Trà chiều

Trong cuộc tranh luận dai dẳng về giày cao gót, không có phe nào thắng cuộc cả

Có phải giày cao gót là biểu tượng cho quyền lực? Sự áp bức? Chỉ là thứ phù phiếm? Biểu đạt sự tự tin? Tình dục?
Đều đúng cả.

Published

on

NOBODY WINS IN THE AGE-OLD DEBATE OVER HIGH HEELS

Summer Brennan

Trong ấn bản năm 1977 của Cẩm nang giúp phụ nữ ăn vận hướng tới thành công, chắp bút bởi John T. Molloy (“Chuyên viên tư vấn thời trang nổi tiếng nhất nước Mỹ sẽ cho bạn biết phải mặc gì và vì sao!”), phần giới thiệu có tiêu đề “Những sai lầm của phụ nữ và làm sao để khắc phục.” Theo sau đó là 187 trang đầy những lời khuyên về cách ăn mặc để khiến đồng nghiệp nam và khách hàng xem trọng bạn (đừng mặc gợi cảm, không bao giờ mặc quần tây, luôn mang giày cao gót mũi nhọn đến công sở). Vào thời bấy giờ, và đôi khi bây giờ vẫn thế, rất ít người nghĩ rằng công sở mới là điều cần phải thay đổi, mà thay vào đó, đa số cho rằng nữ nhân viên phải định hình lại để thích ứng với nơi làm việc. Bìa sau có hình một người phụ nữ trẻ trong trang phục công sở, không mỉm cười, với một người đàn ông lớn tuổi đằng sau cô ấy – chính tác giả – với cánh tay gần như chạm vào vai cô ấy.

Dù sao đi nữa, giày cao gót hiện nay là loại giày dép phổ biến nhất dành cho phụ nữ. Nó là giày cho các sự kiện, trưng bày, biểu diễn, quyền lực và tao nhã. Chúng ta đã ban cho nó khả năng biến đổi, và văn hoá của chúng ta là một nền văn hoá ám ảnh với sự biến đổi của người nữ. Trong một vài bối cảnh và sự kiện, thường là những hoàn cảnh trang trọng nhất, giày cao gót còn là trang phục bắt buộc. Giày cao gót với phụ nữ cũng giống cà-vạt với đàn ông: rất khó để trông vừa trang trọng vừa nữ tính mà không có nó. Phụ nữ đã bị cấp trên ép buộc mang giày cao gót khi làm việc hoặc khi thực hiện những nhiệm vụ liên quan đến công việc trong gần như tất cả các ngành nghề, từ nữ phục vụ bàn ở Las Vegas cho đến một kế toán ở PricewaterhouseCoopers; trong buồng máy bay cao 1000km cho đến một bãi biển ở Liên hoan phim Cannes. Nó là đôi giày cho khi chúng ta ở chế độ bật, cho tham vọng, cho chụp hình bìa tạp chí, cho thảm đỏ, cho chương trình trao giải, cho phòng họp, cho phòng xử án, cho toà nhà quốc hội, và cho bục tranh cử.

Hơi ngược đời một chút (hoặc có lẽ là không), trong ngành công nghiệp fetish1 kéo dài hơn 150 năm, giày cao gót cũng luôn được xem là biểu tượng tình dục. Đối với phụ nữ, thứ công khai nhất cũng là thứ kín đáo nhất, riêng tư nhất, và ngược lại.

Đối với phụ nữ, thứ công khai nhất cũng là thứ kín đáo nhất, riêng tư nhất, và ngược lại.

Cùng với việc được coi là đôi giày thích hợp cho sự kiện công chúng nhất, giày cao gót cũng được xem là nữ tính nhất. Rất ít kiểu dáng giày trong lịch sử được xem là dành riêng và đặc trưng cho tính nữ như những đôi giày gót nhọn đương đại (duy nhất loại giày khác có thể so sánh là đôi giày hoa sen cho đôi bàn chân bó của hoàng gia Trung Quốc thời xưa). Trong hai kiểu giày này, chỉ có cao gót thông dụng đến ngày nay. Trừ điểm đặc trưng là cái gót giày, cả hai loại giày này đều để lại dấu chân hình tam giác, nhỏ nhắn đặc trưng.

*

Nữ tính không đồng nghĩa với việc là phụ nữ. Sự nữ tính là thứ gì đó người ta thấy và cảm nhận, nhưng cũng là thứ người ta lảng tránh và chối bỏ, hoặc được nuôi dưỡng và chứng tỏ. Với phụ nữ chuyển giới, những cá nhân song tính hay liên giới tính và những người không xác định giới tính, giày cao gót đôi lúc đóng vai trò quan trọng trong việc thể hiện mong muốn tính nữ bên trong hoặc thừa nhận sự nữ tính, đặc biệt là khi họ đã bị nghi ngờ hoặc chối bỏ trên con đường tiếp cận với tính nữ, bất chấp (hay chính vì) giới tính mà họ được gán cho lúc sinh ra. Hoặc không? Dù sao đi nữa, giày cao gót cũng tạo một hợp âm mạnh mẽ và vang dội trong bản hoà nhạc phức tạp của bản dạng giới tính hiện đại.

