Phía sau trang sách

Rừng Na Uy, một bản nhạc thăng trầm của sự sống, tình yêu, và cái chết…

Hãy cứ ngủ yên đi nhé những khổ đau này. Vì ta phải thức để sống với niềm vui…

Published

on

Đêm bắt đầu xuống, gió cuộn mình réo rắt từng cơn và trận mưa âm ỉ trôi trong làn sương mờ ảo. Tôi trở về phòng sau một cuộc gặp gỡ với những hỉ nộ ái ố thường ngày. Qua ô cửa kính nhỏ đầy những giọt nước mưa bám víu, tôi trông ra đằng xa, nơi có những ngọn đèn đường hiu hắt, nơi có màn đêm tĩnh lặng và có tiếng thở rất khẽ của cao nguyên. Tôi thấy mình đang trống hoắc trong lòng, và tự dưng, bất chợt, trong một khoảnh khắc nào đó, tôi lại nghĩ về Rừng Na Uy, một bản nhạc đầy thăng trầm về sự sống, tình yêu, và cái chết – qua cách kể chuyện đầy trần trụi nhưng lại vô cùng thực tế của Haruki Murakami. Dường như đã có một sợi dây vô hình nào đó – liên kết tôi với cuốn sách này, hoặc chăng, là chính tôi đang tự cảm nhận được một sự liên kết đồng điệu trong tâm hồn mình, nhân một đêm mưa đầy khắc khoải…

Tiếng mưa tan vào gió. Tôi nghĩ về cuộc đời, nghĩ về những người đã xuất hiện trong cuộc đời này, một cách âm thầm và lặng lẽ. Về những tháng ngày rong ruổi nối đuôi nhau trên hành trình làm con người ngắn ngủi, chao ôi, có quá nhiều những vẩn vơ khiến chúng ta suy nghĩ trong đầu, phải vậy không? Mỗi sáng thức dậy là một chặng đường mới, mỗi tối nhắm mắt là một trạm dừng chân, cứ như thế, cuộc đời trải dài ngày này qua tháng nọ, tôi cứ nghĩ rằng mình sẽ không thể nào sống được với một cuộc sống vô vị và tẻ nhạt như vậy. Ấy vậy mà tôi vẫn phải sống. Ấy vậy mà những kẻ cô đơn tột cùng kia vẫn phải sống. Giống tôi vậy.

À, hóa ra, tất cả mọi người đều như nhau. Những kẻ cô đơn thích gặm nhắm nỗi buồn? Như Watanabe, như Naoko, như Midori, Reiko hay cả những con người đang trằn trọc sống như một kẻ ôm nỗi buồn bỏ trốn.

Nỗi buồn là gì? Là một thứ gì đó mà người ta vẫn cho rằng nó ghê gớm lắm. Mà có thật là ghê gớm vậy không. Cũng không biết nữa. Vì nỗi buồn của người này chưa chắc đã là nỗi buồn của người khác. Trên đời này có hàng trăm, hàng vạn nỗi buồn khác nhau, và mỗi người lại có một ý niệm riêng biệt. Vậy thì, thôi mình tạm kết luận rằng nỗi buồn là một điều dĩ nhiên của cuộc sống vậy. Một điều dĩ nhiên mà chưa chắc ai cũng muốn có.

Có lẽ như, dù muốn dù không thì tất cả những nhân vật trong Rừng Na Uy vẫn phải sống và đối diện với nỗi buồn của mình, một cách khảng khái hoặc khiêm nhường. Suốt cả chặng đường dài tồn tại và hiện hữu trên đời, họ đã có quá nhiều những điều để làm, những thứ để chờ đợi, những con đường phải đi. Họ suy nghĩ. Họ hành động. Họ bỏ mặc. Họ bế tắc. Họ khát khao hay họ tuyệt vọng. Tất cả đều là sự sống của riêng họ. Sự sống mà họ tự chọn lấy để gắn mác là mình đang-phải-sống, một cách lay lắt và gượng gạo. Chính những sự sống không lối thoát ấy đã làm cho cái vòng tròn của nỗi cô đơn, nỗi cự tuyệt, nỗi từ chối niềm vui cứ liên tục tuần hoàn và quẩn quanh dai dẳng như thế. Và dường như, với họ, chỉ cần như vậy thôi là đủ? Một sự sống trống rỗng, hay chăng, là do tâm hồn họ đang trống rỗng bởi những khổ đau âm ỉ lấp đầy. Có lẽ là thế rồi. Vì khi khổ đau, đâu phải ai cũng đủ mạnh mẽ để chọn lấy một cuộc sống tươi đẹp hơn. Để làm được như thế, có khi ta phải đánh đổi một đời. À, vậy là tôi đã hiểu rồi. Chẳng phải họ đang chọn một cách sống như vậy đâu, mà là do đau khổ, do nỗi buồn, nỗi cô đơn trong lòng họ. Thôi thì mình cứ tạm thời cho là như thế.

