Trà chiều

Vì sao một số người lại mê tít cảm giác sợ hãi?

Khi khoa học lý giải nguyên nhân đằng sau sự quyến rũ của nhà ma, gánh xiếc quái dị và những thú vui rùng rợn thể xác.

Published

on

WHY DO SOME BRAINS ENJOY FEAR?
Allegra Ringo

Thời điểm Halloween, những người ưa thích cảm giác ớn lạnh có thể tận hưởng phim kinh dị và nhà ma với mức giá rẻ bèo đến đáng sợ. Tuy nhiên, nếu sợ hãi là phản xạ sống còn tự nhiên đáp lại một mối đe dọa hoặc hiểm nguy, vì sao chúng ta lại chủ động tìm kiếm cảm giác này?

Tiến sĩ Margee Kerr là nhân viên nghiên cứu xã hội học tại ScareHouse, một địa điểm du lịch nhà ma được xây dựng tại Pittburgh sau cả năm trời lên kế hoạch thiết kế. Cô đồng thời giảng dạy tại trường Đại học Robert Morris và Đại học Chatham, và là người duy nhất mà tôi từng biết với danh hiệu “chuyên gia về nỗi sợ.” Tiến sĩ Kerr rất thành thạo trong lĩnh vực sợ hãi. Tôi đã phỏng vấn cô về định nghĩa nỗi sợ, và vì sao nhiều người lại thích thú chúng đến vậy.

Margee Kerr, ScareHouse

Vì sao một số người thích cảm giác bị dọa, một số khác thì không?

Tiến sĩ Margee Kerr (M.K.): Không phải ai cũng thích sự sợ hãi, và tôi nghĩ mình không phóng đại khi khẳng định rằng chẳng ai muốn bản thân bị đặt vào một tình huống thực sự đe dọa đến tính mạng cả. Nhưng có một vài người trong số chúng ta (chà, rất nhiều người) cực kỳ ham thích những trải nghiệm này. Đầu tiên, sự hưng phấn tự nhiên đến từ phản ứng chiến-hay-chạy (flight-or-flight) cảm giác rất tuyệt. Có những bằng chứng mạnh mẽ chứng minh rằng đây không phải là lựa chọn cá nhân, mà do phản ứng hóa học trong não bộ. Một nghiên cứu mới từ David Zald cho thấy khi đối mặt với tình huống kinh hoàng, mỗi người có phản ứng hóa học khác biệt. Một trong những hoóc-môn chính được tiết ra giữa những hoạt động đáng sợ và ly kỳ là dopamine, và hóa ra một vài cá nhân có khả năng cảm thấy phấn khích từ phản ứng tiết dopamine cao hơn những người khác. Về căn bản, bộ não của vài người khiếm khuyết thứ mà Zald mô tả là “phanh xe” trong quá trình tiết và tái hấp thụ dopamine ở não bộ. Điều này có nghĩa là một số người sẽ rất tận hưởng tình huống ghê rợn và mạo hiểm trong khi một số người khác lại chẳng có chút thích thú gì.

Rất nhiều người ưa những trải nghiệm rùng mình vì, một khi đã qua đi, nó để lại cảm giác tự tin. Hãy nhớ về lần cuối cùng bạn “sống sót” qua một bộ phim kinh dị, hay một căn nhà ma. Có thể bạn đã nghĩ, “ha! Mình đã làm được! Mình đã hoàn thành được!” Vì thế, trải nghiệm này có thể là một cú hích tự trọng hàng thật giá giật. Nhưng nói đi phải nói lại, tự-nhát-ma-bản-thân không dành cho tất cả mọi người, và có rất nhiều lý do tâm lý và cá nhân giải thích cho việc một số người không thích thú lắm. Tôi đã nói chuyện với nhiều người – họ sẽ không bao giờ đặt chân vào nhà ma vì đã thử khi còn bé và bị ám ảnh tâm lý từ đó. Tôi luôn khuyên các bậc phụ huynh kiểm tra kĩ lưỡng nội dung và đánh giá của một địa điểm tham quan nhát ma trước khi dắt con mình theo. Những chất hóa học tiết ra trong quá trình chiến-hay-chạy có tác dụng như keo dán để gây dựng nên những ký ức mạnh mẽ (“những ký ức sáng-tỏ” – flashbulb memory) về những trải nghiệm kinh hoàng, và nếu bạn còn quá nhỏ để hiểu rằng những con quái vật chỉ là hàng giả, đây có thể là trải nghiệm gây sang chấn tâm lý và một điều gì đó bạn mãi không thể nào quên, theo cách thức tồi tệ nhất.