Giày cao gót và tổ tiên của chúng đã bị kì thị, sau đó được bảo vệ, sau đó lại bị kì thị, bị đánh giá bất công và bắt ép thành gần-như-bắt-buộc-phải-dùng bởi cùng một nền văn hoá cùng một lúc. Là phụ nữ, dù bạn ăn mặc như thế nào, bạn vẫn bị lạc trong một mê cung: đi hướng này thì bạn được khen thưởng, đi hướng khác thì bạn bị phục kích hoặc mắc kẹt. Thật khó để không rơi vào tình trạng thất vọng khi người ta biến lối nói hoa mỹ này thành một kết luận logic, rằng một đôi giày “đúng đắn” thì không nữ tính, còn đôi giày “nữ tính” thì không thể đúng đắn được, vì vậy thể hiện “tính nữ” là việc thiếu khôn ngoan. Chúng ta cứ mãi tranh luận về giày dép của phụ nữ qua cả ngàn năm, bởi vì các luận điểm không xoay quanh thời trang hay văn hoá, hay thậm chí là về giày. Chúng là về chính trị và vai trò của phụ nữ đối với xã hội.

Khi một người phụ nữ cố gắng đảm nhiệm vai trò tối cao, cái câu hỏi rằng cô ấy nên mang giày gì có thể trở nên rất phức tạp. Trong cuộc bầu cử tổng thống Mỹ 2016, ứng cử viên nữ đầu tiên của một đảng lớn, Hillary Clinton đã mang một đôi giày chắc chắn là kết quả của quá trình cân nhắc cực kỳ thận trọng. Giày đế bệt hiển nhiên là không trang trọng cho một sự kiện lớn như vậy nên bà ấy đã mang giày cao gót. Thế nhưng, gót giày quá cao sẽ thể hiện ra là gợi cảm quá, và do đó, không nghiêm túc, đối với cả vị trí và tuổi tác của bà, vì thế giày gót rất thấp là phù hợp. Và bởi vì đế quá thấp, nên nếu đế vuông hay đế xuồng sẽ khiến chúng gần như giống hệt giày nam, nên đế giày của bà cũng rất mảnh. Những đôi giày đế mảnh và thấp như vậy cũng có tên cho chúng: gót mèo con (kitten heels). Những đôi giày này thật ra rất chuẩn, và có lẽ là lựa chọn duy nhất chấp nhận được cho bà Clinton trong trường hợp này, để thể hiện rằng, trong khoảnh khắc ấy, bà vừa nữ tính, nghiêm túc và thời trang, cùng một lúc. Việc ăn mặc hợp thời trang, đặc biệt là với nữ giới được xem như là một biểu hiện của trí thông minh xã hội. Vậy mà trớ trêu thay, một ứng cử viên nữ giới cho cuộc bầu cử tổng thống chỉ có sự lựa chọn duy nhất, và sự lựa chọn này còn có cả chữ “mèo con” trong tên.

Giày “mèo con”
Ảnh: Manolo Blahnik

Điểm tương đồng giữa những nhà hoạt động nữ quyền và phi nữ quyền là: chẳng hề có đường lối nào áp dụng cho giày cao gót cả. Tính từ thời điểm bài viết này ra đời, dường như cứ vài tháng thì sẽ có một vụ tranh cãi liên quan đến giày cao gót đều đặn xuất hiện. Giày cao gót sẽ bị cấm ở đâu đó, và bị bắt buộc ở một chỗ khác, hoặc một nhân vật có sức ảnh hưởng sẽ mang chúng ở một nơi nào đó không thích hợp. Báo chí sẽ đăng tải, những thành phần quá khích trong Twitter nhảy vào. Một nhóm sẽ gièm pha chúng là đại diện của sự đàn áp, ủng hộ chế độ nam quyền, trong khi số khác bảo vệ chúng hay người mang chúng dưới danh nghĩa tôn vinh tính nữ, thể hiện văn hoá, lựa chọn an toàn (lựa chọn – vâng, lại là cái từ này). Có vẻ như là, bất chấp việc chúng ta chọn cái gì, vẫn có một mặt nào đó không được toàn vẹn. Lựa chọn một thứ đồng nghĩa với đánh mất những thứ còn lại. Vậy giày cao gót tốt hay xấu? Ý nghĩa của chúng là gì? Chúng ủng hộ nữ quyền hay chống lại nó? Chúng có biểu đạt quyền lực không? Sự độc lập? Sự áp bức? Tính chuyên nghiệp? Sự tự tin? Tính phù phiếm? Sự quỵ lụy? Tình dục? Chẳng ai đồng tình với ai cả.

Nếu bạn hỏi tôi, thì toàn bộ những ý kiến trên đều đúng.

… Nhưng đi giày cao gót không đau chân à?

Đúng là giày cao gót gây ra đau chân, và nó không chỉ đau khi bạn té. Một đôi giày tốt chỉ khiến bạn đau chân sau khi đi bộ một thời gian nhất định, trong khi đôi chất lượng kém thì đau ngay khi vừa mang. Chúng làm trầy da và cấn vào xương. Sự thật không thể trốn tránh là, nếu mang thường xuyên, giày cao gót sẽ có ảnh hưởng xấu vĩnh viễn đến cơ thể. Với một số người, giày cao gót, đặc biệt là những đôi giày gót nhọn stiletto, là đặc trưng của đám phụ nữ dựa hơi đàn ông, với hàng tá cuộc phẫu thuật thẩm mĩ, đôi bàn chân như búp bê Barbie, và – giống như Ivanka Trump – được sinh ra trong nhung lụa và giả vờ như mình đại diện cho sức mạnh phụ nữ; tương tự như phong trào Tiếp Sức Hồng, những mặt hàng nhãn hồng dành riêng cho phái nữ với đơn giá cao hơn 20% mặt hàng dành cho nam giới trong tiệm tạp hoá.

