Trà chiều

Taylor Swift: Nàng nhạc sĩ yêu văn chương

Với Taylor Swift, âm nhạc không chỉ là giai điệu cảm xúc, là nhật kí cá nhân, là người bạn tâm giao để trút bầu những muộn phiền trong cuộc sống…; trên tất cả, âm nhạc với người con gái ấy dường như là một câu chuyện được kể ra bằng sự say đắm ngôn ngữ không khác gì phương thức của văn chương.

Published

on

Nhiều bản nhạc Taylor viết ra không đơn thuần chỉ là các phiến đoạn cảm xúc ngắn mà những tác phẩm ấy dường như có cấu trúc hoàn chỉnh như một truyện ngắn hẳn hoi: All Too Well, White Horse, You Belong With Me, Back to December… Và chính Taylor cũng tiết lộ sách là nguồn cảm hứng lớn cho trí tưởng tượng của cô bên cạnh âm nhạc. Dưới đây là những chia sẻ của Taylor Swift về việc đọc sách với độc giả nhà xuất bản Scholastic trong chương trình giao lưu trực tuyến “Read Every Day”.

Chuyển từ Philadelphia đến Nashvile, việc đó đã ảnh hưởng đến bạn như thế nào trên phương diện là một người viết nhạc?

Taylor Swift (TS): Tôi bị ám ảnh với thơ ca từ khi còn rất sớm bởi những cuốn sách mà tôi yêu thích từ lúc ấy là sách của Dr. Seuss, Shel Silverstein và tất cả những sách có câu chuyện kết nối với nhau qua nhịp điệu. Đó luôn là loại sách tôi thích đọc vì chúng có âm điệu như một bản nhạc. Giống như khi bạn đọc một dòng thơ mà nhịp thơ dừng ngay tại điểm kết thúc những câu thơ, giọng thơ khi đó sẽ vang lên giống như lời bài hát vậy. Tiết học tiếng Anh đã luôn luôn là tiết học tôi thích nhất vì tôi được đọc, được viết và hơn cả là vì có thơ.

Những giáo viên có nhận ra khả năng sáng tạo của bạn sớm không?

TS: Có một giáo viên đã nói với mẹ tôi – tôi nghĩ đó là khi tôi học lớp một: “Tôi bảo các em trong lớp viết một bài tiểu luận, và em ấy viết đầy cả bốn trang giấy. Vì thế, tôi muốn cô biết rằng đó có thể là lĩnh vực con bé yêu thích. Bé viết không ngừng.” Tôi lúc nào cũng yêu thích việc kể ra một câu chuyện hay với những nhân vật thú vị, đó là lí do tại sao rất nhiều bài hát của tôi là những câu chuyện.

Bản nhạc đầu tiên mà bạn viết là gì?

TS: Bản nhạc đầu tiên mà tôi thực sự hoàn thành không phải là một bản nhạc ngẫu hứng, bản nhạc tám phút được viết năm tôi 12 tuổi có tên gọi là Lucky You kể về một cô gái khác biệt. Cô ấy tin vào chính mình. Tôi không biết làm sao mà bản nhạc này bị rò rỉ trên mạng nữa nhưng đó thật là một trải nghiệm kinh khủng khi mọi người đưa nó lên vì giọng tôi nghe giống như “Tôi hát như một con sóc. Tôi mới 12 khi đó.” Nhưng bạn có dịp nhìn lại những trải nghiệm đầu tiên của mình với việc viết và từng trải nghiệm ấy đã giúp bạn dần trở thành con người hiện tại. Vì thế, tôi không nghĩ rằng bạn có thể coi thường bất cứ sự sáng tạo nào bạn làm ra khi còn rất trẻ.

Có phải sách là nguồn cảm hứng lớn cho âm nhạc và cuộc sống của bạn?

TS: Sách đã luôn là nguồn cảm hứng lớn cho trí tưởng tượng của tôi. Tôi đã từng là fan trung thành của thể loại truyện cổ tích dành cho người lớn, bạn có thể thấy nhiều chi tiết trong bài hát của tôi giống như Romeo and Juliet và The Scarlet Letter, đó đều là từ vốn kiến thức đọc của tôi. Đó là những câu chuyện đã cùng tôi lớn lên. Vì vậy, bạn biết đấy, điều này hoàn toàn nhờ vào việc đọc.

Cô Fisher, một giáo viên ở Michigan muốn biết: “Việc đọc sách đã ảnh hưởng đến những lựa chọn trong cuộc sống của bạn, đặc biệt là trong sự nghiệp như thế nào?”

TS: Rất nhiều cuốn sách tôi thích đọc khi còn nhỏ là loại sách dạy bạn một bài học nào đó – kiểu vui nhộn như Amelia Bedelia, hoặc là The Giving Tree dạy ta phải biết tử tế với người khác. Những câu chuyện đó thực sự đính kèm một chuẩn mực đạo đức xứng đáng để là cuốn sách đầu tiên mà các bậc phụ huynh hay giáo viên của chúng ta giới thiệu cho con trẻ. Nếu đó là những câu chuyện đầu tiên bạn được đọc, nó sẽ có ảnh hưởng thực sự đến tính cách của bạn. Đối xử tốt với người khác là tinh thần chủ đạo mà tôi thực sự yêu thích ở những cuốn sách này.

Danny: Tuổi thơ của bạn như thế nào?