Chẳng hiểu làm sao mà khi những trang cuối cùng của cuốn sách khép lại, tôi đã mặc nhiên để nỗi buồn ghé thăm mình, như một cách để mình được sống với thế giới của những trang sách. Vì với tôi, cuốn sách này là một nỗi buồn mà. Một nỗi buồn thật đẹp. Nỗi buồn ấy đến từ những niềm phảng phất xa xăm, mơ hồ và không rõ hình thù, tất nhiên rằng cũng chẳng thể gọi tên. Nỗi buồn đọng lại thành giọt nước, thành đám mây, thành bầu trời, và thành sự sống. Nỗi buồn chạm sâu vào trái tim của tôi, gửi lại đó bao nhiêu là miên man suy nghĩ, và lắm lúc, ôi trời, bỗng thấy lòng hoang hoải làm sao. Tôi tự hỏi chính tôi, và tự hỏi những con người đã được sống trong trang sách này, rằng có phải họ đã buồn lắm không? Những câu chuyện của họ, những thăng trầm của họ, những biến cố của họ… chẳng hiểu sao mà lại cứ hiện lên thật rõ trong tôi sự đau khổ lạ kì – dẫu trong những niềm đau khổ ấy, họ vẫn sống kiên cường đến lạ thường.

Chắc vì họ có tình yêu…

Tình yêu là gì nhỉ? Tôi đã từng nghe nhiều người nói lắm, rằng tình yêu là một thứ diệu kì. Nó không phải là một ý niệm. Nó thật sự là một điều để mỗi người trong chúng ta cảm nhận, bằng-trái-tim. Tình yêu sẽ làm sống dậy những chân thành tử tế trong trái tim tưởng chừng như đã cằn cỗi héo mòn. Tình yêu sẽ để ngủ yên những khôn nguôi đau khổ của cuộc đời. Và tình yêu, cứ thế, sẽ mãnh liệt gieo đầy những khao khát niềm tin và chứa chan hy vọng.

Watanabe có yêu Naoko không? Có chứ. Vì phải yêu nên cậu ta mới chân thành như thế. Chân thành nhớ, chân thành thương, chân thành hi vọng và chân thành chờ đợi. Vậy còn Naoko thì sao? Có phải cô đến với Watanabe chỉ để khỏa lấp đi những trống trải trong lòng, sau cái chết của Kizuki. Và dẫu cho đã bắt đầu làm tình với Watanabe, Naoko vẫn nghĩ về người bạn trai quá cố, và nghĩ về những mất mát lớn lao trong lòng? Nhưng nếu như thật lòng yêu Naoko, cớ làm sao Watanabe lại có nhiều lần cùng với Nagasawa đi ra ngoài gặp gỡ và qua đêm với những cô gái khác? Lẽ nào tình yêu thì không cần trân trọng? Lẽ nào tình yêu thì không cần gìn giữ? Ơ, mà khoan đã. Ta đã hiểu được gì về mối quan hệ giữa Watanabe và Naoko đâu. Cả về hai phía, có lẽ, chúng ta sẽ chẳng thể nào dùng một từ ngữ nào để nói về mối quan hệ này. Vì nó cứ mơ hồ. Vì nó cứ mập mờ. Vì nó cứ mông lung và mờ ảo như một đám mây bị nhấn chìm giữa ngọn núi khi mặt trời đã thảng thốt hoàng hôn. Đó có thể không phải là tình yêu? Đó phải chăng chỉ là sự cảm thông và tương đồng về mặt cảm xúc, về mặt tâm hồn, về mặt suy nghĩ và ưu tư vẫn từng ngày vật lộn và dằn vặt trong trái tim của hai kẻ cực kì cô đơn này? Cũng không biết nữa. Rừng Na Uy vốn dĩ không phải là một tác phẩm để hiểu, mà là để hỏi. Hỏi cho những ngẫm nghĩ trong lòng.

Vì chúng ta chỉ là một chiếc lá bé nhỏ.

Mà cuộc đời thì là cả cánh rừng, ha!

Nói về sự cô đơn trong tình yêu, tôi lại muốn nói về Nagasawa. Chao ôi, cũng không biết phải làm sao để có thể hiểu hết được suy nghĩ của gã trai vô cùng phức tạp này. Gã phóng khoáng? Gã đa tình? Gã đào hoa hay rằng gã là một kẻ thật sự thất bại trong tình yêu? Gã đã từng ngủ với rất nhiều cô gái, và tất nhiên, đó chỉ là cái cách để mà gã bỡn cợt và vui chơi. Chẳng có bất kì cô gái nào có thể khiến gã rung động – theo đúng nghĩa là tình yêu thật sự. Những gì gã làm, những gì gã trải qua… tất cả chỉ là tình dục. Một sự tình dục vớ vẩn mà ngay chính bản thân gã cũng chẳng hiểu nổi là tại sao mình lại làm thế. Sau mỗi lần gã ngủ với một cô gái nào đó, gã có cảm thấy trống rỗng và vô vị không? Có chứ. Gã hiểu là đằng khắc. Nhưng gã vẫn cứ làm. Cứ làm vậy thôi, chẳng vì lí do gì. Và dẫu cho gã có nói yêu Hatsumi đến hàng trăm lần, thì chắc gì gã đã một lần trân trọng và quan tâm đến cảm xúc của cô. Khi nghĩ về Hatsumi, tôi lại thấy cảm thương cô rất nhiều. Cô yêu gã thật. Cô thấu hiểu bản chất của gã thật. Cô chấp nhận trao cho gã trinh tiết của mình, dẫu biết gã đã và đang ngủ với rất nhiều những cô gái khác. Có thể nhiều người sẽ nói là cô quá ngu ngốc, nhưng tôi lại tin cô, và tôi hiểu lí do vì sao cô lại chấp nhận hết những điều như thế, dẫu cho cô chẳng nhận lại được gì ngoài đau thương, ngoài khổ tâm, và những giọt nước mắt của chia ly. Vì như đã nói, đó là tình yêu. Tôi tin rằng đó là một tình yêu thật sự!