Giày gót nhọn stiletto
Ảnh: Pexels

*

Tuy nhiên, bên ngoài cái địa hạt marketing và quảng cáo siêu-nhân-tạo này, vẫn còn có điều gì đó sâu sắc hơn thế. Giày cao gót sở hữu một nét hấp dẫn phức tạp. Có gì đó hoang dại của dã thú, tựa móng vuốt của loài chim săn mồi hay loài sư tử (và tất nhiên, từ giày cao gót ở tiếng Pháp là les talons – vuốt chim.) Tôi nhớ về dáng giày xuất hiện trong những tác phẩm lộng lẫy mà ám ảnh của nghệ sĩ lai Mĩ-Dominica, Firelei Baez, trong đó, những chiếc gót nhọn, vuốt sắc, trông như thể là mọc thẳng ra từ chính đôi chân. Những dáng hình trong tranh của cô ấy, đầy nhục dục và không thể kiềm chế được, phình ra và nẩy mầm rồi nở hoa thành những hình dáng hoang dã hơn phụ nữ, sắc màu như muốn trào ra, được bao phủ bởi lá, lông chim, tóc và hoa vùng nhiệt đới. Thay vì phải lựa chọn giữa những quả vả đày đoạ lo lắng của Sylvia Plath, dường như những người phụ nữ của Baez’s đã trở thành cây, một cái cây ăn quả xanh có tri giác. Vào một thời kỳ nổi bật trong sự nghiệp của Baez, gần như tất cả các nhân vật của cô, những người mà chân có thể được nhìn thấy trong bức tranh, đều có cái gót nhọn chết người đó, như là một cái sừng mảnh, một cái răng sắc nhọn, hay một cái cọc xuyên thủng vật bất kỳ; bàn chân của họ uốn cong và nhọn, sẵn sàng để chụp con mồi, để thăng bằng hoặc là để nhảy múa.

Firelei Báez | A reconstituted echo (2019)
Ảnh: Artsy

Có gì đó hoang dại của dã thú, tựa móng vuốt của loài chim săn mồi hay loài sư tử (và tất nhiên, từ giày cao gót ở tiếng Pháp là les talons – vuốt chim.)

Bản thân giày đã mang một sức mạnh lạ lùng trong việc gợi mở trí tưởng tượng, từ lâu đã đóng vai trò đóng thế cho cơ thể con người và vai trò xã hội của người đó. Thời thơ ấu, thông qua truyện cổ tích, chúng ta biết rằng giày là vật ma thuật có thể giúp đỡ hoặc phá hoại, là phần thưởng hoặc là vết thương, là sự giải phóng hoặc cầm tù. Chúng có thể biến một con mèo thành thủ tướng và người hầu thành nữ hoàng. Freud mô tả bàn chân như là một biểu tượng gợi dục lâu đời thậm chí trong các truyền thuyết cổ đại; ông nói rằng giày là ẩn dụ cho bộ phận sinh dục của phụ nữ. Mặc dù người ta có nhiều việc phải làm hơn là để tâm đến chuyện, với Freud, liệu có thứ gì không đại diện cho bộ phận sinh dục không, cách hiểu này thêm một hàm nghĩa gây sửng sốt vào nội dung những câu chuyện cổ tích – từ cơn đau như đâm thấu lòng bàn chân của nàng tiên cá khi nàng bước vào thế giới con người, hay cô bé có đôi giày đỏ khiến cô nhảy múa không ngừng cho dù cô không còn muốn, hay là thứ mà Cô bé lọ lem đã thật sự mất vào tay hoàng tử vào đêm dạ hội.

*

Khi hè dần sang thu ở Paris, làn sóng khách du lịch giảm xuống, một lần nữa các con phố lại tràn ngập người dân Paris. Lá cây hạt dẻ ngựa chuyển màu xanh úa, rồi chuyển đốm nâu, rồi rụng từng chiếc từng chiếc xuống nền đá vôi của các công viên được chăm sóc tỉ mỉ. Đèn nê-on của quán cà phê có vẻ như bật mỗi ngày mỗi sớm hơn. Nỗi lo sợ hay mong mỏi mùa hè của tôi, rằng giày cao gót sẽ trở nên lỗi thời cũng biến mất, khi Kinh Đô Ánh Sáng ăn diện cho mùa mới. Chúng lại xuất hiện: nhung đỏ, nhung vàng, hay da thuộc xanh; đen, nâu, xám, tím, hoa, hoạ tiết paisley, trắng. Có giày cao gót nhọn, có gót “mèo con”, xăng-đan cao gót, bốt thấp cao gót. Chúng được mặc chung với áo đầm, quần rộng, váy, quần đùi, đồ bay, quần jeans, abaya, nguyên bộ sậu vải in kiểu Tây Phi,… Và tất nhiên, cũng có giày đế bệt, giày oxford, giày sneaker, giày búp bê, giày lười, bốt, giày moccasin,… Và trong số chúng, giày cao gót vẫn là sự lựa chọn của khá nhiều người.

