Phía sau trang sách

Nửa mặt trời vàng: Nửa mặt trời vàng còn lại vẫn đang ở đâu?

Adichie, Doris Lessing và căn phòng của riêng ta.

Published

on

Nửa mặt trời vàng lấy bối cảnh cuộc nội chiến Biafra vào cuối thập niên 60 ở Nigeria làm bối cảnh chính, khi những nhũng nhiễu chính trị đang lên cao trào. Dưới sự cai quản của thực dân Anh, Nigeria oằn mình hứng chịu sự chia cắt chia-để-trị như cuộc giày xéo đất nước. Người Igbo ở miền Nam có đầu óc mở, họ giỏi giang, tư duy mở cửa và hơn hết, có lí tưởng chủ nghĩa xã hội khá mạnh. Điều này dội ngược một phản lực lớn lên Đế quốc nơi mặt trời không bao giờ lặn, khi cả Churchill hay Người đàn bà Thép sau này luôn cố gắng lèo lái đất nước mình tránh xa khối Liên Xô chủ nghĩa xã hội. Từ đây, thực dân Anh đứng sau như một cú đẩy, gieo vào đầu người Hausa ở miền Bắc và Yoruba ở miền Tây đầy những nghi kị về sự lớn mạnh và hiếu chiến của người Igbo như mối đe dọa, dẫn đến cuộc tàn sát không thể ngờ tới ở đất nước này. Với Nửa mặt trời vàng, Chimamanda Ngozi Adichie đã thành công khi khắc họa một cách gần như trọn vẹn những biến chuyển lịch sử, nhưng cũng đồng thời qua đó, ta thấy đằng sau là số phận của nhiều loại người: từ thế mạt hạng đến trung lưu, từ chỉ lo cái ăn đến lí tưởng cao vời chủ nghĩa xã hội,… Tất cả xuất hiện trong Nửa mặt trời vàng như những bậc thang đi đến đích đến nhân loại, nhưng liệu bạn có bao giờ tự hỏi, nửa mặt trời vàng còn lại vẫn đang ở đâu?

Phơi bày lý tưởng

Trong Nửa mặt trời vàng, Adichie có lối xây dựng nhân vật vô cùng đặc sắc khi cô phá bỏ hầu hết chuẩn mực trong tiểu thuyết văn chương mang yếu tố Phi châu mà người da đen thấp cổ bé họng luôn bị áp bức còn người da trắng cao xa mãi luôn trôi dạt. Điển hình là Richard – nhân vật được cô gán cho nguồn gốc London nhưng vì yêu cái đẹp của gốm bản xứ vùng Biafra ôm mộng ở lại. Adichie khắc họa Richard như người da trắng nhợt nhạt, mang trong mình cơn ủ ê trầm kha và quá mong manh để trở thành một ông chủ ngoại quốc: “Chàng cảm thấy mình yếu đuối quá, cái yếu đuối vì bệnh tật và vì tiếc nuối mất mát”. Không phải vô cớ khi Adichie xây dựng một nhân vật như thế, mà ở phía đối trọng bên kia, cô xây dựng Keanne – người Richard ôm mộng yêu đương – cứng rắn và trầm lắng đến không tưởng. Bỏ qua chủ nghĩa nữ quyền hay lòng tự tôn dân tộc ở đây, rõ ràng việc chọn nhân vật của Adichie là có chủ ý và hướng tác phẩm sang một lề thói khác, ở đó người phương Tây mang thứ ảo danh văn minh nhưng đầy bất lực thời cuộc và thoi thóp trong cái nhỏ nhặt nhất có được là người; trong khi những người bản xứ vẫn luôn bí ẩn như chính nơi họ xuất xứ, dẫu cho còn đó là những nhiễu nhương, những xung đột luôn âm ỉ cháy: “Tôi là người Nigeria vì một gã da trắng sáng tạo ra cái tên ấy rồi cho tôi cái tông tích ấy. Tôi đen bởi vì một anh da trắng xây dựng khái niệm màu đen để làm sao nổi bật sự khác biệt với cái màu trắng của hắn”.

Adichie không chỉ là một tiếng nói đơn lẻ, mà cô tổng hòa đầy đủ ý chí cả một thời đoạn vào trong tiểu thuyết mình. Cô không che giấu bất cứ điều nào mà tự do vạch trần những nhiễu nhương của xã hội lúc ấy, không chỉ phiến diện trong thế đối đầu với người phương Tây, mà ngay cả trong chính nội bộ những người bản xứ với nhau. Như thể khi xây dựng hình tượng Ugwu hay Harrison, cô không che giấu bản tính kịch cỡm của họ, không cố khoác lên họ màu da đen bóng để rồi đánh đồng tâm trí của họ cũng như người khác. Ugwu mang trong mình đầy những ý nghĩ trưởng giả trong khi Harrison luôn trong tâm thế sính ngoại, nấu những món Tây đến độ quên mất hương vị bản xứ; và cũng là tâm lý của vợ chồng Ezecka – những người Phi châu hưởng lợi từ bộ máy ăn bám chính quyền Nigeria. Họ biến chất đến độ Anulika – em gái Ugwu một lần phải thốt lên rằng: “Anh quên nguồn gốc xuất thân của anh rồi, bây giờ anh trở nên ngu đến nỗi anh tưởng mình là một Ông Lớn đấy”. Cách đối xử giữa những người bản xứ với nhau được phơi ra như tiếng nói mạnh mẽ về chủng tộc mình, không hề che đậy dẫu cho đó hoàn toàn là những điều muốn quên. Adichie thật sự là một cây bút mạnh mẽ, một điều mà không phải ai cũng dễ dàng mang ra trước ánh sáng của những phán xét, đánh đồng và quy chụp.