Lại về Midori, lại về Reiko. Ôi những người phụ nữ mạnh mẽ nhưng đôi lúc lại vô cùng kì quặc trong cái nhìn của tôi. Họ là những người đã sống trong tình yêu và đã trải qua những tháng ngày được yêu, dẫu không phải tình yêu nào cũng trọn vẹn. Midori, cô ấy yêu Watanabe, hoặc chăng là cô ấy đang khao khát một tình yêu đúng nghĩa vì cô quá bất mãn và không còn cảm thấy hứng thú với người bạn trai của mình nữa, kể từ khi được gặp và tiếp xúc với Watanabe – cậu bạn cùng lớp thân thiết của mình. Cô ấy dám sống đúng với những suy nghĩ của mình, dẫu nó trần trụi, dẫu nó táo bạo. À, mà những điều đó có nghĩa lí gì đâu, vì cô ấy cũng chẳng thèm quan tâm. Miễn là cô ấy muốn, miễn là cô ấy thích. Cái cách sống và cách yêu của Midori là thế. Còn về Reiko – một người phụ nữ đã ngoài bốn mươi. Một người phụ nữ đã từng có gia đình, vậy mà sau những biến cố và năm tháng tưởng chừng như đã không còn quan tâm đến tình dục, thì phút cuối cùng, cô ấy lại ngỏ lời làm tình với Watanabe – gã đàn ông nhỏ hơn cô đến gần hai mươi tuổi. Tôi không hiểu vì sao Reiko lại chọn như thế, chắc là do tôi chưa từng trải nhiều, và cũng chưa từng nằm ở trong vị trí của Reiko. Tôi chỉ hiểu, tình yêu là một thứ gì đó lạ kì và khó hiểu vô cùng. Nó có cả tình dục. Thứ tình dục mà con người cho đó là điều thiêng liêng và đẹp đẽ nhất. Họ rạo rực và xốn xang. Họ làm tất cả mọi thứ để lao vào nhau. Và rồi, vậy là xong, tình dục cũng chỉ là một sự trống rỗng trong thân xác của những kẻ không tình yêu.

Khi viết đến những dòng chữ này, tôi chợt nhận ra rằng, hầu như những nhân vật tiêu biểu xuất hiện trong Rừng Na Uy đều gắn liền với tình yêu và tình dục. Những phân đoạn tả thực của Haruki Murakami đã làm cho sự trần trụi và nguyên thủy của con người được phơi bày một cách lõa thể, đơn sơ và chân thật nhất. Tôi không biết đó có phải là ý đồ của chính bản thân tác giả không. Nhưng dường như đây là một tác phẩm đã cho tôi thấy được hai thứ của con người: bản năng và lí trí – hai thứ những tưởng là của mình nhưng chẳng bao giờ mình hiểu rõ được nó, vì mình đã bị đánh lừa rất nhiều lần bởi cái tâm ô nhiễm ở bên trong.

Rồi cả sự sống, rồi cả tình yêu, và đã đến lúc chúng ta nên can đảm để nói về cái chết – những cái chết trong đời. Cũng như tình dục, cái chết ở Rừng Na Uy cứ hiện lên đầy ám ảnh và dai dẳng. Nó không hề rùng rợn và ghê sợ. Nó chỉ lạ kì. Nó chỉ bất lực. Nó chỉ bế tắc. Và nó cũng chỉ luẩn quẩn như vậy, và người ta gọi là đã xong một kiếp người. Cái chết của Kizuki, cái chết của chị gái Naoko, cái chết của bố Midori, cái chết của Hatsumi, và sau cùng là cái chết của chính Naoko. Những cái chết mà người ta đã không còn sự lựa chọn nào khác, người ta đã chọn nó, một cái chết đầy tuyệt vọng và mỏi mệt. Có phải rằng họ đã quá khổ đau, có phải rằng họ đã nhiều áp lực, có phải rằng họ đã không còn niềm tin và hi vọng gì nữa để bám víu trong cuộc đời này. Họ chọn cái chết, mà lạ làm sao, những cái chết của họ như lại được chắp vá bởi những đường chỉ bạc bẽo và vô tình. Những cái chết ấy đều giống nhau, nhưng nỗi đau của mỗi người là khác. Liệu rằng ở một thế giới nào đó, họ sẽ không còn đau khổ với nỗi đau của mình?

“Cái chết là có thực, nó không phải là đối nghịch của cuộc sống. Nó là một phần của cuộc sống.” Cái chết vẫn hiện hữu và tồn tại bên cạnh ta, xung quanh ta, trước mắt ta, và cả ở trong ta, từng phút, từng giây, từng khoảnh khắc và từng sát na. Ta vẫn sống, và cứ tưởng là sự sống lâu dài lắm, mà ta đâu biết, thứ song hành cùng với sự sống chính là cái chết. Ta được sinh ra cũng có nghĩa là ta đang chết đi. Một hơi thở đi vào cũng có nghĩa là sẽ có một hơi thở đi ra. Một thứ được hiện hữu cũng sẽ có một thứ phải biến mất. Mà những điều ấy, chẳng đâu xa, vẫn là cứ ở trong ta, mà ta thì không biết, vậy thôi.