Câu chuyện về đôi giày của một người là câu chuyện về địa vị trong xã hội của cô ấy, và dấu chân của chúng ta là dấu vết ta để lại, cho những nơi ta đã đi qua và những nơi ta đang hướng tới. Đây là câu chuyện đương đại nhất về giày của phụ nữ: những đôi giày bí ẩn và có thực, còn mới toanh hay đã được mang mòn, được kinh qua sự hào hứng và nỗi đau, những đôi giày khiến người mang tập tễnh hay như đang bay, đôi giày được làm từ thuỷ tinh, băng hay đá quý, đôi giày chúng ta đánh cắp hay bị trộm mất, đôi giày loang màu hay dính máu của chúng ta. Nỗi đau, niềm hạnh phúc, ước mơ, nỗi khao khát, địa vị, máu: đây là đoạn điệp khúc trong bài hát của người phụ nữ, nói về khi chúng ta đi chệnh choạng, cà nhắc, nhảy múa và bước qua cái thế giới tạp nham này.

Hết.

Chú thích:

  1. Fetish (ái vật, hay bái vật tình dục) chỉ các mối quan tâm tình dục trên những đối tượng không phải là cơ quan sinh dục. Những mối quan tâm này có thể coi như công cụ hỗ trợ để đạt cảm hứng tình dục hoặc có thể trở thành rối loạn tâm thần nếu nó gây ra những đau khổ tâm lý đáng kể cho người mắc hoặc tác động có hại vào các lĩnh vực quan trọng trong đời sống của họ.

Emma Đẹp Thần Thánh dịch.

Bài gốc được thực hiện bởi Summer Brennan, trích từ Object Lessons: High Heel.

Xem tất cả những bài viết của Emma Đẹp Thần Thánh tại đây.


Muôn chuyện phức tạp của phụ nữ!



Trà chiều

Văn hóa đọc tại Việt Nam: Hành trình tỉnh thức trong thời đại mất tập trung

Khi cả thế giới đang quay cuồng trong cơn lốc của tốc độ, của công nghệ số và mạng xã hội, văn hóa đọc – vốn là một hoạt động tĩnh tại, cô độc và đòi hỏi sự kiên nhẫn – bỗng trở thành hiện tượng lạ giữa đời sống hiện đại.

Published

on

Một cú chạm màn hình có thể đưa bạn tới bất kỳ đâu: từ buổi hòa nhạc ở Vienna đến một bữa ăn đường phố ở Bangkok, từ những khoảnh khắc riêng tư của người xa lạ đến bản tin thời sự lúc rạng đông. Nhưng càng dễ dàng kết nối, chúng ta lại càng khó khăn trong việc lắng nghe chính mình. 

Và trong cuộc hành trình ấy, đọc sách - hành động tưởng như đã cũ kỹ, đang âm thầm trở lại như một nơi trú ẩn cuối cùng của tâm hồn hiện đại.

Văn hóa đọc không chỉ là việc “đọc sách”

Văn hóa đọc không nên được định nghĩa đơn giản chỉ là hành vi tiếp nhận văn bản in ấn, cần phải nhìn nó như là một cấu trúc hệ giá trị, nơi người đọc không chỉ tiêu thụ thông tin, mà còn tương tác với tri thức, phản tư, và từ đó tạo ra tầng sâu văn hóa cá nhân. Nên hiểu đọc là một hành vi văn hóa, không chỉ là kỹ năng.

Thế nhưng, tại Việt Nam, hành vi đọc nhiều khi bị giản lược thành “hoạt động học thuộc”. Cái gốc của việc đọc để hiểu mình và hiểu thế giới vẫn còn mờ nhạt trong đời sống học đường lẫn đời sống đô thị.

Chúng ta từng được dạy rằng đọc là để biết nhiều hơn. Nhưng biết không đồng nghĩa với hiểu. “Biết” là quá trình tiếp nhận và lưu trữ dữ liệu dưới dạng thông tin. “Hiểu” vượt lên trên điều đó - nó đòi hỏi sự tham gia của trải nghiệm cá nhân, khả năng phân tích, đồng cảm và cả những va chạm nội tâm. Một tác phẩm có giá trị không chỉ cung cấp tri thức ngoại tại, mà còn tạo điều kiện cho chủ thể tiếp nhận được soi chiếu, phản tỉnh từ đó nhận diện những lớp ẩn sâu của bản thể qua hình ảnh của người khác trong trang sách. 

Khi một đứa trẻ đọc Những tấm lòng cao cả, em sẽ không chỉ học đạo đức, mà bắt đầu cảm nhận được trái tim nhân loại. Khi một thiếu niên lần đầu đọc Người xa lạ của Camus, cậu ấy có thể không lý giải nổi thế giới, nhưng sẽ bắt đầu đặt câu hỏi về nó và về chính mình.

