Trà chiều

“Tại sao cậu lại viết văn?”

Tôi luôn mệt mỏi với chính những suy nghĩ của mình. Tôi viết chỉ là một cách để giải thoát nó thôi.

Published

on

Tôi nhớ những buổi trưa quây quần với những cái xô. Xô đựng màu, xô đựng nước, xô đựng ly, xô đựng vĩ, xô đựng những chiếc cọ… có xô nào đựng nỗi cô đơn không? Nếu thế thì tôi sẽ tìm một cái muỗng thật lớn. Không, nhỏ thôi cũng được và sau đó tôi sẽ chậm rãi múc nó khỏi người mình rồi bỏ vào cái xô ấy mà mang đi cất ở đâu đó. Y như cách người ta múc canh từ trong chiếc nồi lớn vào chén nhỏ. Chỉ có điều khác biệt ở đây là tiến trình của tôi thì ngược lại.

Những hộp màu. Bao giờ mở ra chúng cũng dấy lên một mùi. Có lẽ đó giống như mùi sữa chua, thứ sữa chua của loại yaourt mà ai đó trót quên bỏ vào tủ lạnh để giữ cho nó tươi và người đó cũng quên cả việc ăn nó. Mà không, có lẽ người đó cố tình không ăn vì yaourt để lâu rồi làm sao mà ăn được. Không ai tự dưng muốn ôm một cơn đau bụng vào người mình cả. Nếu là tôi buộc phải chọn lựa, tôi cũng không dám chắc mình có ăn nó không? Tôi sẽ níu giữ lại những thứ mà mình đã cố quên đi sự tồn tại của nó, để rồi bây giờ đang nhớ thương nó hay cứ tiếp tục cố gắng tập quên đi? Đôi khi, đau bụng cũng không phải là chuyện xấu. Và nếu tôi cứ ôm hết cơn đau bụng này đến cơn đau bụng kia thì chắc nó cũng là một điều tốt.

“Khi tô màu như thế này, các em cảm thấy relax lắm phải không? Bận rộn, mệt mỏi làm việc mà tô màu xem như cũng thư giãn được nhiều lắm đó.”

Thầy ấy nói như thế. Và tôi thấy nhớ vô cùng những buổi trưa quây quần với mùi sữa chua đó. Những hộp màu. Vì chúng đã cũ kĩ nên mới có mùi sữa chua. Tôi luôn mệt mỏi với chính những suy nghĩ của mình. Tôi viết chỉ là một cách để giải thoát nó thôi.

“Tại sao cậu lại viết văn?”

Một ngày, đột nhiên có ai đó nhắn cho tôi một cái tin như vậy. Tại sao? Lâu lắm rồi không có người hỏi tôi câu này. Tôi cứ miệt mài viết từ ngày này qua tháng nọ. Có lúc, chính việc viết lại làm tôi thấy mệt mỏi hơn. Tôi muốn ngưng nhưng rồi tôi đã tiếp tục viết. Cứ thế mà đã được 10 năm rồi. Từ lúc tôi còn là một con bé học lớp 5 ghét văn trong trường rồi lủi thủi về nhà tự viết truyện không cần thầy cô nào chấm điểm cho đến bây giờ là một con bé vừa học khoa báo chí suốt ngày giằng co giữa tư tưởng báo với văn. Ừ, 10 năm. Tôi vẫn viết từ đó đến giờ. Hồi cấp 2, khi về quê, nội hỏi tôi: “Ước mơ của con là gì?”. “Con muốn trở thành một nhà văn”. “Nhà băng hả? Mày muốn làm ở ngân hàng giống chị mày hả?”. “Không nội. Nhà văn”. Tôi không biết là do thính giác của người già, do tôi nói nhỏ hay do nội không tin vào những gì tôi nói mà nội hỏi câu đó lại đến mấy lần. Cuối cùng thì nội bật cười. Tôi không thể nào quên cái cười của nội lúc đó rồi sau đó nói lớn với mọi người: “Nó muốn trở thành nhà văn đấy”. Mọi người cũng nhìn tôi cười. Những cái cười đó, nó nhẹ nhàng thôi. Ừ, thế mà bây giờ tôi vẫn nhớ. Tôi cũng không rõ mình nhớ điều gì. Âm điệu nụ cười, khuôn mặt họ chắc chắn là tôi không thể nhớ. Nhưng tôi nhớ cảm giác của mình lúc ấy là nhận ra được mọi người hình như xem nhẹ ước mơ của tôi. Họ không tin là tôi có nó. Nếu là hồi đó, có ai hỏi tôi câu sao lại muốn viết văn, chắc tôi sẽ trả lời những câu rất đao to búa lớn vì lúc ấy tôi suy nghĩ mọi thứ ngây thơ theo cách của một con bé học lớp 6. Năm tháng dần qua, câu trả lời sẽ dần khác. Có lúc thì tôi sẽ nói vì nó là ước mơ, nó là đam mê, vì tôi muốn sáng tạo nên một thế giới mới, vì tôi muốn là Thượng đế trong thế giới đó, tôi muốn tôi có quyền cho ai sống thì sống, cho ai chết thì chết, tôi muốn viết tiếp những câu chuyện dang dở ở ngoài đời thật của mình… vân vân và vân vân. Nhưng bây giờ, đi hết 2 năm mệt mỏi, sống trong môi trường của những người yêu báo chí, thấy cái cách người ta nghĩ về văn chương như thế nào, nhìn bạn bè đồng trang lứa với mình đa phần thích đọc loại sách văn học gì, cái gu thẩm mĩ của số đông các bạn trong lớp khác với tôi ra sao…vân vân và vân vân…suy nghĩ của tôi đã khác đi nhiều.

