Trà chiều

Trong cuộc tranh luận dai dẳng về giày cao gót, không có phe nào thắng cuộc cả

Có phải giày cao gót là biểu tượng cho quyền lực? Sự áp bức? Chỉ là thứ phù phiếm? Biểu đạt sự tự tin? Tình dục?
Đều đúng cả.

Published

on

NOBODY WINS IN THE AGE-OLD DEBATE OVER HIGH HEELS

Summer Brennan

Trong ấn bản năm 1977 của Cẩm nang giúp phụ nữ ăn vận hướng tới thành công, chắp bút bởi John T. Molloy (“Chuyên viên tư vấn thời trang nổi tiếng nhất nước Mỹ sẽ cho bạn biết phải mặc gì và vì sao!”), phần giới thiệu có tiêu đề “Những sai lầm của phụ nữ và làm sao để khắc phục.” Theo sau đó là 187 trang đầy những lời khuyên về cách ăn mặc để khiến đồng nghiệp nam và khách hàng xem trọng bạn (đừng mặc gợi cảm, không bao giờ mặc quần tây, luôn mang giày cao gót mũi nhọn đến công sở). Vào thời bấy giờ, và đôi khi bây giờ vẫn thế, rất ít người nghĩ rằng công sở mới là điều cần phải thay đổi, mà thay vào đó, đa số cho rằng nữ nhân viên phải định hình lại để thích ứng với nơi làm việc. Bìa sau có hình một người phụ nữ trẻ trong trang phục công sở, không mỉm cười, với một người đàn ông lớn tuổi đằng sau cô ấy – chính tác giả – với cánh tay gần như chạm vào vai cô ấy.

Dù sao đi nữa, giày cao gót hiện nay là loại giày dép phổ biến nhất dành cho phụ nữ. Nó là giày cho các sự kiện, trưng bày, biểu diễn, quyền lực và tao nhã. Chúng ta đã ban cho nó khả năng biến đổi, và văn hoá của chúng ta là một nền văn hoá ám ảnh với sự biến đổi của người nữ. Trong một vài bối cảnh và sự kiện, thường là những hoàn cảnh trang trọng nhất, giày cao gót còn là trang phục bắt buộc. Giày cao gót với phụ nữ cũng giống cà-vạt với đàn ông: rất khó để trông vừa trang trọng vừa nữ tính mà không có nó. Phụ nữ đã bị cấp trên ép buộc mang giày cao gót khi làm việc hoặc khi thực hiện những nhiệm vụ liên quan đến công việc trong gần như tất cả các ngành nghề, từ nữ phục vụ bàn ở Las Vegas cho đến một kế toán ở PricewaterhouseCoopers; trong buồng máy bay cao 1000km cho đến một bãi biển ở Liên hoan phim Cannes. Nó là đôi giày cho khi chúng ta ở chế độ bật, cho tham vọng, cho chụp hình bìa tạp chí, cho thảm đỏ, cho chương trình trao giải, cho phòng họp, cho phòng xử án, cho toà nhà quốc hội, và cho bục tranh cử.

Hơi ngược đời một chút (hoặc có lẽ là không), trong ngành công nghiệp fetish1 kéo dài hơn 150 năm, giày cao gót cũng luôn được xem là biểu tượng tình dục. Đối với phụ nữ, thứ công khai nhất cũng là thứ kín đáo nhất, riêng tư nhất, và ngược lại.

Đối với phụ nữ, thứ công khai nhất cũng là thứ kín đáo nhất, riêng tư nhất, và ngược lại.

Cùng với việc được coi là đôi giày thích hợp cho sự kiện công chúng nhất, giày cao gót cũng được xem là nữ tính nhất. Rất ít kiểu dáng giày trong lịch sử được xem là dành riêng và đặc trưng cho tính nữ như những đôi giày gót nhọn đương đại (duy nhất loại giày khác có thể so sánh là đôi giày hoa sen cho đôi bàn chân bó của hoàng gia Trung Quốc thời xưa). Trong hai kiểu giày này, chỉ có cao gót thông dụng đến ngày nay. Trừ điểm đặc trưng là cái gót giày, cả hai loại giày này đều để lại dấu chân hình tam giác, nhỏ nhắn đặc trưng.

*

Nữ tính không đồng nghĩa với việc là phụ nữ. Sự nữ tính là thứ gì đó người ta thấy và cảm nhận, nhưng cũng là thứ người ta lảng tránh và chối bỏ, hoặc được nuôi dưỡng và chứng tỏ. Với phụ nữ chuyển giới, những cá nhân song tính hay liên giới tính và những người không xác định giới tính, giày cao gót đôi lúc đóng vai trò quan trọng trong việc thể hiện mong muốn tính nữ bên trong hoặc thừa nhận sự nữ tính, đặc biệt là khi họ đã bị nghi ngờ hoặc chối bỏ trên con đường tiếp cận với tính nữ, bất chấp (hay chính vì) giới tính mà họ được gán cho lúc sinh ra. Hoặc không? Dù sao đi nữa, giày cao gót cũng tạo một hợp âm mạnh mẽ và vang dội trong bản hoà nhạc phức tạp của bản dạng giới tính hiện đại.

Giày cao gót và tổ tiên của chúng đã bị kì thị, sau đó được bảo vệ, sau đó lại bị kì thị, bị đánh giá bất công và bắt ép thành gần-như-bắt-buộc-phải-dùng bởi cùng một nền văn hoá cùng một lúc. Là phụ nữ, dù bạn ăn mặc như thế nào, bạn vẫn bị lạc trong một mê cung: đi hướng này thì bạn được khen thưởng, đi hướng khác thì bạn bị phục kích hoặc mắc kẹt. Thật khó để không rơi vào tình trạng thất vọng khi người ta biến lối nói hoa mỹ này thành một kết luận logic, rằng một đôi giày “đúng đắn” thì không nữ tính, còn đôi giày “nữ tính” thì không thể đúng đắn được, vì vậy thể hiện “tính nữ” là việc thiếu khôn ngoan. Chúng ta cứ mãi tranh luận về giày dép của phụ nữ qua cả ngàn năm, bởi vì các luận điểm không xoay quanh thời trang hay văn hoá, hay thậm chí là về giày. Chúng là về chính trị và vai trò của phụ nữ đối với xã hội.