Vấn đề không nằm ở việc thiếu sách, mà thiếu “thái độ văn hóa” với sách

Mặc dù Việt Nam có hơn 30.000 đầu sách xuất bản mỗi năm (theo Cục Xuất bản), thế nhưng lượng sách bán ra tập trung chủ yếu ở thể loại giải trí, ngôn tình, self-help, còn các dòng sách triết học, văn hóa, nhân văn… chiếm tỷ lệ nhỏ hơn. Ta không thiếu sách, ta thiếu một nền tảng thẩm mỹ và nhân văn để lựa chọn sách một cách có chủ đích.

Nguyên nhân không chỉ nằm ở thời đại số làm thay đổi thói quen tiếp nhận thông tin, mà còn nằm ở cách giáo dục về đọc sách. Tại nhiều trường học, việc đọc vẫn gắn liền với hình thức kiểm tra, chấm điểm, làm bài văn nghị luận sách giáo khoa - điều khiến đọc sách trở thành một “nghĩa vụ” hơn là một hành trình khám phá. Gia đình, các bậc phụ huynh còn chưa thực sự nghiên cứu và đặt mối quan tâm lớn lao cho việc giáo dục con trẻ dẫn đến việc các em phụ thuộc quá nhiều vào các thiết bị công nghệ. 

Nhưng tín hiệu đáng mừng là trong những năm gần đây, chúng ta chứng kiến sự nở rộ của các phong trào đọc sách tự phát, không phải từ chỉ đạo hành chính, mà từ những con người đang đi tìm lại bản thân giữa cơn hỗn loạn của thông tin.

Đáng chú ý, sự phát triển của nền tảng số cũng không còn là lực cản, mà đang dần trở thành đòn bẩy cho việc tiếp cận sách: audio book, book podcast, nền tảng chia sẻ tóm tắt sách hay các cộng đồng đọc sách online đang lan tỏa mạnh mẽ. Sách không còn là một vật thể bất động mà trở thành dòng chảy đồng hành với sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ, âm thanh và cảm xúc.

Tất cả đang làm sống lại một giá trị xưa cũ: sự tĩnh lặng nội tâm. Đọc sách giờ đây không chỉ là tiếp nhận thông tin, mà là một hành động phản kháng với sự phân tán, ồn ào, và tiêu dùng giải trí mang tính chất "mì ăn liền".

Văn hóa đọc trong thời đại “siêu dữ liệu”

Thách thức lớn nhất với văn hóa đọc trong thời đại kỹ thuật số không phải là sự biến mất của sách giấy, mà là sự thoái hóa khả năng tập trung, năng lực phản tư và thái độ nghiêm túc của con người với tri thức. Chúng ta sống trong thời đại mà nội dung có thể bị tiêu thụ như thức ăn nhanh, nơi mọi người “đọc để phản ứng”, thay vì “đọc để cảm nghiệm”. Bởi vậy, chọn đọc - nhất là đọc sâu, đọc chậm giờ đây không chỉ là một lựa chọn mang tính trí tuệ, mà còn là một cách gìn giữ bản thân trước sự xao nhãng của thế giới hiện đại.

Đọc là kháng cự lại tốc độ. Là từ chối cái dễ. Là chọn cái sâu - dù biết nó chậm.

Văn hóa đọc giờ đây không chỉ là sách, mà còn là cách ta sống. Không chỉ là hành động cá nhân. Nó phản ánh cả một văn hóa. Một đất nước biết trân trọng sách là một đất nước không dễ bị lãng quên ký ức. Một thế hệ đọc sách là một thế hệ có nội lực.

Ở Việt Nam, từng có một thế kỷ mà sách được đọc bằng ánh đèn dầu, được chép tay, được truyền tay như những báu vật. Sách đi qua chiến tranh, qua đói nghèo, qua đạn bom, nhưng vẫn sống. Vấn đề của hôm nay không phải là thiếu sách, mà là quá nhiều thứ giành giật tâm trí ta khỏi sách.

Vấn đề sâu xa hơn: ta không còn coi đọc là một phần của việc sống đẹp. Thế giới đang dần lãng quên sự im lặng, sự chậm rãi, sự suy tư. Trong truyền thống tư tưởng phương Đông, đọc không phải là phương tiện để đạt được cái bên ngoài, mà là trở về với cái bên trong. Từ thời Lão - Trang, việc học, việc đọc vốn gắn liền với sự tĩnh tại của tâm. Đọc là tu thân. Đọc là dưỡng khí. Đọc là hành động đi ngược lại với sự xao động của đời sống, để khơi mở “minh tâm kiến tánh”, thấy lại chân diện mục của chính mình. 

Ngày xưa, các nho sĩ khi đọc sách thường đặt một bát nước trong veo bên cạnh, để “nếu tâm xao động thì nước đục” như một cách tự phản tỉnh. Người đọc không chỉ là kẻ truy cầu tri thức, mà còn là người gìn giữ đạo lý, tiết tháo và sự lặng thầm bền bỉ của văn hóa.

Trong thời đại siêu kết nối hiện nay, nghịch lý lớn nhất là con người càng lúc càng rỗng hơn giữa vô số dữ liệu. Chúng ta “biết” rất nhiều thứ nhưng lại hiểu rất ít điều, và càng ít sống sâu. Văn hóa đọc nếu được xem là một hệ sinh thái văn hóa bền vững - chính là cơ chế tự phòng vệ của trí tuệ trước sự tha hóa của thị hiếu và tốc độ.