Điều gì diễn ra trong não bộ khi chúng ta cảm thấy sợ hãi? Liệu có điểm gì khác biệt khi chúng ta sợ “một cách vui vẻ” và khi chúng ta thật sự đang sợ hãi không?

M.K.: Để thực sự cảm thấy vui thích với một trải nghiệm đáng sợ, chúng ta phải nhận thức được mình đang ở trong môi trường an toàn. Tất cả đều liên quan đến việc kích hoạt thứ phản xạ chiến-hay-chạy đáng ngạc nhiên để trải nghiệm làn sóng adrenaline, endorphin và dopamine, nhưng trong một không gian hoàn toàn an toàn. Nhà ma làm rất tốt việc này – chúng đem lại cơn giật gân bằng cách kích hoạt một trong những giác quan của chúng ta với những âm thanh khác biệt, gió thổi và thậm chí là mùi hương. Những giác quan này trực tiếp liên kết với phản xạ sợ hãi và kích hoạt phản ứng cơ thể, nhưng não bộ có thời gian để tiêu hóa sự thật rằng chúng không phải là những đe dọa “chân thật.” Não bộ của chúng ta phân tích các mối đe dọa với tốc độ ánh sáng. Tôi đã chứng kiến quá trình này cả ngàn lần từ sau những bức tường tại ScareHouse – ai đó gào lên và giật mình và sau đó lập tức bật cười mím chi. Thật lý thú khi quan sát. Tôi rất hứng thú với việc xem xét những giới hạn của chúng ta, liên quan đến thời điểm và cách thức chúng ta nhận ra hoặc cảm thấy mình an toàn.

Liệu những “thứ đáng sợ” có phẩm chất chung giữa những nền văn hóa khác nhau không, hay chúng có sự khác biệt lớn?

M.K.: Một trong những điều thú vị nhất khi nghiên cứu nỗi sợ là nhìn vào những thành tố xã hội cấu tạo nên chúng, và những nỗi sợ “được học” so với những nỗi sợ dường như thuộc về bản năng, hay thậm chí là di truyền. Khi chúng ta nhìn xuyên thời gian và khắp thế giới, chúng ta nhận ra rằng loài người có thể trở nên sợ hãi bất cứ thứ gì. Thông qua huấn luyện nỗi sợ (kết nối một kích thích thần kinh trung lập với một hệ quả tiêu cực), chúng ta có thể kết nối hầu như mọi thứ với phản xạ sợ hãi. Dĩ nhiên, Baby Albert là trường hợp mẫu mực của kết luận này. Năm 1920, đứa bé đáng thương đã bị huấn luyện sợ chết khiếp thỏ trắng, trước khi những nhà nghiên cứu bị ràng buộc bởi yêu cầu đạo đức. Vì thế chúng ta biết rằng mình có thể “học sợ,” và do đó những giao tiếp xã hội và môi trường nuôi dưỡng sẽ có tác động rất lớn đến việc ta sợ hãi những gì.

Mỗi nền văn hóa đều có những con quái vật siêu nhiên riêng biệt – Chupacabra (Nam Mỹ), Quái vật Hồ Loch Ness, Yokai (quái vật siêu nhiên từ truyện dân gian Nhật Bản), Alps (sinh vật ác mộng Đức) – nhưng chúng đều có một số đặc điểm chung. Theo cách thức nào đó, quái vật có khả năng chống lại những quy luật chung của tự nhiên. Hoặc là chúng quay ngược từ cái chết (hồn ma, ác quỷ, linh hồn), hoặc là chúng thuộc dạng phi-nhân-loại hoặc sinh vật bán-nhân. Điều này chứng minh sự thật rằng vi phạm quy luật tự nhiên là điều đáng kinh sợ. Và thực sự thì, bất cứ thứ gì không hợp lý hoặc gây cho chúng ta chút mâu thuẫn, dù là về mặt nhận thức hay thẩm mỹ, đều rất đáng sợ (những con vật cầm rìu, những gương mặt ẩn sau lớp mặt nạ, những cơ thể méo mó).

