Phía sau trang sách

Rừng Na Uy, một bản nhạc thăng trầm của sự sống, tình yêu, và cái chết…

Hãy cứ ngủ yên đi nhé những khổ đau này. Vì ta phải thức để sống với niềm vui…

Published

on

Đêm bắt đầu xuống, gió cuộn mình réo rắt từng cơn và trận mưa âm ỉ trôi trong làn sương mờ ảo. Tôi trở về phòng sau một cuộc gặp gỡ với những hỉ nộ ái ố thường ngày. Qua ô cửa kính nhỏ đầy những giọt nước mưa bám víu, tôi trông ra đằng xa, nơi có những ngọn đèn đường hiu hắt, nơi có màn đêm tĩnh lặng và có tiếng thở rất khẽ của cao nguyên. Tôi thấy mình đang trống hoắc trong lòng, và tự dưng, bất chợt, trong một khoảnh khắc nào đó, tôi lại nghĩ về Rừng Na Uy, một bản nhạc đầy thăng trầm về sự sống, tình yêu, và cái chết – qua cách kể chuyện đầy trần trụi nhưng lại vô cùng thực tế của Haruki Murakami. Dường như đã có một sợi dây vô hình nào đó – liên kết tôi với cuốn sách này, hoặc chăng, là chính tôi đang tự cảm nhận được một sự liên kết đồng điệu trong tâm hồn mình, nhân một đêm mưa đầy khắc khoải…

Tiếng mưa tan vào gió. Tôi nghĩ về cuộc đời, nghĩ về những người đã xuất hiện trong cuộc đời này, một cách âm thầm và lặng lẽ. Về những tháng ngày rong ruổi nối đuôi nhau trên hành trình làm con người ngắn ngủi, chao ôi, có quá nhiều những vẩn vơ khiến chúng ta suy nghĩ trong đầu, phải vậy không? Mỗi sáng thức dậy là một chặng đường mới, mỗi tối nhắm mắt là một trạm dừng chân, cứ như thế, cuộc đời trải dài ngày này qua tháng nọ, tôi cứ nghĩ rằng mình sẽ không thể nào sống được với một cuộc sống vô vị và tẻ nhạt như vậy. Ấy vậy mà tôi vẫn phải sống. Ấy vậy mà những kẻ cô đơn tột cùng kia vẫn phải sống. Giống tôi vậy.

À, hóa ra, tất cả mọi người đều như nhau. Những kẻ cô đơn thích gặm nhắm nỗi buồn? Như Watanabe, như Naoko, như Midori, Reiko hay cả những con người đang trằn trọc sống như một kẻ ôm nỗi buồn bỏ trốn.

Nỗi buồn là gì? Là một thứ gì đó mà người ta vẫn cho rằng nó ghê gớm lắm. Mà có thật là ghê gớm vậy không. Cũng không biết nữa. Vì nỗi buồn của người này chưa chắc đã là nỗi buồn của người khác. Trên đời này có hàng trăm, hàng vạn nỗi buồn khác nhau, và mỗi người lại có một ý niệm riêng biệt. Vậy thì, thôi mình tạm kết luận rằng nỗi buồn là một điều dĩ nhiên của cuộc sống vậy. Một điều dĩ nhiên mà chưa chắc ai cũng muốn có.

Có lẽ như, dù muốn dù không thì tất cả những nhân vật trong Rừng Na Uy vẫn phải sống và đối diện với nỗi buồn của mình, một cách khảng khái hoặc khiêm nhường. Suốt cả chặng đường dài tồn tại và hiện hữu trên đời, họ đã có quá nhiều những điều để làm, những thứ để chờ đợi, những con đường phải đi. Họ suy nghĩ. Họ hành động. Họ bỏ mặc. Họ bế tắc. Họ khát khao hay họ tuyệt vọng. Tất cả đều là sự sống của riêng họ. Sự sống mà họ tự chọn lấy để gắn mác là mình đang-phải-sống, một cách lay lắt và gượng gạo. Chính những sự sống không lối thoát ấy đã làm cho cái vòng tròn của nỗi cô đơn, nỗi cự tuyệt, nỗi từ chối niềm vui cứ liên tục tuần hoàn và quẩn quanh dai dẳng như thế. Và dường như, với họ, chỉ cần như vậy thôi là đủ? Một sự sống trống rỗng, hay chăng, là do tâm hồn họ đang trống rỗng bởi những khổ đau âm ỉ lấp đầy. Có lẽ là thế rồi. Vì khi khổ đau, đâu phải ai cũng đủ mạnh mẽ để chọn lấy một cuộc sống tươi đẹp hơn. Để làm được như thế, có khi ta phải đánh đổi một đời. À, vậy là tôi đã hiểu rồi. Chẳng phải họ đang chọn một cách sống như vậy đâu, mà là do đau khổ, do nỗi buồn, nỗi cô đơn trong lòng họ. Thôi thì mình cứ tạm thời cho là như thế.