Cái chết, tôi vẫn luôn xem nó là một đề mục quan trọng để hướng tới trong cuộc sống của mình. Nói tới đây, có lẽ nhiều người sẽ nghĩ rằng tôi đang bị tiêu cực hoặc đang tự tích lũy năng lượng xấu cho mình, và cho người. Nhưng không, với tôi, hướng tới cái chết chính là hướng tới một hành trình mà tôi đang được sống – một hành trình có những nguồn năng lượng tích cực, những điều tốt đẹp, những thứ hay ho, mà ở nơi đó, tôi sống tốt hơn, tôi biết trân trọng và biết ơn chính sự sống của mình. Vì tôi hiểu rằng mình sẽ chẳng thể nào tránh khỏi được cái chết, nên tôi phải trân quý những ngày mình được sống. Cái chết chỉ thật sự là một điều tiêu cực nếu như ta nhìn nhận nó bằng một thái độ tiêu cực, phải vậy không? Vậy nên, thật sự, tôi cũng mong rằng tất cả chúng ta đều sẽ chẳng ai phải đau khổ đến mức chọn lấy những cái chết đầy thương tiếc như những nhân vật trong Rừng Na Uy. Tôi mong cho những khôn nguôi đau khổ sẽ nằm lại thật sâu trong quá khứ, vì chẳng phải điều duy nhất mà chúng ta nên làm – và phải làm, đó là sống trong hiện tại đó sao!

Hình như có một bản nhạc vang lên, lặng thầm và ngây ngất giữa một khu rừng đầy những nỗi cô đơn. Là sự sống. Là tình yêu. Là cái chết..

Rồi bản nhạc kết thúc, tựa hồ tiếng guitar của Reiko nín bặt giữa màn đêm. Tôi lại trở về thôi.

Hãy cứ ngủ yên đi nhé những khổ đau này. Vì ta phải thức để sống với niềm vui…

Như thế, Rừng Na Uy kết thúc, lắng lại trong tôi chỉ một vài nghĩ ngợi vẩn vơ ấy. Gió vẫn ù bên tai lạnh buốt. Mưa vẫn rơi. Đêm vẫn thở. Và chúng ta sẽ phải tiếp tục sống với cuộc đời của mình – một cách thật ý nghĩa…

Hết.

Lâm Lâm

Xem tất cả những bài viết của Lâm Lâm tại đây.


Muôn màu của Haruki Murakami





Phía sau trang sách

Có một thời ở Chợ Lớn: Những gam màu ký ức

Published

on

Có một thời ở Chợ Lớn là một trong hai tác phẩm mới nhất của nhà báo Phạm Công Luận do Phương Nam Book liên kết xuất bản dịp năm mới Ất Tỵ 2025. Chỉ một thời gian ngắn sau khi phát hành, sách sớm nhận được tình cảm của độc giả và lọt vào top sách bán chạy trong tuần tại Nhà Sách Phương Nam. Bên cạnh bản thân tác giả Phạm Công Luận, góp phần vào sự thành công của Có một thời ở Chợ Lớn không thể không kể đến họa sĩ Phạm Công Tâm với nhiều hình ảnh minh họa đẹp và đầy tinh tế, cũng như đội ngũ Phương Nam Book đã biên tập, thiết kế nhằm đưa tác phẩm đến tay độc giả theo cách chỉn chu nhất.

Chịu trách nhiệm thiết kế bìa và trình bày sách Có một thời ở Chợ Lớn là họa sĩ t.hờ. Trong bài phỏng vấn hôm nay, Bookish sẽ cùng anh t.hờ chia sẻ với bạn đọc về quá trình "lên đồ" cho Có một thời ở Chợ Lớn cũng như những câu chuyện bên lề thú vị trong quá trình sản xuất cuốn sách này.

  • Bookish: Anh có thể chia sẻ điều gì đã dẫn đến quyết định lựa chọn hình ảnh chùa Ôn Lăng và chợ Bình Tây làm ảnh bìa sách ở 2 phiên bản bìa mềm và bìa cứng?

Họa sĩ t.hờ: Nhắc đến Chợ Lớn, chắc hẳn 9 trên 10 người trong chúng ta sẽ nghĩ ngay đến hình ảnh của chùa bà Ôn Lăng và chợ Bình Tây – hai công trình kiến trúc đặc trưng nhất của mảnh đất Chợ Lớn Sài Thành.

Đối với chùa bà Ôn Lăng, đây có thể coi là công trình mang đậm nét đặc trưng của kiến trúc Trung Hoa nhất giữa lòng Sài Gòn. Không chỉ là nơi chiêm bái của người dân địa phương và du khách gần xa, chùa bà Ôn Lăng còn là nơi tổ chức các hoạt động văn hóa và tôn giáo như lễ hội Đoan Ngọ, lễ hội Trung Thu, lễ hội Thanh Minh, lễ hội Tết Nguyên Đán,… Chùa bà Ôn Lăng là một trong những ngôi chùa có ý nghĩa lịch sử và văn hóa quan trọng của Thành phố Hồ Chí Minh nói chung và mảnh đất Chợ Lớn nói riêng.

Còn về chợ Bình Tây, đây không chỉ là một ngôi chợ sở hữu lối kiến trúc độc đáo mang đậm dấu ấn văn hoá Á Đông của người châu Á ở đất Sài Thành, mà còn là nơi được biết tới là nơi trao đổi đồ cổ và buôn bán sỉ lớn nhất của người dân gốc Hoa ở Chợ Lớn. Dù hiện tại chợ Bình Tây đã có nhiều sự thay đổi về cơ sở hạ tầng nhưng những giá trị tinh thần, lịch sử và văn hoá vẫn còn được lưu giữ cho đến ngày nay.

