88%.

Hoàng Đức Nhiên

Đọc bài viết

Cafe sáng