TS: Tôi lớn lên ở một trang trại trồng cây Giáng sinh. Chúng tôi chăm sóc cây Giáng sinh để những người khác có thể mua về và đặt trong nhà họ. Và có rất nhiều loài động vật khác nhau chạy vòng quanh chúng tôi, tôi nhớ rằng có rất nhiều không gian để chạy nhảy, để đuổi bắt những câu chuyện hoang dã, tôi cảm thấy đó đã là khoảng thời gian tôi thực sự có thể cho trí tưởng tượng của mình bay bổng. Nhưng, bạn biết đó, tôi không nghĩ rằng bạn nhất thiết phải có một không gian rộng mở để tưởng tượng. Bạn có thể thấy được những thứ đẹp đẽ, huyễn tưởng, những thứ không có thực và những thứ kì ảo tại bất cứ nơi nào bạn lớn lên nếu bạn chịu khó suy nghĩ và nắm bắt tâm trí mình. Nhưng tôi đã có một tuổi thơ vui vẻ. Nó giống như một tia chớp thoáng qua vậy, nên tôi muốn cảm ơn bạn vì đã đặt câu hỏi này. Thực sự là một câu hỏi hay.

Câu hỏi tiếp theo đến từ tập thể lớp ba của cô Zeidler. Các em muốn biết: “Quyển sách chị yêu thích nhất mà bố mẹ đã đọc cho chị là gì?”

TS: Bắt đầu từ khi chị còn rất nhỏ. Quyển đầu tiên là Big Bird on the Farm, sau đó là Winnie the Pooh và chị thích tất cả những tập thơ kinh điển dành cho trẻ em, những quyển sách dạng như thế rồi cả truyện ngụ ngôn, truyện cổ tích.

Thật vui khi có thể thoát ra nơi mà các em đang sống rồi nhảy vào cuộc đời của một nhân vật khác. Em biết đấy, khi em đọc một cuốn sách, nếu em thực sự có thể hòa mình vào một nhân vật nào đó, em sẽ cảm thấy mình có thể vượt thoát và đến một nơi nào đó. Cũng phần nào giống như sự hồi hộp mà mọi người có được khi đến rạp và xem câu chuyện diễn ra trên màn ảnh vậy. Nhưng chẳng có gì thực sự giống như việc đọc cả. Em chỉ cần tìm một nơi thật yên tĩnh và cứ thế mà đi đến thế giới khác.

Câu hỏi tiếp theo đến từ tập thể lớp bốn của cô Chris Tweedie ở Singapore. Các em muốn biết: “Chị chọn những cuốn sách chị muốn đọc bằng cách nào?”

TS: Chị chọn những cuốn sách chị muốn đọc khi nghe nhiều điều cực kì hấp dẫn về chúng, hoặc nếu như những cuốn sách đó có liên quan đến lịch sử thì chị cũng rất quan tâm. Hồi chị còn nhỏ, người ta có xuất bản những cuốn nhật kí của một người lính tham gia nội chiến hoặc của con gái người lính trong cuộc Cách mạng Mỹ. Họ đã từng xuất bản tất cả những loại sách như thế về lịch sử, và chị thực sự đắm mình vào những câu chuyện đó vì lúc nào chị cũng yêu thích ý tưởng quay ngược trở về thời gian và biết được mọi thứ như thế nào cách đây hàng trăm năm.

Alexandra: Những việc chị đã phải làm khi ở tuổi của chúng em để bây giờ trở thành một nghệ sĩ thành công?

TS: Ừm, giai đoạn trung học sẽ có đôi lúc khó khăn. Bước vào trung học và nhận ra rằng tất cả mọi người ít nhiều đều có khoảng thời gian tồi tệ trong giai đoạn này, thật khó để thích ứng và em sẽ phải luôn cố hình dung ra ai là người mình muốn kết bạn và có thể là bạn, mình phải cư xử như thế nào… Thời trung học cũng là một trong những khoảng thời gian khó khăn nhất với chị để thích ứng. Vì vậy, nếu như em gặp phải bất kì khó khăn nào, cứ nghĩ rằng rất nhiều người cũng như thế. Em có thể cảm thấy rất cô đơn khi không biết ai là bạn của mình và khi em không biết phải nói chuyện với ai hoặc ngồi kế ai trong giờ ăn trưa. Không ai hiểu được cảm giác đó dữ dội và kinh khủng như thế nào, những quyết định kiểu như sẽ ngồi ăn với ai trong bữa trưa. Đó thực sự là những giây phút căng thẳng với chị khi nhìn lại khoảng thời gian trung học. Nếu em tập trung học thật nhiều hết mức có thể vào những thứ em yêu thích, đó sẽ là lối thoát cho những ngày tồi tệ ấy. Chị cũng có những ngày rất khó khăn ở trường học và chị chờ từng ngày dài qua đi để về nhà đàn guitar, viết lời bài hát trong sổ tay riêng. Với chị, việc đó khiến chị cảm thấy ổn. Vậy nên, em có thể tìm việc gì đó giúp em bộc lộ bản thân mình, thời trung học sẽ không quá khó khăn nếu em có một điều nào đó để trông đợi sau khi giờ học kết thúc. Một câu hỏi tuyệt vời. Ừm, đúng là sẽ rất khó khăn, các em à. Cố lên nhé.

Marnie: Bạn đã từng viết một cuốn tiểu thuyết và cũng thắng một cuộc thi thơ. Bạn có thể kể chi tiết hơn cho chúng tôi biết về việc đó không?

TS: Tôi đã từng thắng giải một cuộc thi thơ với bài thơ có tên là Monster in My Closet. (tạm dịch: Con quỉ trong phòng tôi) Đó là khi tôi học lớp bốn, tôi đã viết bài thơ rất dài, dài, dài này đại loại là: “Có một con quỉ trong phòng của tôi và tôi không biết phải làm gì. Bạn có bao giờ thấy nó chưa? Nó có bao giờ tấn công bạn?” Bài thơ có 12 khổ. Tôi đã gửi đến cuộc thi thơ quốc gia và khi thắng giải, người ta gửi tặng tôi quyển sách qua đường bưu điện, thế là tôi được đọc hết tất cả các bài thơ của những đứa trẻ khác. Vui lắm. Một vài năm sau đó khi tôi khoảng chừng 12 hay 13, gia đình tôi nghỉ hè tại bãi biển. Tôi nhớ những người bạn ở nhà rất nhiều nên đã dành cả ngày nhốt mình trong phòng, đối diện với máy tính chỉ để viết một cuốn tiểu thuyết. Tôi cho tất cả bạn bè trong trường trở thành nhân vật trong tiểu thuyết đó để đỡ nhớ họ, và tôi gửi cho họ đọc những chương trong tiểu thuyết. Tiểu thuyết đó kết thúc với độ dài khoảng 400 trang. Viết dù ở dạng thức nào cũng là lối thoát cho tôi, không chỉ là viết nhạc. Nếu như bạn có thể theo đuổi một câu chuyện và bạn có cách để kể nó theo ý muốn, đôi lúc cả thế giới của bạn dường như bừng sáng rực rỡ chỉ với việc bạn có thể lôi câu chuyện ấy ra và viết nó xuống giấy. Cảm ơn bạn vì câu hỏi này.

