Trà chiều

Tình yêu trong tiểu thuyết: Ai dạy bạn yêu?

Má tôi không được đi học vì ông ngoại tôi bảo rằng, “Con gái biết chữ chỉ để đọc tiểu thuyết, viết thư cho trai, ái tình lãng mạn cho lắm chỉ tới chỗ chửa hoang.”

Published

on

Nhận được lá thư tình đầu tiên, má tôi hối lộ trẻ em hàng xóm đọc giùm. Những lá thư tình tiếp theo là động cơ thúc đẩy má tôi tự học. Bà mua cuốn vần, lén học lúc nấu cơm. Sợ bị bắt gặp bà thường dúi cuốn vần vào trong lò đốt cháy. Không biết bà đốt cháy bao nhiêu cuốn vần mà về sau bà có thể viết thành câu, chữ lớn như con gà đang bưới bếp, chữ nhỏ như cái trứng cút, gà chạy nhấp nhô không thẳng hàng. Khi làm giấy tờ cần phải ký tên, bà viết nguyên tên chứ không phải đánh chữ thập như nhiều người khác. Bà thích đọc nhưng đọc rất chậm vì còn mãi đánh vần. Tôi nghĩ bà có thể đọc được thư tình người ta gửi cho bà ngày xưa nhưng viết thư tình chắc là không nổi.

Vào thập niên hai mươi, ông ngoại tôi kết luận người đọc có thể học hỏi (hay học đòi) chuyện yêu đương trong tiểu thuyết. Thời đó đâu có ai dạy dỗ về tình yêu, trai gái còn không được phép cầm tay nhau thế mà ai cũng biết yêu, không đổ thừa cho văn học gây ra hậu quả tai hại (như chửa hoang) thì đổ thừa cho ai? Ngày nay, qua những cuộc nghiên cứu, người ta quan niệm đọc văn học có thể làm chúng ta khôn ngoan hơn, hiểu biết hơn, và dễ cảm thông và biết yêu thương đồng loại hơn. Nhưng chúng ta có thể học được gì về tình yêu trong văn chương? Bạn có tự hỏi bằng cách nào bạn nhận ra sự hiện diện của cái gọi là tình yêu, bạn học về tình yêu ở đâu, ai dạy bạn yêu, làm thế nào để bạn nhận ra đó là tình yêu? Sau khi bạn trả lời những câu hỏi này tôi chắc rằng bạn cũng đồng ý với tôi, một phần nào đó, những hiểu biết chúng ta có được về tình yêu được rút ra từ truyện, thơ, nhạc, và phim. Âm nhạc và phim ảnh nếu không xuất phát từ văn chương thì cũng bị ảnh hưởng đậm đà bởi văn chương.

Trong bài tản mạn này tôi chỉ muốn trả lời một câu hỏi: Tôi tìm thấy gì về tình yêu qua những quyển sách tôi đã đọc?

*

Thập niên hai mươi, văn học Việt Nam có gì ghê gớm mà ông ngoại tôi sợ hãi đến độ không cho má tôi đi học. Kim Bình MaiHồng Lâu Mộng dịch từ truyện Tàu? Truyện Kiều, Lục Vân Tiên ghê gớm lắm sao? Còn tôi, tôi bị má tôi “đầu độc” bằng thơ tình ngay từ thuở ấu thơ khi bốn năm tuổi tôi nghe bà hát ru cháu ngoại bằng những bài tình ca ngọt lịm. Đó là câu ca dao ở thể lục bát như Đưa tay mà ngắt ngọn ngò. Thương anh đứt ruột giả đò ngó lơ. Ở thể song thất lục bát như, Đèn Sài Gòn ngọn xanh ngọn đỏ. Đèn Mỹ Tho ngọn tỏ ngọn lu. Anh về học lấy chữ nhu. Chín trăng em đợi mười thu em chờ. Và Phụ mẫu đánh anh quằn quại treo tại góc thành, đứt dây rớt xuống dạ không đành bỏ em. Còn nhiều nữa, tôi không thể kể hết ra đây.

Khi tôi vào trung học thì người ta chẳng những không sợ là con gái đi học biết chữ sẽ viết thư tình cho trai, mà chúng tôi còn được cho học thơ tình, như Chinh phụ ngâm khúc: Chốn Hàm Dương chàng còn ngoảnh lại. Bến Tiêu Tương thiếp hãy trông sang. Khói Tiêu Tương cách Hàm Dương. Cây Hàm Dương cách Tiêu Tương mấy trùng. Cùng trông lại mà cùng chẳng thấy. Thấy xanh xanh những mấy hàng dâu. Hàng dâu xanh ngắt một màu. Lòng chàng ý thiếp ai sầu hơn ai. Rồi những mối tình hiền lành trong Hồn bướm mơ tiên của Khái Hưng và Đoạn tuyệt của Nhất Linh, sách của Tự Lực Văn Đoàn chúng tôi “bị bắt học” từ những năm đệ ngũ. Thói thường, những gì bị bắt học thì không nhớ hay chỉ nhớ loáng thoáng mập mờ, những mối tình tôi thật sự chú ý và nhớ rất dai là những mối tình trong những quyển sách dịch tôi đọc vào thập niên bảy mươi.

