Phía sau trang sách

Đung đưa trên những đám mây – “Khi em yêu, người ấy sẽ mãi là một phần của chính em.”

“Đôi khi em có thể viện nhờ đến sách vở, những bộ phim, những bản nhạc… nhưng rốt cuộc em phải tự mình cảm nhận thế giới, bằng đôi tay này, bằng trái tim này, và tự mình quyết định những điều em tin là đúng đắn. Những giọt nước mắt ấy, sự tổn thương, hay là máu… đang cố nói cùng em một điều gì có ý nghĩa.”

Published

on

Chi tiết tác phẩm

Nếu qui đổi âm điệu văn phong thành những đường nét trong hội họa thì Đung đưa trên những đám mây của tác giả Nguyễn Hoàng Mai là bức tranh với những nét cong tròn mềm mại, tràn đầy nữ tính dịu dàng chiếm vai trò chủ đạo, định hình toàn bộ không khí câu chuyện. Sự nữ tính ấy không chỉ nằm trong giọng văn mà còn nằm trong hình tượng nhân vật: những nhân vật chính yếu trong câu chuyện này đều là những người phụ nữ chịu nhiều tổn thương trong quá khứ đang cố gắng đấu tranh để sống cho hiện tại.

Giọng văn dịu dàng của Hoàng Mai rất phù hợp với câu chuyện xen kẽ liên tục giữa quá khứ và hiện tại, giữa mơ và thực này. Đó là nét đặc trưng nhưng đôi khi chính nét đặc trưng này cũng hạn chế nhịp điệu câu chuyện: phần lớn câu chuyện như những tảng mây lững lờ trôi chậm chạp trên bầu trời với thứ tốc độ mà mắt thường khó nhận thấy. Nhưng phải chăng đó cũng chính là dụng ý của Hoàng Mai bởi tiêu đề tác phẩm là Đung đưa trên những đám mây (Be in the clouds), bởi khi thả hồn trên những đám mây con người thường không bận tâm lắm đến tốc độ của chính mình, của những thứ ngoại vi xung quanh đang xô đẩy mình về bất cứ phương hướng nào. Nhưng cũng giống như việc quan sát những đám mây, nếu mất kiên nhẫn vì sự chậm chạp của nó mà mắt ta lơ đãng nhìn về một hướng khác, đến lúc quay lại nhìn về vị trí cũ, ta ngạc nhiên vì những đám mây ấy đã dịch chuyển sang một vị trí khác. Trong lúc ta lơ đãng, những đám mây dường như cũng lơ đãng ấy trên thực tế vẫn dịch chuyển trong chính sự lơ đãng của nó. Và có lẽ, toàn bộ sự vận chuyển trong câu chuyện của Hoàng Mai, trong nội tâm của những nhân vật cũng đi theo cách thức như vậy: chậm nhưng không dừng lại, lơ đãng nhưng không hoàn toàn vô tri, trong từng giây phút đều cố gắng chạy trốn bản ngã nhưng đồng thời trong từng giây phút vẫn luôn cố gắng níu giữ ý thức phải đối mặt với bản ngã. Sự mâu thuẫn nội tại ấy có lẽ đến từ việc câu chuyện khởi nguồn bằng nỗi đau mất mát rất lớn của nhân vật chính: sự mất mát khiến cô muốn khắc sâu trong tâm trí về thứ-đã-từng-tồn-tại vì dường như cô là bằng chứng duy nhất cho sự tồn tại đã từng ấy, nhưng đồng thời nỗi đau khi phải đối mặt với nó lại khiến cô đôi lúc muốn quên đi.