Câu hỏi tiếp theo đến từ một học sinh lớp 7 ở California: “Taylor, chị thường đọc sách như thế nào? Giáo viên của em nói rằng chúng ta nên đọc sách mỗi ngày.”

TS: Chị cũng nghĩ thật là tốt khi có thể đọc mỗi ngày. Chắc chắn rồi. Hoàn toàn là như thế. Cô giáo của em đã đúng về việc này. Chị đang cố gắng đọc càng nhiều càng tốt và đọc những thứ khác nhau. Chị cố gắng đọc báo, những bài báo chứa thông tin hữu ích mỗi ngày. Chị cố gắng cập nhật tình hình về quyền con người, những gì đang diễn ra trên thế giới và chính trị, những vấn đề trong thế giới của chúng ta, bởi vì, em biết đó, những việc ấy rất quan trọng. Chị nghĩ ở độ tuổi 22 của mình hiện tại, việc hiểu những gì đang diễn ra trên thế giới thực sự tối cần thiết. Nhưng khi còn đang học ở trường, chị nghĩ đây là giai đoạn em nên mở rộng trí tưởng tượng của mình, và nếu em muốn thoát khỏi nơi này, đến một thế giới khác hoặc đọc một cuốn sách như sách lịch sử, sách khoa học viễn tưởng về người ngoài hành tinh, nếu thích em hãy cứ đọc. Em biết đấy, bất cứ lĩnh vực nào em quan tâm, chị nghĩ đọc mỗi ngày là điều quan trọng, nhưng điều đó không có nghĩa là em không được đọc những gì em thích. Em biết không, điều tuyệt vời là có rất nhiều loại sách khác nhau mà em có thể đọc. Chị thích đọc những cuốn sách như The Hunger Games (dành cho lứa tuổi từ 12 trở lên) và Harry Potter. Các em thật đặc biệt.

Kel: Bạn có nhớ quyển sách đầu tiên mà bạn đọc say mê đến mức không thể dứt ra, và rồi khi đọc xong, quyển sách ấy có làm bạn phải thốt lên: “Ôi, thật tuyệt vời!” không?

TS: Ồ, thật là một câu hỏi rất rất thú vị. Ôi trời ơi. Tôi nghĩ ra được vài quyển sách như thế. Đó là quyển Stargirl của Jerry Spinelli. Và quyển To Kill a Mockingbird của Harper Lee đã thực sự thay đổi cách tôi nhìn cuộc sống. Sau khi đọc hết The Hunger Games, tôi cũng rất buồn vì sê-ri này đã kết thúc. Tôi đã từng muốn đọc đi, đọc lại những quyển sách ấy. Và, có rất nhiều quyển sách mang tính gây nghiện như thế, cũng có nhiều nhà văn rất giỏi trong việc đặt câu kết thúc ở cuối mỗi chương khiến bạn cứ muốn đọc chương kế tiếp. Việc đó làm tôi thực sự ngưỡng mộ các nhà văn.

Lớp học của cô Lasko ở New Jersey muốn biết: “Bạn chỉ viết về những kỉ niệm của bạn thôi, hay bạn có sáng tạo những ý tưởng, câu chuyện từ trí tưởng tượng của mình không?”

TS: Tôi lấy cảm hứng từ nhiều nguồn khác nhau. Đôi lúc, bạn biết đấy, từ chuyện một người bạn của tôi đang cãi nhau với bạn trai và tôi viết về những gì họ đã trải qua. Hoặc tôi xem được một cảnh hay tuyệt vời trong một bộ phim rồi tôi nghĩ: “Nếu như mình có thể viết được nhạc cho khoảnh khắc đó, giai điệu ấy sẽ vang lên thế nào nhỉ?” thế là tôi có ý tưởng cho bài hát mới. Và rồi cũng có nhiều trường hợp tôi viết các bản nhạc về những vấn đề trong mối quan hệ của chính mình.

Cody: Quá trình viết nhạc của bạn như thế nào? Bạn mất bao lâu để viết xong một bài hát, và bạn bắt đầu bằng cái nào trước, giai điệu hay lời? Rồi khi bạn kết hợp cả hai, bạn có bao giờ sửa đổi chúng?