Chẳng hiểu làm sao mà khi những trang cuối cùng của cuốn sách khép lại, tôi đã mặc nhiên để nỗi buồn ghé thăm mình, như một cách để mình được sống với thế giới của những trang sách. Vì với tôi, cuốn sách này là một nỗi buồn mà. Một nỗi buồn thật đẹp. Nỗi buồn ấy đến từ những niềm phảng phất xa xăm, mơ hồ và không rõ hình thù, tất nhiên rằng cũng chẳng thể gọi tên. Nỗi buồn đọng lại thành giọt nước, thành đám mây, thành bầu trời, và thành sự sống. Nỗi buồn chạm sâu vào trái tim của tôi, gửi lại đó bao nhiêu là miên man suy nghĩ, và lắm lúc, ôi trời, bỗng thấy lòng hoang hoải làm sao. Tôi tự hỏi chính tôi, và tự hỏi những con người đã được sống trong trang sách này, rằng có phải họ đã buồn lắm không? Những câu chuyện của họ, những thăng trầm của họ, những biến cố của họ… chẳng hiểu sao mà lại cứ hiện lên thật rõ trong tôi sự đau khổ lạ kì – dẫu trong những niềm đau khổ ấy, họ vẫn sống kiên cường đến lạ thường.

Chắc vì họ có tình yêu…

Tình yêu là gì nhỉ? Tôi đã từng nghe nhiều người nói lắm, rằng tình yêu là một thứ diệu kì. Nó không phải là một ý niệm. Nó thật sự là một điều để mỗi người trong chúng ta cảm nhận, bằng-trái-tim. Tình yêu sẽ làm sống dậy những chân thành tử tế trong trái tim tưởng chừng như đã cằn cỗi héo mòn. Tình yêu sẽ để ngủ yên những khôn nguôi đau khổ của cuộc đời. Và tình yêu, cứ thế, sẽ mãnh liệt gieo đầy những khao khát niềm tin và chứa chan hy vọng.

Watanabe có yêu Naoko không? Có chứ. Vì phải yêu nên cậu ta mới chân thành như thế. Chân thành nhớ, chân thành thương, chân thành hi vọng và chân thành chờ đợi. Vậy còn Naoko thì sao? Có phải cô đến với Watanabe chỉ để khỏa lấp đi những trống trải trong lòng, sau cái chết của Kizuki. Và dẫu cho đã bắt đầu làm tình với Watanabe, Naoko vẫn nghĩ về người bạn trai quá cố, và nghĩ về những mất mát lớn lao trong lòng? Nhưng nếu như thật lòng yêu Naoko, cớ làm sao Watanabe lại có nhiều lần cùng với Nagasawa đi ra ngoài gặp gỡ và qua đêm với những cô gái khác? Lẽ nào tình yêu thì không cần trân trọng? Lẽ nào tình yêu thì không cần gìn giữ? Ơ, mà khoan đã. Ta đã hiểu được gì về mối quan hệ giữa Watanabe và Naoko đâu. Cả về hai phía, có lẽ, chúng ta sẽ chẳng thể nào dùng một từ ngữ nào để nói về mối quan hệ này. Vì nó cứ mơ hồ. Vì nó cứ mập mờ. Vì nó cứ mông lung và mờ ảo như một đám mây bị nhấn chìm giữa ngọn núi khi mặt trời đã thảng thốt hoàng hôn. Đó có thể không phải là tình yêu? Đó phải chăng chỉ là sự cảm thông và tương đồng về mặt cảm xúc, về mặt tâm hồn, về mặt suy nghĩ và ưu tư vẫn từng ngày vật lộn và dằn vặt trong trái tim của hai kẻ cực kì cô đơn này? Cũng không biết nữa. Rừng Na Uy vốn dĩ không phải là một tác phẩm để hiểu, mà là để hỏi. Hỏi cho những ngẫm nghĩ trong lòng.

Vì chúng ta chỉ là một chiếc lá bé nhỏ.

Mà cuộc đời thì là cả cánh rừng, ha!

Nói về sự cô đơn trong tình yêu, tôi lại muốn nói về Nagasawa. Chao ôi, cũng không biết phải làm sao để có thể hiểu hết được suy nghĩ của gã trai vô cùng phức tạp này. Gã phóng khoáng? Gã đa tình? Gã đào hoa hay rằng gã là một kẻ thật sự thất bại trong tình yêu? Gã đã từng ngủ với rất nhiều cô gái, và tất nhiên, đó chỉ là cái cách để mà gã bỡn cợt và vui chơi. Chẳng có bất kì cô gái nào có thể khiến gã rung động – theo đúng nghĩa là tình yêu thật sự. Những gì gã làm, những gì gã trải qua… tất cả chỉ là tình dục. Một sự tình dục vớ vẩn mà ngay chính bản thân gã cũng chẳng hiểu nổi là tại sao mình lại làm thế. Sau mỗi lần gã ngủ với một cô gái nào đó, gã có cảm thấy trống rỗng và vô vị không? Có chứ. Gã hiểu là đằng khắc. Nhưng gã vẫn cứ làm. Cứ làm vậy thôi, chẳng vì lí do gì. Và dẫu cho gã có nói yêu Hatsumi đến hàng trăm lần, thì chắc gì gã đã một lần trân trọng và quan tâm đến cảm xúc của cô. Khi nghĩ về Hatsumi, tôi lại thấy cảm thương cô rất nhiều. Cô yêu gã thật. Cô thấu hiểu bản chất của gã thật. Cô chấp nhận trao cho gã trinh tiết của mình, dẫu biết gã đã và đang ngủ với rất nhiều những cô gái khác. Có thể nhiều người sẽ nói là cô quá ngu ngốc, nhưng tôi lại tin cô, và tôi hiểu lí do vì sao cô lại chấp nhận hết những điều như thế, dẫu cho cô chẳng nhận lại được gì ngoài đau thương, ngoài khổ tâm, và những giọt nước mắt của chia ly. Vì như đã nói, đó là tình yêu. Tôi tin rằng đó là một tình yêu thật sự!