Có thể nói đây là giai đoạn tôi đọc sách nhưng chỉ chú ý đến chuyện tình. Hai chuyện tình để ấn tượng sâu đậm trong tôi ở trong hai quyển Cuốn theo chiều gió và Anna Karenina. Ở tuổi mười tám tôi đọc Cuốn theo chiều gió và ngay lập tức tôi bị nhân vật Scarlett O’Hara hớp hồn. Scarlett, là mẫu phụ nữ Tây phương trái ngược với khuôn mẫu phụ nữ Á Đông chung quanh tôi. Tôi lớn lên với quan niệm phụ nữ là đóa hoa chỉ có thể ở một chỗ mà tỏa hương, rủ bướm nhưng không được bay theo. Để thoát khỏi cảnh yêu thầm nhớ trộm nàng chủ động tỏ tình với Ashley Wilkes. Tình yêu là như vậy đó, nồng nàn, sôi nổi, bồng bột, hơi điên cuồng. Tôi khâm phục sự siêng năng, tính thực tế, dám nghĩ dám làm của Scarlett. Nếu Scarlett sinh ra vào thời này có lẽ nàng sẽ là Giám đốc điều hành của một công ty lớn nào đó.

Tuy nhiên, Scarlett không biết yêu là gì. Nàng say mê Ashley chỉ vì Ashley dám từ chối nàng, anh chàng tóc bạch kim trí thức này trở nên một đối tượng nàng muốn chinh phục. Ba mươi năm sau đọc lại, tôi nhìn thấy sự nhẫn tâm của Scarlett khi nàng chiếm người chồng tương lai của cô em gái. Nhẫn tâm với rất nhiều người nhưng Scarlett yêu Ashley rất chân tình. Phải yêu lắm Scarlett mới vượt lên sự ghen tuông và nhường cả xưởng cưa để Ashley làm phương tiện sinh sống nuôi vợ con. Trong tôi, cái định nghĩa về tình yêu đã thay đổi. Không phải sự sôi nổi nồng nàn của Scarlett, mà cái quan hệ đầm ấm tương kính giữa vợ chồng Melanie-Ashley, là định nghĩa của tình yêu. Tôi vẫn tin Scarlett còn yêu Ashley vì vẫn chưa chinh phục được chàng.

Ban đầu khi đọc Anna Karenina tôi thích mối tình của Anna với Alexei Vronsky. Một tình yêu đầy đam mê, vượt luân lý, bất chấp dư luận, thiếu một người là mặt trời thôi mọc, chim thôi hót, mây ngừng bay, và những vì sao thôi lấp lánh. Tôi ghét Karenine, xấu trai và khô khan, vì ông đã nói dối với cậu bé con của hai người là mẹ cậu đã chết và ngăn cấm Anna không được gặp mặt con. Tôi ghét xã hội quí tộc Nga thời bấy giờ dung dưỡng tội lỗi của đàn ông nhưng khắc nghiệt với đàn bà. Nhìn lại tôi thấy Karenine là một người đáng thương. Khi biết vợ ngoại tình ông ta vẫn giữ thể diện cho vợ. Chỉ cần nàng trở về là ông bỏ qua tất cả. Cái đam mê cháy bỏng giữa Alexei và Anna không phải là tình yêu. Tình yêu được Tolstoy kín đáo diễn tả qua mối tình bền bỉ của Levine dành cho Kitty. Nếu ở Cuốn theo chiều gió tôi yêu nhân vật phụ Melanie hơn nhân vật chính Scarlett thì ở Anna Karenina tôi yêu nhân vật phụ Levine hơn nhân vật chính Vronsky. Đọc lại, Anna là một người phụ nữ đẹp nhưng xa hoa phù phiếm mè nheo. Giá mà Anna đừng xiêu lòng, thì chắc Vronsky sẽ còn yêu nàng lâu dài hơn. Vronsky cũng như Scarlett, sau khi chinh phục được đối tượng là xong một cuộc tình.

Anna Karenina

Quan sát vài tác phẩm, cổ điển cũng như hiện đại, của tác giả nam cũng như nữ, tôi thấy nhà văn rất thực tế khi viết về tình yêu. Dù họ có biến hóa gán ghép bao nhiêu chi tiết lãng mạn vào truyện, họ vẫn dàn xếp cho cốt truyện diễn tiến trên căn bản, chữ tình đi đôi với chữ tiền. Không có tiền thì không có tình yêu.