Bởi vì đọc không chỉ là để “biết”, mà để nghi ngờ cái mình biết. Không chỉ để “giỏi lên”, mà để hiểu mình và hiểu người hơn. Và không chỉ để có tri thức, mà để trở nên người hơn trong thế giới ngày càng thiếu vắng chất người. 

Đọc - tự bản thân nó là một hành động kháng cự lại sự lãng quên, sự cạn mỏng và cả sự dễ dãi. Nó khơi mở lại điều tưởng như đã mất: một chiều sâu văn hóa không thể số hóa, không thể sao chép, thứ văn hóa được chưng cất từ mỗi lần lật trang, từ mỗi khoảnh khắc im lặng tự đối diện chính mình. Để được sống với một trái tim có lớp lang. 

Và nếu phải chọn một hành động lặng lẽ nào đó để định nghĩa tinh thần của một dân tộc đang muốn trở mình từ bên trong, thì đó hẳn phải là: đọc sách.

Ngọc Trâm

Đọc bài viết

Trà chiều

Vẻ đẹp từ những cuộc đời bình thường

Không cần phải nổi bật, bạn vẫn có thể sống một đời ý nghĩa.

Published

on

Làm người bình thường giờ đây bị ngầm hiểu là một thất bại trong một thế giới say mê những con người xuất chúng. Từ những giải vàng trong các trường tiểu học đến danh hiệu “nhân viên xuất sắc của tháng”; từ những tấm hình, thước phim được chọn lựa kĩ càng để đăng trên Instagram đến cuộc đua trở thành “phiên bản rực rỡ nhất của chính mình”, văn hóa của chúng ta không ngừng nâng cao chuẩn mực cho những tính từ “thành công”, “xứng đáng” hoặc thậm chí là “đủ”. Nhưng liên tục chạy đua để trở thành người xuất chúng liệu có khiến chúng ta hạnh phúc hơn hay chỉ đang gieo thêm lo âu, mặc cảm và đứt gãy trong kết nối giữa người với người?

Ẩn giấu trong những cuộc đời không mấy nổi bật vẫn tồn tại sự bình yên sâu lắng, đích đến đáng quý, thậm chí là vẻ đẹp đáng tôn vinh. Có lẽ đã đến lúc ta nên giành lại chân lý ấy - rằng không cần rực rỡ để sống một đời đáng sống.

Những chuẩn mực ngày càng leo cao

Ngay cả trẻ con giờ đây cũng không thoát khỏi chuỗi dài những kì vọng từ gia đình và xã hội. Trước kia, thời chúng ta đi học, “trung bình” được coi là nền tảng để phấn đấu, không có gì đáng xấu hổ. Nhưng nhìn xem, lũ trẻ bây giờ đang bị áp lực phải trở thành những người có thành tựu từ khi còn chưa học được cách chơi đùa vô tư. Giành được điểm A vẫn bị coi là chưa đủ tốt nếu chúng không mang thêm giải thưởng, tham gia hoạt động ngoại khóa và trong vai những người dẫn dắt, lãnh đạo đội nhóm. Những rào chắn vô hình không ngừng cao lên, vì thế chẳng ngạc nhiên khi những sinh viên mới bước vào ngưỡng cửa đại học hay thị trường lao động đã kiệt sức thay vì hạnh phúc. 

Mạng xã hội chỉ đổ thêm dầu vào lửa, đốt cháy cuộc đua kì vọng ấy hơn. Không dừng lại ở việc lướt xem những khoảnh khắc rực rỡ của người khác, chúng ta bắt đầu so sánh với cuộc đời chưa được đánh bóng của bản thân. Đọc được câu chuyện về những bạn trẻ 22 tuổi khởi nghiệp, đi du lịch vòng quanh thế giới, tự sắm nhà riêng - ta cảm thấy mình tụt lại vì mỗi ngày chỉ dậy đi làm và thanh toán hóa đơn. Những điều ấy trước kia từng được coi là phi thường, nay bỗng hóa tiêu chuẩn tối thiểu.

Ngay cả trong đời sống riêng, áp lực vẫn len lỏi. Ta phải là những người yêu lý tưởng, cha mẹ dịu dàng, giỏi chăm sóc bản thân và công dân đầy chánh niệm - tốt nhất là xong hết trước 9 giờ sáng. Người ta truyền nhau một quan niệm hiện đại, rằng: bạn đang lãng phí tiềm năng nếu không tối ưu từng giây phút của cuộc đời mình.

Nhưng nếu tiềm năng không phải là một chiếc thang để leo, mà là một không gian để ta an trú thì sao?

Phẩm giá ẩn sau lựa chọn một đời an yên

Hãy đổi cách ta kể câu chuyện. Sẽ ra sao nếu một cuộc sống “tầm trung” lại chính là một công việc đủ nuôi sống bản thân, những mối quan hệ đầy yêu thương, và một mái nhà rộn tiếng cười xen lẫn tiếng bát đũa? Không phải thứ để ta trốn chạy khi nhắc đến, mà là điều đáng để gìn giữ và trân trọng đúng không?