TS: Quá trình viết nhạc của tôi mỗi lần mỗi khác nhau. Đó là lí do vì sao tôi rất vui khi viết nhạc bởi vì bạn luôn luôn không thể dự đoán trước bất cứ điều gì. Bạn không bao giờ biết cái nào sẽ đến trước. Và rất khó để giải thích bạn đã lấy những ý tưởng đó từ đâu. Bạn biết đấy, đôi lúc bạn có một ý tưởng tuyệt vời và bạn nói với mọi người, “Tôi không biết ý tưởng này đến từ đâu.” Đại loại thế, giống như có một đám mây nhỏ lơ lửng trước mặt bạn và có một ý tưởng ghi trên đó. Tôi thích nghĩ những ý tưởng này giống như mảnh ghép đầu tiên của trò chơi ghép hình vậy. Có thể tôi sẽ lấy được một mảnh ghép và tôi không biết nó sẽ trở thành câu đầu tiên của bài hát hay câu cuối cùng của bài hát hay một phần của đoạn điệp khúc hay có khi chỉ là một phần của đoạn hát đệm. Công việc sau đó của tôi là phải định hình được những mảnh ghép còn lại của trò chơi này, phải đặt chúng ở đâu và phải tạo ra bài hát hoàn chỉnh như thế nào từ ý tưởng nhỏ này. Tôi thường viết nhạc vào lúc bốn giờ sáng, hoặc lúc đi dạo trong sân bay, tôi có ý tưởng và cứ thế mà viết lời bài hát lên một cuộn khăn giấy. Chẳng ai biết trước được khi nào tôi bắt đầu viết một bài hát, bạn bè tôi cũng đã quá quen thuộc với cách tôi tóm lấy một ý tưởng nào đó. Nỗi lo sợ lớn nhất của tôi khi có ý tưởng cho một bài hát mới là tôi sợ mình sẽ quên nó đi mất, vì thế tôi thường hay thu âm lại giọng của mình trong điện thoại. Bạn bè tôi cũng quen với việc khi chúng tôi đang ngồi trong xe, họ đang nói không ngừng, không ngừng về ngày hôm qua của mình, rồi họ quay ra đằng sau và thấy tôi đang thu âm trong điện thoại của tôi, tôi lấy tay che miệng và hát nhỏ, rồi họ sẽ nói như thế này, “Cậu lại viết nhạc nữa rồi. Cậu nên cho tớ biết khi nào cậu sắp viết và tớ sẽ ngưng nói chuyện. Ổn mà.”

Cô từng nói rằng mình là fan của The Hunger Games (dành cho lứa tuổi từ 12 trở lên) và cô đã viết một số bản nhạc cho phim chuyển thể từ tác phẩm này. Vậy chúng tôi muốn biết cô làm thế nào để lời nhạc khớp với không khí của quyển sách và tâm trạng của nhân vật?

TS: Tôi đã viết hai bản nhạc cho The Hunger Games, một bài có tên là Eyes Open, một bài có tên là Safe and Sound. Tôi viết Safe and Sound chung với The Civil Wars. Khi chúng tôi ngồi lại với nhau để viết, chúng tôi đã bàn luận về việc làm sao để viết một bài hát diễn tả mối quan hệ giữa Katniss và Rue, chúng tôi cũng muốn bài hát này tượng trưng cho mối quan hệ giữa Katniss và Prim nữa. Vì vậy, bài hát phần nào giống như lời hát ru, phần nào giống như lời động viên: “Mọi chuyện sẽ ổn thôi. Em cứ nhắm mắt lại. Rồi sẽ ổn thôi. Chúng ta sẽ an toàn.” Mọi thứ diễn ra trong thế giới của The Hunger Gamesrất tàn khốc và tràn ngập bóng tối. Vậy nên chúng tôi muốn viết một bài hát đem lại niềm tin rằng vẫn còn khả năng ngày nào đó mọi thứ sẽ bình yên và họ có thể vươn mình đứng dậy từ trong bóng tối ấy. Thật thú vị khi viết dưới góc nhìn của một người khác, sống trong một thế giới rất khác với thế giới bạn đang sống, việc đó đã dạy tôi nhiều bài học quí giá.

Evelyn: Đến bây giờ, tổng cộng bạn đã đọc được bao nhiêu cuốn sách?

TS: (Cười) Ừm, 4522 quyển. Ôi không, tôi không biết nữa. Bạn biết đấy, dù bạn đọc bất cứ loại sách gì, bạn cũng sẽ nhận được một lượng kiến thức và nó sẽ ảnh hưởng đến bạn dù bạn có nhận ra hay không. Điều quan trọng là bạn đọc nhiều thể loại sách ở mức bạn có thể – những quyển sách cực kì ngắn mà khi bạn vừa đọc thì đã đến ngay kết thúc rồi, và những quyển sách dài kinh khủng khiến đôi lúc bạn cảm thấy thật khó khăn để đọc hết, rồi sách hư cấu, sách về những câu chuyện có thật. Nếu như bạn cứ tiếp tục đọc những loại sách khác nhau, bạn sẽ hình dung ra được thể loại mình yêu thích nhất là gì, khi đó bạn sẽ học được rất nhiều. Thật là một câu hỏi thú vị. Có lẽ tôi cần phải suy nghĩ kĩ lưỡng về việc này một khoảng thời gian dài và chắc là tôi sẽ không bao giờ tìm ra được câu trả lời thực sự. (Cười) Câu hỏi khó nhất của ngày hôm nay. Tôi tự hào về bạn.

Samantha: Cuộc sống của bạn đã thay đổi thế nào những năm gần đây, và bạn cảm nhận bản thân mình như thế nào?