Khi một người phụ nữ cố gắng đảm nhiệm vai trò tối cao, cái câu hỏi rằng cô ấy nên mang giày gì có thể trở nên rất phức tạp. Trong cuộc bầu cử tổng thống Mỹ 2016, ứng cử viên nữ đầu tiên của một đảng lớn, Hillary Clinton đã mang một đôi giày chắc chắn là kết quả của quá trình cân nhắc cực kỳ thận trọng. Giày đế bệt hiển nhiên là không trang trọng cho một sự kiện lớn như vậy nên bà ấy đã mang giày cao gót. Thế nhưng, gót giày quá cao sẽ thể hiện ra là gợi cảm quá, và do đó, không nghiêm túc, đối với cả vị trí và tuổi tác của bà, vì thế giày gót rất thấp là phù hợp. Và bởi vì đế quá thấp, nên nếu đế vuông hay đế xuồng sẽ khiến chúng gần như giống hệt giày nam, nên đế giày của bà cũng rất mảnh. Những đôi giày đế mảnh và thấp như vậy cũng có tên cho chúng: gót mèo con (kitten heels). Những đôi giày này thật ra rất chuẩn, và có lẽ là lựa chọn duy nhất chấp nhận được cho bà Clinton trong trường hợp này, để thể hiện rằng, trong khoảnh khắc ấy, bà vừa nữ tính, nghiêm túc và thời trang, cùng một lúc. Việc ăn mặc hợp thời trang, đặc biệt là với nữ giới được xem như là một biểu hiện của trí thông minh xã hội. Vậy mà trớ trêu thay, một ứng cử viên nữ giới cho cuộc bầu cử tổng thống chỉ có sự lựa chọn duy nhất, và sự lựa chọn này còn có cả chữ “mèo con” trong tên.

Giày “mèo con”
Ảnh: Manolo Blahnik

Điểm tương đồng giữa những nhà hoạt động nữ quyền và phi nữ quyền là: chẳng hề có đường lối nào áp dụng cho giày cao gót cả. Tính từ thời điểm bài viết này ra đời, dường như cứ vài tháng thì sẽ có một vụ tranh cãi liên quan đến giày cao gót đều đặn xuất hiện. Giày cao gót sẽ bị cấm ở đâu đó, và bị bắt buộc ở một chỗ khác, hoặc một nhân vật có sức ảnh hưởng sẽ mang chúng ở một nơi nào đó không thích hợp. Báo chí sẽ đăng tải, những thành phần quá khích trong Twitter nhảy vào. Một nhóm sẽ gièm pha chúng là đại diện của sự đàn áp, ủng hộ chế độ nam quyền, trong khi số khác bảo vệ chúng hay người mang chúng dưới danh nghĩa tôn vinh tính nữ, thể hiện văn hoá, lựa chọn an toàn (lựa chọn – vâng, lại là cái từ này). Có vẻ như là, bất chấp việc chúng ta chọn cái gì, vẫn có một mặt nào đó không được toàn vẹn. Lựa chọn một thứ đồng nghĩa với đánh mất những thứ còn lại. Vậy giày cao gót tốt hay xấu? Ý nghĩa của chúng là gì? Chúng ủng hộ nữ quyền hay chống lại nó? Chúng có biểu đạt quyền lực không? Sự độc lập? Sự áp bức? Tính chuyên nghiệp? Sự tự tin? Tính phù phiếm? Sự quỵ lụy? Tình dục? Chẳng ai đồng tình với ai cả.

Nếu bạn hỏi tôi, thì toàn bộ những ý kiến trên đều đúng.

… Nhưng đi giày cao gót không đau chân à?

Đúng là giày cao gót gây ra đau chân, và nó không chỉ đau khi bạn té. Một đôi giày tốt chỉ khiến bạn đau chân sau khi đi bộ một thời gian nhất định, trong khi đôi chất lượng kém thì đau ngay khi vừa mang. Chúng làm trầy da và cấn vào xương. Sự thật không thể trốn tránh là, nếu mang thường xuyên, giày cao gót sẽ có ảnh hưởng xấu vĩnh viễn đến cơ thể. Với một số người, giày cao gót, đặc biệt là những đôi giày gót nhọn stiletto, là đặc trưng của đám phụ nữ dựa hơi đàn ông, với hàng tá cuộc phẫu thuật thẩm mĩ, đôi bàn chân như búp bê Barbie, và – giống như Ivanka Trump – được sinh ra trong nhung lụa và giả vờ như mình đại diện cho sức mạnh phụ nữ; tương tự như phong trào Tiếp Sức Hồng, những mặt hàng nhãn hồng dành riêng cho phái nữ với đơn giá cao hơn 20% mặt hàng dành cho nam giới trong tiệm tạp hoá.