“Ugwu mang trong mình đầy những ý nghĩ trưởng giả trong khi Harrison luôn trong tâm thế sính ngoại, nấu những món Tây đến độ quên mất hương vị bản xứ;”

Không những thế, Adichie cũng lần mò mang đến lí tưởng của thế hệ tinh hoa như hướng nhìn ngược lại của những kệch cỡm trên kia. Adichie, lại một lần nữa, rất khéo trong cách chọn nhân vật, cô không ra chợ để rồi mang hết đầy đủ những người ngoài ấy vào trong tiểu thuyết mình; cũng không cố gắng xây dựng một nhân vật hoàn toàn tốt hay xấu; mà cô chọn lựa để rồi góp nhặt những gì tiêu biểu nhất. Onegdibo, Olanna và những người bạn giáo sư – tiến sĩ những tối hội họp trong mùi Brandy cùng món súp ớt của Ugwa một phần nào đó đưa ta về lại những năm 40 trong Cuốn sổ vàng của Doris Lessing. Ở đây họ cùng nhau uống, cùng nhau bàn luận và dấn thân vào cuộc nội chiến của đất nước mình. Họ tranh cãi, ca ngợi, phỉ báng lẫn nhau. Trong một nhóm nhỏ, Adichie lại vặn xoắn cây bút của mình biến họ thành ra những nhóm nhỏ hơn, ở thế đối đầu hay là quy phục để không rào trước đón sau, dẫn hướng người đọc mà cố gắng công tâm nhất, đa chiều nhất, phơi ra lý tưởng cùng luồng suy nghĩ vào thời khắc ấy. Trong những ngày thấp thỏm bơm rơi ở Nsukka ấy, tầng lớp tinh hoa cũng đồng thời phân tán lý tưởng của họ, về nội chiến, về hướng đi và về chủ nghĩa xã hội. Onegdibo như hiện thân cho những lý tưởng Cách mạng ở thời điểm này, khi:  “Làm sao chúng ta có thể chống lại sự bóc lột nếu chúng ta không có phương tiện chúng giúp ta hiểu thế nào là bóc lột?” Một lần nữa phải nói rằng, Adichie mang đầy vẻ gai góc trong ngòi bút riêng mình khi phơi ra hết những lý tưởng của thời khắc ấy, một cách rõ ràng và đầy thuyết phục.

Doris Lessing của chủ nghĩa chiết trung

Một điểm cũng được đề cập và không khó để nhận ra trong tiểu thuyết này là chủ nghĩa nữ quyền. Nữ quyền của riêng bản thể người da trắng đã đủ phức tạp, đằng này là người da đen trong bối cảnh bị chiếm đóng lại mang vẻ chông chênh gấp bội phần hơn. Aidichie xây dựng hình tượng hai chị em song sinh Keanne và Olanna cũng đầy tính toán ở hai con đường mà họ chọn đi. Nếu Olanna mỏng manh, yếu đuối và đầy học thức mang nhiều tính nữ; thì ở chiều ngược lại, Keanne lại mang bản tính hoang dại như một đại diện phù hợp cho người bản xứ. Không quá sa đà vào trong bối cảnh tưởng như đã đủ thu hút, Adichie xây dựng số phận của hai chị em họ đầy những trúc trắc đến nỗi, với Nửa mặt trời vàng, ta dễ tách riêng nó thành hai phần: một bên dã sử nội chiến và phía bên kia là tiểu thuyết tình yêu đương thời. Nói thế không có nghĩa cô tham lam khi mang quá nhiều vào trong Nửa mặt trời vàng, mà với cuốn tiểu thuyết này, Adichie đã chứng minh được khả năng làm chủ và chi phối tình tiết. Những trúc trắc trong cuộc đời hai người phụ nữ ấy nhịp nhàng trôi theo dòng chảy lịch sử. Trong những biến động của đất nước mình, họ cũng đồng thời nếm trải đầy đủ hương vị yêu đương: từ ngọt ngào, hăng say đến đắng cay, tội lỗi; từ khinh thị, xem thường đến thiêng liêng, nâng đỡ,… Adichie rõ ràng ý thức được thiên mệnh của mình trong tiểu thuyết này, khi cô không chỉ là người Nigeria mà còn là một phụ nữ. Cô thể hiện tính nữ ở riêng hai bản thể khác nhau, nhưng bằng cánh gán ghép song sinh, nó vẫn nằm trong một con người. Nếu Olanna ngập ngụa trong thứ men tình dẫu bị phản bội không chỉ một lần, thì Keanne vượt lên như thứ bản năng mạnh mẽ vốn có của xứ sở này. Cô nói đôi lần trong cuộc tình mình: “Anh đã lầm khi nghĩ là tình yêu không còn chỗ cho những chuyện khác. Rất có thể người ta yêu một cái gì đó nhưng vẫn khinh thị nó”. Keanne vờn quanh Richard, cô ý thức và hiểu rõ được tình cảm của mình, nhưng một điều rõ ràng rằng: cô khinh thị anh, khi anh bất lực, khi anh dẫu cho đã ngủ với Olanna,… nhưng cũng đồng thời, cô trân trọng và quý mến anh. Adichie lại một lần nữa tự mình ngập sâu vào trong thứ bùn hiện sinh, không chỉ đồng thời kéo chính cô xuống, mà song song đó là những người đọc quăng mình theo cô.