Với kết cấu ba phần theo thứ tự: Mất – Tìm – Biển, rõ ràng cuộc tìm kiếm trong tác phẩm này khởi nguồn từ sự mất mát và câu chuyện cũng lấy chính sự mất mát để làm động lực tiến triển. Giống như tác phẩm kinh điển Trà Hoa Nữ của Alexander Dumas, ngay từ đầu, Hoàng Mai không che giấu nỗi buồn vì mất đi người thương yêu nhất của nhân vật “tôi”. Ngược lại, sự mất mát luôn hiện diện, lẩn khuất đâu đó trong câu chuyện, có lẽ không một giây phút nào “tôi” hoàn toàn quên đi nỗi đau ấy. Điều đó khiến cho toàn bộ tác phẩm này chìm trong màn sương u uẩn, thậm chí ngay cả những đoạn hồi tưởng hạnh phúc nhất dường như cũng không thể thoát khỏi ánh bạc nhàu của nỗi buồn dưới tác động thời gian. Nghĩa là, câu chuyện này ngập trong cảm xúc hơn là lí trí, chi tiết hơn là tình tiết. Vì thế, khi ta càng nhìn gần, những đường nét trong câu chuyện càng trở nên mơ hồ dù thoạt tiên, có lẽ nó đã cho ta cảm giác không khó để nắm bắt. “Không thể tái hiện bất cứ sự thực nào trong những trang viết, mà tất cả chỉ là những bóng hình, những ảo giác về một điều gì đó đã từng xảy ra. Ký ức dường như là một bảo vật khó chiều, càng cố chạm vào càng như xa lạ. Tất cả quá sống động nhưng tôi không sao có thể viết ra một cách dễ dàng.” Nhân vật “tôi” đã trải lòng như thế về quá trình viết lại tác phẩm này. Điều này phần nào tương tự như tâm sự của Vladimir Nabokov về tình yêu: “I think it is all a matter of love; the more you love a memory the stronger and stranger it becomes.” (tạm dịch: Tôi nghĩ đó là vấn đề của tình yêu; bạn càng yêu một kí ức nào đó, nó càng trở nên mãnh liệt và đồng thời xa lạ hơn.) Tác phẩm Đung đưa trên những đám mây cũng có tinh thần như vậy: khi nó càng đến điểm mãnh liệt nhất về cảm xúc thì cũng đồng thời đó là điểm mơ hồ nhất về sự thực. Câu văn sau đây có thể cho thấy rõ ràng điều đó: “Suốt nhiều ngày sau đó tôi không thể nói được gì, không ăn được gì, cứ ngập ngụa váng vất trong hương thơm của nắng mới, mùi máy sấy hăng hăng lẫn trong làn tóc ướt và nụ cười của chị mơ hồ dịu dàng.” Vế câu: “Suốt nhiều ngày sau đó tôi không thể nói được gì, không ăn được gì…” cho người đọc thấy một cảm xúc rất mãnh liệt, một sự thực hiển nhiên có thể chạm nắm được; thế nhưng vế sau đó “…cứ ngập ngụa váng vất trong hương thơm của nắng mới, mùi máy sấy hăng hăng lẫn trong làn tóc ướt và nụ cười của chị mơ hồ dịu dàng.” – vế này ngay lập tức khiến cho sự thực ở vế trước nhạt đi bớt, mọi sự lại chìm trong vẻ “mơ hồ dịu dàng” như “hương thơm của nắng mới”, như “mùi máy sấy hăng hăng”, như “làn tóc ướt và nụ cười của chị”. 

Dù tác phẩm Đung đưa trên những đám mây khởi nguồn từ sự mất đi người yêu thương và lấy động lực để bắt đầu bằng chính tình yêu ấy nhưng nó không phải là câu chuyện tình yêu theo nghĩa thông thường. “Tôi” từng nói với người cô yêu rằng: “Khi em yêu, người ấy sẽ mãi là một phần của chính em.” Vì thế, ta nên hiểu tình yêu trong tác phẩm này không chỉ là yêu người mình yêu mà còn là yêu bản thân mình, yêu chính hình ảnh của mình khi yêu người ấy. Do đó, sự mất mát ở đây không chỉ là mất đi người mình yêu, mà còn là mất đi một phần của chính mình. Vậy nên, cuộc tìm kiếm của nhân vật chính không ở ngoại vi mà ở nội giới, không ở khách thể mà ở chủ thể. Tất cả qui lại thành một câu hỏi chung nhất mà những người trẻ lạc lõng giữa xã hội nhưng đầy ý thức về chính mình thường hay tự hỏi bản thân rằng: “Rốt cuộc, tôi là ai?” Và “tôi” của Đung đưa trên những đám mây đã cố gắng tìm quên những ngày tuổi trẻ buồn bã của mình, hay có thể nói là tìm câu trả lời bằng rất nhiều tác phẩm văn chương, âm nhạc, điện ảnh được đề cập trong truyện.