Lại về Midori, lại về Reiko. Ôi những người phụ nữ mạnh mẽ nhưng đôi lúc lại vô cùng kì quặc trong cái nhìn của tôi. Họ là những người đã sống trong tình yêu và đã trải qua những tháng ngày được yêu, dẫu không phải tình yêu nào cũng trọn vẹn. Midori, cô ấy yêu Watanabe, hoặc chăng là cô ấy đang khao khát một tình yêu đúng nghĩa vì cô quá bất mãn và không còn cảm thấy hứng thú với người bạn trai của mình nữa, kể từ khi được gặp và tiếp xúc với Watanabe – cậu bạn cùng lớp thân thiết của mình. Cô ấy dám sống đúng với những suy nghĩ của mình, dẫu nó trần trụi, dẫu nó táo bạo. À, mà những điều đó có nghĩa lí gì đâu, vì cô ấy cũng chẳng thèm quan tâm. Miễn là cô ấy muốn, miễn là cô ấy thích. Cái cách sống và cách yêu của Midori là thế. Còn về Reiko – một người phụ nữ đã ngoài bốn mươi. Một người phụ nữ đã từng có gia đình, vậy mà sau những biến cố và năm tháng tưởng chừng như đã không còn quan tâm đến tình dục, thì phút cuối cùng, cô ấy lại ngỏ lời làm tình với Watanabe – gã đàn ông nhỏ hơn cô đến gần hai mươi tuổi. Tôi không hiểu vì sao Reiko lại chọn như thế, chắc là do tôi chưa từng trải nhiều, và cũng chưa từng nằm ở trong vị trí của Reiko. Tôi chỉ hiểu, tình yêu là một thứ gì đó lạ kì và khó hiểu vô cùng. Nó có cả tình dục. Thứ tình dục mà con người cho đó là điều thiêng liêng và đẹp đẽ nhất. Họ rạo rực và xốn xang. Họ làm tất cả mọi thứ để lao vào nhau. Và rồi, vậy là xong, tình dục cũng chỉ là một sự trống rỗng trong thân xác của những kẻ không tình yêu.

Khi viết đến những dòng chữ này, tôi chợt nhận ra rằng, hầu như những nhân vật tiêu biểu xuất hiện trong Rừng Na Uy đều gắn liền với tình yêu và tình dục. Những phân đoạn tả thực của Haruki Murakami đã làm cho sự trần trụi và nguyên thủy của con người được phơi bày một cách lõa thể, đơn sơ và chân thật nhất. Tôi không biết đó có phải là ý đồ của chính bản thân tác giả không. Nhưng dường như đây là một tác phẩm đã cho tôi thấy được hai thứ của con người: bản năng và lí trí – hai thứ những tưởng là của mình nhưng chẳng bao giờ mình hiểu rõ được nó, vì mình đã bị đánh lừa rất nhiều lần bởi cái tâm ô nhiễm ở bên trong.

Rồi cả sự sống, rồi cả tình yêu, và đã đến lúc chúng ta nên can đảm để nói về cái chết – những cái chết trong đời. Cũng như tình dục, cái chết ở Rừng Na Uy cứ hiện lên đầy ám ảnh và dai dẳng. Nó không hề rùng rợn và ghê sợ. Nó chỉ lạ kì. Nó chỉ bất lực. Nó chỉ bế tắc. Và nó cũng chỉ luẩn quẩn như vậy, và người ta gọi là đã xong một kiếp người. Cái chết của Kizuki, cái chết của chị gái Naoko, cái chết của bố Midori, cái chết của Hatsumi, và sau cùng là cái chết của chính Naoko. Những cái chết mà người ta đã không còn sự lựa chọn nào khác, người ta đã chọn nó, một cái chết đầy tuyệt vọng và mỏi mệt. Có phải rằng họ đã quá khổ đau, có phải rằng họ đã nhiều áp lực, có phải rằng họ đã không còn niềm tin và hi vọng gì nữa để bám víu trong cuộc đời này. Họ chọn cái chết, mà lạ làm sao, những cái chết của họ như lại được chắp vá bởi những đường chỉ bạc bẽo và vô tình. Những cái chết ấy đều giống nhau, nhưng nỗi đau của mỗi người là khác. Liệu rằng ở một thế giới nào đó, họ sẽ không còn đau khổ với nỗi đau của mình?