“Để dập tắt tiếng nói trong đầu của tớ.”

Phải. Bây giờ tôi viết văn chỉ đơn giản là như thế. Tiếng nói trong đầu tôi quá hiều. Tôi muốn nó im lặng. Nếu không thể dập tắt nó bằng thuốc ngủ, bằng một giấc ngủ dài thì chỉ còn cách viết ra nó. Khi nó nằm trên màn hình máy tính, nó sẽ không còn ở trong đầu tôi nữa, hoặc một phần nó thoát hơi ra khỏi tôi.

Những buổi trưa đó đã chấm dứt rồi.

Bây giờ, tôi biết tôi sẽ không còn có cái cớ cho mình vẽ hay tô màu vào mỗi trưa nữa. Sẽ lại là những tháng ngày như lúc trước.  Tôi yêu công việc tô màu hay là chỉnh sửa trên PS vì khi làm nó, tôi có thể nghe nhạc được. Thật kì lạ là người ta nói phụ nữ có thể cùng lúc làm nhiều việc nhưng tôi thì chỉ có thể làm được mỗi lúc một việc. Vừa tô màu/chỉnh sửa PS vừa nghe nhạc là thứ duy nhất tôi có thể làm cùng lúc. Lúc trước, tôi vẫn thường hay tô màu khi nghe nhạc của Joe Hisaishi. Bây giờ, tôi tô màu khi nghe nhạc của Yiruma. Đã hơn 1 năm rồi tôi không nghe nhạc của Joe. Tôi mới chuyển qua nghe nhạc của Yiruma từ hồi hè vì đột nhiên cảm thấy muốn nghe nhạc của ông ấy nhưng hình như cũng một phần vì tôi đang muốn trốn tránh Joe…Trốn cái giai điệu buồn giống như được viết lên từ một buổi hoàng hôn của Nostalgia, giống như được viết lên từ một đêm không ngủ rồi mọi cảm xúc chợt bừng lên của White night, hay là hình ảnh một người đàn ông hối hả chạy qua mùa hè, mùa thu, mùa đông mà vẫn không thể bắt kịp được mùa xuân trong Haru no ugoku shiro…Tôi nhớ Joe Hisaishi. Đột nhiên thấy nhớ ông nhiều quá.

“Đừng có ennnndure nhiều quá”

“Trời ơi! Vừa rồi tôi phải endureeeeee quá nhiều.”

“Ennnndureeee”

Endure. Endure. Endure.