TS: Samantha, bạn dễ thương quá, tôi thích bạn. Cuộc sống của tôi đã thay đổi rất nhiều sáu năm gần đây vì tôi phát hành album đầu tiên vào năm 16 tuổi, và một khi nhiều người biết đến âm nhạc của tôi, bạn cũng đoán được rồi đó, cuộc sống của bạn khi ấy sẽ thay đổi nhiều. Giống như là việc mỗi ngày bạn rời khỏi nhà, bạn biết rằng bạn sắp trò chuyện với rất nhiều người lạ. Bạn biết không? Khi bạn trưởng thành, bố mẹ thường dặn bạn điều gì?  Đừng nói chuyện với người lạ. Tôi cảm thấy phần nào phải thay đổi suy nghĩ đó bởi vì mỗi lần tôi rời khỏi nhà, tôi lại gặp được những người dễ thương, họ đến gần tôi và nói, “Tôi đã mua album này,” hoặc “Tôi thích bài hát này,” và “Chụp một tấm hình với tôi chứ?” Đó là một cách khác để sống cuộc đời của bạn vì bạn phải dự đoán trước những việc bất ngờ xảy ra. Đến cửa hàng tạp hóa có thể mất nhiều thời gian hơn, nhưng không phải chỉ vì việc đó mất nhiều thời gian hơn và bạn phải trò chuyện thêm với một vài người mà có nghĩa là bạn không thể sống một cuộc sống bình thường theo cách bình thường. Việc nổi tiếng thật phiền phức nhưng cũng rất vui. Tôi cảm giác mình vẫn sẽ là một người giống như bây giờ nếu tôi không nổi tiếng. Cuộc sống của tôi đã khác trước rất nhiều. Tôi có một cuộc sống rất, rất không bình thường nhưng tôi cảm giác việc gần gũi với gia đình giúp tôi vẫn là bản thân mình giống như thể bây giờ tôi đang học ở một trường đại học nào đó hoặc đang cố gắng tìm việc, bất cứ việc gì mà không phải là âm nhạc. Tôi nghĩ điều quan trọng là bạn nhận được sự ảnh hưởng tốt trong cuộc đời mình, cho dù ảnh hưởng đó là từ giáo viên, bố mẹ, bạn bè, chỉ cần là những người có phẩm chất tốt và thực sự ảnh hưởng đến bạn theo hướng tích cực, tôi nghĩ bạn nên gần gũi với những người ấy. Cảm ơn bạn rất nhiều vì câu hỏi này.

Clarissa: Khoảnh khắc đáng nhớ nhất trong cuộc đời bạn là gì?

TS: Tôi sẽ kể bạn nghe câu chuyện về bài hát tôi đã viết có tên là Mean. Đó là bài hát tôi viết về một nhà phê bình. Khi bạn ra một album hoặc khi bạn trình diễn một tiết mục trên TV, tất cả những nhà phê bình đều viết những gì họ nghĩ. Đôi lúc họ rất tế nhị, nhưng đôi lúc thì không. Và tay phê bình này đã viết về tôi, hắn dùng những lời tồi tệ nhất, tàn nhẫn nhất. Đó chẳng phải là lời phê bình có tính xây dựng. Bạn cũng biết đấy, khi giáo viên dạy bạn nói rằng, “Em có thể làm cái này tốt hơn. Em có thể làm cái kia tốt hơn.” Không chỉ đơn giản là như thế. Điều đó có nghĩa là gã ấy hoàn toàn ghét tôi. Thế là tôi viết bài hát Mean để bày tỏ rằng điều đó đã làm tôi cảm thấy bất lực như thế nào, tôi cảm thấy như thể mình chẳng làm được gì hoặc nói gì để gã đừng chỉ trích tôi nữa. Khi bài hát ấy được phổ biến, nó đã trở thành một bản nhạc chống nạn bắt nạt, và có nhiều người hâm mộ gặp tôi nói rằng, “Bài hát này thực sự đã giúp em đứng vững trước nhóm bạn bắt nạt em ở trường.” Điều đó thực sự làm tôi xúc động. Tôi vô cùng tự hào khi bài hát đã trở thành nguồn động viên như thế khi nó chào đời thế giới này. Chúng tôi cuối cùng đã thắng hai giải Grammy cho Mean. Vậy nên tôi nghĩ đó là khoảnh khắc đáng nhớ nhất trong toàn bộ cuộc đời mình. Cảm ơn bạn vì câu hỏi này. Bạn rất dễ thương. Và thân thiện nữa.

Hết.

Buổi giao lưu trực tuyến này được thực hiện vào tháng 10.2012. 

Chú thích thêm:

Romeo and Juliet: đã được xuất bản ở Việt Nam dưới tên Romeo và Juliet
The Scarlet Letter:
đã được xuất bản ở Việt Nam dưới tên Chữ A màu đỏ
The Giving Tree:
đã được xuất bản ở Việt Nam dưới tên Cây táo yêu thương
The Hunger Games:
đã được xuất bản ở Việt Nam dưới tên Đấu trường sinh tử
Harry Potter:
đã được xuất bản ở Việt Nam dưới tên Harry Potter
To Kill a Mockingbird:
đã được xuất bản ở Việt Nam dưới tên Giết con chim nhại

Kodaki
Dịch từ blog của NXB Scholastic


Bài viết có liên quan

Click to comment

Viết bình luận

Your email address will not be published. Required fields are marked *

Trà chiều

Thế giới viễn tưởng độc đáo trong bốn bộ phim mang đậm tính thể nghiệm

Published

on

Thế giới của phim khoa học viễn tưởng không phải lúc nào cũng chỉ có AI, robot, hay du hành không gian mà còn vô vàn những điều đặc biệt khác có thể bạn chưa biết.

Năm 2023 vừa qua đã ghi nhận sự phát triển ngày càng mạnh mẽ của AI. Điều đó khiến cho dòng phim khoa học viễn tưởng nhận được nhiều sự quan tâm trở lại. Nhắc đến dòng phim này, người ta vẫn thường đóng khung nó với vài yếu tố tiêu biểu thường gặp như: AI, robot, du hành vũ trụ, thế giới song song… Tuy nhiên, có rất nhiều tác phẩm sci-fi kinh điển đã chứng minh điều ngược lại.

Hãy cùng Bookish khám phá những bộ phim sci-fi không thuần túy là sci-fi vì ở đó, người xem được tận hưởng bữa tiệc điện ảnh đỉnh cao với những hương vị hòa quyện mĩ mãn từ nhiều thể loại khác nhau.

Back to The Future (1985)

Sci-fi x Road Trip Comedies

Cùng với The Terminator, Back To The Future ra đời năm 1985 đã trở thành biểu tượng kinh điển của dòng phim sci-fi lấy chủ đề du hành thời gian. Đó cũng là một trong những nguyên nhân mà bộ phim này được nhắc đến nhiều lần trong Avengers: Endgame lúc cả nhóm quyết định quay về quá khứ.