Ảnh: BBC

Một đặc điểm chung khác giữa quái vật khắp hành tinh là mối quan hệ bị xóa nhòa với cái chết và thể xác. Con người bị ám ảnh bởi cái chết; đơn giản là chúng ta cảm thấy khó khăn với việc phải lý giải rốt cuộc điều gì xảy ra khi ta qua đời. Những chiêm nghiệm này dẫn đến những con quái vật nổi tiếng, mỗi nền văn hóa lại tạo ra một phiên bản xác-sống riêng biệt, dù là thây ma (zombie), ma cà rồng, những cái xác được tái tạo hoặc tái sinh, hoặc những con ma. Chúng ta muốn tưởng tượng rằng có một cuộc đời mới tồn tại ở thế giới bên kia. Hay thậm chí tốt hơn, tìm ra cách để trường sinh bất tử. Tuy nhiên, phải nhấn mạnh lại rằng, những hành vi này đi ngược với quy luật tự nhiên và do đó rất hãi hùng. Vì thế, dù những con quái vật này có cấu tạo và tên tuổi khác biệt, động cơ và cảm hứng đằng sau sự ra đời của chúng thống nhất khắp địa cầu.

Một số ví dụ ban đầu về việc con người chủ đích nhát ma chính mình là gì?

M.K.: Loài người đã nhát ma chính mình và những người khác từ thời điểm khởi sinh giống loài, thông qua đủ loại phương pháp như kể chuyện, nhảy khỏi vách đá, và nhảy xổ ra hù dọa lẫn nhau từ cái ngóc ngách của hang động tối tăm nào đó. Và chúng ta làm vậy vì những lý do khác nhau – để xây dựng sự đoàn kết đội nhóm, để trẻ em chuẩn bị tinh thần sống sót trong một thế giới đáng sợ, và, dĩ nhiên, để kiếm soát hành vi. Nhưng chỉ trong một vài thế kỷ gần đây, việc nhát ma với mục đích giải trí (và thương mại) mới biến thành một trải nghiệm được săn đón hàng đầu.

Liên quan đến những khám phá buổi đầu về niềm vui khi tự-nhát-ma-mình, một ví dụ ưa thích của tôi có thể được tìm thấy trong lịch sử hình thành tàu lượn siêu tốc. Đường Trượt Băng Nga (The Russian Ice Slide) ra đời, với cái tên chẳng mấy gây ngạc nhiên, như là một đường trượt mở rộng xuống ngọn núi băng tuyết giữa thế kỷ 17. Giống như hiện nay, những người tham gia sẽ ngồi trên xe trượt và phăng phăng lao xuống núi, thi thoảng kèm theo những cú tông đụng nhân tạo để đường đua kịch tính hơn. Trong thế kỷ 18, Đường Trượt Băng Nga trở nên tinh vi hơn, với những thanh xà gỗ và núi tuyết nhân tạo. Cuối cùng, thay vì băng và xe trượt, đường trượt và toa xe được xây dựng để chuyên chở khách hàng băng qua “Những Ngọn Núi Nga.” Những nỗi sợ hưng phấn hơn xuất hiện khi những nhà sáng chế sáng tạo quyết định vẽ thêm những khung cảnh kinh dị trên tường để gây sốc và hù dọa khi khách đi qua. Điều này dần được biết đến như là “Chuyến Xe Bóng Tối.” Ai cũng sợ dựng tóc gáy, nhưng ai cũng thích mê.

Chúng ta không chỉ thích những nỗi sợ thế xác – chuyện ma được kể bên lửa trại trước khi khái niệm trại hè ra đời. Những Nhà Thơ Bia Mộ thế kỷ 18, những người viết về nhện, dơi và đầu lâu, đã trải thảm lót đường cho những nhà văn gothic thế kỷ 19, như Poe và Shelly. Những câu chuyện kinh dị này tạo ra, và tiếp tục truyền tải, kích thích sự hồ hởi trong chúng ta.

Thế kỷ 19 cũng sản sinh tổ tiên của ngành công nghiệp nhà ma. Các sô diễn bên lề hay “Gánh xiếc quái dị,” và bảo tàng và nhà của “những kẻ dị dạng” đã tồn tại từ giữa những năm 1800. Có lẽ trường hợp nổi tiếng nhất là Bảo Tàng Mỹ của Barnum do P. T. Barnum cắt băng khánh thành, người có cái tên chiếm nửa thương hiệu Gánh xiếc Ringling Brothers and Barnum Baily. Bảo tàng của ông chứa chấp những thứ như là thân khỉ đuôi cá dán dính lại, và những mẫu vật khác với mục đích giật gân và hù dọa. Tương tự như những địa điểm nhát ma hiện đại, khách tham quan sẽ xếp hàng để thách thức chính mình, sự gan lì của bản thân và thách thức người khác bước vào sô diễn quái dị để đối mặt với những khung cảnh và biến dạng kinh hãi. So với nguyên thủy là mình khỉ đuôi cá, ngành công nghiệp nhà ma đã có những bước tiến dài – những địa điểm hiện đại sử dụng bối cảnh chất lượng Hollywood, và một lượng điên rồ công nghệ tân tiến, tất cả chỉ để dọa chúng ta sợ phát khóc.