Lấy Kiêu hãnh và định kiến làm thí dụ. Nếu Mr. Darcy không có tiền để trả nợ cho gia đình của Elizabeth Bennet, chưa chắc cô gái thông minh và kiêu hãnh này đã tha thứ cho Darcy cái tội coi thường nhan sắc của nàng lúc ban đầu. Nếu Vronsky không là con nhà giàu thì cho dù có tán tỉnh đến đâu chưa chắc đã quyến rũ Anna ra khỏi tổ ấm của ông chồng khắc khổ Karenine. Độc giả hẳn vẫn còn nhớ là khi yêu Vronsky, Anna vẫn phải sống nhờ vào tiền của chồng, còn Vronsky tuy giàu có nhưng đó là nhờ sự chu cấp của bà mẹ. Nếu Anna không tự tử nàng sẽ làm gì để tự nuôi bản thân nàng cùng với hai đứa con, một với Karenine và một với Vronsky, khi một ngày nào đó Vronsky chán cái tính ghen bóng gió của nàng và nhan sắc của nàng không còn nữa? Nếu Heathcliff trong Đồi gió hú không bị gia đình Linton khinh rẻ vì nghèo và mất Catherine vào tay Edgar Linton thì chắc đã không biến tình yêu thành oán hận và làm cho cả hai gia đình Earnshaw và Linton tán gia bại sản. Còn chàng Gatsby vĩ đại, đây mới chính là một quyển tiểu thuyết mà giá trị của tiền là động cơ chủ yếu để đạt tình yêu. Daisy đã từ chối bỏ trốn với Gatsby để kết hôn với người chồng giàu có. Gatsby cố gắng đủ cách, kể cả bán rượu lậu, để trở thành một người giàu có với mục đích chiếm lại Daisy. Gatsby xem Daisy là biểu tượng của sự giàu sang mà chàng không thể vói tới trong quá khứ vì nghèo. Còn Tình yêu thời thổ tả thì khỏi nói, Florentino chỉ chinh phục được Fermina khi ông trở nên ông chủ của một công ty tàu du lịch giàu có. Scarlett đã chẳng lấy Rhett Butler làm chồng nếu anh ta không giàu có nhờ buôn lậu trong lúc chiến tranh.

Đọc văn học là để tìm hiểu chính mình. Đọc tình yêu trong văn học là để giải thích những chọn lựa của chính mình và dùng những đau khổ hay hạnh phúc của các nhân vật trong truyện để rút kinh nghiệm cho mình. Tôi đọc truyện tình để thấy sự thay đổi trong tôi quan niệm về tình yêu. Lúc còn trẻ tôi thấy tình yêu là sự thu hút của Romeo và Juliet, chui xuống gầm bàn run rẩy nắm tay nhau và trao đổi cái hôn. Về già tôi nhận ra Romeo lúc ấy đã mười tám còn Juliet chỉ mới mười ba, cái gọi là tình yêu đó có thể vi phạm pháp luật. Loài người đã tốn nhiều bút mực để định nghĩa tình yêu nhưng không thể đồng ý với nhau bởi vì mỗi người định nghĩa tình yêu mỗi khác. Nếu loài người không thể đồng ý với nhau về định nghĩa tình yêu, liệu người ta có thể đồng ý với nhau về định nghĩa của chung tình và ngoại tình? 

Romeo và Juliet

Gabriel Garcia Marquez đã nêu ra một lập luận về sự chung tình và ngoại tình khác với khái niệm chung tình mà tôi biết. Trong quyển Tình yêu thời thổ tả, Florentino và Fermina trao đổi thư tình khi còn bé. Lớn lên Fermina nhận ra Florentino nghèo và xấu trai, nàng nhận lời kết hôn với Urbino, một bác sĩ giàu có và là nhà chuyên môn chữa trị bệnh dịch tả. Khi Urbino chết rồi, và lúc Florentino cố gắng chinh phục lại, Fermina khám phá chồng bà đã ngoại tình với một người đàn bà khác. Florentino suốt cuộc đời dành trọn trái tim cho Fermina. Nỗi đau vì mất người tình làm ông đau đớn và tìm quên bằng cách quan hệ tình dục với 622 người đàn bà khác. Florentina quan hệ tình dục với 622 người đàn bà nhưng vẫn được Marquez xem là chung tình với Fermina. Trong khi Urbino chỉ ngoại tình với một người đàn bà thì bị xem là ngoại tình. Trớ trêu không?

Dag Hammarskjöld, một tác giả danh tiếng người Thụy Điển, bảo rằng “Có lẽ mối tình lớn nhất là mối tình không được đáp lại.” Nếu đồng ý với ông, tôi sẽ nói mối tình của Humbert dành cho Lolita là tình yêu lớn. Và mối tình của Hanna với Michael trong Người đọc cũng là tình yêu lớn vì cả hai, người này yêu người kia, nhưng không được đáp lại, cùng một lúc. Rồi có một bài hát nói ngược lại, rằng: “The greatest thing, you’ll ever learn. Is to love and be loved in return.” Nghĩa là bài học lớn nhất bạn sẽ học trong cuộc đời, là yêu và được yêu trở lại. Thật là chẳng ai có thể đồng ý với ai về tình yêu.

Hết.