“Nữ quyền của riêng bản thể người da trắng đã đủ phức tạp, đằng này là người da đen trong bối cảnh bị chiếm đóng lại mang vẻ chông chênh gấp bội phần hơn.” 

Ở một mặt nào đó, Adichie đạt đến thành tựu ngang ngửa Doris Lessing khi là một trong hai người phụ nữ kể câu chuyện thời đoạn trong căn phòng của riêng mình. Cùng viết về những biến động đời sống, về chủ nghĩa xã hội và thứ chủ nghĩa nữ quyền đôi khi cực đoan; Adichie mang đến người đọc một phiên bản khác của Cuốn sổ vàng nhưng trần trụi và giản tiện hơn. Nếu Doris Lessing chọn nước Anh thập niên 50 và Anna Wulf như một “phụ nữ tự do” đam mê lý tưởng Cộng sản, thì Adichie lại chọn Nigeria thập niên 60 và Olanna hay Keanne đầy nét bản xứ. Nếu Doris Lessing chọn châu Phi những năm 40 nơi nhóm phù phiếm đi tìm bản thể chính mình, thì Adichie lại chọn chính phòng khách ở Nsukka như nơi tầng lớp tinh hoa bấy giờ tụ họp. Duy điều khác là với Cuốn sổ vàng, Doris Lessing tự bản thân không sở hữu một bối cảnh biến loạn tự mình cuốn hút người đọc như Nửa mặt trời vàng, do đó bà chủ yếu đi sâu vào khai phá những hỗn loạn xoay vần trong tâm trí Anna. Còn Adichie, bản thân vốn sẵn phân thân giữa hai mặt chính: một bên là những bối cảnh và phía bên kia tâm lý nhân vật, rõ ràng không thể đào sâu một cách đầy đủ như Doris. Nhưng dẫu thế nào đi nữa, Adichie cũng đã ghi tên mình vào danh sách những người phụ nữ với một bút lực vô cùng mạnh mẽ, vừa thể hiện bản thân, vừa là tiếng nói thời đoạn.

Hiện thực đời sống

Doris Lessing từng viết trong Cuốn sổ vàng: “Hiện thực là một khẩu súng và nó sẵn sàng bắn hạ bất cứ ai cản trở tiến trình của nó”, và rõ ràng với Nửa mặt trời vàng, Adichie đã không sử dụng hiện thực như một khẩu súng, mà vốn chính bản thân nó đã mang đầy đủ bất hạnh của thứ dịch tả ghé ngang. Bản thân cuốn tiểu thuyết mang trong mình một câu chuyện lớn – câu chuyện về những xung đột tôn giáo, tín ngưỡng, lí tưởng được che giấu dưới bàn tay thực dân Anh làm nên một cơn thảm sát cuồng loạn. Nội chiến Nigeria mà Adichie khắc họa rõ ràng là thứ ai cũng muốn quên, được cô phản ánh một cách thật nhất nhưng cũng sống động nhất. Tương tự Alice Hoffman trong Những người nuôi giữ bồ câu khi khắc họa lịch sử Israel cổ đại đương lúc hơn 900 người Do Thái cổ thủ trong pháo đài Masada bị thảm sát bởi quân La Mã, Adichie cũng viết nên những điều tương tự. Nạn đói, giết chóc, diệt chủng, tất cả hiện lên rõ ràng như những thước phim quay chậm, đôi dòng mà cô viết miêu tả nạn đói không thể không khiến chúng ta nản lòng: “Mùi hôi thối của những thân thể không được tắm rửa và mùi thịt rữa trong những hố huyệt nông choèn choẹt đằng sau dãy nhà càng lúc càng nồng nặc. Ruồi bâu quanh những vết lở loét trên người trẻ con. Rận và kwalikwata bò khắp nơi; đàn bà thỉnh thoảng kéo mấy tắm khăn quấn của mình để lộ những vết đỏ do bị rận cắn xung quanh eo của họ, giống như những nốt phát ban rỉ máu.”