“Đôi khi em có thể viện nhờ đến sách vở, những bộ phim, những bản nhạc… nhưng rốt cuộc em phải tự mình cảm nhận thế giới, bằng đôi tay này, bằng trái tim này, và tự mình quyết định những điều em tin là đúng đắn. Những giọt nước mắt ấy, sự tổn thương, hay là máu… đang cố nói cùng em một điều gì có ý nghĩa.”

Mimi – người yêu của “tôi” đã nói với “tôi” như thế. Và chính tác phẩm Đung đưa trên những đám mây dường như cũng đang cố nói cùng người đọc một điều gì có ý nghĩa.

Hết.

Vũ Lập Nhật

1 Comment

1 Bình luận

Viết bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Phía sau trang sách

Nắng Tháng Tám: Màn trình diễn ấn tượng của William Faulkner

Published

on

By

Nắng tháng Tám diễn ra ở vùng Nam Mỹ vào những năm 1930 và trung tâm câu chuyện xoay quanh vụ án mưu sát một người phụ nữ tên Joanna Burden, người địa chủ bị hầu hết những người dân trong vùng khinh ghét vì quá khứ gia đình. Thông qua quá trình kể câu chuyện này, bí mật của những nhân vật khác cũng dần được tiết lộ. Truyện được viết với thời gian phi tuyến tính, gợi nhớ đến lối kể truyện truyền miệng, đường dây câu chuyện thường xuyên bị ngắt giữa chừng và những nhân vật khác thay phiên nhau tiếp nối mạch truyện. Các nhân vật đều là những con người bị gạt ra khỏi xã hội. Vì vậy, câu chuyện là cái nhìn về xã hội từ ngoài rìa của những con người không còn thuộc về nó nữa.

Tiểu thuyết chia làm ba đường dây câu chuyện riêng biệt, cuối cùng tất cả đều liên kết nhau bằng kết thúc bùng nổ với bạo lực. Một phong cách rất Faulkner. Nhưng khác với những tiểu thuyết khác viết theo phong cách này ở chỗ: cuối cùng nhân vật chính trong mỗi câu chuyện thường gặp nhau thì Faulkner lại không bao giờ tạo ra một cảnh chung có cả Christmas và Lena – hai trong số ba nhân vật chính. Mặc dù dường như họ được kết nối với nhau một cách vô hình: có thể Chirstmas vừa là hóa thân ẩn dụ cho người cha của đứa trẻ trong bụng Lena, đồng thời lại chính là đứa trẻ đó. Đứa trẻ là câu trả lời của Faulkner cho định mệnh tàn bạo không thể tránh khỏi đã nguyền rủa vùng đất phía Nam ấy. Chẳng có lối thoát nào cho những tổn thương quá khứ ngoài việc tự tạo nên những mầm hi vọng mới. Và Faulkner để cho chúng ta tìm ra điều ấy ở đứa trẻ của Lena.

Ở Nắng tháng Tám, Faulkner đã cho thấy một thế giới có chuẩn mực xã hội quá khắt khe, thiếu linh động, bảo thủ và con người phải chịu đựng bằng cách vờ như khuất phục khối bêtông hiện thực của ngoại giới, của những sự việc dường như chẳng liên quan đến họ. Đó là một thế giới chẳng có gì thích ứng với nhau, chẳng có điều gì kết nối, và Faulkner cũng không cố gắng tìm ra sự kết nối. Ông chỉ trộn lẫn chúng vào nhau trong hệ thống câu chuyện của mình để chúng ta cảm nhận những nghịch lí đó.