Tuy nhiên, không giống như The Terminator, Back To The Future mang màu sắc vui nhộn, hài hước của lứa tuổi học trò. Cậu học sinh tuổi teen Marty McFly ở thập niên 80 vô tình bị kéo về quá khứ trên chiếc xe cỗ máy thời gian của nhà khoa học Emmett Brown. Cậu quay trở về thập niên 50 – lúc này bố mẹ cậu cũng ở lứa tuổi học trò như cậu. Để có thể quay về hiện tại năm 80, cậu phải tìm cách hàn gắn mối quan hệ của bố mẹ, nếu không bản thân cậu cũng sẽ không tồn tại ở năm 80. Từ đó, câu chuyện nảy sinh nhiều tình huống dở khóc dở cuối. Nếu như The Terminator là sự phối trộn hoàn hảo giữa thể loại sci-fi và hành động thì Back To The Future lại là màn kết hợp ăn ý giữa thể loại sci-fi và hài hành trình. Bộ phim tốn kinh phí thực hiện là 19 triệu USD nhưng lại có doanh thu phòng vé lên đến 388 triệu USD. Chính vì thành công này mà đạo diễn Robert Zemeckis đã thực hiện hai phần tiếp theo cũng vui nhộn không kém.

Snowpiercer (2013)

Sci-fi x Dystopia

Bong Joon Ho không chỉ tạo ra những bộ phim sâu sắc về đề tài xã hội mà ông còn có khả năng làm phim khoa học viễn tưởng rất chặt chẽ, thuyết phục. Điều này thể hiện rõ nhất qua Snowpiercer. Phim dựa trên tiểu thuyết Pháp Le Transperceneige lấy đề tài hậu tận thế. Trong tương lai, sau một thí nghiệm thất bại, khí hậu toàn cầu biến đổi dẫn đến gần như toàn bộ sinh vật đều bị diệt vong, ngoại trừ một số người may mắn có mặt trên con tàu Snowpiercer chạy vòng quanh Trái đất với động cơ vĩnh cửu. Tại đây, một xã hội thu nhỏ mới lại được hình thành. Dưới bàn tay tài hoa của Bong Joon Ho, Snowpiercer cũng không đơn giản là tác phẩm sci-fi thuần túy mà ông còn lồng ghép vào nhiều thể loại khác nhau: có những phân đoạn hành động mãn nhãn, đồng thời cũng có những phân đoạn dí dỏm, và cách đặt vấn đề về giai tầng xã hội vẫn mang phong cách rất đặc trưng của Bong. 

Eternal Sunshine Of The Spotless Mind (2004)

Sci-fi x Romance

Sẽ như thế nào nếu kết hợp thể loại sci-fi với phim tình cảm? Khi đó, chúng ta sẽ có kiệt tác Eternal Sunshine Of The Spotless Mind của bộ đôi đạo diễn Michel Gondry và biên kịch Charlie Kaufman. Bộ phim sử dụng đề tài “can thiệp kí ức” để khám phá bản năng con người khi tình yêu tan vỡ. Sẽ ra sao nếu khi chia tay một ai đó, bạn có thể xóa toàn bộ những kí ức vui buồn liên quan đến họ ra khỏi tâm trí? Sau khi Joel biết được Clementine – người yêu cũ của anh đã xóa kí ức tình yêu, anh quyết định bản thân mình cũng sẽ thực hiện việc này. Nhưng khi anh khám phá được điều gì đã khiến họ gắn kết rồi lại chia xa, anh nhận ra mình vẫn còn tình cảm dành cho cô. Nếu như công nghệ trong phim là thứ hư cấu thì cảm xúc giữa hai nhân vật trong Eternal Sunshine hoàn toàn chân thực, lay động trái tim người xem, khiến ai cũng phải thổn thức.

Under The Skin (2013)

Sci-fi x Experimental film

Cuối cùng, không thể không nhắc đến bộ phim sci-fi mang tính thể nghiệm, tiên phong đáng nhớ: Under The Skin. Có rất nhiều phim lấy đề tài sinh vật ngoài hành tinh xâm nhập Trái đất, nhưng có lẽ chưa bộ phim nào kể câu chuyện thật đặc biệt nhưng lại với nhịp điệu từ tốn như Under The Skin. Scarlett Johansson trong vai sinh vật ngoài hành tinh vô danh chỉ làm đúng một công việc là đi lang thang trên một chiếc xe tải, lựa chọn những người đàn ông cô đơn làm con mồi. Bộ phim rất kiệm lời thoại, khiến người xem rợn người không chỉ bởi những hình ảnh thị giác lạ mắt mà còn bởi thứ âm nhạc cũng đầy tính thể nghiệm độc đáo của Mica Levi. Tuy nhiên, nếu chỉ tập trung vào thể nghiệm mà bỏ qua nội dung, Under The Skin đã không gây được tiếng vang lớn như thế trong cộng đồng điện ảnh. Sau tất cả, bộ phim của đạo diễn Jonathan Glazer lại khiến người xem trăn trở nhiều về thân phận làm người.

Hoàng Đức Nhiên

Đọc bài viết

Trà chiều

The Terminator & Blade Runner: Hai tượng đài điện ảnh độc đáo của thập niên 80

Published

on

Cùng ra mắt vào thập niên 80, The Terminator (1984) và Blade Runner (1982) đều là hai kiệt tác điện ảnh độc đáo, góp phần rất lớn trong việc tạo ra diện mạo mới cho thể loại sci-fi.

Bài viết này sẽ dẫn dắt bạn khám phá những vấn đề khác nhau được đặt ra trong hai phim: từ những dòng suy tư về mối liên hệ nhân quả giữa hành động và thời gian trong The Terminator đến không gian đô thị đậm chất noir và những truy vấn về bản chất con người trong Blade Runner.