Giày gót nhọn stiletto
Ảnh: Pexels

*

Tuy nhiên, bên ngoài cái địa hạt marketing và quảng cáo siêu-nhân-tạo này, vẫn còn có điều gì đó sâu sắc hơn thế. Giày cao gót sở hữu một nét hấp dẫn phức tạp. Có gì đó hoang dại của dã thú, tựa móng vuốt của loài chim săn mồi hay loài sư tử (và tất nhiên, từ giày cao gót ở tiếng Pháp là les talons – vuốt chim.) Tôi nhớ về dáng giày xuất hiện trong những tác phẩm lộng lẫy mà ám ảnh của nghệ sĩ lai Mĩ-Dominica, Firelei Baez, trong đó, những chiếc gót nhọn, vuốt sắc, trông như thể là mọc thẳng ra từ chính đôi chân. Những dáng hình trong tranh của cô ấy, đầy nhục dục và không thể kiềm chế được, phình ra và nẩy mầm rồi nở hoa thành những hình dáng hoang dã hơn phụ nữ, sắc màu như muốn trào ra, được bao phủ bởi lá, lông chim, tóc và hoa vùng nhiệt đới. Thay vì phải lựa chọn giữa những quả vả đày đoạ lo lắng của Sylvia Plath, dường như những người phụ nữ của Baez’s đã trở thành cây, một cái cây ăn quả xanh có tri giác. Vào một thời kỳ nổi bật trong sự nghiệp của Baez, gần như tất cả các nhân vật của cô, những người mà chân có thể được nhìn thấy trong bức tranh, đều có cái gót nhọn chết người đó, như là một cái sừng mảnh, một cái răng sắc nhọn, hay một cái cọc xuyên thủng vật bất kỳ; bàn chân của họ uốn cong và nhọn, sẵn sàng để chụp con mồi, để thăng bằng hoặc là để nhảy múa.

Firelei Báez | A reconstituted echo (2019)
Ảnh: Artsy

Có gì đó hoang dại của dã thú, tựa móng vuốt của loài chim săn mồi hay loài sư tử (và tất nhiên, từ giày cao gót ở tiếng Pháp là les talons – vuốt chim.)

Bản thân giày đã mang một sức mạnh lạ lùng trong việc gợi mở trí tưởng tượng, từ lâu đã đóng vai trò đóng thế cho cơ thể con người và vai trò xã hội của người đó. Thời thơ ấu, thông qua truyện cổ tích, chúng ta biết rằng giày là vật ma thuật có thể giúp đỡ hoặc phá hoại, là phần thưởng hoặc là vết thương, là sự giải phóng hoặc cầm tù. Chúng có thể biến một con mèo thành thủ tướng và người hầu thành nữ hoàng. Freud mô tả bàn chân như là một biểu tượng gợi dục lâu đời thậm chí trong các truyền thuyết cổ đại; ông nói rằng giày là ẩn dụ cho bộ phận sinh dục của phụ nữ. Mặc dù người ta có nhiều việc phải làm hơn là để tâm đến chuyện, với Freud, liệu có thứ gì không đại diện cho bộ phận sinh dục không, cách hiểu này thêm một hàm nghĩa gây sửng sốt vào nội dung những câu chuyện cổ tích – từ cơn đau như đâm thấu lòng bàn chân của nàng tiên cá khi nàng bước vào thế giới con người, hay cô bé có đôi giày đỏ khiến cô nhảy múa không ngừng cho dù cô không còn muốn, hay là thứ mà Cô bé lọ lem đã thật sự mất vào tay hoàng tử vào đêm dạ hội.

*

Khi hè dần sang thu ở Paris, làn sóng khách du lịch giảm xuống, một lần nữa các con phố lại tràn ngập người dân Paris. Lá cây hạt dẻ ngựa chuyển màu xanh úa, rồi chuyển đốm nâu, rồi rụng từng chiếc từng chiếc xuống nền đá vôi của các công viên được chăm sóc tỉ mỉ. Đèn nê-on của quán cà phê có vẻ như bật mỗi ngày mỗi sớm hơn. Nỗi lo sợ hay mong mỏi mùa hè của tôi, rằng giày cao gót sẽ trở nên lỗi thời cũng biến mất, khi Kinh Đô Ánh Sáng ăn diện cho mùa mới. Chúng lại xuất hiện: nhung đỏ, nhung vàng, hay da thuộc xanh; đen, nâu, xám, tím, hoa, hoạ tiết paisley, trắng. Có giày cao gót nhọn, có gót “mèo con”, xăng-đan cao gót, bốt thấp cao gót. Chúng được mặc chung với áo đầm, quần rộng, váy, quần đùi, đồ bay, quần jeans, abaya, nguyên bộ sậu vải in kiểu Tây Phi,… Và tất nhiên, cũng có giày đế bệt, giày oxford, giày sneaker, giày búp bê, giày lười, bốt, giày moccasin,… Và trong số chúng, giày cao gót vẫn là sự lựa chọn của khá nhiều người.

Câu chuyện về đôi giày của một người là câu chuyện về địa vị trong xã hội của cô ấy, và dấu chân của chúng ta là dấu vết ta để lại, cho những nơi ta đã đi qua và những nơi ta đang hướng tới. Đây là câu chuyện đương đại nhất về giày của phụ nữ: những đôi giày bí ẩn và có thực, còn mới toanh hay đã được mang mòn, được kinh qua sự hào hứng và nỗi đau, những đôi giày khiến người mang tập tễnh hay như đang bay, đôi giày được làm từ thuỷ tinh, băng hay đá quý, đôi giày chúng ta đánh cắp hay bị trộm mất, đôi giày loang màu hay dính máu của chúng ta. Nỗi đau, niềm hạnh phúc, ước mơ, nỗi khao khát, địa vị, máu: đây là đoạn điệp khúc trong bài hát của người phụ nữ, nói về khi chúng ta đi chệnh choạng, cà nhắc, nhảy múa và bước qua cái thế giới tạp nham này.

Hết.

Chú thích:

  1. Fetish (ái vật, hay bái vật tình dục) chỉ các mối quan tâm tình dục trên những đối tượng không phải là cơ quan sinh dục. Những mối quan tâm này có thể coi như công cụ hỗ trợ để đạt cảm hứng tình dục hoặc có thể trở thành rối loạn tâm thần nếu nó gây ra những đau khổ tâm lý đáng kể cho người mắc hoặc tác động có hại vào các lĩnh vực quan trọng trong đời sống của họ.