Nguyễn Thị Hải Hà 


Bài viết cùng chủ đề




Trà chiều

Sài Gòn – Hồi sinh từ ký ức, vươn mình đến tương lai

Từ ngày 1/7/2025, cái tên “Sài Gòn” chính thức trở lại trên bản đồ hành chính Việt Nam. Đây không phải là tên thành phố, mà là tên của một phường trung tâm thuộc TPHCM. Một sự thay đổi tưởng chừng kỹ thuật, hành chính, nhưng lại gợi lên những suy tư lớn hơn: về ký ức đô thị, về cách chúng ta gọi tên một vùng đất và về hướng đi của tương lai giữa dòng chảy đổi mới.

Published

on

Từ nay, người dân sẽ phải làm quen với những tên gọi mới, địa giới mới và cả cách quản lý mới. Nhưng giữa tất cả những đổi thay ấy, cái tên “Sài Gòn” không trở lại như một nỗi hoài niệm, mà như một sợi chỉ đỏ âm thầm nối liền ký ức và hiện tại: bền bỉ, lặng lẽ nhưng chưa từng đứt đoạn. Một cái tên chưa bao giờ mất đi trong tâm thức người dân, nay được trả về đúng vị trí của nó: chính danh và được ghi nhận.

Tên cũ hồi sinh, đô thị vươn mình

Không chỉ hiện diện trong ký ức của hàng triệu người dân, Sài Gòn còn là mạch nguồn cảm hứng bất tận cho nhiều thế hệ người viết, người sáng tác. Trong đó, có thể kể đến tác giả Phạm Công Luận - một cây bút gắn bó lâu năm với Phương Nam Book và được xem là người dành trọn tâm huyết để viết về Sài Gòn. Gần như mỗi năm, ông lại cho ra đời một tác phẩm mới, nhưng điều đặc biệt là dù đã viết rất nhiều năm, rất nhiều sách, ông vẫn luôn tìm ra được những góc nhìn mới, tinh tế và giàu cảm xúc về vùng đất này.

Từ Sài Gòn ngoảnh lại trăm năm, Hồi ức Phú Nhuận,đến Có một thời ở Chợ LớnMade in Sài Gòn - hai tác phẩm vừa được phát hành đầu năm nay, những trang viết của ông như một hành trình gom nhặt lại những ký ức xưa cũ về Sài Gòn. Chính những tác phẩm ấy là bằng chứng cho thấy: Sài Gòn không chỉ tồn tại trên bản đồ, mà sống động trong văn hóa, tâm tưởng và cả trong từng chi tiết đời sống hàng ngày của người dân.

Bởi vậy, khi cái tên “Sài Gòn” trở lại trong một vị trí hành chính cụ thể, đó không đơn thuần là sự phục dựng danh xưng, mà là sự thừa nhận giá trị văn hóa, tinh thần mà vùng đất này đã và đang mang trong mình. Nhưng câu chuyện không chỉ dừng ở ký ức hay bản sắc. Việc sáp nhập, thay đổi đơn vị hành chính lần này còn là một phần trong chiến lược cải tổ toàn diện, nhằm nâng cao hiệu quả quản lý, tinh gọn bộ máy và hướng đến một đô thị hiện đại.

Bởi vậy, mô hình hành chính mới không đơn thuần là tinh gọn bộ máy, mà còn là cơ hội để đẩy mạnh ứng dụng công nghệ, hiện đại hóa quản lý, nâng cao chất lượng dịch vụ công và cuộc sống người dân. Đây là một phần trong chiến lược phát triển bền vững, toàn diện và hội nhập sâu rộng mà Việt Nam đang theo đuổi. Và để chiến lược đó đi vào thực tế, không thể thiếu sự góp sức của mỗi cá nhân - những người đang sống, làm việc, học tập và trực tiếp cảm nhận từng thay đổi nhỏ nhất trong đời sống hàng ngày.

Đổi mới không chỉ đến từ chính sách, mà bắt đầu từ chính chúng ta - những người kiến tạo nên diện mạo mới cho đô thị mỗi ngày.

Thế hệ trẻ giữ vai trò tiên phong trong hành trình đổi mới

Đổi mới không phải là khẩu hiệu treo tường, mà là từng hành động cụ thể mỗi ngày: một sinh viên chọn học thêm kỹ năng mềm; một kỹ sư chủ động cập nhật công nghệ mới; một giáo viên thay đổi cách giảng dạy để học sinh dễ tiếp cận tri thức hơn. Con đường học vấn không chỉ là hành trang cá nhân, mà còn là cách mỗi người góp phần xây dựng quốc gia trong thời đại tri thức. Như lời Tổng Bí thư Tô Lâm đã nói: “Mỗi ngày làm việc là một ngày kiến tạo”. Và với người trẻ hôm nay, sự kiến tạo ấy chính là học tập, là tư duy phản biện, là sự dấn thân vào hành trình đổi mới - không chỉ để thay đổi bản thân, mà còn để thay đổi xã hội.