Đứng cùng hàng ngũ với Rohinton Mistry trong Cân bằng mong manh khi phơi bày nhân quần quá nhiều biến động, Adichie tự mình đưa ra tiếng kêu xé lòng ra ngoài thế giới. Cô viết về một Phi châu không hẳn chỉ có nội chiến, đói nghèo và những đứa trẻ suy dinh dưỡng; mà còn hơn thế, cô như đối thoại với thế giới ngoài kia cách con người ta nhìn nhận lẫn nhau giữa những sinh thể ngang hàng, giữa những yêu thương đồng loại, như tựa đề quyển sách mà Ugwu viết sau này trở thành Nửa mặt trời vàng: Thế giới im lặng khi chúng ta chết. “Thế giới phải biết sự thật về những gì đang xảy ra bởi họ không thể lặng thinh trong khi chúng tôi chết”. Rồi như một sự buông xuôi bất lực sau những tính toán lột sạch bản thể con người, Adichie buông bút đầy mỏi mệt: “Nhưng liệu đó có phải là toàn bộ giá trị của sự sống còn? Rằng đời sống là trạng thái phủ nhận cái chết?” rồi cuối cùng cười gằn trong nỗi bất lực: “Cái tên bây giờ nghe như một sự giễu cợt. Chidiebele: Chúa nhân từ”. Adichie rõ ràng đã vô cùng thành công khi không những kể được câu chuyện mang nhãn “cấm xuất khẩu” của đất nước mình ra ngoài thế giới, mà còn thành công hơn thế khi đưa được tiếng nói của cá nhân mình, đưa được góc nhìn của toàn thế giới đối với một Biafra nhỏ bé ra ngoài công luận. “Nạn đói là vũ khí của người Nigeria trong cuộc chiến. Nạn đói đánh gục Biafra và mang danh tiếng đến cho Biafra, làm cho Biafra trường tồn như quốc gia này đã tồn tại. Nạn đói khiến mọi người trên thế giới chú ý và biểu tình phản đối ở London, Moscow và Czechslovakia. Nạn đói làm Zambia, Tanzania, Bờ biển Ngà và Gabon công nhận Biafra. Nạn đói đã đưa châu Phi vào trong cuộc tranh cử của Nixon […] Nạn đói thúc đẩy những cơ quan thiện nguyện mang thực phẩm bằng máy bay đến Biafra [..]. Nạn đói thúc đẩy nghề chụp ảnh. Và nạn đói làm Hội Chữ thập đỏ Quốc tế gọi Biafra là cuộc cứu trợ nguy hiểm nhất kể từ Thế chiến thứ Hai.”

Kết

Với Nửa mặt trời vàng, ngòi bút Adichie như lưỡi dao phá tan bụi rậm, mà ở đó hiện thực mang trong lòng phôi thai những tâm tính nhân quần được đưa ra ngoài ánh sáng. Adichie đã chứng minh được tài năng của mình, khi mượn một bối cảnh quá nhiều hỗn loạn của Nigeria để làm bật lên trong đấy là chủ nghĩa nữ quyền, là những lý tưởng chủ nghĩa xã hội và trên hết, là cách chúng ta đối xử với nhau. Adichie sử dụng hình ảnh bé gái đã chết với đôi mắt to tròn trắng dã, tết mái tóc bím được đặt trong chiếc bầu gỗ có những họa tiết đan chéo; như ngầm ngụ ý nói rằng, trẻ thơ – thứ bản tính hiền lành và thánh thiện nhất, cũng đang chết dần chết mòn trong lớp vỏ của chiến tranh hận thù. Rõ ràng như một nhận định, Nửa mặt trời vàng có số mệnh của một tác phẩm kinh điển, thì Adichie với tài năng của mình, cũng có số mệnh nối tiếp và trở thành một Doris Lessing thứ hai với tiếng nói dân chủ, nữ quyền khoét sâu vào lòng thế giới.

Hết.

Ngô Thuận Phát


Đọc những bài viết của Ngô Thuật Phát.


Phía sau trang sách

Patrick Hogan: “Những gì xảy ra ở Việt Nam sẽ không ở lại Việt Nam”

Published

on

By

Mockup_Mua_xuan_vang_lang_Mua_thu_chet_choc_cua_chien_tranh_VN

Patrick Hogan đóng quân tại miền Nam Việt Nam từ tháng 9.1966 đến tháng 6.1969 tại Cam Ranh (Khánh Hòa). Sau khi giải ngũ, ông được bổ nhiệm vào Sở cảnh sát Teaneck với tư cách là nhân viên thực thi pháp luật. Vào năm 2012, sau khi nghe bài phát biểu của cựu Tổng thống Barack Obama về chiến tranh Việt Nam, ông bỗng cảm thấy vô cùng cấp bách để điều tra về việc phơi nhiễm chất độc màu da cam và những hóa chất mà chính quyền Mỹ đã rải xuống Việt Nam trong giai đoạn này.

Khi bắt đầu nghiên cứu, ông chưa từng nghĩ mình sẽ chạm đến những bí mật khổng lồ về các loại hóa chất này. Nhưng sau cái chết của người bạn và cũng là cựu chiến binh Larry White, ý tưởng về Mùa xuân vắng lặng - Mùa thu chết chóc của Chiến tranh Việt Nam đã ra đời. Tác phẩm vừa được Phương Nam Books và NXB Thế giới ấn hành, qua việc chuyển ngữ của dịch giả Nguyễn Văn Minh. Cuộc phỏng vấn sau đây sẽ nói nhiều hơn về tác phẩm ông đã “thai nghén” trong nhiều năm qua.

- “Mùa xuân vắng lặng - Mùa thu chết chóc của Chiến tranh Việt Nam” nói về điều gì, thưa ông?

- Đây là câu chuyện về chiến tranh, câu chuyện về sự giận dữ và cuồng nộ, một cuốn biên niên sử được viết trong đau buồn và hy vọng. Đó là câu chuyện của vô số cựu binh từng phục vụ tại Việt Nam. Đó là một cuốn sách đi sâu vào các hóa chất chết người đã được sử dụng trong suốt cuộc chiến và ảnh hưởng của chúng lên các cựu binh. Nhiều trong số đó vẫn đang được sử dụng trên khắp nước Mỹ, thậm chí cho đến ngày nay. Đó là hành trình phơi bày mọi điều mà chính phủ Hoa Kỳ chưa từng và chưa bao giờ muốn phơi bày ra ánh sáng.