Emma Đẹp Thần Thánh dịch.

Bài gốc được thực hiện bởi Summer Brennan, trích từ Object Lessons: High Heel.

Xem tất cả những bài viết của Emma Đẹp Thần Thánh tại đây.


Muôn chuyện phức tạp của phụ nữ!



Trà chiều

Tết Đoan Ngọ ở Việt Nam có gì khác các nước đồng văn?

Published

on

Mỗi năm vào ngày mùng 5 tháng 5 âm lịch, Việt Nam và các nước đồng văn như Trung Quốc, Hàn Quốc và Nhật Bản lại cùng nhau chào đón một dịp lễ truyền thống mang đậm dấu ấn văn hóa phương Đông: Tết Đoan Ngọ. Dù tên gọi và nghi lễ có phần khác biệt, ngày lễ này đều gắn liền với ý nghĩa thanh lọc cơ thể, xua đuổi bệnh tật và bảo vệ sức khỏe trong thời khắc giao mùa quan trọng của năm. Từ bữa cơm "diệt sâu bọ" của người Việt, tục uống rượu hùng hoàng ở Trung Quốc, đến gội đầu và xông hơi bằng thảo dược ở Hàn Quốc; Tết Đoan Ngọ không chỉ phản ánh đời sống tâm linh mà còn cho thấy sự giao thoa và phát triển đa dạng của các nền văn hóa Á Đông.

Nguồn gốc và tục lệ Tết Đoan Ngọ ở Việt Nam

Ở nước ta, Tết Đoan Ngọ được dân gian gọi bằng một cái tên dân dã: Tết diệt sâu bọ vì người ta tin rằng khi ăn món đầu tiên trong ngày này thì sâu bọ, giun sán trong người sẽ bị chết hết. Theo nhà nghiên cứu văn hóa Trần Ngọc Thêm, ngày Tết này của Việt Nam có nguồn gốc chung với các dân tộc Bách Việt sinh sống ở khu vực Nam Trung Hoa và Bắc Đông Dương. Đây là vùng canh tác lúa nước lâu đời, nơi khí hậu mùa hè nóng bức ảnh hưởng xấu đến sức khỏe con người. Tuy nhiên, nhờ vào kinh nghiệm quan sát thời tiết để canh tác, người dân nơi đây đã hình thành nên Tết Đoan Ngọ như một nghi lễ nhằm thích ứng và tận dụng quy luật tự nhiên trong chu kỳ khí hậu hàng năm. 

Đặc biệt hơn, đây còn là ngày mang tính biểu tượng của ngày giỗ Quốc Mẫu Âu Cơ - ngày vô cùng quan trọng trong đời sống văn hóa tâm linh của mỗi người dân Việt. Ca dao ông cha ta có câu: Tháng Năm ngày tết Đoan Dương/ Là ngày giỗ Mẹ Việt Thường Văn Lang.  

Theo truyền thống của dân tộc Việt, người dân ăn tết Đoan Ngọ bằng sự cúng lễ. Tại các làng xã có lễ thần tại đình, đền; ở thôn, xóm có cúng tại miếu còn trong mỗi gia đình, mâm cỗ được dâng lên tổ tiên. Vì đây là thời điểm tiết trời nắng gắt nhất trong năm (Cực Âm – tiết Hạ chí), nên các món ăn thường là đồ nguội, mát mang tính hàn. Những món không thể thiếu trong mâm cỗ cúng Tết Đoan Ngọ ở khắp 3 miền là rượu nếp (cơm rượu) và trái cây. Trái cây được chọn có hình tròn như vải, mận (miền Nam gọi là mận bắc), hạt sen (làm chè). 

Ngoài ra, ẩm thực Tết Đoan Ngọ cũng có nhiều điểm khác nhau ở 3 miền. Miền Bắc thường có bánh gio trên bàn cúng, từ Thanh Hóa vào đến Huế thường nấu xôi ăn với thịt vịt. Người dân từ Đà Nẵng đến Quảng Ngãi thường cho trẻ nhỏ vào vườn hái quả ăn, một số ít gia đình nấu xôi chè cúng lễ. Trong khi đó, người nông dân miền Nam thường đúc bánh lọt, nấu chè trôi nước và xôi gấc cúng tổ tiên rồi cả nhà quây quần cùng nhau ăn. Với tư duy tiếp biến làm mới cách chế biến, trang trí, phong vị các món chay truyền thống cùng mong muốn giao thoa ẩm thực 3 miền, bạn có thể tham khảo công thức món chè trôi nước tam sắc trong cuốn Thanh tịnh mâm cỗ Việt của hai tác giả Hồ Đắc Thiếu Anh Nguyễn Hồ Tiếu Anh.

Nguồn gốc và tục lệ Tết Đoan Ngọ ở Trung Quốc 

Khác với Việt Nam, ý nghĩa ngày tết Đoan Ngọ của người Trung Hoa gắn với tích về ông Khuất Nguyên nước Sở cuối thời chiến quốc. Là một nhà thơ và chính trị gia nước Sở, ông nổi tiếng vì lòng yêu nước và tài văn chương. Sau khi bị vu cáo và thất sủng, ông sống trong đau khổ và sáng tác thiên "Ly Tao" thể hiện nỗi lòng. Những ngày cuối đời, ông bị đày đến Giang Nam, rồi trong tuyệt vọng, đã tự vẫn bằng cách ôm đá nhảy xuống sông Mịch La. Theo truyền thuyết ấy, hàng năm người ta tổ chức ngày mồng 5 tháng 5 là ngày Tết Đoan Ngọ để tưởng nhớ ông. 