Những thay đổi ấy đang diễn ra ở khắp nơi: từ miền núi, hải đảo xa xôi đến các đô thị trung tâm hay những vùng sáp nhập mới. Và câu chuyện của Sài Gòn hôm nay - một địa danh cũ trở lại trong hình hài hành chính mới chỉ là một lát cắt trong bức tranh cải tổ rộng lớn mà cả nước đang cùng nhau vẽ nên.

Tên gọi có thể đổi. Địa giới có thể gộp. Nhưng khát vọng vươn lên, ý chí tự cường và tinh thần làm chủ vận mệnh thì vẫn còn nguyên vẹn, thậm chí mạnh mẽ hơn bao giờ hết.

Sài Gòn hôm nay đang bước vào một hành trình mới: hành trình của hiện đại, của tinh gọn, của đổi mới. Nhưng trên hết, đó là hành trình mà trong đó, người dân không chỉ là đối tượng của thay đổi, mà là chủ thể kiến tạo.

Một cái tên trở lại. Và cả một thời đại mới - bắt đầu.

Thùy Dương

Đọc bài viết

Trà chiều

Tết Đoan Ngọ ở Việt Nam có gì khác các nước đồng văn?

Published

on

Mỗi năm vào ngày mùng 5 tháng 5 âm lịch, Việt Nam và các nước đồng văn như Trung Quốc, Hàn Quốc và Nhật Bản lại cùng nhau chào đón một dịp lễ truyền thống mang đậm dấu ấn văn hóa phương Đông: Tết Đoan Ngọ. Dù tên gọi và nghi lễ có phần khác biệt, ngày lễ này đều gắn liền với ý nghĩa thanh lọc cơ thể, xua đuổi bệnh tật và bảo vệ sức khỏe trong thời khắc giao mùa quan trọng của năm. Từ bữa cơm "diệt sâu bọ" của người Việt, tục uống rượu hùng hoàng ở Trung Quốc, đến gội đầu và xông hơi bằng thảo dược ở Hàn Quốc; Tết Đoan Ngọ không chỉ phản ánh đời sống tâm linh mà còn cho thấy sự giao thoa và phát triển đa dạng của các nền văn hóa Á Đông.

Nguồn gốc và tục lệ Tết Đoan Ngọ ở Việt Nam

Ở nước ta, Tết Đoan Ngọ được dân gian gọi bằng một cái tên dân dã: Tết diệt sâu bọ vì người ta tin rằng khi ăn món đầu tiên trong ngày này thì sâu bọ, giun sán trong người sẽ bị chết hết. Theo nhà nghiên cứu văn hóa Trần Ngọc Thêm, ngày Tết này của Việt Nam có nguồn gốc chung với các dân tộc Bách Việt sinh sống ở khu vực Nam Trung Hoa và Bắc Đông Dương. Đây là vùng canh tác lúa nước lâu đời, nơi khí hậu mùa hè nóng bức ảnh hưởng xấu đến sức khỏe con người. Tuy nhiên, nhờ vào kinh nghiệm quan sát thời tiết để canh tác, người dân nơi đây đã hình thành nên Tết Đoan Ngọ như một nghi lễ nhằm thích ứng và tận dụng quy luật tự nhiên trong chu kỳ khí hậu hàng năm. 

Đặc biệt hơn, đây còn là ngày mang tính biểu tượng của ngày giỗ Quốc Mẫu Âu Cơ - ngày vô cùng quan trọng trong đời sống văn hóa tâm linh của mỗi người dân Việt. Ca dao ông cha ta có câu: Tháng Năm ngày tết Đoan Dương/ Là ngày giỗ Mẹ Việt Thường Văn Lang.  

Theo truyền thống của dân tộc Việt, người dân ăn tết Đoan Ngọ bằng sự cúng lễ. Tại các làng xã có lễ thần tại đình, đền; ở thôn, xóm có cúng tại miếu còn trong mỗi gia đình, mâm cỗ được dâng lên tổ tiên. Vì đây là thời điểm tiết trời nắng gắt nhất trong năm (Cực Âm – tiết Hạ chí), nên các món ăn thường là đồ nguội, mát mang tính hàn. Những món không thể thiếu trong mâm cỗ cúng Tết Đoan Ngọ ở khắp 3 miền là rượu nếp (cơm rượu) và trái cây. Trái cây được chọn có hình tròn như vải, mận (miền Nam gọi là mận bắc), hạt sen (làm chè). 

Ngoài ra, ẩm thực Tết Đoan Ngọ cũng có nhiều điểm khác nhau ở 3 miền. Miền Bắc thường có bánh gio trên bàn cúng, từ Thanh Hóa vào đến Huế thường nấu xôi ăn với thịt vịt. Người dân từ Đà Nẵng đến Quảng Ngãi thường cho trẻ nhỏ vào vườn hái quả ăn, một số ít gia đình nấu xôi chè cúng lễ. Trong khi đó, người nông dân miền Nam thường đúc bánh lọt, nấu chè trôi nước và xôi gấc cúng tổ tiên rồi cả nhà quây quần cùng nhau ăn. Với tư duy tiếp biến làm mới cách chế biến, trang trí, phong vị các món chay truyền thống cùng mong muốn giao thoa ẩm thực 3 miền, bạn có thể tham khảo công thức món chè trôi nước tam sắc trong cuốn Thanh tịnh mâm cỗ Việt của hai tác giả Hồ Đắc Thiếu Anh Nguyễn Hồ Tiếu Anh.