Nhận xét của báo chí thế giới

Nói rằng Nắng tháng Tám là một màn trình diễn ấn tượng thật chẳng phải là nói quá chút nào… Faulkner không chỉ tích hợp trong cuốn sách này thứ văn phong quyến rũ của sức mạnh và cái đẹp: ông còn cho phép một vài nhân vật của mình, nếu không phải là nhân vật chính, thỉnh thoảng được quyền hành động vô cớ, nằm ngoài những khuôn mẫu xã hội… Nghĩa là, Faulkner tự cho mình lí lẽ và sự thương cảm đối với hệ thống trong thế giới của ông.

J. Donald Adams | New York Times

Quyển sách như rực lửa với sự phẫn nộ dữ dội trước bạo lực, sự ngu ngốc và lòng kiêu hãnh – một quyển sách tuyệt vời.

Spectator

Faulkner có một sức sáng tạo không mệt mỏi, trí tưởng tượng phong phú, và ông thường viết như một thiên thần.

Arnold Bennett

Kodaki
dịch và tổng hợp từ nhiều nguồn

Đọc bài viết

Phía sau trang sách

Tình miệt thứ trong phù sa câu chữ

Published

on

By

Tập truyện ngắn này bao gồm những truyện mà tôi thích. Khi tập hợp để in thành sách, tôi ngồi lựa chọn lại thật kỹ càng, bởi tôi mong muốn trao gởi đi những điều trân quý nhất của mình dành cho độc giả, như một lời tri ân cho những người đã ưu ái đồng hành cùng văn chương của mình.

12 truyện ngắn này là những câu chuyện của miệt đồng bưng chín nhánh sông mà đâu đó trong cuộc đời chúng ta vẫn thường bắt gặp. Xoay quanh những câu chuyện là chữ “tình”. Tôi vẫn thường nghĩ, con người ta trong cuộc đời này chẳng ai thoát khỏi được chữ tình. Chữ tình quấn lấy chúng ta, dắt dìu chúng ta đi qua nỗi buồn, dẫn chúng ta chạm đến niềm vui. Chữ tình khiến chúng ta đắng đót với niềm đau nhưng cũng chính cái chữ tình đó lại là nỗi thương để chúng ta bám víu vào mà sống hết đoạn đời phù sinh thế thái này.

Người viết vì tình mà viết. Người đọc vì tình mà buồn vui theo từng con chữ, xa xót theo từng phận đời, và hả hê với điều thiện lành được hồi đáp sau bao đoạn trường trầm luân.

Có một lần ngồi trên chuyến phà đêm Châu Giang, tôi chợt nghĩ mình chỉ là một dòng phù sa của muôn triệu dòng phù sa đang chảy tràn khắp miệt đồng bưng châu thổ. Tôi đem đến những điều dung dị, chất phác và hào sảng như là bản tính vốn dĩ của người Cửu Long đã ăn sâu vào gốc rễ nội tâm và căn cơ chính mình.

Có bận tôi về Đồng Tháp, ghé cái chợ quê mà hồi nhỏ hay để dành năm trăm, một ngàn để mua dăm ba thứ bánh quê, tôi ngồi sụp xuống và lựa chục loại rồi hí hửng xách lên chạy về khoe với mấy cậu mấy dì. Tôi chẳng thể ăn hết được mớ bánh hôm đó, nhưng vui lạ lùng. Thể như tôi tìm thấy chính mình sau những đãi bôi thị thành. Tôi thấy niềm vui của mình sao giản đơn đến lạ! Hóa ra mỏi gót điêu linh nơi phố xá hào nhoáng thì cái gốc rạ chân quê vẫn là thứ mà tâm tưởng chính tôi luôn hoài vọng.

Có lẽ, dấu chân tôi chưa đi hết nổi dải đất bạt ngàn phù sa miền Tây, đôi tai chưa nghe hết chuyện hào sảng xứ này, đôi mắt chưa thể tận tường hết những thứ đẹp đẽ của sóng nước bưng biền, hay thâm tâm chưa thể trọn vẹn thấu hiểu hết vùng châu thổ, nhưng tôi vẫn luôn thích viết về xứ này. Cái xứ gì mà hổng hết chuyện để viết. Có lần tôi nói vậy với một bạn văn phía Bắc. Bạn nói, thì cứ viết đi, viết đến cạn cùng cuộc đời, chưa chắc viết hết trọn một vùng đất. Bởi đất ôm cả đời người. Người ta sống thác gì đó, gieo neo dâu bể thế nào thì cũng về với đất quê xứ mình mà thôi!