Cũng theo tích trên, sau khi Khuất Nguyên trầm mình xuống sông Mịch La, người dân Trung Quốc xưa đã tổ chức chèo thuyền ra cứu ông nhưng không thành. Từ đó, truyền thống đua thuyền rồng vào ngày Tết Đoan Ngọ ra đời để tưởng niệm ông. Ngoài ra, người Trung Quốc còn giữ nhiều phong tục đặc trưng trong dịp lễ này như đeo túi thơm để xua đuổi tà ma, hái thuốc, hái trà và tổ chức lễ hội rước rồng ở một số vùng dân tộc thiểu số như người Mèo.

Hoạt động đua thuyền rồng trong ngày Tết Đoan Ngọ

Về ẩm thực, người Trung Quốc ăn bánh ú (zongzi) với nhiều loại nhân tùy vùng như thịt, đậu xanh, long nhãn, trứng muối hay bột dẻ…và uống rượu hùng hoàng - một loại rượu có pha khoáng chất màu vàng, được tin là có thể xua đuổi sâu bọ và tà khí.

Nguồn gốc và tục lệ ở Hàn Quốc 

Còn tại xứ sở kim chi, ngày Tết Đoan Ngọ được biết đến với tên gọi Dano (단오) hay Surinal (수릿날). Ở đây, “Suri” có nghĩa là “Thần”, là “cao”, tức là vị thần tối cao, ám chỉ mặt trời. Tết Đoan Ngọ báo cho mọi người biết ánh nắng chói chang của mùa hè sắp lan tỏa khắp nơi, cây cối hoa màu cũng sắp tới thời điểm sinh trưởng tốt tươi nhất trong năm. Người ta tổ chức các hoạt động ăn chơi nhằm tượng trưng cho sức mạnh và sự cường tráng, cầu nguyện cho mùa màng bội thu không bị sâu bệnh phá hoại.

Phong tục tập quán truyền thống tiêu biểu nhất của Hàn Quốc trong ngày Tết Đoan Ngọ là đấu vật truyền thống Ssireum. Trước kia, người giành chiến thắng trên sân đấu vật thường được thưởng một con bê. Vào ngày Tết Đoan Ngọ xa xưa, phụ nữ thường kéo nhau ra suối gội đầu bằng nước lá cỏ Thạch Dương Bồ, rồi chơi đánh đu. Đến cả các cô gái đài các giới thượng lưu ngày thường chỉ quanh quẩn trong dinh thự, nhưng tới Tết Đoan Ngọ cũng được cha mẹ cho phép ra ngoài ngắm cảnh.

Bánh Suritteok và Yaktteok là hai loại bánh truyền thống làm từ gạo, các loại hạt và lá cây được người Hàn thưởng thức trong ngày 5/5 này. Nếu như bánh Suritteok chỉ đơn giản là chiếc bánh ngải cứu hình bánh xe thì những chiếc bánh Yaktteok đa dạng hơn khá nhiều. Cũng được làm từ gạo không dính nấu chín nhưng không phải với lá ngải cứu mà với các loại hạt khác nhau và tạo thành những hình dáng phong phú.

Như vậy, không chỉ là dịp đánh dấu bước chuyển quan trọng trong chu kỳ mùa vụ và thời tiết, Tết Đoan ngọ còn là tấm gương phản chiếu bản sắc văn hóa riêng của các quốc gia Á Đông. Dù cùng chung cội nguồn từ nền văn minh nông nghiệp lúa nước và chịu ảnh hưởng của triết lý phương Đông, mỗi dân tộc lại sáng tạo nên những phong tục, nghi lễ mang màu sắc riêng. Việc tiếp nối và gìn giữ các giá trị này không chỉ giúp mỗi dân tộc lưu giữ ký ức văn hóa truyền thống, mà còn góp phần tạo nên sự đa dạng và sâu sắc trong di sản tinh thần chung của khu vực.

Hà Nhi

Đọc bài viết

Trà chiều

Phía sau Ngày của Mẹ: Câu chuyện lịch sử bị lãng quên

Published

on

Ít ai biết rằng, Ngày của Mẹ khởi nguồn như một phong trào của những người phụ nữ mong muốn mang lại cuộc sống tốt đẹp hơn cho người dân Mỹ. Nguồn gốc bị lãng quên ấy xuất phát từ hai nhà hoạt động suốt đời cống hiến những nỗ lực cải thiện y tế, phúc lợi và hòa bình. Hiểu về lịch sử Ngày của Mẹ - để thêm trân trọng và tìm thấy cảm hứng từ đó.

Ai là người sáng lập ra Ngày của Mẹ?

Việc tạo ra một ngày lễ quốc gia dành riêng cho mẹ phần lớn là công lao của ba người phụ nữ: Julia Ward Howe, Ann Reeves Jarvis, và con gái của Ann - Anna M. Jarvis.

Ann Reeves Jarvis

Được nhiều người gọi trìu mến là “Mẹ Jarvis”, Ann Reeves Jarvis là một người nội trợ trẻ sống ở vùng núi Appalachian, từng giảng dạy trong lớp học Kinh Thánh mỗi Chủ nhật. Nhưng bên cạnh đó, bà còn là một nhà hoạt động xã hội suốt đời. Vào giữa thế kỷ 19, bà đã tổ chức các “Câu lạc bộ hành động của những người Mẹ” (“Mothers’ Day Work Clubs”) tại West Virginia nhằm chống lại điều kiện sống mất vệ sinh nghiêm trọng lúc bấy giờ. Mẹ Jarvis lo lắng trước tỷ lệ trẻ sơ sinh tử vong quá cao - thậm chí trở nên tràn lan tại khu vực này, đồng thời mong muốn hỗ trợ và giáo dục các bà mẹ đang gặp khó khăn nhất.