Nguồn gốc và tục lệ Tết Đoan Ngọ ở Trung Quốc 

Khác với Việt Nam, ý nghĩa ngày tết Đoan Ngọ của người Trung Hoa gắn với tích về ông Khuất Nguyên nước Sở cuối thời chiến quốc. Là một nhà thơ và chính trị gia nước Sở, ông nổi tiếng vì lòng yêu nước và tài văn chương. Sau khi bị vu cáo và thất sủng, ông sống trong đau khổ và sáng tác thiên "Ly Tao" thể hiện nỗi lòng. Những ngày cuối đời, ông bị đày đến Giang Nam, rồi trong tuyệt vọng, đã tự vẫn bằng cách ôm đá nhảy xuống sông Mịch La. Theo truyền thuyết ấy, hàng năm người ta tổ chức ngày mồng 5 tháng 5 là ngày Tết Đoan Ngọ để tưởng nhớ ông. 

Cũng theo tích trên, sau khi Khuất Nguyên trầm mình xuống sông Mịch La, người dân Trung Quốc xưa đã tổ chức chèo thuyền ra cứu ông nhưng không thành. Từ đó, truyền thống đua thuyền rồng vào ngày Tết Đoan Ngọ ra đời để tưởng niệm ông. Ngoài ra, người Trung Quốc còn giữ nhiều phong tục đặc trưng trong dịp lễ này như đeo túi thơm để xua đuổi tà ma, hái thuốc, hái trà và tổ chức lễ hội rước rồng ở một số vùng dân tộc thiểu số như người Mèo.

Hoạt động đua thuyền rồng trong ngày Tết Đoan Ngọ

Về ẩm thực, người Trung Quốc ăn bánh ú (zongzi) với nhiều loại nhân tùy vùng như thịt, đậu xanh, long nhãn, trứng muối hay bột dẻ…và uống rượu hùng hoàng - một loại rượu có pha khoáng chất màu vàng, được tin là có thể xua đuổi sâu bọ và tà khí.

Nguồn gốc và tục lệ ở Hàn Quốc 

Còn tại xứ sở kim chi, ngày Tết Đoan Ngọ được biết đến với tên gọi Dano (단오) hay Surinal (수릿날). Ở đây, “Suri” có nghĩa là “Thần”, là “cao”, tức là vị thần tối cao, ám chỉ mặt trời. Tết Đoan Ngọ báo cho mọi người biết ánh nắng chói chang của mùa hè sắp lan tỏa khắp nơi, cây cối hoa màu cũng sắp tới thời điểm sinh trưởng tốt tươi nhất trong năm. Người ta tổ chức các hoạt động ăn chơi nhằm tượng trưng cho sức mạnh và sự cường tráng, cầu nguyện cho mùa màng bội thu không bị sâu bệnh phá hoại.

Phong tục tập quán truyền thống tiêu biểu nhất của Hàn Quốc trong ngày Tết Đoan Ngọ là đấu vật truyền thống Ssireum. Trước kia, người giành chiến thắng trên sân đấu vật thường được thưởng một con bê. Vào ngày Tết Đoan Ngọ xa xưa, phụ nữ thường kéo nhau ra suối gội đầu bằng nước lá cỏ Thạch Dương Bồ, rồi chơi đánh đu. Đến cả các cô gái đài các giới thượng lưu ngày thường chỉ quanh quẩn trong dinh thự, nhưng tới Tết Đoan Ngọ cũng được cha mẹ cho phép ra ngoài ngắm cảnh.

Bánh Suritteok và Yaktteok là hai loại bánh truyền thống làm từ gạo, các loại hạt và lá cây được người Hàn thưởng thức trong ngày 5/5 này. Nếu như bánh Suritteok chỉ đơn giản là chiếc bánh ngải cứu hình bánh xe thì những chiếc bánh Yaktteok đa dạng hơn khá nhiều. Cũng được làm từ gạo không dính nấu chín nhưng không phải với lá ngải cứu mà với các loại hạt khác nhau và tạo thành những hình dáng phong phú.

Như vậy, không chỉ là dịp đánh dấu bước chuyển quan trọng trong chu kỳ mùa vụ và thời tiết, Tết Đoan ngọ còn là tấm gương phản chiếu bản sắc văn hóa riêng của các quốc gia Á Đông. Dù cùng chung cội nguồn từ nền văn minh nông nghiệp lúa nước và chịu ảnh hưởng của triết lý phương Đông, mỗi dân tộc lại sáng tạo nên những phong tục, nghi lễ mang màu sắc riêng. Việc tiếp nối và gìn giữ các giá trị này không chỉ giúp mỗi dân tộc lưu giữ ký ức văn hóa truyền thống, mà còn góp phần tạo nên sự đa dạng và sâu sắc trong di sản tinh thần chung của khu vực.