Chính vì lẽ đó, chùa bà Ông Lăng và chợ Bình Tây đã được mình chọn lựa để đưa lên 2 phiên bản bìa của Có một thời ở Chợ Lớn.

  • 2 ấn bản bìa mềm và bìa cứng có sự khác biệt gì về hình ảnh minh họa trong sách không?

Để đảm bảo sự chính xác về thông tin của các bài viết thì phần hình ảnh và nội dung bên trong của 2 phiên bản không có gì thay đổi.

  • Liệu có ẩn ý nào phía sau việc sử dụng 2 tông màu nóng - lạnh cho 2 phiên bản bìa sách?

Nhắc đến Chợ Lớn, người ta sẽ nghĩ ngay đến những tone màu rực rỡ như chính sắc màu chủ đạo trong cuộc sống của người dân nơi này – màu đỏ rực của những chiếc đèn lồng gốc Hoa, màu đỏ thẫm của những lớp mái ngói vươn màu thời gian hay màu đỏ tươi của những chú lân trong các lễ hội,… Bên cạnh đó, ta không thể không nhắc tới sắc vàng của những bức tường vững chải chạy dọc các con phố, của những món đồ trang trí bóng bẩy mỗi dịp Tết đến xuân về.

Thế nhưng, không vì thế mà Chợ Lớn vắng đi những phút giây lắng đọng. Dạo quanh Chợ Lớn, người ta vẫn có thể dễ dàng bắt gặp những tòa chung cư lâu đời trên đại lộ Trần Hưng Đạo hay từ chính trong nét kiến trúc phương Đông được tạo nên từ kỹ thuật xây dựng của Tây phương trong lối kiến trúc độc đáo của ngôi chợ Bình Tây xuất hiện trên bản bìa mềm.

  • Có câu chuyện ngoài lề nào thú vị trong quá trình thiết kế cho cuốn sách này mà anh ấn tượng không?

Mình cho rằng đó là một “bài học” thú vị nhiều hơn.

Như các bạn cũng biết, trước khi “Có một thời ở Chợ Lớn” ra đời, tác giả Phạm Công Luận đã từng cho ra mắt một quyển sách cùng chủ đề đó là “Hồi ức Phú Nhuận”. Do cả 2 quyển một chủ đề nên với vai trò là người thiết kế bìa cho cả hai, mình mong muốn tạo được nét tương đồng trên bìa khi 2 quyển sách được đặt cạnh nhau để nhấn mạnh “tính chất văn hóa” của 2 quyển sách này. Chính vì vậy, mình đã chủ đích đem cái gần gũi, thân thương nhưng cũng mang trong mình những lắt cắt lịch sử mà mình từng thể hiện trong bìa của”Hồi ức Phú Nhuận” mang vào quyển “Có một thời ở Chợ Lớn” lần này.

Nhưng rồi mình nhận ra, mỗi vùng đất sẽ mang trong mình một vẻ đẹp riêng. Nếu như Phú Nhuận là mảnh đất của những ký ức tuổi thơ thân thương, của những giai kỳ hào nhoáng của một Sài Thành hoa lệ, thì Chợ Lớn sẽ là những đất của những khu mua sắm xa hoa, của những quán ăn nức tiếng, và của sự hào sảng, phóng khoáng của người dân Chợ Lớn Sài Gòn.

Vậy nên, mình cho rằng đó là bài học mình của bản thân mình: Để nhấn mạnh, nếu không thể tương-đồng thì chúng ta có thể chọn tương-phản.

Bookish xin cảm ơn họa sĩ t.hờ vì đã dành thời gian chia sẻ. Chúc anh nhiều sức khỏe và đạt được thành công trong năm mới Ất Tỵ 2025.

Đọc bài viết

Phía sau trang sách

Sứ đoàn Iwakura và những người phụ nữ đầu tiên rời khỏi Nhật Bản

Published

on

Sứ đoàn Iwakura là một phái đoàn ngoại giao quan trọng của Nhật Bản được thành lập vào năm 1871, nhằm mục đích tìm hiểu về các quốc gia phương Tây, thu thập kiến thức về công nghệ, khoa học, và hệ thống chính trị của các quốc gia này để áp dụng vào việc cải cách Nhật Bản.

Phái đoàn này được tổ chức dưới sự lãnh đạo của Iwakura Tomomi, một quan chức cao cấp của chính phủ Minh Trị. Được đánh giá là một trong những sự kiện lớn nhất của lịch sử châu Á cuối thế kỷ 19, sứ mệnh Iwakura chủ trương “Bunmei kaika” (văn minh khai sáng) đã chuyển sức mạnh của lưỡi gươm samurai sang năng lực của trí tuệ. Sứ đoàn gồm khoảng 100 thành viên, trong đó có nhiều nhân vật chính phủ cao cấp. Ngoài số kể trên còn có các du học sinh phục vụ cho việc thông dịch, thông tin. Họ đã đi thăm Hoa Kỳ và hàng chục các quốc gia châu Âu khác nhau như Anh, Pháp, Đức, Áo, Ý, Bỉ, Hà Lan, Đan Mạch, Thụy Sĩ, Thụy Điển và Nga.

Bản đồ quãng đường đã đi của sứ đoàn Iwakura. Ảnh: Digital museum of the history of Japanese in New York.