Trong thời kì nội chiến Hoa Kỳ, bà tiếp tục tổ chức các đoàn phụ nữ, khuyến khích họ cùng giúp đỡ, bất kể chồng con họ đang đứng về phe nào. Sau chiến tranh, bà đề xuất tổ chức một “Ngày tình thân của những người Mẹ” (Mothers’ Friendship Day) - với hy vọng hàn gắn những rạn nứt giữa các gia đình từng đứng ở hai chiến tuyến: Liên minh miền Nam và Liên bang miền Bắc.

Julia Ward Howe

Julia Ward Howe là một nhà thơ và nhà cải cách nổi tiếng. Trong thời kỳ Nội chiến, bà tình nguyện làm việc cho Ủy ban Vệ sinh Hoa Kỳ, góp phần mang lại môi trường sạch sẽ cho các bệnh viện và đảm bảo điều kiện vệ sinh trong việc chăm sóc thương binh, bệnh binh. Năm 1861, bà sáng tác bài thánh ca nổi tiếng của thời Nội chiến – “The Battle Hymn of the Republic”, lần đầu được phát rộng rãi vào tháng 2 năm 1862. 

Khoảng năm 1870, Julia đã kêu gọi tổ chức riêng một “Ngày của Mẹ vì hòa bình” (“Mother’s Day for Peace”) để tôn vinh hòa bình và chấm dứt chiến tranh. Trong bản “Tuyên ngôn Ngày của Mẹ” (“Mother’s Day Proclamation”) do bà viết, Julia cảm thấy rằng chính những người mẹ - những người phải gánh chịu và thấu hiểu cái giá phải trả của chiến tranh - cần phải cùng nhau lên tiếng chống lại sự tàn khốc và sự phí hoài cuộc sống vì súng gươm. 

“Ngày của Mẹ” theo góc nhìn của Julia từng được tổ chức tại Boston và một vài nơi khác trong khoảng 30 năm nhưng nhanh chóng biến mất vào những năm trước Thế chiến thứ nhất.

Không có gì mới mẻ diễn ra trong phong trào này cho đến năm 1907, khi cô Anna M. Jarvis ở Philadelphia tiếp tục giương cao ngọn cờ ấy. 

Anna M. Jarvis

Sau khi mẹ qua đời vào năm 1905, cô Anna M. Jarvis ở Philadelphia đã ấp ủ ước nguyện tưởng nhớ cuộc đời đầy cống hiến của mẹ mình. Cô bắt đầu vận động một ngày lễ toàn quốc nhằm tôn vinh tất cả những người mẹ. “Tôi hy vọng và cầu nguyện rằng rồi sẽ có ai đó, vào một lúc nào đó, lập nên một ngày tôn vinh mẹ - để ghi nhận những cống hiến vĩ đại mẹ dành cho nhân loại trong mọi khía cạnh của cuộc sống,” Anna từng khẳng định - “Mẹ xứng đáng với điều đó.” 

Ý tưởng của Anna không xoay quanh những công việc xã hội như mẹ cô từng theo đuổi, mà thiên về việc tôn vinh vai trò thiêng liêng của người mẹ và những hy sinh thầm lặng trong mái ấm gia đình. Cô không ngừng gửi điện tín, thư từ, và gặp gỡ trực tiếp các nhân vật có tầm ảnh hưởng cũng như các tổ chức xã hội để thuyết phục họ ủng hộ. Dù tổ chức lớn hay nhỏ, cô đều kiên trì gửi thư trình bày ý tưởng của mình. Bằng chính tiền túi, Anna viết, in và phát hành hàng loạt tập sách ca ngợi Ngày của Mẹ.

Vì sao Ngày của Mẹ ở Mỹ lại rơi vào tháng 5?

Tháng 5 năm 1907, Anna tổ chức buổi lễ tưởng niệm để tưởng nhớ hành trình hoạt động không ngơi nghỉ của mẹ tại nhà thờ Giám Lý ở Grafton, West Virginia – nơi bà từng giảng dạy. Một năm sau, vào ngày 10 tháng 5, một buổi lễ chính thức nhân Ngày của Mẹ được tổ chức tại chính nhà thờ đó, lần này để vinh danh tất cả những người mẹ. Từ đây, ý tưởng dành riêng Chủ nhật thứ hai của tháng 5 để tôn vinh mọi người mẹ - dù còn sống hay đã khuất - bắt đầu hình thành.

Nỗ lực của Anna dần gây được sự chú ý. Thị trưởng Philadelphia là người đầu tiên tuyên bố tổ chức Ngày của Mẹ tại địa phương. Từ đó, Anna tiếp tục hành trình vận động ở thủ đô Washington, D.C. Các chính trị gia ở đây nhanh chóng nhận thấy đây là một đề xuất đáng giá và bày tỏ sự ủng hộ công khai.

West Virginia là bang đầu tiên chính thức công nhận ngày này. Sau đó, nhiều bang khác cũng làm theo. Việc các bang liên tiếp đưa ra tuyên bố công nhận Ngày của Mẹ đã dẫn đến việc Hạ nghị sĩ J. Thomas Heflin (bang Alabama) và Thượng nghị sĩ Morris Sheppard (bang Texas) cùng đệ trình một nghị quyết lên Quốc hội nhằm công nhận Ngày của Mẹ là ngày lễ trên toàn quốc. Cả hai viện của Quốc hội đều thông qua nghị quyết.

Đến năm 1914, Tổng thống Woodrow Wilson đã ký ban hành đạo luật chính thức công nhận Chủ nhật thứ hai của tháng 5 là ngày lễ quốc gia với tên gọi “Ngày của Mẹ” - dành riêng cho “người mẹ tuyệt vời nhất trên đời: mẹ của bạn.”