Hà Nhi

Đọc bài viết

Trà chiều

Phía sau Ngày của Mẹ: Câu chuyện lịch sử bị lãng quên

Published

on

Ít ai biết rằng, Ngày của Mẹ khởi nguồn như một phong trào của những người phụ nữ mong muốn mang lại cuộc sống tốt đẹp hơn cho người dân Mỹ. Nguồn gốc bị lãng quên ấy xuất phát từ hai nhà hoạt động suốt đời cống hiến những nỗ lực cải thiện y tế, phúc lợi và hòa bình. Hiểu về lịch sử Ngày của Mẹ - để thêm trân trọng và tìm thấy cảm hứng từ đó.

Ai là người sáng lập ra Ngày của Mẹ?

Việc tạo ra một ngày lễ quốc gia dành riêng cho mẹ phần lớn là công lao của ba người phụ nữ: Julia Ward Howe, Ann Reeves Jarvis, và con gái của Ann - Anna M. Jarvis.

Ann Reeves Jarvis

Được nhiều người gọi trìu mến là “Mẹ Jarvis”, Ann Reeves Jarvis là một người nội trợ trẻ sống ở vùng núi Appalachian, từng giảng dạy trong lớp học Kinh Thánh mỗi Chủ nhật. Nhưng bên cạnh đó, bà còn là một nhà hoạt động xã hội suốt đời. Vào giữa thế kỷ 19, bà đã tổ chức các “Câu lạc bộ hành động của những người Mẹ” (“Mothers’ Day Work Clubs”) tại West Virginia nhằm chống lại điều kiện sống mất vệ sinh nghiêm trọng lúc bấy giờ. Mẹ Jarvis lo lắng trước tỷ lệ trẻ sơ sinh tử vong quá cao - thậm chí trở nên tràn lan tại khu vực này, đồng thời mong muốn hỗ trợ và giáo dục các bà mẹ đang gặp khó khăn nhất.

Trong thời kì nội chiến Hoa Kỳ, bà tiếp tục tổ chức các đoàn phụ nữ, khuyến khích họ cùng giúp đỡ, bất kể chồng con họ đang đứng về phe nào. Sau chiến tranh, bà đề xuất tổ chức một “Ngày tình thân của những người Mẹ” (Mothers’ Friendship Day) - với hy vọng hàn gắn những rạn nứt giữa các gia đình từng đứng ở hai chiến tuyến: Liên minh miền Nam và Liên bang miền Bắc.

Julia Ward Howe

Julia Ward Howe là một nhà thơ và nhà cải cách nổi tiếng. Trong thời kỳ Nội chiến, bà tình nguyện làm việc cho Ủy ban Vệ sinh Hoa Kỳ, góp phần mang lại môi trường sạch sẽ cho các bệnh viện và đảm bảo điều kiện vệ sinh trong việc chăm sóc thương binh, bệnh binh. Năm 1861, bà sáng tác bài thánh ca nổi tiếng của thời Nội chiến – “The Battle Hymn of the Republic”, lần đầu được phát rộng rãi vào tháng 2 năm 1862. 

Khoảng năm 1870, Julia đã kêu gọi tổ chức riêng một “Ngày của Mẹ vì hòa bình” (“Mother’s Day for Peace”) để tôn vinh hòa bình và chấm dứt chiến tranh. Trong bản “Tuyên ngôn Ngày của Mẹ” (“Mother’s Day Proclamation”) do bà viết, Julia cảm thấy rằng chính những người mẹ - những người phải gánh chịu và thấu hiểu cái giá phải trả của chiến tranh - cần phải cùng nhau lên tiếng chống lại sự tàn khốc và sự phí hoài cuộc sống vì súng gươm. 

“Ngày của Mẹ” theo góc nhìn của Julia từng được tổ chức tại Boston và một vài nơi khác trong khoảng 30 năm nhưng nhanh chóng biến mất vào những năm trước Thế chiến thứ nhất.

Không có gì mới mẻ diễn ra trong phong trào này cho đến năm 1907, khi cô Anna M. Jarvis ở Philadelphia tiếp tục giương cao ngọn cờ ấy. 

Anna M. Jarvis

Sau khi mẹ qua đời vào năm 1905, cô Anna M. Jarvis ở Philadelphia đã ấp ủ ước nguyện tưởng nhớ cuộc đời đầy cống hiến của mẹ mình. Cô bắt đầu vận động một ngày lễ toàn quốc nhằm tôn vinh tất cả những người mẹ. “Tôi hy vọng và cầu nguyện rằng rồi sẽ có ai đó, vào một lúc nào đó, lập nên một ngày tôn vinh mẹ - để ghi nhận những cống hiến vĩ đại mẹ dành cho nhân loại trong mọi khía cạnh của cuộc sống,” Anna từng khẳng định - “Mẹ xứng đáng với điều đó.” 