Một người bạn năm cấp 3 của tôi rất thích nói chữ “endure”. Với tôi, điều đó đã trở thành đặc trưng của cô ấy. Thay vì nói “chịu đựng”, cô ấy luôn nói “endure”. Tôi lấy làm lạ vì trước đó và ngay cả bây giờ, tôi vẫn không gặp được một ai yêu thích chữ “endure” như cô ấy. Chưa bao giờ thú nhận nhưng tôi biết cô ấy nghiện chữ đó. Tôi thích cái cách tùy vào từng trường hợp mà cô kéo dài chữ “en” hay là chữ “dure”. Nhưng thông thường, cô sẽ kéo dài chữ “dure”. Nếu gặp những người gửi bài cộng tác cho chuyên mục “Tiếng nước tôi” của báo Tuổi Trẻ hay là những người học khoa ngôn ngữ…tôi dám chắc họ sẽ không thích và nói cô “vọng ngoại”. Hoặc là họ sẽ dùng chữ khác nhưng nói chung đều là giống như cái cách họ đã viết trên báo để phê phán những người trẻ bây giờ hay chêm tiếng nước ngoài. Không. Với tôi, đó không phải là sinh ngoại. Đó cũng là một dạng thức mà tâm hồn cô biểu lộ ra ngoài bằng lời nói. Chữ “endure” không phải là một chữ tiếng Anh thông dụng mà những bạn trẻ hồi đó và cả bây giờ nói. Phải có một cơ chế gì đó trong tâm hồn khiến cô không nói “chịu đựng” mà nói “endure”. Có phải là một điều gì đó đã bị méo mó đi không? Tôi nhớ quá. Nhớ cái âm điệu, khuôn mặt của cô khi nói “endure”. Mỗi lần cô động viên tôi, cô nói tôi đừng “endure” quá nhiều. Chỉ cần nghe cái âm tiết đó thôi, tôi đã cảm thấy mình có thể vượt qua nỗi buồn hiện tại. Đã lâu rồi tôi không gặp cô. Mới đó mà đã ba năm rồi. Tôi muốn lại nghe cô nói chữ “endure” như lúc trước. Nhưng có lẽ, bây giờ đã có quá nhiều chuyện xảy ra với cô. Có thể cô sẽ không còn kéo dài nó hay là nói với âm điệu như lúc trước nữa. Mà cũng có thể bây giờ cô đã hoàn toàn bỏ thói quen nói chữ “endure” đó rồi. Có thể cô đã nói “chịu đựng” chăng? Khi nghĩ như vậy, bất giác tôi thấy buồn. Đáng lẽ, với tư cách của một người có sở thích viết văn, tôi phải thấy vui vì như thế nghĩa là cô “giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt”, cô không còn “sính ngoại” nữa. Ừ, đáng lẽ phải thế đấy. Vậy mà tôi thấy buồn và ước mong cô vẫn còn giữ chữ “endure” đó.

Nếu cô không giữ, tôi cũng đã là người cất giữ chữ ấy thay cô rồi.

Cô có còn nhớ không…đã từng có lúc cô rất thích nói endure?

Tôi đã bị cô lây nhiễm. Tô vô thức nói “endure” thay chữ chịu đựng lúc nào không hay. Mãi khi có người hỏi nó nghĩa là gì tôi mới giật mình, chữ “chịu đựng” của mình đâu mất rồi? Chữ endure khi kéo dài “dure” thật sự cho tôi có cảm giác từ âm tiết nó đã mang cảm giác chịu đựng nhưng đồng thời nó cũng khiến cho sự chịu đựng ấy như nhẹ nhàng hơn thì phải. Tôi đã nghiện dùng chữ “endure” ấy một thời gian dài. Tôi đã nghĩ rằng mình sẽ mãi dùng nó. Vậy mà cũng rất vô thức, chữ ấy đã lại biến mất khỏi lời nói của tôi lúc nào không hay. Tôi lại dùng chữ chịu đựng. Tôi không còn có thể nói “endure” kéo dài vừa ra vẻ khổ sở vừa hài hước như cô nữa.

Tôi nhớ. Nhớ lắm.

Nhớ endure. Nhớ cô.

“Endureeee”

Nếu có một ngày nào đó tình cờ gặp lại cô, không cần biết nội dung trong câu nói của cô là gì, bằng cách này hay cách kia, tôi lại muốn cô nói chữ ấy cho tôi nghe.

Với ý nghĩ đó, tôi bỗng thấy mình có chút tàn nhẫn. Chữ “endure” luôn gắn với những điều không vui vẻ mà. Tại sao tôi lại muốn người bạn của mình phải chịu đựng một điều gì đó…? Không được.

Tạm biệt những hộp màu mùi sữa chua.

Cuối cùng, chẳng có một chiếc xô nào cho tôi cả nên tôi tự “endure” với mớ màu sắc lộn xộn trong người mình.

Hết.

Freegene


Những bài viết có cùng chủ đề


1 Comment

1 Bình luận

  1. Pingback: Văn chương & Toán học: Vì sao chẳng dễ dàng chinh phục cả hai lĩnh vực? – Bookish

Viết bình luận

Your email address will not be published. Required fields are marked *

Trà chiều

Sài Gòn – Hồi sinh từ ký ức, vươn mình đến tương lai

Từ ngày 1/7/2025, cái tên “Sài Gòn” chính thức trở lại trên bản đồ hành chính Việt Nam. Đây không phải là tên thành phố, mà là tên của một phường trung tâm thuộc TPHCM. Một sự thay đổi tưởng chừng kỹ thuật, hành chính, nhưng lại gợi lên những suy tư lớn hơn: về ký ức đô thị, về cách chúng ta gọi tên một vùng đất và về hướng đi của tương lai giữa dòng chảy đổi mới.