Mẫu vật “Người cá Fiji” của P.T. Barnum xuất hiện trong những sô diễn lề vào thế kỷ 19, được quảng cáo là xác ướp của sinh vật nửa-thú-có-vú-nửa-cá. Trên thực tế, đây là phần thân trên cùng đầu của một con khỉ thành niên khâu dính vào xác một con cá.

Có một quan niệm phổ biến rằng, nếu bạn gặp ai đó lần đầu tiên trong một tình huống ghê sợ, bạn sẽ cảm thấy gắn bó hoặc thu hút bởi người đó hơn là khi bạn gặp họ trong một tình huống bình lặng. Điều này có tính chân thực nào không?

M.K.: Một trong những lý do mọi người thích Halloween là vì dịp này tạo ra những phản ứng cảm xúc mạnh mẽ, và những phản ứng này có tác dụng gây dựng nên những mối quan hệ và ký ức bền chặt hơn. Khi chúng ta vui vẻ hay hoảng sợ, chúng ta tiết ra những hoóc-môn hiệu lực mạnh, như oxcytocin, có tác dụng khiến những khoảnh khắc ấy kết dính trong não bộ. Vì thế, ta sẽ nhớ được người bên ta lúc ấy. Nếu đó là một trải nghiệm tốt lành, chúng ta sẽ thích thú khi nhớ về người ấy và cảm thấy gần gũi họ, nhiều hơn là khi chúng ta gặp họ trong một sự kiện bình thường hoặc trung lập. Shelly Taylor đã bàn về điều này trong bài viết “Khuynh hướng và kết bạn: Nền tảng sinh-hành vi của những mối quan hệ dưới áp lực.” Cô cho thấy chúng ta xây dựng một sự gần gũi đặc biệt với những người cạnh bên khi ta trong tình trạng bị kích thích, và quan trọng hơn, điều này có thể là một điều tốt. Chúng ta là những sinh vật cảm xúc và xã hội. Chúng ta cần nhau trong thời điểm áp lực, vì vậy việc cơ thể chúng ta đã tiến hóa để đảm bảo rằng ta cảm thấy gần gũi hơn với người khác khi lo sợ là hoàn toàn hợp lý. Vậy nên, đúng rồi, hãy dẫn người bạn đang hẹn hò đến nhà ma hay đi tàu lượn siêu tốc, và đó sẽ là một đêm bạn sẽ không bao giờ quên.

Hết.

Aki-ten dịch.

Bài viết gốc được thực hiện bởi Allegra Ringo, đăng tại The Atlantic.


Xem tất cả những bài viết của Aki-ten.


Những bài viết có cùng chủ đề




Trà chiều

Thế giới viễn tưởng độc đáo trong bốn bộ phim mang đậm tính thể nghiệm

Published

on

Thế giới của phim khoa học viễn tưởng không phải lúc nào cũng chỉ có AI, robot, hay du hành không gian mà còn vô vàn những điều đặc biệt khác có thể bạn chưa biết.

Năm 2023 vừa qua đã ghi nhận sự phát triển ngày càng mạnh mẽ của AI. Điều đó khiến cho dòng phim khoa học viễn tưởng nhận được nhiều sự quan tâm trở lại. Nhắc đến dòng phim này, người ta vẫn thường đóng khung nó với vài yếu tố tiêu biểu thường gặp như: AI, robot, du hành vũ trụ, thế giới song song… Tuy nhiên, có rất nhiều tác phẩm sci-fi kinh điển đã chứng minh điều ngược lại.

Hãy cùng Bookish khám phá những bộ phim sci-fi không thuần túy là sci-fi vì ở đó, người xem được tận hưởng bữa tiệc điện ảnh đỉnh cao với những hương vị hòa quyện mĩ mãn từ nhiều thể loại khác nhau.