Ý tưởng của Anna không xoay quanh những công việc xã hội như mẹ cô từng theo đuổi, mà thiên về việc tôn vinh vai trò thiêng liêng của người mẹ và những hy sinh thầm lặng trong mái ấm gia đình. Cô không ngừng gửi điện tín, thư từ, và gặp gỡ trực tiếp các nhân vật có tầm ảnh hưởng cũng như các tổ chức xã hội để thuyết phục họ ủng hộ. Dù tổ chức lớn hay nhỏ, cô đều kiên trì gửi thư trình bày ý tưởng của mình. Bằng chính tiền túi, Anna viết, in và phát hành hàng loạt tập sách ca ngợi Ngày của Mẹ.

Vì sao Ngày của Mẹ ở Mỹ lại rơi vào tháng 5?

Tháng 5 năm 1907, Anna tổ chức buổi lễ tưởng niệm để tưởng nhớ hành trình hoạt động không ngơi nghỉ của mẹ tại nhà thờ Giám Lý ở Grafton, West Virginia – nơi bà từng giảng dạy. Một năm sau, vào ngày 10 tháng 5, một buổi lễ chính thức nhân Ngày của Mẹ được tổ chức tại chính nhà thờ đó, lần này để vinh danh tất cả những người mẹ. Từ đây, ý tưởng dành riêng Chủ nhật thứ hai của tháng 5 để tôn vinh mọi người mẹ - dù còn sống hay đã khuất - bắt đầu hình thành.

Nỗ lực của Anna dần gây được sự chú ý. Thị trưởng Philadelphia là người đầu tiên tuyên bố tổ chức Ngày của Mẹ tại địa phương. Từ đó, Anna tiếp tục hành trình vận động ở thủ đô Washington, D.C. Các chính trị gia ở đây nhanh chóng nhận thấy đây là một đề xuất đáng giá và bày tỏ sự ủng hộ công khai.

West Virginia là bang đầu tiên chính thức công nhận ngày này. Sau đó, nhiều bang khác cũng làm theo. Việc các bang liên tiếp đưa ra tuyên bố công nhận Ngày của Mẹ đã dẫn đến việc Hạ nghị sĩ J. Thomas Heflin (bang Alabama) và Thượng nghị sĩ Morris Sheppard (bang Texas) cùng đệ trình một nghị quyết lên Quốc hội nhằm công nhận Ngày của Mẹ là ngày lễ trên toàn quốc. Cả hai viện của Quốc hội đều thông qua nghị quyết.

Đến năm 1914, Tổng thống Woodrow Wilson đã ký ban hành đạo luật chính thức công nhận Chủ nhật thứ hai của tháng 5 là ngày lễ quốc gia với tên gọi “Ngày của Mẹ” - dành riêng cho “người mẹ tuyệt vời nhất trên đời: mẹ của bạn.”

Trong những năm đầu tiên, Ngày của Mẹ được tổ chức một cách mộc mạc và đầy thành kính - thường là qua các buổi lễ nhà thờ để tưởng nhớ và vinh danh các bà mẹ, dù còn sống hay đã qua đời.

Ngọt ngào xen lẫn đắng cay khi kế thừa Ngày của Mẹ

Theo nhiều tài liệu, điều duy nhất mà Anna mong muốn là tưởng nhớ mẹ mình - người mà cô tin là người khởi xướng thực sự của Ngày của Mẹ. Nhưng khi ngày lễ trở nên phổ biến, Anna dần cảm thấy thất vọng khi nó bị thương mại hóa: người ta gửi thiệp, tặng hoa một cách máy móc. Thậm chí cô không đồng tình khi các tổ chức phụ nữ hay hội từ thiện dùng Ngày của Mẹ để gây quỹ - điều khá mâu thuẫn nếu nhìn vào lý tưởng y tế cộng đồng mà mẹ cô từng theo đuổi.

Năm 1948, Anna Jarvis qua đời tại một viện dưỡng lão trong tình trạng sa sút trí tuệ.

Ngày của Mẹ hiện nay

Ngày của Mẹ vẫn bền bỉ tồn tại và không ngừng phát triển. Cũng giống như khởi nguồn ngày lễ bắt đầu từ sự sáng tạo của nhiều người phụ nữ, Ngày của Mẹ trong thời đại hiện nay tôn vinh sự đa dạng trong vai trò của người mẹ hiện đại. Chúng ta nhớ ơn những người mẹ đã đấu tranh để cải thiện cuộc sống của con cái bằng nhiều cách - từ phúc lợi xã hội đến lý tưởng phi bạo lực. Và hơn hết, chúng ta thấu hiểu, trân trọng tinh thần dũng cảm cùng đức hy sinh quý giá vô ngần dành cho con trẻ từ lúc chúng mới lọt lòng.

Hà Nhi dịch từ Almanac

Đọc bài viết

Cafe sáng