“Cái chết là có thực, nó không phải là đối nghịch của cuộc sống. Nó là một phần của cuộc sống.” Cái chết vẫn hiện hữu và tồn tại bên cạnh ta, xung quanh ta, trước mắt ta, và cả ở trong ta, từng phút, từng giây, từng khoảnh khắc và từng sát na. Ta vẫn sống, và cứ tưởng là sự sống lâu dài lắm, mà ta đâu biết, thứ song hành cùng với sự sống chính là cái chết. Ta được sinh ra cũng có nghĩa là ta đang chết đi. Một hơi thở đi vào cũng có nghĩa là sẽ có một hơi thở đi ra. Một thứ được hiện hữu cũng sẽ có một thứ phải biến mất. Mà những điều ấy, chẳng đâu xa, vẫn là cứ ở trong ta, mà ta thì không biết, vậy thôi.

Cái chết, tôi vẫn luôn xem nó là một đề mục quan trọng để hướng tới trong cuộc sống của mình. Nói tới đây, có lẽ nhiều người sẽ nghĩ rằng tôi đang bị tiêu cực hoặc đang tự tích lũy năng lượng xấu cho mình, và cho người. Nhưng không, với tôi, hướng tới cái chết chính là hướng tới một hành trình mà tôi đang được sống – một hành trình có những nguồn năng lượng tích cực, những điều tốt đẹp, những thứ hay ho, mà ở nơi đó, tôi sống tốt hơn, tôi biết trân trọng và biết ơn chính sự sống của mình. Vì tôi hiểu rằng mình sẽ chẳng thể nào tránh khỏi được cái chết, nên tôi phải trân quý những ngày mình được sống. Cái chết chỉ thật sự là một điều tiêu cực nếu như ta nhìn nhận nó bằng một thái độ tiêu cực, phải vậy không? Vậy nên, thật sự, tôi cũng mong rằng tất cả chúng ta đều sẽ chẳng ai phải đau khổ đến mức chọn lấy những cái chết đầy thương tiếc như những nhân vật trong Rừng Na Uy. Tôi mong cho những khôn nguôi đau khổ sẽ nằm lại thật sâu trong quá khứ, vì chẳng phải điều duy nhất mà chúng ta nên làm – và phải làm, đó là sống trong hiện tại đó sao!

Hình như có một bản nhạc vang lên, lặng thầm và ngây ngất giữa một khu rừng đầy những nỗi cô đơn. Là sự sống. Là tình yêu. Là cái chết..

Rồi bản nhạc kết thúc, tựa hồ tiếng guitar của Reiko nín bặt giữa màn đêm. Tôi lại trở về thôi.

Hãy cứ ngủ yên đi nhé những khổ đau này. Vì ta phải thức để sống với niềm vui…

Như thế, Rừng Na Uy kết thúc, lắng lại trong tôi chỉ một vài nghĩ ngợi vẩn vơ ấy. Gió vẫn ù bên tai lạnh buốt. Mưa vẫn rơi. Đêm vẫn thở. Và chúng ta sẽ phải tiếp tục sống với cuộc đời của mình – một cách thật ý nghĩa…

Hết.

Lâm Lâm

Xem tất cả những bài viết của Lâm Lâm tại đây.


Muôn màu của Haruki Murakami





Phía sau trang sách

Cánh cửa mở vào nội tâm của Maupassant

Published

on

By

Cùng với Chekhov, Guy de Maupassant từ lâu đã được suy tôn là “bậc thầy của thể loại truyện ngắn”. Điều này không chỉ bởi văn phong độc đáo, mà còn nằm ở sự đa dạng về thể loại. Trong đó Horla và những truyện ngắn khác ra mắt gần đây chính là minh chứng cho nhận định này.

Tuy chỉ viết trong vỏn vẹn có 4 thập kỷ, nhưng những di sản mà Maupassant để lại là tương đối lớn. Ông nổi tiếng nhất với các tiểu thuyết cũng như truyện ngắn mang tính hiện thực, hài hước, lãng mạn, như những tập truyện Sáng trăng, Nơi nhà người bạn

Nhà văn nổi tiếng Guy de Maupassant

Nhưng ít người biết ông cũng bén duyên với thể loại kinh dị, và nó cũng truyền cảm hứng cho nhiều tác giả sau này, trong đó có H.P.Lovecraft với Lời hiệu triệu của Cthulhu. Vừa mới ra mắt trong thời gian qua, Horla và những truyện ngắn khác tập hợp 5 tác phẩm có màu sắc kinh dị, siêu nhiên, được Maupassant viết trải dài từ năm 1875 – 1890.

Trí tưởng tượng phong phú

Trong tập truyện Horla và những truyện ngắn khác, bạn đọc có thể thấy rõ 2 giai đoạn mà Maupassant tiến hành tiếp cận thể loại kinh dị. Trong 3 truyện ngắn được viết sớm nhất là Bàn tay bị lột da (1875), Hắn? (1883) và Nỗi sợ (1884), ta đơn thuần thấy đây là một tác phẩm ẩn chứa yếu tố siêu nhiên mà vị tác giả cố gắng khai thác.