- Điều gì đã truyền cảm hứng cho ông viết về chiến tranh Việt Nam?

- Thực ra tôi chưa bao giờ nung nấu ý định trở thành nhà văn. Cuốn sách ra đời trong một hoàn cảnh gần như ngẫu nhiên. Điều tốt nhất tôi có thể làm gần nửa thế kỷ sau chiến tranh là viết lại “sự phản bội” mà chúng tôi nhận được khi bị buộc phải tiếp xúc với thuốc trừ sâu độc hại và những điều kiện khắc nghiệt của chiến tranh Việt Nam. Tất cả là nỗ lực đưa ra ánh sáng những gì đã xảy ra ở đó để chúng sẽ không bao giờ có khả năng lặp lại với các thế hệ quân nhân mới, với cả gia đình và con cháu họ, thậm chí là cả cháu chắt nữa.

Mùa Xuân Vắng Lặng - Mùa Thu Chết Chóc Của Chiến Tranh Việt Nam

Ban đầu, việc viết sách hay trở thành tác giả là điều xa vời trong tâm trí tôi. Tuy nhiên, ngay sau khi tôi từ Việt Nam trở về, cha tôi đã thúc giục tôi nộp đơn yêu cầu bồi thường khuyết tật lên Bộ Cựu chiến binh (DVA) vì những vấn đề y tế mà tôi gặp phải trong thời gian phục vụ quân ngũ. Tôi bắt đầu quá trình này không mấy nhiệt tình và nhanh chóng bị cuốn hút bởi cuộc sống dân sự mới.

Tôi không truy tầm lại chúng suốt nhiều thập kỷ, cho đến vào một ngày tháng 5 của năm 2012, sau khi xem Tổng thống Barack Obama phát biểu về sự khủng khiếp của Chiến tranh Việt Nam, thì điều gì đó trong con người tôi bất chợt “sống dậy”. Từ đó dấn thân nghiên cứu và điều tra mối liên hệ nhân quả giữa vô số vấn đề về sức khỏe và việc tôi bị phơi nhiễm chất độc màu da cam ở Việt Nam.

- Ông có thể chia sẻ về quá trình nghiên cứu của mình không? Đâu là khía cạnh thú vị nhất?

- Nghiên cứu của tôi kéo dài vài năm vì sự phức tạp của tất cả các hóa chất độc hại mà chúng tôi đã tiếp xúc và tương tác. Càng điều tra, tôi càng nhìn lại và cân nhắc tất cả những sinh mạng đã bị rút ngắn một cách không cần thiết - bị lấy đi, bị hủy diệt và chết dần mòn do việc sử dụng tràn lan thuốc trừ sâu. Tôi tức giận và quyết tâm hoàn thành cuốn sách.

Chúng tôi không chỉ bị phơi nhiễm chất độc màu da cam mà còn vô số hóa chất độc hại chết người. Thật đáng xấu hổ khi có biết bao nhiêu sinh mạng đã thiệt mạng trong nửa thế kỷ qua mà không ai biết sự thật về chúng. Một trong những điều hối tiếc lớn nhất của tôi là đã mất quá nhiều thời gian để thức tỉnh và viết cuốn sách này.

- Ông là một cựu trung sĩ. Điều này đã ảnh hưởng đến việc viết như thế nào?

- Việc là một sĩ quan cảnh sát và điều tra viên đã nghỉ hưu thực sự có ích trong giai đoạn nghiên cứu và viết nó ra. Thực ra, tất cả kinh nghiệm sống của tôi đều được phát huy trong quá trình viết sách.

- Về thuốc trừ sâu và thuốc diệt cỏ được sử dụng trong giai đoạn ấy, ông có nghĩ rằng tác động của chúng đã dần giảm đi trong những năm qua?

- Cuốn sách không chỉ thảo luận về các hóa chất đã được sử dụng ở Việt Nam mà còn về tất cả các loại thuốc diệt cỏ và thuốc trừ sâu độc hại được dùng trong chiến tranh nói chung. Thật không may, ngày nay hầu hết mọi người đều tin rằng chất độc màu da cam là loại thuốc trừ sâu duy nhất mà chúng ta bị phơi nhiễm. Sự thật là chiến tranh Việt Nam đã bị chính phủ biến thành một chiến dịch truyền thông sai lệch nhằm hạ thấp hoặc phớt lờ tất cả các hóa chất khác mà chúng ta đã tiếp xúc ở đó.

- Ông cũng trích dẫn nhiều thông điệp tích cực từ “Kinh Thánh”. Vì sao trong một nghiên cứu đầy cuồng nộ vẫn có những niềm hy vọng như thế?

- Đối với tôi, ở cả thời điểm này, tôi vẫn khó có thể hiểu được động cơ của tội ác ấy, cũng như sự vụ che giấu trong nhiều thập kỷ. Nhưng dù thế nào thì vẫn có ánh sáng trong ngày tăm tối. Hy vọng trong tương lai những hồ sơ này sẽ được tiết lộ, và tội ác sẽ không xảy ra thêm lần nào nữa với thế hệ quân nhân khác.

- Xin ông chia sẻ khía cạnh thách thức nhất khi viết cuốn sách này là gì?