Trong những năm đầu tiên, Ngày của Mẹ được tổ chức một cách mộc mạc và đầy thành kính - thường là qua các buổi lễ nhà thờ để tưởng nhớ và vinh danh các bà mẹ, dù còn sống hay đã qua đời.

Ngọt ngào xen lẫn đắng cay khi kế thừa Ngày của Mẹ

Theo nhiều tài liệu, điều duy nhất mà Anna mong muốn là tưởng nhớ mẹ mình - người mà cô tin là người khởi xướng thực sự của Ngày của Mẹ. Nhưng khi ngày lễ trở nên phổ biến, Anna dần cảm thấy thất vọng khi nó bị thương mại hóa: người ta gửi thiệp, tặng hoa một cách máy móc. Thậm chí cô không đồng tình khi các tổ chức phụ nữ hay hội từ thiện dùng Ngày của Mẹ để gây quỹ - điều khá mâu thuẫn nếu nhìn vào lý tưởng y tế cộng đồng mà mẹ cô từng theo đuổi.

Năm 1948, Anna Jarvis qua đời tại một viện dưỡng lão trong tình trạng sa sút trí tuệ.

Ngày của Mẹ hiện nay

Ngày của Mẹ vẫn bền bỉ tồn tại và không ngừng phát triển. Cũng giống như khởi nguồn ngày lễ bắt đầu từ sự sáng tạo của nhiều người phụ nữ, Ngày của Mẹ trong thời đại hiện nay tôn vinh sự đa dạng trong vai trò của người mẹ hiện đại. Chúng ta nhớ ơn những người mẹ đã đấu tranh để cải thiện cuộc sống của con cái bằng nhiều cách - từ phúc lợi xã hội đến lý tưởng phi bạo lực. Và hơn hết, chúng ta thấu hiểu, trân trọng tinh thần dũng cảm cùng đức hy sinh quý giá vô ngần dành cho con trẻ từ lúc chúng mới lọt lòng.

Hà Nhi dịch từ Almanac

Đọc bài viết

Trà chiều

Văn hóa đọc tại Việt Nam: Hành trình tỉnh thức trong thời đại mất tập trung

Khi cả thế giới đang quay cuồng trong cơn lốc của tốc độ, của công nghệ số và mạng xã hội, văn hóa đọc – vốn là một hoạt động tĩnh tại, cô độc và đòi hỏi sự kiên nhẫn – bỗng trở thành hiện tượng lạ giữa đời sống hiện đại.

Published

on

Một cú chạm màn hình có thể đưa bạn tới bất kỳ đâu: từ buổi hòa nhạc ở Vienna đến một bữa ăn đường phố ở Bangkok, từ những khoảnh khắc riêng tư của người xa lạ đến bản tin thời sự lúc rạng đông. Nhưng càng dễ dàng kết nối, chúng ta lại càng khó khăn trong việc lắng nghe chính mình. 

Và trong cuộc hành trình ấy, đọc sách - hành động tưởng như đã cũ kỹ, đang âm thầm trở lại như một nơi trú ẩn cuối cùng của tâm hồn hiện đại.

Văn hóa đọc không chỉ là việc “đọc sách”

Văn hóa đọc không nên được định nghĩa đơn giản chỉ là hành vi tiếp nhận văn bản in ấn, cần phải nhìn nó như là một cấu trúc hệ giá trị, nơi người đọc không chỉ tiêu thụ thông tin, mà còn tương tác với tri thức, phản tư, và từ đó tạo ra tầng sâu văn hóa cá nhân. Nên hiểu đọc là một hành vi văn hóa, không chỉ là kỹ năng.

Thế nhưng, tại Việt Nam, hành vi đọc nhiều khi bị giản lược thành “hoạt động học thuộc”. Cái gốc của việc đọc để hiểu mình và hiểu thế giới vẫn còn mờ nhạt trong đời sống học đường lẫn đời sống đô thị.

Chúng ta từng được dạy rằng đọc là để biết nhiều hơn. Nhưng biết không đồng nghĩa với hiểu. “Biết” là quá trình tiếp nhận và lưu trữ dữ liệu dưới dạng thông tin. “Hiểu” vượt lên trên điều đó - nó đòi hỏi sự tham gia của trải nghiệm cá nhân, khả năng phân tích, đồng cảm và cả những va chạm nội tâm. Một tác phẩm có giá trị không chỉ cung cấp tri thức ngoại tại, mà còn tạo điều kiện cho chủ thể tiếp nhận được soi chiếu, phản tỉnh từ đó nhận diện những lớp ẩn sâu của bản thể qua hình ảnh của người khác trong trang sách. 

Khi một đứa trẻ đọc Những tấm lòng cao cả, em sẽ không chỉ học đạo đức, mà bắt đầu cảm nhận được trái tim nhân loại. Khi một thiếu niên lần đầu đọc Người xa lạ của Camus, cậu ấy có thể không lý giải nổi thế giới, nhưng sẽ bắt đầu đặt câu hỏi về nó và về chính mình.

Vấn đề không nằm ở việc thiếu sách, mà thiếu “thái độ văn hóa” với sách

Mặc dù Việt Nam có hơn 30.000 đầu sách xuất bản mỗi năm (theo Cục Xuất bản), thế nhưng lượng sách bán ra tập trung chủ yếu ở thể loại giải trí, ngôn tình, self-help, còn các dòng sách triết học, văn hóa, nhân văn… chiếm tỷ lệ nhỏ hơn. Ta không thiếu sách, ta thiếu một nền tảng thẩm mỹ và nhân văn để lựa chọn sách một cách có chủ đích.