Chúng đơn giản xoay quanh những nỗi ám ảnh mà các cá nhân yếu bóng vía hay là nhạy cảm thường cảm nhận được. Chẳng hạn như trong truyện Hắn?, một người đàn ông vì bị ám ảnh bởi một bóng ma trong căn phòng của mình mà đã cưới lấy một người vợ mới, hay ở Nỗi sợ, chỉ vì trên tuyến tàu lửa khi nhìn thấy có 2 người đàn ông xuất hiện trong khu rừng vắng, mà nhân vật chính bỗng dưng cảm thấy trong mình trỗi dậy nỗi sợ chỉ vì không thể lý giải được động cơ của câu chuyện ấy…

Horla và những truyện ngắn khác là tác phẩm mới từ Maupassant

Đây đều là các nhân vật hoàn toàn tỉnh táo, họ nhận thức được những gì xảy ra và khó có thể nói họ có vấn đề riêng về tâm lý. Và vì tính hiện thực đó, Maupassant qua các tác phẩm cũng gửi gắm được bài học của mình. Chẳng hạn trong truyện Bàn tay bị lột da, thông qua nhân vật Pierre B. – một sinh viên trường luật, người xuất thân từ một trong những gia đình danh giá nhất xứ Normandie – ông đã cho thấy chỉ vì chính thói hư vinh cũng như trưởng giả mà y đã mạo phạm đến một phần thân thể của vị phù thủy, từ đó phải chịu cái chết có phần đau đớn.

Hay trong Nỗi sợ, Maupassant cũng khẳng định “cùng với những điều siêu nhiên, nỗi sợ hãi đích thực đã biến mất khỏi hành tinh này, bởi con người ta chỉ thực sự sợ những gì nằm ngoài tầm hiểu biết của mình”. Câu nói này như đại diện cho tất cả những gì ông muốn nhắm tới, về sự nhỏ bé và đầy mông muội của con người với những kỳ bí chưa được lý giải.

Như vậy những tác phẩm này đều được viết bởi một Maupassant khách quan, đứng ở bên ngoài, từ đó đưa ra những lời lý giải hoàn toàn hợp lý. Thế nhưng ở 2 truyện sau là Horla viết năm 1887 và Ai mà biết được? viết năm 1890, thì ta lại thấy có phần ngược lại, khi chính nhà văn dường như không thể thoát được cái bóng của bản thân mình.

Bi kịch của Maupassant

Hai truyện ngắn này có được điểm chung khi nhân vật chính đều là người đàn ông rơi vào loạn trí. Nhân vật chính này đã từng không dưới một lần thừa nhận chính mình như có đến 2 bản thể cùng nhau tồn tại. Một bên kêu gào giữ lại lý trí, trong khi phía còn lại đòi hỏi rất nhiều hành động mang tính tàn phá.

Sự chia đôi này gợi ta nhớ đến trường hợp của bác sĩ Jekyll và ông Hyde tương đối kinh điển trong tác phẩm nổi tiếng của Stevenson. Như vậy chủ đề của Maupassant đã chuyển từ những nỗi sợ tương đối hữu hình thành ra vô hình và khó lý giải, khi được bao bọc bởi những vấn đề có liên quan đến thần kinh cũng như tinh thần.

Tình tiết của những câu chuyện cũng khó nắm bắt. Ở Ai mà biết được?, đó là một người gần như điên loạn bởi sự xuất hiện và rồi biến mất của những vật dụng ngay trong nhà mình một cách liên tục. Còn ở Horla, đó là một sinh vật gần như trong suốt, thứ được nuôi sống bằng sữa và nước, luôn luôn theo dõi vật chủ mà nó bám theo, từ đó khiến họ “sống không bằng chết”.

Maupassant và những ám ảnh tâm trí của bản thân mình

Theo Charlotte Mandell – dịch giả của truyện ngắn này cho nhà xuất bản Melville House, thì “horla” là từ ghép của “hors” (“bên ngoài”), và “la” (“ở đó”). Vì vậy “horla” có nghĩa là “người ngoài cuộc”, “người bên ngoài”, và có thể được dịch theo nghĩa đen là “cái gì ở ngoài đó”. Thế nhưng cũng có những lý giải khác, khi nhiều người xem đây là một sự kết hợp của cụm “hors-la-loi” (tức “ngoài vòng pháp luật”) và “horsain” (có nghĩa là “thứ lạ lùng”).

Thế nhưng dù có là gì, thì Maupassant như đang cảm nhận những nỗi ám ảnh đến từ sâu hơn và khó lý giải hơn. Xét về bối cảnh của chính tác giả, thì những truyện này tương đối trùng khớp với thời kỳ mà ông có những dấu hiệu đầu tiên của chứng điên loạn, khi ông xuất hiện nhân cách kép và ngày càng gặp nhiều ảo giác do bệnh giang mai. Một năm sau đó, vào năm 1891, ông có dấu hiệu của chứng hoang tưởng.

Có thể là bởi xuất phát từ những trải nghiệm chính ông kinh qua, nên 2 truyện này trở nên chân thật và đầy ám ảnh đối với người đọc. Nếu được viết từ một người tỉnh táo, thì đây chính là tài năng của sự tưởng tượng. Nhưng với Maupassant thì đó là nỗi đau và sự sợ hãi mà bản thân ông mong muốn giải bày thông qua việc viết.