Thật tuyệt khi bạn xuất hiện trên mạng xã hội với những khoảnh khắc như vậy, dù cho chẳng có lời tán dương nào. Chúng ta vẫn luôn cần một người bạn chân thành, một người lạ biết cảm thông, và một đồng nghiệp đáng tin cậy. Những vai trò ấy hiếm khi xuất hiện trên mạng xã hội, nhưng chúng là sợi chỉ âm thầm dệt nên kết cấu bền chặt của xã hội -  điều mà danh vọng và tiền bạc đôi khi không thể làm được.

Hãy nghĩ về những giáo viên, lao công, y tá, tài xế, đầu bếp, điều dưỡng - những con người mà công việc thầm lặng của họ vẫn đang giữ cho thế giới vận hành. Họ có thể không bao giờ được gọi tên rộng rãi, nhưng công sức của họ chạm đến cuộc sống của biết bao người. Những tên gọi nghề nghiệp nghe có vẻ “bình thường”, nhưng những gì họ làm được thì không hề nhỏ bé.

Bình thường không có nghĩa là tầm thường. Đó là sự biết đủ với những gì bạn có, thay vì liên tục đem so với những cuộc đời khác. Đó là việc bạn hiểu rằng mình không thất bại chỉ vì không xuất chúng - chỉ cần là một con người đã luôn là điều đặc biệt. 

Những đánh đổi phía sau niềm tin phải trở nên xuất chúng

Bị cuốn vào cuộc đua theo đuổi sự vĩ đại thường dẫn ta đến tình trạng kiệt sức, lo âu và cô đơn. Chủ nghĩa cầu toàn gây ra chứng tê liệt cảm xúc, còn việc so sánh khiến ta đánh mất niềm vui. Ai cũng có thể “trên mức trung bình” - rõ ràng về mặt thống kê quan niệm này sai. Ấy vậy mà xã hội vẫn tiếp tục bán giấc mơ ấy, và ta vẫn tiếp tục mua nó, rồi cảm thấy mình chưa bao giờ đủ.

Ở một góc độ khác, việc tôn vinh thành công thái quá cũng hình thành một tâm thức thiếu hoàn thiện: nếu chỉ có một vài người ở đỉnh cao, thì phần còn lại ắt phải là kẻ thua cuộc. Nhưng cuộc sống đâu phải là một bảng xếp hạng, nó là bức tranh khảm đầy những niềm vui nhỏ bé, những khoảnh khắc yên tĩnh, và những kết nối thành thật giữa con người với nhau.

Ta chỉ thực sự sống trong hiện tại khi ngừng đuổi theo những cột mốc tiếp theo. Ta có thể tìm thấy sự đủ đầy, không phải trong việc trở nên khác biệt, mà trong cảm giác được thuộc về gia đình, cộng đồng và chính bản thân mình.

Viết lại định nghĩa “cuộc đời ý nghĩa”

Định hình lại những gì là cốt lõi của cuộc sống đòi hỏi sự can đảm - nhất là trong nền văn hóa đầy rẫy phô trương. Nó đồng nghĩa với việc khước từ lối sống "cày cuốc", chọn thầm lặng thay vì tiếng tăm, chọn sống sâu thay vì sống gấp, chọn sống đúng với hệ giá trị riêng của bản thân thay vì đứng trên những tiếng vỗ tay hào nhoáng.

Một cuộc đời ý nghĩa không được xây nên từ giải thưởng hay thuật toán mà được dệt từ những cuộc trò chuyện chân thật, những thói quen bồi đắp nên chúng ta, những bữa cơm trong gian bếp, những bước đi chậm rãi, những cử chỉ tử tế nhỏ nhoi - và nghỉ ngơi mà không mang theo cảm giác tội lỗi.

Hà Nhi dịch từ Psychology Today

Đọc bài viết

Trà chiều

“Cạm bẫy tiện lợi” của AI

Published

on

Vào thứ Sáu ngay trước ngày khai mạc Hội sách Thiếu nhi Bologna, OpenAI đã tung ra công nghệ tạo hình ảnh mới tích hợp trong GPT-4o. Công nghệ này giới thiệu các khả năng đa phương thức tiên tiến, cho phép người dùng tạo ra những hình ảnh vô cùng chi tiết bằng nhiều phong cách nghệ thuật đa dạng. Gần như ngay lập tức, người dùng đã thử tạo hình ảnh theo phong cách thẩm mỹ đặc trưng của Studio Ghibli và thử nghiệm với nhiều phong cách minh họa sách thiếu nhi kinh điển. Độ chính xác của kết quả và khả năng bắt chước các họa sĩ minh họa nổi tiếng của công nghệ này đã thực sự gây sốc cho những người đang tề tựu tại Bologna.

Nổi bật trong các tiếng nói quan ngại về những bước tiến mới này là Nurgül Senefe, họa sĩ minh họa người Thổ Nhĩ Kỳ. Bà là nhà sáng lập của tổ chức vận động Illustrator’s Platform và Mạng lưới ZNN, một công ty đại diện tác giả và họa sĩ minh họa, đồng thời là Tổng Thư ký của Diễn đàn Họa sĩ Minh họa Châu Âu. Bà Senefe chia sẻ với tờ Publisher Weekly rằng, “sự lười biếng trong nhận thức” đang đe dọa khiến con người ngày càng phụ thuộc vào AI.

Bà Nurgül Senefe. Nguồn: Diễn đàn Họa sĩ Minh họa.