Đoàn cũng có nhiều nữ sinh trẻ tuổi theo du học, phục vụ cho việc giáo dục phụ nữ sau này. Trong số những người thuộc sứ đoàn có năm cô gái rất trẻ tham gia vào chuyến đi. Chuyến công du này đã thay đổi vận mệnh của từng người trong số họ nói riêng và cả dân tộc Nhật Bản nói chung.

Năm cô gái đồng hành cùng Sứ đoàn Iwakura gồm: Tsuda Umeko, Nagai Shigeko, Yoshimasu Ryoko, Yamakawa Sutematsu và Ueda Teiko. Trong đó, nhỏ nhất là Tsuda Umeko, lúc đó chỉ mới 6 tuổi, lớn nhất là Ueda Teiko và Yoshimasu Ryoko, 14 tuổi. Trong chuyến công du này, họ không có quyền quyết định theo ý mình mà phải nghe theo sự sắp xếp của cha mẹ và gia đình để đến một vùng đất xa lạ, gánh trên vai trách nhiệm lớn lao với nước nhà.

Trước khi được đưa sang Mỹ, họ không được học tiếng Anh hay văn hóa để thích nghi với môi trường sống ở nước ngoài. Đặt chân lên đất khách, họ bị báo chí bủa vây và gọi là "những cô công chúa kỳ lạ đến từ phương Đông". Những cô gái trẻ cảm thấy lạc lõng, cô đơn và sợ hãi khi tiếp nhận nền văn minh mới. Tệ hơn, sau đó họ phải tách nhau ra và được gửi đến các nhà nuôi dưỡng khác nhau. Sau một thời gian, hai người chị lớn tuổi nhất dần không chịu được cuộc sống ở nơi đất khách quê người và được đưa trở lại về quê nhà. Ba cô gái còn lại bao gồm Yamakawa Sutematsu, Nagai Shigeko và Tsuda Umeko đã kiên cường trụ lại, chăm chỉ nỗ lực học tập và làm nên lịch sử. Họ chính là ba trong số năm người phụ nữ đầu tiên rời khỏi Nhật Bản và cũng là những người phụ nữ thành công nhất thời Minh Trị.

Tsuda Umeko

Tsuda Umeko sinh ra trong một gia đình quan chức và được cử tham gia vào Sứ đoàn Iwakura sang Mỹ du học vào năm 1871 khi chỉ mới 6 tuổi. Dù phải học cách tự lập khi còn quá nhỏ, bà đã nỗ lực không ngừng và tốt nghiệp Học viện Aarcher Institute. Bà về nước vào năm 1892 và làm giáo viên dạy tiếng Anh của trường chuyên dành cho các nữ quý tộc.

Umeko đã dành cả cuộc đời mình để cống hiến cho giáo dục, đặc biệt là giáo dục nữ giới. Năm 1900, với sự trợ giúp của hai người bạn, bà mở trường Joshi Eigaku Juku (Trường Anh ngữ cho nữ sinh), chính là tiền thân của Đại học Tsuda hiện nay. Những cống hiến lớn lao của bà đã được chính phủ Nhật Bản ghi nhận, hình ảnh của bà cũng được in trên tờ tiền 5000 yên phát hành vào năm 2024.

Nagai Shigeko

Nagai Shigeko sinh năm 1862 trong một gia đình quan chức Mạc phủ Tokugawa. Năm 1871, bà được đưa sang Mỹ sinh sống và học tập tại nhà của nhà sử học John Stevens Cabot Abbott. Năm 1878, bà nhập học trường Nghệ thuật tại Đại học Vassar và theo học chuyên ngành âm nhạc.

Khi trở về nước, bà kết hôn với Uryu Sotokichi và trở thành một trong những những giáo viên dạy piano đầu tiên ở Nhật Bản. Bà cũng là một trong những người sáng lập, dạy âm nhạc phương Tây tại Đại học Nghệ thuật Tokyo.

Yamakawa Sutematsu

Yamakawa Sutematsu sinh ra trong một gia đình Samurai truyền thống hỗ trợ Mạc phủ Tokugawa trong Chiến tranh Boshin. Gia đình bà ở phe thua trận trong cuộc nội chiến cuối cùng kết thúc thời kỳ Samurai của Nhật Bản và rơi vào hoàn cảnh khó khăn. Để giảm bớt miệng ăn trong nhà, người anh trai đã tự ý quyết định đưa bà tới Mỹ mà không hỏi ý kiến của bà.

Ở Mỹ, bà đã cố gắng học tập và đạt thành tích xuất sắc, sau đó ghi danh lịch sử khi trở thành người phụ nữ có học vị cao nhất Nhật Bản lúc bấy giờ. Bà là người phụ nữ Nhật đầu tiên có bằng Đại học.

Sau khi tốt nghiệp, bà học thêm về nghiệp vụ y tá và trở về Nhật Bản vào tháng 10 năm 1882. Khi trở lại quê nhà, Sutematsu gặp khó khăn trong việc giao tiếp khi không thể đọc hoặc viết tiếng Nhật. Sau đó, bà kết hôn với Oyama Iwao. Khi chồng bà được thăng chức, bà được cũng thăng cấp theo và trở thành Công chúa Oyama vào năm 1905. Thuở ấy, bà là một người có địa vị cao trong xã hội. Bằng kiến thức của mình, Sutematsu đã tư vấn cho Hoàng hậu về các phong tục phương Tây. Bà cũng sử dụng vị trí xã hội của mình để kêu gọi, quyên góp cho giáo dục phụ nữ. Bà là người góp công lớn trong việc thành lập nên Đại học Tsuda cùng với hai người bạn Tsuda Umeko và Nagai Shigeko.