Back to The Future (1985)

Sci-fi x Road Trip Comedies

Cùng với The Terminator, Back To The Future ra đời năm 1985 đã trở thành biểu tượng kinh điển của dòng phim sci-fi lấy chủ đề du hành thời gian. Đó cũng là một trong những nguyên nhân mà bộ phim này được nhắc đến nhiều lần trong Avengers: Endgame lúc cả nhóm quyết định quay về quá khứ.

Tuy nhiên, không giống như The Terminator, Back To The Future mang màu sắc vui nhộn, hài hước của lứa tuổi học trò. Cậu học sinh tuổi teen Marty McFly ở thập niên 80 vô tình bị kéo về quá khứ trên chiếc xe cỗ máy thời gian của nhà khoa học Emmett Brown. Cậu quay trở về thập niên 50 – lúc này bố mẹ cậu cũng ở lứa tuổi học trò như cậu. Để có thể quay về hiện tại năm 80, cậu phải tìm cách hàn gắn mối quan hệ của bố mẹ, nếu không bản thân cậu cũng sẽ không tồn tại ở năm 80. Từ đó, câu chuyện nảy sinh nhiều tình huống dở khóc dở cuối. Nếu như The Terminator là sự phối trộn hoàn hảo giữa thể loại sci-fi và hành động thì Back To The Future lại là màn kết hợp ăn ý giữa thể loại sci-fi và hài hành trình. Bộ phim tốn kinh phí thực hiện là 19 triệu USD nhưng lại có doanh thu phòng vé lên đến 388 triệu USD. Chính vì thành công này mà đạo diễn Robert Zemeckis đã thực hiện hai phần tiếp theo cũng vui nhộn không kém.

Snowpiercer (2013)

Sci-fi x Dystopia

Bong Joon Ho không chỉ tạo ra những bộ phim sâu sắc về đề tài xã hội mà ông còn có khả năng làm phim khoa học viễn tưởng rất chặt chẽ, thuyết phục. Điều này thể hiện rõ nhất qua Snowpiercer. Phim dựa trên tiểu thuyết Pháp Le Transperceneige lấy đề tài hậu tận thế. Trong tương lai, sau một thí nghiệm thất bại, khí hậu toàn cầu biến đổi dẫn đến gần như toàn bộ sinh vật đều bị diệt vong, ngoại trừ một số người may mắn có mặt trên con tàu Snowpiercer chạy vòng quanh Trái đất với động cơ vĩnh cửu. Tại đây, một xã hội thu nhỏ mới lại được hình thành. Dưới bàn tay tài hoa của Bong Joon Ho, Snowpiercer cũng không đơn giản là tác phẩm sci-fi thuần túy mà ông còn lồng ghép vào nhiều thể loại khác nhau: có những phân đoạn hành động mãn nhãn, đồng thời cũng có những phân đoạn dí dỏm, và cách đặt vấn đề về giai tầng xã hội vẫn mang phong cách rất đặc trưng của Bong. 

Eternal Sunshine Of The Spotless Mind (2004)

Sci-fi x Romance

Sẽ như thế nào nếu kết hợp thể loại sci-fi với phim tình cảm? Khi đó, chúng ta sẽ có kiệt tác Eternal Sunshine Of The Spotless Mind của bộ đôi đạo diễn Michel Gondry và biên kịch Charlie Kaufman. Bộ phim sử dụng đề tài “can thiệp kí ức” để khám phá bản năng con người khi tình yêu tan vỡ. Sẽ ra sao nếu khi chia tay một ai đó, bạn có thể xóa toàn bộ những kí ức vui buồn liên quan đến họ ra khỏi tâm trí? Sau khi Joel biết được Clementine – người yêu cũ của anh đã xóa kí ức tình yêu, anh quyết định bản thân mình cũng sẽ thực hiện việc này. Nhưng khi anh khám phá được điều gì đã khiến họ gắn kết rồi lại chia xa, anh nhận ra mình vẫn còn tình cảm dành cho cô. Nếu như công nghệ trong phim là thứ hư cấu thì cảm xúc giữa hai nhân vật trong Eternal Sunshine hoàn toàn chân thực, lay động trái tim người xem, khiến ai cũng phải thổn thức.