The Terminator (1984)

The Terminator là bước đột phá ngoạn mục trong sự nghiệp điện ảnh của đạo diễn James Cameron. Vào thời điểm ra mắt, bộ phim gây ấn tượng bởi việc pha trộn nhiều đặc tính giữa các thể loại khác nhau, mang đến màu sắc mới cho dòng phim sci-fi.

The Terminator kể câu chuyện về một người máy sát thủ ra đời năm 2029, được trao nhiệm vụ quay về năm 1984 để giết người phụ nữ trẻ tên là Sarah Connor. Sarah hoàn toàn không biết rằng cuộc đời cô có ảnh hưởng đáng kể đến số phận nhân loại và cô có thể chết bất cứ lúc nào dưới sự truy sát của cỗ máy bất khả chiến bại được gọi là Kẻ Hủy Diệt. Kyle Reese cũng đến từ tương lai nhưng nhiệm vụ của anh là bảo vệ Sarah – người mẹ của thủ lĩnh tương lai.

Với cốt truyện như thế, The Terminator vừa có những pha hành động mãn nhãn, vừa có nhiều tầng suy tư phức tạp về dòng chảy của thời gian, về phương thức thay đổi một sự kiện trong quá khứ có thể dẫn đến tương lai khác biệt hoàn toàn – đây vốn là chủ đề hiếm gặp trong phim hành động ở giai đoạn đó. Ngoài ra, những bản nhạc nền tạo không khí căng thẳng của nhạc sĩ Brad Fiedel cũng góp phần lớn vào thành công của phim.

Tất cả những nhân tố đó đã khiến phim trở thành một mảnh ghép quan trọng của văn hóa đại chúng đến tận ngày nay. Câu nói “I'll be back” của nhân vật Kẻ Hủy Diệt trong phim được sử dụng phổ biến, trở thành slogan thương hiện cho chính Arnold Schwarzenegger.

Từ năm 1984 đến nay, The Terminator đã sản xuất 6 phần phim: The Terminator (1984), Terminator 2: Judgment Day (1991), Terminator 3: Rise of the Machines (2003), Terminator Salvation (2009), Terminator Genisys (2015), Terminator: Dark Fate (2019). Tất cả những phần phim này đều đạt được doanh thu khủng, riêng phần đầu tiên The Terminator đã trụ vững ở vị trí số 1 trên bảng xếp hạng phòng vé ở Mỹ trong suốt hai tuần. Năm 2008, The Terminator đã được Thư viện Quốc hội Hoa Kỳ đưa vào Viện lưu trữ phim quốc gia để bảo tồn với lí do là bộ phim “nổi bật ở phương diện văn hóa, lịch sử, và mĩ học”.                          

Blade Runner (1982)

Không may mắn như The Terminator, Blade Runner của đạo diễn Ridley Scott là một tuyệt tác có số phận khá hẩm hiu khi vừa ra đời. Tuy nhiên, qua nhiều thập kỉ với những bản dựng khác nhau, tác phẩm này đã trở thành một tượng đài lớn của thể loại sci-fi.

Dựa trên tiểu thuyết gốc Do Androids Dream Of Electric Sheep? của nhà văn Philip K. Dick, Blade Runner vẽ nên viễn cảnh ảm đạm của thế giới vào năm 2019. Khi đó, thế giới tràn ngập những replicant – người máy có hình dạng giống con người, được tạo ra với vòng đời ngắn ngủi để làm những công việc nguy hiểm phục vụ cho con người. Một nhóm replicant bất mãn trước việc này đã làm một cuộc phản loạn, quay trở về Trái Đất và giết con người. Rick Deckard, một cảnh sát đã nghỉ hưu ở Los Angeles nhận nhiệm vụ phải truy lùng và tận diệt toàn bộ nhóm replicant nổi loạn này.

Blade Runner là sự pha trộn giữa sci-fi, trinh thám và phim noir – thể loại phim hình sự tội phạm mang đậm phong cách Hollywood, thường thể hiện thái độ hoài nghi, mỉa mai. Thông qua hành trình của Rick Deckard, bộ phim đặt ra nhiều câu hỏi triết học về tính người, thế nào là một con người.

Nhưng không chỉ sâu sắc về nội dung, Blade Runner còn là bữa tiệc chiêu đãi về thị giác qua cách bộ phim thể hiện không gian đô thị tương lai với những màn hình quảng cáo lớn, đèn neon luôn lấp lánh và đường phố lúc nào cũng nhộn nhịp. Cảm hứng thị giác của phim kết hợp từ những bức tranh cổ điển của danh họa Edward Hopper và các khu phố với những tòa nhà chọc trời ở Hong Kong. Sự kết hợp này đã tạo nên không gian thị giác ấn tượng của phim khi con người bị nhấn chìm trong công nghệ. Mĩ thuật của phim tạo ảnh hưởng lớn đến cách xây dựng không gian cho những phim sci-fi hay hành động của Hollywood ra đời sau đó như: The Matrix (1999), bộ ba Dark Knight (2005 – 2012) của đạo diễn Christopher Nolan, Ghost in the Shell (2017)…

Ngày nay, Blade Runner đã có một chỗ đứng không thể thay thế trong dòng phim sci-fi với nhiều ảnh hưởng mang tính định hình về mĩ thuật, tư duy về cách kể chuyện và nhân vật. Blade Runner 2049 – phần tiếp theo của phim ra đời vào năm 2017, đúng 35 năm kể từ phần đầu tiên đã không làm người hâm mộ thất vọng với điểm số trên Rotten Tomatoes lên đến 88%.

Hoàng Đức Nhiên

Đọc bài viết

Trà chiều

Hai tác phẩm định hình dấu ấn cá nhân của đạo diễn James Cameron và Christopher Nolan

Published

on

Đạo diễn James Cameron và đạo diễn Christopher Nolan đều là những cá nhân kiệt xuất trong ngành điện ảnh với nhiều bộ phim kinh điển vừa đạt được doanh thu khủng, vừa có giá trị nghệ thuật cao.