Như vậy đi từ mục đích sáng tạo ở buổi ban đầu, Maupassant dần dần chuyển sang hành động kể lại điều đã trải qua, và làm sáng tỏ chứng bệnh tâm lý mà thời kỳ đó còn bị che khuất bởi những định kiến mà những quan điểm mang tính thủ cựu. Có thể nói Horla và những truyện ngắn khác không chỉ mở ra cánh cửa khám phá một Maupassant rất khác, mà có thể nói cũng đã góp phần giúp ta hiểu được những gì đã từng xảy đến với một trong những nhà văn lớn của nhân loại.

Anh Đoàn

Đọc bài viết

Phía sau trang sách

Tư duy tích cực tạo thành công: Chìa khóa dẫn đến sự thịnh vượng

Published

on

Tác phẩm Tư duy tích cực tạo thành công của Napoleon Hill và William Clement Stone là một cẩm nang hữu ích cho bất kỳ ai muốn đạt được thành công trong cuộc sống. Cuốn sách không chỉ cung cấp những nguyên tắc và chiến lược hiệu quả để phát triển bản thân mà còn truyền cảm hứng giúp người đọc có một thái độ tích cực hơn trong cuộc sống.

Tư duy tích cực tạo thành công là một tác phẩm kinh điển về chủ đề phát triển bản thân, đã truyền cảm hứng cho hàng triệu người trên khắp thế giới kể từ khi xuất bản lần đầu tiên vào năm 1959, khẳng định vị trí là một trong những tác phẩm self-help bán chạy nhất mọi thời đại. Cuốn sách vén màn bí mật về sức mạnh của tư duy tích cực, giúp người đọc khai phá tiềm năng bản thân và đạt được những thành tựu phi thường trong mọi lĩnh vực của cuộc sống.

Tìm kiếm hình mẫu thành công làm ngọn đuốc soi sáng

Để có thêm động lực và định hướng rõ ràng cho bản thân, tác giả gợi ý rằng người đọc có thể xây dựng cho riêng mình một hình mẫu thành công từ những câu chuyện về người thật, việc thật trong sách báo. Khi dành thời gian tìm hiểu về hành trình của họ, những khó khăn họ đã trải qua và cách họ vượt qua những thử thách đó, ta sẽ có thể biến kinh nghiệm của họ trở thành ngọn đuốc soi sáng cho con đường của chính mình.

Bên cạnh đó, người đọc còn có thể chọn một bức ảnh có ý nghĩa đặc biệt với mình để đặt câu hỏi khi nhìn bức ảnh đó rồi lắng nghe câu trả lời từ chính tâm thức bật ra. Bức ảnh ấy có thể là hình ảnh về mục tiêu ta muốn đạt được, về một giá trị sống mà ta trân trọng, hoặc đơn giản là một khoảnh khắc đẹp trong cuộc sống. Chẳng hạn, nếu người đọc muốn mua nhà nhưng chưa có đủ tài chính thì có thể chọn bức ảnh về một mái ấm khang trang để ngắm nhìn và tự đặt câu hỏi rằng mình phải làm gì để đạt được số tiền sở hữu căn nhà đó. Không phải lúc nào câu trả lời cũng đến ngay lập tức, nhưng việc cụ thể hóa mục tiêu bằng một hình ảnh rõ ràng sẽ giúp người đọc tăng cường ý chí nỗ lực.

Ngoài ra, niềm tin chính là nguồn động lực mạnh mẽ giúp mỗi người vượt qua mọi khó khăn và chinh phục mục tiêu. Trong Tư duy tích cực tạo thành công, có một công thức thường được lặp lại nhiều lần để người đọc ghi nhớ là: “Khi con người người nghĩ đến và tin tưởng vào điều gì, họ sẽ có thể đạt được điều đó với thái độ tích cực.” Đây cũng là một biện pháp tự truyền cảm hứng.

Hai mặt của tình thế bức bách: Thành công hay tội ác?

Tư duy tích cực tạo thành công nhấn mạnh tầm quan trọng của tính lương thiện trong hành trình chinh phục thành công. Cuốn sách khẳng định rằng thành công đích thực không chỉ dựa trên kết quả mà còn phải dựa trên phương tiện đạt được kết quả đó. Một người có thể đạt được thành công bằng mưu mô, thủ đoạn, nhưng đó chỉ là thành công giả tạo, thiếu bền vững và không mang lại hạnh phúc thực sự.

Ngoài ra, tác giả cũng bàn về vai trò của tình thế bức bách: nó như một con dao hai lưỡi, có thể đưa con người đến đỉnh cao thành công hoặc vực sâu tội ác. Tình thế bức bách là phép thử cho bản lĩnh, đạo đức và thái độ của mỗi cá nhân. Khi đó, thành công hay thất bại đều tùy thuộc vào thái độ:

Thái độ tích cực: Khi đối mặt với nghịch cảnh, người có thái độ tích cực sẽ biến nó thành cơ hội để học hỏi, rèn luyện và phát triển bản thân. Họ kiên trì nỗ lực, tìm kiếm giải pháp sáng tạo và không bao giờ bỏ cuộc. Nhờ vậy, họ có thể vượt qua mọi khó khăn và gặt hái thành công.