Published

on

Từ nay, người dân sẽ phải làm quen với những tên gọi mới, địa giới mới và cả cách quản lý mới. Nhưng giữa tất cả những đổi thay ấy, cái tên “Sài Gòn” không trở lại như một nỗi hoài niệm, mà như một sợi chỉ đỏ âm thầm nối liền ký ức và hiện tại: bền bỉ, lặng lẽ nhưng chưa từng đứt đoạn. Một cái tên chưa bao giờ mất đi trong tâm thức người dân, nay được trả về đúng vị trí của nó: chính danh và được ghi nhận.

Tên cũ hồi sinh, đô thị vươn mình

Không chỉ hiện diện trong ký ức của hàng triệu người dân, Sài Gòn còn là mạch nguồn cảm hứng bất tận cho nhiều thế hệ người viết, người sáng tác. Trong đó, có thể kể đến tác giả Phạm Công Luận - một cây bút gắn bó lâu năm với Phương Nam Book và được xem là người dành trọn tâm huyết để viết về Sài Gòn. Gần như mỗi năm, ông lại cho ra đời một tác phẩm mới, nhưng điều đặc biệt là dù đã viết rất nhiều năm, rất nhiều sách, ông vẫn luôn tìm ra được những góc nhìn mới, tinh tế và giàu cảm xúc về vùng đất này.

Từ Sài Gòn ngoảnh lại trăm năm, Hồi ức Phú Nhuận,đến Có một thời ở Chợ LớnMade in Sài Gòn - hai tác phẩm vừa được phát hành đầu năm nay, những trang viết của ông như một hành trình gom nhặt lại những ký ức xưa cũ về Sài Gòn. Chính những tác phẩm ấy là bằng chứng cho thấy: Sài Gòn không chỉ tồn tại trên bản đồ, mà sống động trong văn hóa, tâm tưởng và cả trong từng chi tiết đời sống hàng ngày của người dân.

Bởi vậy, khi cái tên “Sài Gòn” trở lại trong một vị trí hành chính cụ thể, đó không đơn thuần là sự phục dựng danh xưng, mà là sự thừa nhận giá trị văn hóa, tinh thần mà vùng đất này đã và đang mang trong mình. Nhưng câu chuyện không chỉ dừng ở ký ức hay bản sắc. Việc sáp nhập, thay đổi đơn vị hành chính lần này còn là một phần trong chiến lược cải tổ toàn diện, nhằm nâng cao hiệu quả quản lý, tinh gọn bộ máy và hướng đến một đô thị hiện đại.

Bởi vậy, mô hình hành chính mới không đơn thuần là tinh gọn bộ máy, mà còn là cơ hội để đẩy mạnh ứng dụng công nghệ, hiện đại hóa quản lý, nâng cao chất lượng dịch vụ công và cuộc sống người dân. Đây là một phần trong chiến lược phát triển bền vững, toàn diện và hội nhập sâu rộng mà Việt Nam đang theo đuổi. Và để chiến lược đó đi vào thực tế, không thể thiếu sự góp sức của mỗi cá nhân - những người đang sống, làm việc, học tập và trực tiếp cảm nhận từng thay đổi nhỏ nhất trong đời sống hàng ngày.

Đổi mới không chỉ đến từ chính sách, mà bắt đầu từ chính chúng ta - những người kiến tạo nên diện mạo mới cho đô thị mỗi ngày.

Thế hệ trẻ giữ vai trò tiên phong trong hành trình đổi mới

Đổi mới không phải là khẩu hiệu treo tường, mà là từng hành động cụ thể mỗi ngày: một sinh viên chọn học thêm kỹ năng mềm; một kỹ sư chủ động cập nhật công nghệ mới; một giáo viên thay đổi cách giảng dạy để học sinh dễ tiếp cận tri thức hơn. Con đường học vấn không chỉ là hành trang cá nhân, mà còn là cách mỗi người góp phần xây dựng quốc gia trong thời đại tri thức. Như lời Tổng Bí thư Tô Lâm đã nói: “Mỗi ngày làm việc là một ngày kiến tạo”. Và với người trẻ hôm nay, sự kiến tạo ấy chính là học tập, là tư duy phản biện, là sự dấn thân vào hành trình đổi mới - không chỉ để thay đổi bản thân, mà còn để thay đổi xã hội.