Tuy nhiên, khi nhắc đến hai vị đạo diễn tài danh này, có hai tác phẩm đặc biệt mà người hâm mộ điện ảnh không thể nào bỏ lỡ.Hãy cùng Bookish khám phá những dấu ấn đặc trưng cá nhân của đạo diễn James Cameron trong Avatar và của đạo diễn Christopher Nolan trong Inception.  

Avatar (2009)

Năm 2009, bộ phim sci-fi Avatar của đạo diễn James Cameron ra đời đã tạo nên bước ngoặt lớn cho sự phát triển công nghệ điện ảnh. Lần đầu tiên, cả thế giới được xem một bộ phim 3D. Kĩ thuật thị giác đột phá đã khiến trải nghiệm của phim cực kì sống động.

Vào năm 2154, nguồn tài nguyên Trái đất trở nên cạn kiệt dưới sự khai thác của con người dẫn đến khủng hoảng năng lượng. Lúc bấy giờ, tập đoàn RDA đang khai thác unobtanium – một loại khoáng sản có giá trị tại Pandora, một hành tinh tươi tốt mang sự sống giống Trái Đất nhưng lại có bầu khí quyển độc hại cho con người. Pandora là nơi sinh sống của người Na'vi da xanh, có hình dáng và trí óc giống con người. Để tìm hiểu về người Navi và sinh quyển ở Pandora, các nhà khoa học sử dụng cơ thể người lai Na’vi gọi là các Avatar, được hoạt động thông qua liên kết thần kinh với những người có kiểu gen phù hợp. Jake Sully là một cựu lính thủy quân được giao nhiệm vụ trà trộn vào hành tinh Pandora. Quá trình thực hiện nhiệm vụ đã khiến anh bị giằng xé giữa việc tuân theo mệnh lệnh hay bảo vệ xứ sở mà anh đã trót xem là quê nhà.

Đạo diễn James Cameron đã mất đến 15 năm để thực hiện Avatar từ lúc bộ phimcòn là ý tưởng năm 1994 cho đến khi ra đời năm 2009. Sở dĩ bộ phim mất nhiều thời gian như vậy là do Cameron không chỉ trau chuốt về mặt nghệ thuật mà còn cả kĩ thuật: từ công đoạn làm việc với chuyên gia ngôn ngữ để tạo ra tiếng Na’vi với hơn 1000 từ, cho đến việc tạo ra kĩ thuật 3D. Sự kì công này khiến Avatar chiều lòng được cả khán giả đại chúng lẫn giới hàn lâm. Avatar luônđứng đầu danh sách phim ăn khách nhất mọi thời đại với doanh thu lên đến 2,7 tỉ USD, và chỉ bị Avengers: Endgame vượt mặt vào năm 2019 sau suốt 10 năm thống trị bảng vàng.            

Avatar 3 dự kiến sẽ ra mắt vào năm 2025, tiếp tục hứa hẹn mang đến những thành tích khủng trong tương lai. 

James Cameron

Inception (2010)

Hầu như những bộ phim của đạo diễn Christopher Nolan đều có các yếu tố như: du hành thời gian, tìm hiểu bản chất thế giới… khiến người xem vừa rối não lẫn rối lòng. Và Inception chính là một tác phẩm hội tụ đủ các yếu tố làm nên thương hiệu Nolan, trở thành một tượng đài khó quên trong lòng người hâm mộ.

Inception là một trải nghiệm điện ảnh đáng nhớ khi Nolan cố gắng hình tượng hóa kiến trúc tư duy của con người, biến tiềm thức trở thành không gian vật lí cho các hoạt động đánh cắp được diễn ra. Bộ phim kể về một tên trộm có khả năng đi vào giấc mơ của người khác. Dom Cobb không trộm gì cả, anh chỉ trộm ý niệm. Bằng việc thâm nhập vào tiềm thức của đối tượng, anh có thể lấy thông tin mà đến cả những tay hacker sừng sỏ nhất cũng không thể làm được. Trong thế giới điệp viên, Cobb là vũ khí tối thượng. Nhưng kể cả vũ khí cũng có nhược điểm, khi Cobb gần như mất tất cả mọi thứ, anh được giao một nhiệm vụ cuối cùng để chuộc lỗi. Lần này, Cobb không gặt lấy ý niệm, anh gieo nó. Liệu anh và đồng đội có thành công?

Christopher Nolan

Inception có một kịch bản hoàn hảo, từng thế giới giấc mơ xuất hiện trong phim vừa chính xác, tinh tế, đôi khi lại hài hước. Thời gian là chủ đề yêu thích của Nolan và ông luôn tìm được cách thể nghiệm thú vị, có thể thấy rõ điều này qua cả phim InterstellarDunkirk. Nhưng trong Inception, thời gian không chỉ là chủ đề mà còn là công cụ kể chuyện khi tái hiện lại hoàn hảo nỗi ám ảnh của kẻ cắp giấc mơ. Từ đó, bộ phim đặt ra nhiều câu hỏi hóc búa: liệu rằng ta có đang sống trong thời gian thực, khi nào thì một giấc mơ trở thành thực tế, khi nào thì thực tế hóa ra lại chỉ là một giấc mơ, ta đang thức hay còn mơ?

Thông qua Inception, Nolan lồng ghép rất nhiều khái niệm về sự logic giấc mơ, đảo ngược các nguyên tắc vật lí, cho thấy những thực tại có thể vỡ vụn ra sao… Tất cả hòa quyện vào nhau, tạo thành một tác phẩm sci-fi tâm lí đỉnh cao mà có lẽ nhiều thập kỉ sau, vẫn còn khiến người ta trầm trồ.

Hoàng Đức Nhiên

Đọc bài viết

Cafe sáng