Yamakawa Sutematsu, Nagai Shigeko và Tsuda Umeko đã mang kiến thức học được từ chuyến đi cùng Sứ đoàn Iwakura để truyền bá cho nữ giới ở quê nhà. Họ cùng nhau thực hiện một kế hoạch lớn lao, đó là mở trường học dành cho phụ nữ thuộc mọi tầng lớp trong xã hội. Dù ngay từ lúc bắt đầu đã gặp rất nhiều khó khăn, nhưng họ vô cùng quyết tâm và đã thành công. Họ là những người đã đặt nên nền móng để xây dựng nên nền giáo dục vì phụ nữ tại Nhật Bản, phất lên ngọn cờ chiến đấu vì nữ quyền, quyền được học tập làm việc, theo đuổi đam mê của bản thân.

Phỏng theo bài viết của Ái Thương trên Kilala.vn

Đọc bài viết

Phía sau trang sách

Patrick Hogan: “Những gì xảy ra ở Việt Nam sẽ không ở lại Việt Nam”

Published

on

By

Mockup_Mua_xuan_vang_lang_Mua_thu_chet_choc_cua_chien_tranh_VN

Patrick Hogan đóng quân tại miền Nam Việt Nam từ tháng 9.1966 đến tháng 6.1969 tại Cam Ranh (Khánh Hòa). Sau khi giải ngũ, ông được bổ nhiệm vào Sở cảnh sát Teaneck với tư cách là nhân viên thực thi pháp luật. Vào năm 2012, sau khi nghe bài phát biểu của cựu Tổng thống Barack Obama về chiến tranh Việt Nam, ông bỗng cảm thấy vô cùng cấp bách để điều tra về việc phơi nhiễm chất độc màu da cam và những hóa chất mà chính quyền Mỹ đã rải xuống Việt Nam trong giai đoạn này.

Khi bắt đầu nghiên cứu, ông chưa từng nghĩ mình sẽ chạm đến những bí mật khổng lồ về các loại hóa chất này. Nhưng sau cái chết của người bạn và cũng là cựu chiến binh Larry White, ý tưởng về Mùa xuân vắng lặng - Mùa thu chết chóc của Chiến tranh Việt Nam đã ra đời. Tác phẩm vừa được Phương Nam Books và NXB Thế giới ấn hành, qua việc chuyển ngữ của dịch giả Nguyễn Văn Minh. Cuộc phỏng vấn sau đây sẽ nói nhiều hơn về tác phẩm ông đã “thai nghén” trong nhiều năm qua.

- “Mùa xuân vắng lặng - Mùa thu chết chóc của Chiến tranh Việt Nam” nói về điều gì, thưa ông?

- Đây là câu chuyện về chiến tranh, câu chuyện về sự giận dữ và cuồng nộ, một cuốn biên niên sử được viết trong đau buồn và hy vọng. Đó là câu chuyện của vô số cựu binh từng phục vụ tại Việt Nam. Đó là một cuốn sách đi sâu vào các hóa chất chết người đã được sử dụng trong suốt cuộc chiến và ảnh hưởng của chúng lên các cựu binh. Nhiều trong số đó vẫn đang được sử dụng trên khắp nước Mỹ, thậm chí cho đến ngày nay. Đó là hành trình phơi bày mọi điều mà chính phủ Hoa Kỳ chưa từng và chưa bao giờ muốn phơi bày ra ánh sáng.

- Điều gì đã truyền cảm hứng cho ông viết về chiến tranh Việt Nam?

- Thực ra tôi chưa bao giờ nung nấu ý định trở thành nhà văn. Cuốn sách ra đời trong một hoàn cảnh gần như ngẫu nhiên. Điều tốt nhất tôi có thể làm gần nửa thế kỷ sau chiến tranh là viết lại “sự phản bội” mà chúng tôi nhận được khi bị buộc phải tiếp xúc với thuốc trừ sâu độc hại và những điều kiện khắc nghiệt của chiến tranh Việt Nam. Tất cả là nỗ lực đưa ra ánh sáng những gì đã xảy ra ở đó để chúng sẽ không bao giờ có khả năng lặp lại với các thế hệ quân nhân mới, với cả gia đình và con cháu họ, thậm chí là cả cháu chắt nữa.

Mùa Xuân Vắng Lặng - Mùa Thu Chết Chóc Của Chiến Tranh Việt Nam

Ban đầu, việc viết sách hay trở thành tác giả là điều xa vời trong tâm trí tôi. Tuy nhiên, ngay sau khi tôi từ Việt Nam trở về, cha tôi đã thúc giục tôi nộp đơn yêu cầu bồi thường khuyết tật lên Bộ Cựu chiến binh (DVA) vì những vấn đề y tế mà tôi gặp phải trong thời gian phục vụ quân ngũ. Tôi bắt đầu quá trình này không mấy nhiệt tình và nhanh chóng bị cuốn hút bởi cuộc sống dân sự mới.