Thái độ tiêu cực: Ngược lại, người có thái độ tiêu cực sẽ dễ dàng gục ngã trước nghịch cảnh. Họ chìm trong lo âu, sợ hãi, nghi ngờ bản thân và tìm kiếm lối thoát bằng những hành vi sai trái. Hậu quả là họ đánh mất bản thân, vướng vào vòng xoáy tội ác và tự hủy hoại cuộc đời.

Từ đó, cuốn sách đưa ra hai công thức đơn giản nhưng đầy ý nghĩa:

Tình thế bức bách + Thái độ tích cực = Thành công
Tình thế bức bách + Thái độ tiêu cực = Tội ác.

Cân bằng cảm xúc, rèn luyện tư duy và đặt mục tiêu hiệu quả

Cảm xúc và lý trí đóng vai trò quan trọng trong cuộc sống, mỗi người cần học cách cân bằng hai yếu tố này để đưa ra những quyết định sáng suốt. Đôi khi, ta cũng nên lắng nghe tiếng nói con tim và hành động theo những gì mình mong muốn. Chẳng hạn, khi phải lựa chọn giữa một công việc ổn định và theo đuổi đam mê, ta cần cân nhắc kỹ lưỡng cả hai yếu tố cảm xúc và lý trí: ta thường dùng lý trí để đánh giá khả năng thực tế của bản thân, nhưng cũng đừng quên lắng nghe tiếng nói con tim.

Bên cạnh đó, tác giả cho rằng mỗi ngày, chúng ta chỉ cần dành 1% thời gian để nghiên cứu, suy nghĩ, lập kế hoạch là đã có nhiều cơ may tạo ra sự khác biệt để vươn đến thành công. Theo ước tính, một ngày có 1440 phút, 1% sẽ tương ứng với 14 phút. Trong 14 phút đó, nếu ta chú tâm suy nghĩ kế hoạch cho những gì mình muốn làm, ta sẽ dần hình thành được thói quen có thể suy nghĩ sáng tạo mọi lúc, mọi nơi: khi rửa chén, lúc ngồi trên xe bus, hay thậm chí là khi đang tắm.

Ngoài ra, đặt mục tiêu là bước đầu tiên và quan trọng nhất trên kế hoạch chinh phục thành công. Mục tiêu rõ ràng sẽ giúp bạn tập trung nỗ lực, đưa ra quyết định sáng suốt và duy trì động lực để đạt được ước mơ. Tuy nhiên, không phải ai cũng biết cách đặt mục tiêu hiệu quả. Dưới đây là bốn điều quan trọng cần ghi nhớ khi đặt mục tiêu:

1. Viết mục tiêu ra giấy: Khi viết mục tiêu ra giấy, bạn sẽ buộc bản thân phải suy nghĩ cẩn thận về những gì mình muốn đạt được. Việc này giúp bạn tập trung và ghi nhớ mục tiêu tốt hơn.

2. Đặt mốc thời gian: Mốc thời gian giúp bạn chia mục tiêu lớn thành những mục tiêu nhỏ hơn, dễ quản lý hơn. Việc này giúp bạn có động lực để hoàn thành từng bước và tiến đến mục tiêu cuối cùng.

3. Đặt tiêu chuẩn thật cao: Khi đặt tiêu chuẩn cao, bạn sẽ buộc bản thân phải nỗ lực hết mình và phát huy tiềm năng tối đa.

4. Đặt mục tiêu cao: Mục tiêu cao sẽ giúp bạn có tầm nhìn xa và thúc đẩy bạn không ngừng phát triển.

Nhìn chung, Tư duy tích cực tạo thành công đã mang đến cho người đọc những bài học quý giá về sức mạnh của tư duy tích cực trong việc gặt hái thành công và hạnh phúc. Hãy nhớ rằng, thành công không phải là đích đến mà là hành trình. Hành trình chinh phục thành công bắt đầu từ việc nuôi dưỡng tư duy tích cực. Ta cần tin tưởng vào bản thân và những điều kỳ diệu mà cuộc sống có thể mang lại. Từ đó, ước mơ sẽ thành hiện thực bằng chính những hành động mà ta lựa chọn ngay từ hôm nay.

Hoàng Đức Nhiên

Đọc bài viết

Phía sau trang sách

Tình yêu đích thực từ góc nhìn của Thiền sư Thích Nhất Hạnh

Published

on

Trong vô vàn những định nghĩa về tình yêu, quan điểm của Thiền sư Thích Nhất Hạnh về “tình yêu đích thực” được trình bày trong cuốn tiểu luận True Love đã mang đến một sự giản dị, mộc mạc nhưng lại ẩn chứa sức mạnh lay động tâm hồn sâu sắc.

Tình yêu là một trong những chủ đề muôn thuở của nhân loại, luôn ẩn chứa sức hút mãnh liệt và khơi gợi những cảm xúc dạt dào. Nhưng không phải ai cũng hiểu được bản chất của tình yêu. Trong True Love, Thiền sư Thích Nhất Hạnh đã kể lại câu chuyện Thiếu phụ Nam Xương, rồi từ đó rút ra một kết luận mà thoạt nghe sẽ có vẻ vô cùng đơn giản nhưng càng ngẫm nghĩ thì ta càng thấy sự đơn giản ấy chính là vẻ đẹp của minh triết.