Nguyên nhân không chỉ nằm ở thời đại số làm thay đổi thói quen tiếp nhận thông tin, mà còn nằm ở cách giáo dục về đọc sách. Tại nhiều trường học, việc đọc vẫn gắn liền với hình thức kiểm tra, chấm điểm, làm bài văn nghị luận sách giáo khoa - điều khiến đọc sách trở thành một “nghĩa vụ” hơn là một hành trình khám phá. Gia đình, các bậc phụ huynh còn chưa thực sự nghiên cứu và đặt mối quan tâm lớn lao cho việc giáo dục con trẻ dẫn đến việc các em phụ thuộc quá nhiều vào các thiết bị công nghệ. 

Nhưng tín hiệu đáng mừng là trong những năm gần đây, chúng ta chứng kiến sự nở rộ của các phong trào đọc sách tự phát, không phải từ chỉ đạo hành chính, mà từ những con người đang đi tìm lại bản thân giữa cơn hỗn loạn của thông tin.

Đáng chú ý, sự phát triển của nền tảng số cũng không còn là lực cản, mà đang dần trở thành đòn bẩy cho việc tiếp cận sách: audio book, book podcast, nền tảng chia sẻ tóm tắt sách hay các cộng đồng đọc sách online đang lan tỏa mạnh mẽ. Sách không còn là một vật thể bất động mà trở thành dòng chảy đồng hành với sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ, âm thanh và cảm xúc.

Tất cả đang làm sống lại một giá trị xưa cũ: sự tĩnh lặng nội tâm. Đọc sách giờ đây không chỉ là tiếp nhận thông tin, mà là một hành động phản kháng với sự phân tán, ồn ào, và tiêu dùng giải trí mang tính chất "mì ăn liền".

Văn hóa đọc trong thời đại “siêu dữ liệu”

Thách thức lớn nhất với văn hóa đọc trong thời đại kỹ thuật số không phải là sự biến mất của sách giấy, mà là sự thoái hóa khả năng tập trung, năng lực phản tư và thái độ nghiêm túc của con người với tri thức. Chúng ta sống trong thời đại mà nội dung có thể bị tiêu thụ như thức ăn nhanh, nơi mọi người “đọc để phản ứng”, thay vì “đọc để cảm nghiệm”. Bởi vậy, chọn đọc - nhất là đọc sâu, đọc chậm giờ đây không chỉ là một lựa chọn mang tính trí tuệ, mà còn là một cách gìn giữ bản thân trước sự xao nhãng của thế giới hiện đại.

Đọc là kháng cự lại tốc độ. Là từ chối cái dễ. Là chọn cái sâu - dù biết nó chậm.

Văn hóa đọc giờ đây không chỉ là sách, mà còn là cách ta sống. Không chỉ là hành động cá nhân. Nó phản ánh cả một văn hóa. Một đất nước biết trân trọng sách là một đất nước không dễ bị lãng quên ký ức. Một thế hệ đọc sách là một thế hệ có nội lực.

Ở Việt Nam, từng có một thế kỷ mà sách được đọc bằng ánh đèn dầu, được chép tay, được truyền tay như những báu vật. Sách đi qua chiến tranh, qua đói nghèo, qua đạn bom, nhưng vẫn sống. Vấn đề của hôm nay không phải là thiếu sách, mà là quá nhiều thứ giành giật tâm trí ta khỏi sách.

Vấn đề sâu xa hơn: ta không còn coi đọc là một phần của việc sống đẹp. Thế giới đang dần lãng quên sự im lặng, sự chậm rãi, sự suy tư. Trong truyền thống tư tưởng phương Đông, đọc không phải là phương tiện để đạt được cái bên ngoài, mà là trở về với cái bên trong. Từ thời Lão - Trang, việc học, việc đọc vốn gắn liền với sự tĩnh tại của tâm. Đọc là tu thân. Đọc là dưỡng khí. Đọc là hành động đi ngược lại với sự xao động của đời sống, để khơi mở “minh tâm kiến tánh”, thấy lại chân diện mục của chính mình. 

Ngày xưa, các nho sĩ khi đọc sách thường đặt một bát nước trong veo bên cạnh, để “nếu tâm xao động thì nước đục” như một cách tự phản tỉnh. Người đọc không chỉ là kẻ truy cầu tri thức, mà còn là người gìn giữ đạo lý, tiết tháo và sự lặng thầm bền bỉ của văn hóa.

Trong thời đại siêu kết nối hiện nay, nghịch lý lớn nhất là con người càng lúc càng rỗng hơn giữa vô số dữ liệu. Chúng ta “biết” rất nhiều thứ nhưng lại hiểu rất ít điều, và càng ít sống sâu. Văn hóa đọc nếu được xem là một hệ sinh thái văn hóa bền vững - chính là cơ chế tự phòng vệ của trí tuệ trước sự tha hóa của thị hiếu và tốc độ.

Bởi vì đọc không chỉ là để “biết”, mà để nghi ngờ cái mình biết. Không chỉ để “giỏi lên”, mà để hiểu mình và hiểu người hơn. Và không chỉ để có tri thức, mà để trở nên người hơn trong thế giới ngày càng thiếu vắng chất người. 

Đọc - tự bản thân nó là một hành động kháng cự lại sự lãng quên, sự cạn mỏng và cả sự dễ dãi. Nó khơi mở lại điều tưởng như đã mất: một chiều sâu văn hóa không thể số hóa, không thể sao chép, thứ văn hóa được chưng cất từ mỗi lần lật trang, từ mỗi khoảnh khắc im lặng tự đối diện chính mình. Để được sống với một trái tim có lớp lang. 

Và nếu phải chọn một hành động lặng lẽ nào đó để định nghĩa tinh thần của một dân tộc đang muốn trở mình từ bên trong, thì đó hẳn phải là: đọc sách.

Ngọc Trâm

Đọc bài viết

Cafe sáng