- Đó là nỗi buồn cá nhân khi viết câu chuyện của Larry – bạn tôi, và quay lại khoảng thời gian tôi ở Việt Nam cũng như rất nhiều căn bệnh mà tôi đã mắc trong những năm qua.

Patrick Hogan

Hồ sơ chính thức của chính phủ Hoa Kỳ ghi nhận hơn 58.280 quân nhân Hoa Kỳ đã chết ở Việt Nam. Đó là thương vong cuối cùng của cuộc chiến đó. Ngoài ra, có trên 300.000 quân nhân được ghi nhận là bị thương và tàn phế. Tuy nhiên, những số liệu thống kê nghiêm túc đó lại không ghi nhận hàng chục nghìn binh sĩ, thủy quân lục chiến và thủy thủ đã thiệt mạng, bị thương và bị thương tật do thuốc trừ sâu sử dụng ở Việt Nam. Ai sẽ ghi lại sự hy sinh và cái chết của họ? Mặc dù tôi không mong đợi cuốn sách của mình sẽ thay đổi những số liệu thống kê, nhưng tôi hy vọng có thể giúp ích một phần nào đó cho thế hệ tương lai.

- Ông có bao giờ rơi vào tình trạng bị bí ý tưởng?

- Không. Bản thảo ban đầu của cuốn sách dài khoảng 400 trang, ngoại trừ câu chuyện của Larry và việc hồi tưởng lại thời gian tôi ở Việt Nam thì mọi việc diễn ra suôn sẻ.

- Ông có phải là một tác giả có kỷ luật hay có lịch trình cụ thể không?

- Tôi tự coi mình là một tác giả có kỷ luật, nhưng ngay cả vậy tôi cũng thường mang theo tập giấy và bút vì sẽ có những cảm hứng sẽ đến bất chợt. Đặc biệt là sau sự tương tác căng thẳng của tôi với Bộ Cựu chiến binh (DVA) và vòng xoay hành chính.

Đọc thêm nội dung sách: tại đây!

Đọc bài viết

Phía sau trang sách

Khán giả học – vai trò của người xem phim

Published

on

Kevin Goetz và Darlene Hayman nghiên cứu tâm lý người xem nhằm lý giải sự thành bại của các phim Hollywood, trong sách "Khán giả học".

Cuốn sách xuất bản trong nước, Phương Nam Book phát hành, đưa ra cách tiếp cận mới khi khảo sát những điều khán giả chờ đợi ở một bộ phim. Hai tác giả đi sâu vào bóc tách tâm lý của khán giả trong 10 chương, từ đó đưa ra sự đúc kết về tầm ảnh hưởng của người xem đối với điện ảnh.

Kevin Goetz cho rằng những lời góp ý, nhận xét sẽ làm thay đổi diện mạo phim. Phản hồi từ khán giả trong các buổi chiếu thử có thể giúp tác phẩm được quảng bá rộng rãi, thậm chí nâng cao chất lượng về mặt nghệ thuật lẫn doanh thu. Goetz lấy ví dụ: "Tờ giấy khảo sát sau khi xem phim có khối lượng chưa đến 100 gr, song lại mang sức mạnh tựa như cú móc hàm phải của võ sĩ Tyson".

Sách có đoạn: "Qua nhiều năm, các nhà nghiên cứu và những người dày dặn kinh nghiệm trong ngành công nghiệp điện ảnh đều biết rõ, thước đo then chốt cho mức độ hấp dẫn của bất kỳ bộ phim thương mại nào cũng được xác định bởi các điểm số xuất sắc và rất hay mà phim nhận được từ phản hồi của khán giả tham dự buổi chiếu thử".

Bìa sách Khán giả học, tựa gốc Audience-ology: How Moviegoers Shape the Films We Love. Tác phẩm dày 364 trang, do Thanh Vy biên dịch. Ảnh: Phương Nam Book
Bìa cuốn "Khán giả học", tên gốc "Audience-ology: How Moviegoers Shape the Films We Love". Sách dày 364 trang, do Thanh Vy biên dịch. Ảnh: Phương Nam Book

Trong sách, hai nhà nghiên cứu thuật lại quy trình của buổi chiếu thử, từ việc chọn khán giả dựa theo số liệu nhân khẩu học, tiêu chí chọn địa điểm công chiếu, đến những khoảnh khắc trong phim khiến người xem bật cười hay òa khóc. Goetz nhấn mạnh việc lấy khảo sát từ khán giả có thể giúp biên kịch, nhà sản xuất và đạo diễn lược bỏ chi tiết thừa hoặc thêm yếu tố mới, nhằm đẩy câu chuyện lên cao trào, đồng thời giúp phim đạt hiệu quả tốt nhất.

Những lý giải nhằm chứng minh công việc sáng tạo giống như trò chơi "đỏ đen" có tên là tâm lý học. Sau buổi công chiếu thử, tiếng vỗ tay, hò hét hay phản ứng khóc, cười từ khán giả có thể trở thành tín hiệu dự báo mức độ thành công.

Tác phẩm còn cho thấy nền điện ảnh không chỉ có bề dày lịch sử, các đạo diễn gạo cội, phim bất hủ, mà là một ngành khoa học phải đối mặt với nhiều thử thách. Goetz đưa chuyện thực tế trong các buổi chiếu thử phim nhằm giúp độc giả có cơ hội chứng kiến hậu trường Hollywood từ nhiều khía cạnh.