Từ kinh nghiệm điều hành một tổ chức với 400 nhân sự đang tận tâm bảo vệ quyền của họa sĩ minh họa và xây dựng những phương thức kinh doanh bền vững, bà Senefe cho rằng: “Điểm yếu lớn nhất của con người là cảm giác vui sướng đến từ sự tiện lợi mà AI mang đến”.

Mạng lưới ZNN hoạt động như một cầu nối trung gian giữa họa sĩ và bên đặt hàng, giúp thiết lập các quy chuẩn tối ưu cho ngành, đồng thời giám sát quy trình đặt hàng tác phẩm. Công việc của họ nay càng trở nên cấp bách hơn bao giờ hết khi AI ngày một tác động mạnh mẽ đến lĩnh vực sáng tạo.

“Đặc biệt với trí tuệ nhân tạo, chúng tôi đang nỗ lực xây dựng một nền tảng để đại diện cho quyền lợi của họa sĩ minh họa”, bà Senefe cho biết.

Khi khảo sát các thành viên trong tổ chức, bà Senefe thường đưa ra một câu hỏi lấy ví dụ từ bộ phim Ma trận (The Matrix), hỏi họ sẽ chọn viên thuốc nào – đỏ hay xanh. “Mọi người đều nói, ‘Tôi sẽ chọn viên màu đỏ’, bà kể lại, dùng phép ẩn dụ này để nhấn mạnh tầm quan trọng của việc giữ chính mình “tỉnh táo nhận thức về những gì đang diễn ra hôm nay”.

Mối bận tâm hàng đầu của bà Senefe xoay quanh chính bản chất của con người. “Nếu bạn không ý thức được hành vi của mình, nó sẽ dần định hình nên tính cách của bạn.” Dù vấp phải sự phản đối từ nhiều chuyên gia sáng tạo – “Mọi người nói chúng ta không sử dụng AI tạo sinh, chúng ta chống lại nó”, bà vẫn quan sát thấy người ta tiếp tục thử nghiệm công nghệ này và ghi nhận rằng một số người cho biết nó “khá tiện lợi”.

Bà Senefe nhận định: Yếu tố tiện lợi này chính là mấu chốt của vấn đề. Bà cũng đưa ra các ví dụ tương tự trong đời thực. “Nếu bạn để ý, tôi chắc chắn bạn sẽ thấy ở ga tàu điện hoặc nhà ga xe lửa, mọi người xếp hàng dài hàng mét chỉ để đi thang cuốn, nhưng tại sao họ không leo thang bộ cơ chứ?” Các ví dụ khác bao gồm sự lệ thuộc của xã hội vào thức ăn nhanh, bất chấp những rủi ro sức khỏe đã được chứng minh, hay việc nhiều bậc cha mẹ dùng máy tính bảng làm "người giữ trẻ kiểu mới cho con” khi quá tải hay xao nhãng.

Họa sĩ Hayao Miyazaki, đồng sáng lập Studio Ghibli luôn thể hiện sự phản đối mạnh mẽ đối với AI trong sáng tạo. Trong bộ phim tài liệu Never - ending man: Hayao Miyazaki năm 2016, khi được giới thiệu về một dự án hoạt hình sử dụng AI, ông Hayao Miyazaki đã thẳng thừng chỉ trích công nghệ này. Ông gọi nó là "một sự xúc phạm đến cuộc sống" và nhấn mạnh rằng nghệ thuật không chỉ là kỹ thuật mà còn là cảm xúc, trải nghiệm và tinh thần con người.

Bà Senefe tỏ ra lo lắng về một khả năng trong tương lai, nơi những người làm sáng tạo cuối cùng sẽ phải “làm việc cho máy móc”, khi các nhà xuất bản có khả năng chọn AI thay vì sản phẩm của con người vì chúng “quá tiện lợi, rẻ, hiệu quả và nhanh chóng”.

“Dần dà, chúng ta sẽ quen xem cái ‘chưa đủ’ là đủ, ‘không đẹp’ là đẹp, ‘phi nghệ thuật’ là nghệ thuật. Điều này sẽ kéo tụt mặt bằng giá trị của nhận thức chung, hiểu biết và sự chấp nhận của xã hội, làm thay đổi cả một lĩnh vực mà chúng ta thậm chí không hề hay biết”.

Để mô tả quá trình bình thường hóa đáng lo ngại này, bà Senefe đã đặt hàng một bức tranh minh họa dựa trên ẩn dụ về con ếch trong nồi nước đang nóng dần lên, không nhận ra mối nguy hiểm đang cận kề. Bức tranh này đặt ra một câu hỏi nhức nhối: “Bạn sẽ dùng AI một cách có ý thức và để máy móc phục vụ cho bạn, hay bị AI thống trị và trở thành tay chân cho máy móc?”

“Thử thách lớn nhất của chúng ta trong cuộc đối đầu với AI chính là sự lười biếng trong nhận thức”, bà Senefe kết luận. Bà cho rằng, cũng như sự nghiện ngập và các thói quen độc hại khác, sự phụ thuộc vào AI có thể bén rễ từ từ và len lỏi vào đời sống một cách khó nhận biết nếu giới chuyên môn sáng tạo không duy trì cảnh giác.

Hoàng Thảo dịch từ Publishers Weekly

Đọc bài viết

Cafe sáng