Under The Skin (2013)

Sci-fi x Experimental film

Cuối cùng, không thể không nhắc đến bộ phim sci-fi mang tính thể nghiệm, tiên phong đáng nhớ: Under The Skin. Có rất nhiều phim lấy đề tài sinh vật ngoài hành tinh xâm nhập Trái đất, nhưng có lẽ chưa bộ phim nào kể câu chuyện thật đặc biệt nhưng lại với nhịp điệu từ tốn như Under The Skin. Scarlett Johansson trong vai sinh vật ngoài hành tinh vô danh chỉ làm đúng một công việc là đi lang thang trên một chiếc xe tải, lựa chọn những người đàn ông cô đơn làm con mồi. Bộ phim rất kiệm lời thoại, khiến người xem rợn người không chỉ bởi những hình ảnh thị giác lạ mắt mà còn bởi thứ âm nhạc cũng đầy tính thể nghiệm độc đáo của Mica Levi. Tuy nhiên, nếu chỉ tập trung vào thể nghiệm mà bỏ qua nội dung, Under The Skin đã không gây được tiếng vang lớn như thế trong cộng đồng điện ảnh. Sau tất cả, bộ phim của đạo diễn Jonathan Glazer lại khiến người xem trăn trở nhiều về thân phận làm người.

Hoàng Đức Nhiên

Đọc bài viết

Trà chiều

The Terminator & Blade Runner: Hai tượng đài điện ảnh độc đáo của thập niên 80

Published

on

Cùng ra mắt vào thập niên 80, The Terminator (1984) và Blade Runner (1982) đều là hai kiệt tác điện ảnh độc đáo, góp phần rất lớn trong việc tạo ra diện mạo mới cho thể loại sci-fi.

Bài viết này sẽ dẫn dắt bạn khám phá những vấn đề khác nhau được đặt ra trong hai phim: từ những dòng suy tư về mối liên hệ nhân quả giữa hành động và thời gian trong The Terminator đến không gian đô thị đậm chất noir và những truy vấn về bản chất con người trong Blade Runner.

The Terminator (1984)

The Terminator là bước đột phá ngoạn mục trong sự nghiệp điện ảnh của đạo diễn James Cameron. Vào thời điểm ra mắt, bộ phim gây ấn tượng bởi việc pha trộn nhiều đặc tính giữa các thể loại khác nhau, mang đến màu sắc mới cho dòng phim sci-fi.

The Terminator kể câu chuyện về một người máy sát thủ ra đời năm 2029, được trao nhiệm vụ quay về năm 1984 để giết người phụ nữ trẻ tên là Sarah Connor. Sarah hoàn toàn không biết rằng cuộc đời cô có ảnh hưởng đáng kể đến số phận nhân loại và cô có thể chết bất cứ lúc nào dưới sự truy sát của cỗ máy bất khả chiến bại được gọi là Kẻ Hủy Diệt. Kyle Reese cũng đến từ tương lai nhưng nhiệm vụ của anh là bảo vệ Sarah – người mẹ của thủ lĩnh tương lai.

Với cốt truyện như thế, The Terminator vừa có những pha hành động mãn nhãn, vừa có nhiều tầng suy tư phức tạp về dòng chảy của thời gian, về phương thức thay đổi một sự kiện trong quá khứ có thể dẫn đến tương lai khác biệt hoàn toàn – đây vốn là chủ đề hiếm gặp trong phim hành động ở giai đoạn đó. Ngoài ra, những bản nhạc nền tạo không khí căng thẳng của nhạc sĩ Brad Fiedel cũng góp phần lớn vào thành công của phim.

Tất cả những nhân tố đó đã khiến phim trở thành một mảnh ghép quan trọng của văn hóa đại chúng đến tận ngày nay. Câu nói “I'll be back” của nhân vật Kẻ Hủy Diệt trong phim được sử dụng phổ biến, trở thành slogan thương hiện cho chính Arnold Schwarzenegger.

Từ năm 1984 đến nay, The Terminator đã sản xuất 6 phần phim: The Terminator (1984), Terminator 2: Judgment Day (1991), Terminator 3: Rise of the Machines (2003), Terminator Salvation (2009), Terminator Genisys (2015), Terminator: Dark Fate (2019). Tất cả những phần phim này đều đạt được doanh thu khủng, riêng phần đầu tiên The Terminator đã trụ vững ở vị trí số 1 trên bảng xếp hạng phòng vé ở Mỹ trong suốt hai tuần. Năm 2008, The Terminator đã được Thư viện Quốc hội Hoa Kỳ đưa vào Viện lưu trữ phim quốc gia để bảo tồn với lí do là bộ phim “nổi bật ở phương diện văn hóa, lịch sử, và mĩ học”.                          

Blade Runner (1982)

Không may mắn như The Terminator, Blade Runner của đạo diễn Ridley Scott là một tuyệt tác có số phận khá hẩm hiu khi vừa ra đời. Tuy nhiên, qua nhiều thập kỉ với những bản dựng khác nhau, tác phẩm này đã trở thành một tượng đài lớn của thể loại sci-fi.