Goetz mời một số nhân vật nổi tiếng để chia sẻ trải nghiệm của họ với các buổi chiếu thử, gồm chủ hãng phim Blumhouse Jason Blum, đạo diễn Ron Howard và nhà sáng lập công ty Illumination Chris Meledandri. Theo Variety, sách cũng cung cấp góc nhìn về tác động của khán giả đối với bản dựng phim cuối trước khi công chiếu, như trong một số tác phẩm biểu tượng Fatal AttractionThelma & Louise và Cocktail.

Tác giả cuốn Khán giả học: Kevin Goetz (trái) và Darlene Hayman. Ảnh: Simon & Schuster
Tác giả cuốn "Khán giả học": Kevin Goetz (trái) và Darlene Hayman. Ảnh: Simon & Schuster

Khán giả học nhận nhiều ý kiến tích cực từ giới chuyên môn. Theo trang Goodreads, sách được viết với giọng văn hài hước, pha lẫn kịch tính và bất ngờ, mang đến cho độc giả cái nhìn mới về lịch sử điện ảnh. Trang tin tức A Frame của giải Oscar xếp tác phẩm là một trong những cuốn sách phải đọc về điện ảnh hiện đại.

Cựu chủ tịch hãng phim Sony Amy Pascal đánh giá tác phẩm gây ấn tượng khi mang đến câu chuyện ngoài lề thú vị ở Hollywood. "Tôi ước quyển sách này xuất hiện lúc tôi bắt đầu sự nghiệp trong ngành điện ảnh", Pascal cho biết trong một cuộc phỏng vấn.

Chủ tịch Sony Pictures Entertainment Motion Picture Group - Tom Rothman - nhận xét: "Thấu hiểu những gì khán giả thực sự nghĩ không phải là điều dễ dàng. Và Kevin là bậc thầy trong việc lắng nghe người xem, như những gì được tiết lộ trong quyển sách của anh".

Kevin Goetz là nhà sáng lập công ty nghiên cứu phim Screen Engine, có hơn 30 năm kinh nghiệm trong lĩnh vực điện ảnh. Anh cũng là thành viên của Viện Hàn lâm Khoa học Nghệ thuật Điện ảnh Mỹ, Hiệp hội các nhà sản xuất phim Mỹ. Sách đầu tay của Goetz Khán giả học ra mắt lần đầu năm 2021.

Darlene Hayman là nhà phân tích nghiên cứu thị trường phim ảnh ở Mỹ, cộng tác với Kevin Goetz hơn 15 năm. Cô nổi tiếng vì hỗ trợ các đạo diễn trong việc nắm bắt thị hiếu khán giả, góp phần tinh chỉnh tác phẩm trong giai đoạn cuối quá trình hậu kỳ.

Theo Vnexpress

Đọc bài viết

Phía sau trang sách

Cánh cửa mở vào nội tâm của Maupassant

Published

on

By

Cùng với Chekhov, Guy de Maupassant từ lâu đã được suy tôn là “bậc thầy của thể loại truyện ngắn”. Điều này không chỉ bởi văn phong độc đáo, mà còn nằm ở sự đa dạng về thể loại. Trong đó Horla và những truyện ngắn khác ra mắt gần đây chính là minh chứng cho nhận định này.

Tuy chỉ viết trong vỏn vẹn có 4 thập kỷ, nhưng những di sản mà Maupassant để lại là tương đối lớn. Ông nổi tiếng nhất với các tiểu thuyết cũng như truyện ngắn mang tính hiện thực, hài hước, lãng mạn, như những tập truyện Sáng trăng, Nơi nhà người bạn

Nhà văn nổi tiếng Guy de Maupassant

Nhưng ít người biết ông cũng bén duyên với thể loại kinh dị, và nó cũng truyền cảm hứng cho nhiều tác giả sau này, trong đó có H.P.Lovecraft với Lời hiệu triệu của Cthulhu. Vừa mới ra mắt trong thời gian qua, Horla và những truyện ngắn khác tập hợp 5 tác phẩm có màu sắc kinh dị, siêu nhiên, được Maupassant viết trải dài từ năm 1875 – 1890.

Trí tưởng tượng phong phú

Trong tập truyện Horla và những truyện ngắn khác, bạn đọc có thể thấy rõ 2 giai đoạn mà Maupassant tiến hành tiếp cận thể loại kinh dị. Trong 3 truyện ngắn được viết sớm nhất là Bàn tay bị lột da (1875), Hắn? (1883) và Nỗi sợ (1884), ta đơn thuần thấy đây là một tác phẩm ẩn chứa yếu tố siêu nhiên mà vị tác giả cố gắng khai thác.