Tôi không truy tầm lại chúng suốt nhiều thập kỷ, cho đến vào một ngày tháng 5 của năm 2012, sau khi xem Tổng thống Barack Obama phát biểu về sự khủng khiếp của Chiến tranh Việt Nam, thì điều gì đó trong con người tôi bất chợt “sống dậy”. Từ đó dấn thân nghiên cứu và điều tra mối liên hệ nhân quả giữa vô số vấn đề về sức khỏe và việc tôi bị phơi nhiễm chất độc màu da cam ở Việt Nam.

- Ông có thể chia sẻ về quá trình nghiên cứu của mình không? Đâu là khía cạnh thú vị nhất?

- Nghiên cứu của tôi kéo dài vài năm vì sự phức tạp của tất cả các hóa chất độc hại mà chúng tôi đã tiếp xúc và tương tác. Càng điều tra, tôi càng nhìn lại và cân nhắc tất cả những sinh mạng đã bị rút ngắn một cách không cần thiết - bị lấy đi, bị hủy diệt và chết dần mòn do việc sử dụng tràn lan thuốc trừ sâu. Tôi tức giận và quyết tâm hoàn thành cuốn sách.

Chúng tôi không chỉ bị phơi nhiễm chất độc màu da cam mà còn vô số hóa chất độc hại chết người. Thật đáng xấu hổ khi có biết bao nhiêu sinh mạng đã thiệt mạng trong nửa thế kỷ qua mà không ai biết sự thật về chúng. Một trong những điều hối tiếc lớn nhất của tôi là đã mất quá nhiều thời gian để thức tỉnh và viết cuốn sách này.

- Ông là một cựu trung sĩ. Điều này đã ảnh hưởng đến việc viết như thế nào?

- Việc là một sĩ quan cảnh sát và điều tra viên đã nghỉ hưu thực sự có ích trong giai đoạn nghiên cứu và viết nó ra. Thực ra, tất cả kinh nghiệm sống của tôi đều được phát huy trong quá trình viết sách.

- Về thuốc trừ sâu và thuốc diệt cỏ được sử dụng trong giai đoạn ấy, ông có nghĩ rằng tác động của chúng đã dần giảm đi trong những năm qua?

- Cuốn sách không chỉ thảo luận về các hóa chất đã được sử dụng ở Việt Nam mà còn về tất cả các loại thuốc diệt cỏ và thuốc trừ sâu độc hại được dùng trong chiến tranh nói chung. Thật không may, ngày nay hầu hết mọi người đều tin rằng chất độc màu da cam là loại thuốc trừ sâu duy nhất mà chúng ta bị phơi nhiễm. Sự thật là chiến tranh Việt Nam đã bị chính phủ biến thành một chiến dịch truyền thông sai lệch nhằm hạ thấp hoặc phớt lờ tất cả các hóa chất khác mà chúng ta đã tiếp xúc ở đó.

- Ông cũng trích dẫn nhiều thông điệp tích cực từ “Kinh Thánh”. Vì sao trong một nghiên cứu đầy cuồng nộ vẫn có những niềm hy vọng như thế?

- Đối với tôi, ở cả thời điểm này, tôi vẫn khó có thể hiểu được động cơ của tội ác ấy, cũng như sự vụ che giấu trong nhiều thập kỷ. Nhưng dù thế nào thì vẫn có ánh sáng trong ngày tăm tối. Hy vọng trong tương lai những hồ sơ này sẽ được tiết lộ, và tội ác sẽ không xảy ra thêm lần nào nữa với thế hệ quân nhân khác.

- Xin ông chia sẻ khía cạnh thách thức nhất khi viết cuốn sách này là gì?

- Đó là nỗi buồn cá nhân khi viết câu chuyện của Larry – bạn tôi, và quay lại khoảng thời gian tôi ở Việt Nam cũng như rất nhiều căn bệnh mà tôi đã mắc trong những năm qua.

Patrick Hogan

Hồ sơ chính thức của chính phủ Hoa Kỳ ghi nhận hơn 58.280 quân nhân Hoa Kỳ đã chết ở Việt Nam. Đó là thương vong cuối cùng của cuộc chiến đó. Ngoài ra, có trên 300.000 quân nhân được ghi nhận là bị thương và tàn phế. Tuy nhiên, những số liệu thống kê nghiêm túc đó lại không ghi nhận hàng chục nghìn binh sĩ, thủy quân lục chiến và thủy thủ đã thiệt mạng, bị thương và bị thương tật do thuốc trừ sâu sử dụng ở Việt Nam. Ai sẽ ghi lại sự hy sinh và cái chết của họ? Mặc dù tôi không mong đợi cuốn sách của mình sẽ thay đổi những số liệu thống kê, nhưng tôi hy vọng có thể giúp ích một phần nào đó cho thế hệ tương lai.

- Ông có bao giờ rơi vào tình trạng bị bí ý tưởng?

- Không. Bản thảo ban đầu của cuốn sách dài khoảng 400 trang, ngoại trừ câu chuyện của Larry và việc hồi tưởng lại thời gian tôi ở Việt Nam thì mọi việc diễn ra suôn sẻ.

- Ông có phải là một tác giả có kỷ luật hay có lịch trình cụ thể không?

- Tôi tự coi mình là một tác giả có kỷ luật, nhưng ngay cả vậy tôi cũng thường mang theo tập giấy và bút vì sẽ có những cảm hứng sẽ đến bất chợt. Đặc biệt là sau sự tương tác căng thẳng của tôi với Bộ Cựu chiến binh (DVA) và vòng xoay hành chính.

Đọc thêm nội dung sách: tại đây!

Đọc bài viết

Cafe sáng