Dựa trên tiểu thuyết gốc Do Androids Dream Of Electric Sheep? của nhà văn Philip K. Dick, Blade Runner vẽ nên viễn cảnh ảm đạm của thế giới vào năm 2019. Khi đó, thế giới tràn ngập những replicant – người máy có hình dạng giống con người, được tạo ra với vòng đời ngắn ngủi để làm những công việc nguy hiểm phục vụ cho con người. Một nhóm replicant bất mãn trước việc này đã làm một cuộc phản loạn, quay trở về Trái Đất và giết con người. Rick Deckard, một cảnh sát đã nghỉ hưu ở Los Angeles nhận nhiệm vụ phải truy lùng và tận diệt toàn bộ nhóm replicant nổi loạn này.

Blade Runner là sự pha trộn giữa sci-fi, trinh thám và phim noir – thể loại phim hình sự tội phạm mang đậm phong cách Hollywood, thường thể hiện thái độ hoài nghi, mỉa mai. Thông qua hành trình của Rick Deckard, bộ phim đặt ra nhiều câu hỏi triết học về tính người, thế nào là một con người.

Nhưng không chỉ sâu sắc về nội dung, Blade Runner còn là bữa tiệc chiêu đãi về thị giác qua cách bộ phim thể hiện không gian đô thị tương lai với những màn hình quảng cáo lớn, đèn neon luôn lấp lánh và đường phố lúc nào cũng nhộn nhịp. Cảm hứng thị giác của phim kết hợp từ những bức tranh cổ điển của danh họa Edward Hopper và các khu phố với những tòa nhà chọc trời ở Hong Kong. Sự kết hợp này đã tạo nên không gian thị giác ấn tượng của phim khi con người bị nhấn chìm trong công nghệ. Mĩ thuật của phim tạo ảnh hưởng lớn đến cách xây dựng không gian cho những phim sci-fi hay hành động của Hollywood ra đời sau đó như: The Matrix (1999), bộ ba Dark Knight (2005 – 2012) của đạo diễn Christopher Nolan, Ghost in the Shell (2017)…

Ngày nay, Blade Runner đã có một chỗ đứng không thể thay thế trong dòng phim sci-fi với nhiều ảnh hưởng mang tính định hình về mĩ thuật, tư duy về cách kể chuyện và nhân vật. Blade Runner 2049 – phần tiếp theo của phim ra đời vào năm 2017, đúng 35 năm kể từ phần đầu tiên đã không làm người hâm mộ thất vọng với điểm số trên Rotten Tomatoes lên đến 88%.

Hoàng Đức Nhiên

Đọc bài viết

Trà chiều

Hai tác phẩm định hình dấu ấn cá nhân của đạo diễn James Cameron và Christopher Nolan

Published

on

Đạo diễn James Cameron và đạo diễn Christopher Nolan đều là những cá nhân kiệt xuất trong ngành điện ảnh với nhiều bộ phim kinh điển vừa đạt được doanh thu khủng, vừa có giá trị nghệ thuật cao.

Tuy nhiên, khi nhắc đến hai vị đạo diễn tài danh này, có hai tác phẩm đặc biệt mà người hâm mộ điện ảnh không thể nào bỏ lỡ.Hãy cùng Bookish khám phá những dấu ấn đặc trưng cá nhân của đạo diễn James Cameron trong Avatar và của đạo diễn Christopher Nolan trong Inception.  

Avatar (2009)

Năm 2009, bộ phim sci-fi Avatar của đạo diễn James Cameron ra đời đã tạo nên bước ngoặt lớn cho sự phát triển công nghệ điện ảnh. Lần đầu tiên, cả thế giới được xem một bộ phim 3D. Kĩ thuật thị giác đột phá đã khiến trải nghiệm của phim cực kì sống động.