Thông điệp ý nghĩa từ ba câu khẳng định trong tình yêu

Đối với thầy, câu chuyện Thiếu phụ Nam Xương có kết cuộc đau lòng là vì người chồng đã không chịu lắng nghe người vợ, anh cứ gạt phăng lời vợ nói, cơn nóng giận đã che mờ tình yêu và cả lí trí. Vợ anh cũng đã không cố gắng hơn để giải thích rõ ràng cho anh hiểu. Chính vì vậy, cả hai người đều không thực sự hiện diện khi ở trước mặt đối phương, họ ở đó nhưng không thực sự ở đó, mà ở trong khoảnh khắc khác, trong những chiều không gian khác. Bi kịch của họ đơn giản chỉ là như thế.

Từ đó, Thiền sư Thích Nhất Hạnh rút ra kết luận là tình yêu thực sự chỉ đơn giản nằm gói gọn trong ba câu sau đây: “Anh ở đây. Em ở đây. Và anh ở đây vì em.” (I’m here. You’re here. And I’m here for you.)

Câu khẳng định đầu tiên mang hàm ý rằng anh đang ở đây ngay giây phút này khi đối diện với em, bằng trăm phần trăm con người anh, không hề có sự tản mác, phân mảnh đi bất cứ nơi đâu. Một điều tưởng chừng đơn giản nhưng thực ra trong cuộc sống bộn bề lo toan này, việc một người có thể tập trung hoàn toàn tinh lực của mình khi đối diện trước một người mà không bị vướng bận tâm trí bởi điều gì khác cũng thật khó khăn.

Câu khẳng định thứ hai là sự tiếp nối ý từ câu đầu tiên. Anh ở đây, và em cũng đang ở đây. Anh ghi nhận sự tồn tại của em, em ghi nhận sự tồn tại của anh. Vì em cũng đang ở đây cùng anh trong giây phút này nên em không cô đơn, em không tản mác, em không phân mảnh.

Câu khẳng định cuối cùng là một sự quả quyết mạnh mẽ: Anh ở đây, anh dành hết trăm phần trăm sự tồn tại của mình ở đây là vì chính em, không vì ai khác cả. Vậy nên, em có thể yên tâm mà thổ lộ tất cả mọi điều với anh, vì trong giây phút này, hai ta đều cùng hiện diện.

Thông qua đó, ba câu khẳng định này có thể diễn dịch lại thành thông điệp phổ quát như sau:

“I’m here”: Khẳng định sự hiện diện trọn vẹn của bản thân, tập trung toàn bộ sự chú ý và tinh thần vào người mình yêu thương. Trong cuộc sống bận rộn, việc dành trọn vẹn tâm trí cho đối phương là điều không dễ dàng, nhưng lại vô cùng quan trọng để xây dựng một mối quan hệ bền vững.

“You’re here”: Ghi nhận sự tồn tại của đối phương, trân trọng và thấu hiểu cảm xúc, suy nghĩ của họ. Khi cả hai cùng “ở đây”, họ sẽ cảm nhận được sự kết nối sâu sắc, chia sẻ và đồng hành trong từng khoảnh khắc.

“And I’m here for you”: Thể hiện sự cam kết, dành trọn vẹn tình yêu và sự quan tâm cho người mình yêu thương. Lời khẳng định này mang đến sự an toàn, tin tưởng và là động lực để cả hai cùng vượt qua mọi khó khăn trong cuộc sống.

Ba câu khẳng định tưởng chừng đơn giản nhưng lại là chìa khóa cho một tình yêu đích thực. Khi cả hai cùng thực hiện được điều này, họ sẽ tạo dựng được một mối quan hệ bền chặt, hạnh phúc và viên mãn.

Chìa khóa cho một mối quan hệ tốt đẹp

Để thực sự “ở đây”, mỗi người cần học cách chánh niệm, tập trung vào hiện tại, gạt bỏ những lo toan, phiền muộn và dành trọn vẹn sự chú ý cho đối phương. Khi ta thực sự “ở đây”, ta sẽ cảm nhận được trọn vẹn vẻ đẹp của người mình yêu thương, thấu hiểu những cảm xúc và suy nghĩ của họ. Tình yêu đích thực không chỉ là những khoảnh khắc lãng mạn, mà còn là sự cam kết và hy sinh cho nhau. Khi yêu thương ai đó, ta sẵn sàng dành thời gian, tâm sức và cả những hy sinh để cùng nhau xây dựng hạnh phúc.

Giao tiếp là yếu tố quan trọng trong bất kỳ mối quan hệ nào. Lắng nghe cởi mở và thấu hiểu là cách để hai người kết nối tâm hồn, chia sẻ những cảm xúc, suy nghĩ và vun đắp tình cảm ngày càng sâu sắc.

Tình yêu đích thực không phải là điều viển vông hay khó kiếm tìm. Nó ẩn chứa trong chính những khoảnh khắc bình dị của cuộc sống, chỉ cần ta biết trân trọng và gìn giữ. Ba câu khẳng định của Thiền sư Thích Nhất Hạnh là lời nhắc nhở nhẹ nhàng nhưng sâu sắc về cách để vun đắp và nuôi dưỡng một tình yêu thương bền chặt, viên mãn.

Hoàng Đức Nhiên

Đọc bài viết

Cafe sáng