Chúng đơn giản xoay quanh những nỗi ám ảnh mà các cá nhân yếu bóng vía hay là nhạy cảm thường cảm nhận được. Chẳng hạn như trong truyện Hắn?, một người đàn ông vì bị ám ảnh bởi một bóng ma trong căn phòng của mình mà đã cưới lấy một người vợ mới, hay ở Nỗi sợ, chỉ vì trên tuyến tàu lửa khi nhìn thấy có 2 người đàn ông xuất hiện trong khu rừng vắng, mà nhân vật chính bỗng dưng cảm thấy trong mình trỗi dậy nỗi sợ chỉ vì không thể lý giải được động cơ của câu chuyện ấy…

Horla và những truyện ngắn khác là tác phẩm mới từ Maupassant

Đây đều là các nhân vật hoàn toàn tỉnh táo, họ nhận thức được những gì xảy ra và khó có thể nói họ có vấn đề riêng về tâm lý. Và vì tính hiện thực đó, Maupassant qua các tác phẩm cũng gửi gắm được bài học của mình. Chẳng hạn trong truyện Bàn tay bị lột da, thông qua nhân vật Pierre B. – một sinh viên trường luật, người xuất thân từ một trong những gia đình danh giá nhất xứ Normandie – ông đã cho thấy chỉ vì chính thói hư vinh cũng như trưởng giả mà y đã mạo phạm đến một phần thân thể của vị phù thủy, từ đó phải chịu cái chết có phần đau đớn.

Hay trong Nỗi sợ, Maupassant cũng khẳng định “cùng với những điều siêu nhiên, nỗi sợ hãi đích thực đã biến mất khỏi hành tinh này, bởi con người ta chỉ thực sự sợ những gì nằm ngoài tầm hiểu biết của mình”. Câu nói này như đại diện cho tất cả những gì ông muốn nhắm tới, về sự nhỏ bé và đầy mông muội của con người với những kỳ bí chưa được lý giải.

Như vậy những tác phẩm này đều được viết bởi một Maupassant khách quan, đứng ở bên ngoài, từ đó đưa ra những lời lý giải hoàn toàn hợp lý. Thế nhưng ở 2 truyện sau là Horla viết năm 1887 và Ai mà biết được? viết năm 1890, thì ta lại thấy có phần ngược lại, khi chính nhà văn dường như không thể thoát được cái bóng của bản thân mình.

Bi kịch của Maupassant

Hai truyện ngắn này có được điểm chung khi nhân vật chính đều là người đàn ông rơi vào loạn trí. Nhân vật chính này đã từng không dưới một lần thừa nhận chính mình như có đến 2 bản thể cùng nhau tồn tại. Một bên kêu gào giữ lại lý trí, trong khi phía còn lại đòi hỏi rất nhiều hành động mang tính tàn phá.

Sự chia đôi này gợi ta nhớ đến trường hợp của bác sĩ Jekyll và ông Hyde tương đối kinh điển trong tác phẩm nổi tiếng của Stevenson. Như vậy chủ đề của Maupassant đã chuyển từ những nỗi sợ tương đối hữu hình thành ra vô hình và khó lý giải, khi được bao bọc bởi những vấn đề có liên quan đến thần kinh cũng như tinh thần.

Tình tiết của những câu chuyện cũng khó nắm bắt. Ở Ai mà biết được?, đó là một người gần như điên loạn bởi sự xuất hiện và rồi biến mất của những vật dụng ngay trong nhà mình một cách liên tục. Còn ở Horla, đó là một sinh vật gần như trong suốt, thứ được nuôi sống bằng sữa và nước, luôn luôn theo dõi vật chủ mà nó bám theo, từ đó khiến họ “sống không bằng chết”.

Maupassant và những ám ảnh tâm trí của bản thân mình

Theo Charlotte Mandell – dịch giả của truyện ngắn này cho nhà xuất bản Melville House, thì “horla” là từ ghép của “hors” (“bên ngoài”), và “la” (“ở đó”). Vì vậy “horla” có nghĩa là “người ngoài cuộc”, “người bên ngoài”, và có thể được dịch theo nghĩa đen là “cái gì ở ngoài đó”. Thế nhưng cũng có những lý giải khác, khi nhiều người xem đây là một sự kết hợp của cụm “hors-la-loi” (tức “ngoài vòng pháp luật”) và “horsain” (có nghĩa là “thứ lạ lùng”).

Thế nhưng dù có là gì, thì Maupassant như đang cảm nhận những nỗi ám ảnh đến từ sâu hơn và khó lý giải hơn. Xét về bối cảnh của chính tác giả, thì những truyện này tương đối trùng khớp với thời kỳ mà ông có những dấu hiệu đầu tiên của chứng điên loạn, khi ông xuất hiện nhân cách kép và ngày càng gặp nhiều ảo giác do bệnh giang mai. Một năm sau đó, vào năm 1891, ông có dấu hiệu của chứng hoang tưởng.

Có thể là bởi xuất phát từ những trải nghiệm chính ông kinh qua, nên 2 truyện này trở nên chân thật và đầy ám ảnh đối với người đọc. Nếu được viết từ một người tỉnh táo, thì đây chính là tài năng của sự tưởng tượng. Nhưng với Maupassant thì đó là nỗi đau và sự sợ hãi mà bản thân ông mong muốn giải bày thông qua việc viết.

Như vậy đi từ mục đích sáng tạo ở buổi ban đầu, Maupassant dần dần chuyển sang hành động kể lại điều đã trải qua, và làm sáng tỏ chứng bệnh tâm lý mà thời kỳ đó còn bị che khuất bởi những định kiến mà những quan điểm mang tính thủ cựu. Có thể nói Horla và những truyện ngắn khác không chỉ mở ra cánh cửa khám phá một Maupassant rất khác, mà có thể nói cũng đã góp phần giúp ta hiểu được những gì đã từng xảy đến với một trong những nhà văn lớn của nhân loại.

Anh Đoàn

Đọc bài viết

Cafe sáng