Vậy nên, tôi cứ viết hoài về miền đất này, ngõ hầu đem đến cho độc giả của mình cái “tình” miệt thứ, cái “thương” đồng bưng. Càng viết tôi lại càng thấy mình như mắc nợ vào sóng nước phù sa câu chữ. Viết hoài hổng hết. Viết hoài vẫn cứ muốn viết.

Viết và gởi đến độc giả đã thương yêu câu chữ của mình, cũng như nếu một ai đó hữu duyên cầm trên tay cuốn sách nhỏ này, thì mời bạn một lần lắng lòng lại, lật từng trang sách, nghe tôi kể chuyện buồn miệt thứ. Nhưng mà, người miệt thứ buồn đó rồi lại vui đó, như sóng nước xứ này vơi rồi lại đầy, như phù sa châu thổ muôn đời vẫn dâng người những mùa màng tốt tươi.

Tống Phước Bảo

Đọc bài viết

Phía sau trang sách

Hồ: Một nỗi buồn điềm tĩnh và dịu dàng

Published

on

By

Tiểu thuyết Hồ của Banana Yoshimoto viết về những nỗi đau, những mất mát của con người và cách họ vượt qua nó. Các nhân vật trong Hồ như Chihiro, Nakajima, Mino, Chii… đều có những thương tổn sâu sắc trong quá khứ. Với đề tài như thế, câu chuyện sẽ dễ sa đà vào nhiều trường đoạn cảm xúc nặng nề nhưng Banana vẫn luôn giữ được sự điềm tĩnh, dịu dàng trong văn phong giống như ở những tác phẩm trước đây đã quen thuộc với bạn đọc Việt Nam như: Kitchen, Vĩnh biệt Tugumi, N.P…

Hồ được Banana lấy cảm hứng từ câu chuyện của giáo phái Aum Shinrikyo. Độc giả có thể nhận thấy mô hình công xã mà Nakajima sống ngày còn nhỏ phần nào tương tự với mô hình của giáo phái này. Aum Shinrikyo cũng xuất hiện trong tác phẩm 1Q84 của Murakami Haruki dưới hình thức hư cấu. Qua đó, người đọc thấy được sự khác biệt trong cách khai thác cùng một chủ đề của hai nhà văn. Nếu như trong 1Q84, Haruki đề cập nhiều đến những tác động chính trị – xã hội xoay quanh mô hình phi nhân của Aum thì ở Hồ, Banana chọn một góc nhỏ để viết về hậu chấn tinh thần của những đứa trẻ khi phải chịu sự giáo dục tẩy não trong một cộng đồng không đề cao cái tôi cá nhân. Và chi tiết mà Banana chọn để khắc họa nỗi đau của những đứa trẻ ấy khi lớn lên vừa đơn giản, vừa ám ảnh: Nakajima kẹp vỉ nướng bánh dày vào nách khi ngủ mỗi lần “cảm thấy sắp mơ phải cái gì đáng sợ” bởi đó là vật mà mẹ cậu rất quí; Chii mãi chìm đắm trong những giấc ngủ; Mino sống lặng lẽ từng ngày và đôi khi truyền hộ thông điệp mà người em gái say ngủ muốn nói cho người khác…

Nỗi buồn của các nhân vật dù được Banana viết ra thật nhẹ nhàng nhưng không vì thế mà người đọc có cảm giác hời hợt. Bởi vì, cái đau của họ không phải là cái đau của một người vừa qua cơn khủng hoảng tâm lí, vẫn chưa hết bàng hoàng và không thể chấp nhận hiện thực. Ngược lại, họ tự tách mình ra khỏi chính bản thân mình, đứng ở một nơi xa để ngắm nhìn nỗi đau của mình, chịu đựng nó, chấp nhận nó. Đó là cách để họ vừa giữ lại những kỉ niệm tươi đẹp trong quá khứ, vừa giữ lại nỗi buồn đã tiềm ẩn trong kí ức ấm áp ấy.

Đọc bài viết

Cafe sáng