Vào năm 2154, nguồn tài nguyên Trái đất trở nên cạn kiệt dưới sự khai thác của con người dẫn đến khủng hoảng năng lượng. Lúc bấy giờ, tập đoàn RDA đang khai thác unobtanium – một loại khoáng sản có giá trị tại Pandora, một hành tinh tươi tốt mang sự sống giống Trái Đất nhưng lại có bầu khí quyển độc hại cho con người. Pandora là nơi sinh sống của người Na'vi da xanh, có hình dáng và trí óc giống con người. Để tìm hiểu về người Navi và sinh quyển ở Pandora, các nhà khoa học sử dụng cơ thể người lai Na’vi gọi là các Avatar, được hoạt động thông qua liên kết thần kinh với những người có kiểu gen phù hợp. Jake Sully là một cựu lính thủy quân được giao nhiệm vụ trà trộn vào hành tinh Pandora. Quá trình thực hiện nhiệm vụ đã khiến anh bị giằng xé giữa việc tuân theo mệnh lệnh hay bảo vệ xứ sở mà anh đã trót xem là quê nhà.

Đạo diễn James Cameron đã mất đến 15 năm để thực hiện Avatar từ lúc bộ phimcòn là ý tưởng năm 1994 cho đến khi ra đời năm 2009. Sở dĩ bộ phim mất nhiều thời gian như vậy là do Cameron không chỉ trau chuốt về mặt nghệ thuật mà còn cả kĩ thuật: từ công đoạn làm việc với chuyên gia ngôn ngữ để tạo ra tiếng Na’vi với hơn 1000 từ, cho đến việc tạo ra kĩ thuật 3D. Sự kì công này khiến Avatar chiều lòng được cả khán giả đại chúng lẫn giới hàn lâm. Avatar luônđứng đầu danh sách phim ăn khách nhất mọi thời đại với doanh thu lên đến 2,7 tỉ USD, và chỉ bị Avengers: Endgame vượt mặt vào năm 2019 sau suốt 10 năm thống trị bảng vàng.            

Avatar 3 dự kiến sẽ ra mắt vào năm 2025, tiếp tục hứa hẹn mang đến những thành tích khủng trong tương lai. 

James Cameron

Inception (2010)

Hầu như những bộ phim của đạo diễn Christopher Nolan đều có các yếu tố như: du hành thời gian, tìm hiểu bản chất thế giới… khiến người xem vừa rối não lẫn rối lòng. Và Inception chính là một tác phẩm hội tụ đủ các yếu tố làm nên thương hiệu Nolan, trở thành một tượng đài khó quên trong lòng người hâm mộ.

Inception là một trải nghiệm điện ảnh đáng nhớ khi Nolan cố gắng hình tượng hóa kiến trúc tư duy của con người, biến tiềm thức trở thành không gian vật lí cho các hoạt động đánh cắp được diễn ra. Bộ phim kể về một tên trộm có khả năng đi vào giấc mơ của người khác. Dom Cobb không trộm gì cả, anh chỉ trộm ý niệm. Bằng việc thâm nhập vào tiềm thức của đối tượng, anh có thể lấy thông tin mà đến cả những tay hacker sừng sỏ nhất cũng không thể làm được. Trong thế giới điệp viên, Cobb là vũ khí tối thượng. Nhưng kể cả vũ khí cũng có nhược điểm, khi Cobb gần như mất tất cả mọi thứ, anh được giao một nhiệm vụ cuối cùng để chuộc lỗi. Lần này, Cobb không gặt lấy ý niệm, anh gieo nó. Liệu anh và đồng đội có thành công?

Christopher Nolan

Inception có một kịch bản hoàn hảo, từng thế giới giấc mơ xuất hiện trong phim vừa chính xác, tinh tế, đôi khi lại hài hước. Thời gian là chủ đề yêu thích của Nolan và ông luôn tìm được cách thể nghiệm thú vị, có thể thấy rõ điều này qua cả phim InterstellarDunkirk. Nhưng trong Inception, thời gian không chỉ là chủ đề mà còn là công cụ kể chuyện khi tái hiện lại hoàn hảo nỗi ám ảnh của kẻ cắp giấc mơ. Từ đó, bộ phim đặt ra nhiều câu hỏi hóc búa: liệu rằng ta có đang sống trong thời gian thực, khi nào thì một giấc mơ trở thành thực tế, khi nào thì thực tế hóa ra lại chỉ là một giấc mơ, ta đang thức hay còn mơ?

Thông qua Inception, Nolan lồng ghép rất nhiều khái niệm về sự logic giấc mơ, đảo ngược các nguyên tắc vật lí, cho thấy những thực tại có thể vỡ vụn ra sao… Tất cả hòa quyện vào nhau, tạo thành một tác phẩm sci-fi tâm lí đỉnh cao mà có lẽ nhiều thập kỉ sau, vẫn còn khiến người ta trầm trồ.

Hoàng Đức Nhiên

Đọc bài viết

Cafe sáng