Những thay đổi ấy đang diễn ra ở khắp nơi: từ miền núi, hải đảo xa xôi đến các đô thị trung tâm hay những vùng sáp nhập mới. Và câu chuyện của Sài Gòn hôm nay - một địa danh cũ trở lại trong hình hài hành chính mới chỉ là một lát cắt trong bức tranh cải tổ rộng lớn mà cả nước đang cùng nhau vẽ nên.

Tên gọi có thể đổi. Địa giới có thể gộp. Nhưng khát vọng vươn lên, ý chí tự cường và tinh thần làm chủ vận mệnh thì vẫn còn nguyên vẹn, thậm chí mạnh mẽ hơn bao giờ hết.

Sài Gòn hôm nay đang bước vào một hành trình mới: hành trình của hiện đại, của tinh gọn, của đổi mới. Nhưng trên hết, đó là hành trình mà trong đó, người dân không chỉ là đối tượng của thay đổi, mà là chủ thể kiến tạo.

Một cái tên trở lại. Và cả một thời đại mới - bắt đầu.

Thùy Dương

Đọc bài viết

Trà chiều

Tết Đoan Ngọ ở Việt Nam có gì khác các nước đồng văn?

Published

on

Mỗi năm vào ngày mùng 5 tháng 5 âm lịch, Việt Nam và các nước đồng văn như Trung Quốc, Hàn Quốc và Nhật Bản lại cùng nhau chào đón một dịp lễ truyền thống mang đậm dấu ấn văn hóa phương Đông: Tết Đoan Ngọ. Dù tên gọi và nghi lễ có phần khác biệt, ngày lễ này đều gắn liền với ý nghĩa thanh lọc cơ thể, xua đuổi bệnh tật và bảo vệ sức khỏe trong thời khắc giao mùa quan trọng của năm. Từ bữa cơm "diệt sâu bọ" của người Việt, tục uống rượu hùng hoàng ở Trung Quốc, đến gội đầu và xông hơi bằng thảo dược ở Hàn Quốc; Tết Đoan Ngọ không chỉ phản ánh đời sống tâm linh mà còn cho thấy sự giao thoa và phát triển đa dạng của các nền văn hóa Á Đông.

Nguồn gốc và tục lệ Tết Đoan Ngọ ở Việt Nam

Ở nước ta, Tết Đoan Ngọ được dân gian gọi bằng một cái tên dân dã: Tết diệt sâu bọ vì người ta tin rằng khi ăn món đầu tiên trong ngày này thì sâu bọ, giun sán trong người sẽ bị chết hết. Theo nhà nghiên cứu văn hóa Trần Ngọc Thêm, ngày Tết này của Việt Nam có nguồn gốc chung với các dân tộc Bách Việt sinh sống ở khu vực Nam Trung Hoa và Bắc Đông Dương. Đây là vùng canh tác lúa nước lâu đời, nơi khí hậu mùa hè nóng bức ảnh hưởng xấu đến sức khỏe con người. Tuy nhiên, nhờ vào kinh nghiệm quan sát thời tiết để canh tác, người dân nơi đây đã hình thành nên Tết Đoan Ngọ như một nghi lễ nhằm thích ứng và tận dụng quy luật tự nhiên trong chu kỳ khí hậu hàng năm. 

Đặc biệt hơn, đây còn là ngày mang tính biểu tượng của ngày giỗ Quốc Mẫu Âu Cơ - ngày vô cùng quan trọng trong đời sống văn hóa tâm linh của mỗi người dân Việt. Ca dao ông cha ta có câu: Tháng Năm ngày tết Đoan Dương/ Là ngày giỗ Mẹ Việt Thường Văn Lang.  

Theo truyền thống của dân tộc Việt, người dân ăn tết Đoan Ngọ bằng sự cúng lễ. Tại các làng xã có lễ thần tại đình, đền; ở thôn, xóm có cúng tại miếu còn trong mỗi gia đình, mâm cỗ được dâng lên tổ tiên. Vì đây là thời điểm tiết trời nắng gắt nhất trong năm (Cực Âm – tiết Hạ chí), nên các món ăn thường là đồ nguội, mát mang tính hàn. Những món không thể thiếu trong mâm cỗ cúng Tết Đoan Ngọ ở khắp 3 miền là rượu nếp (cơm rượu) và trái cây. Trái cây được chọn có hình tròn như vải, mận (miền Nam gọi là mận bắc), hạt sen (làm chè). 

Ngoài ra, ẩm thực Tết Đoan Ngọ cũng có nhiều điểm khác nhau ở 3 miền. Miền Bắc thường có bánh gio trên bàn cúng, từ Thanh Hóa vào đến Huế thường nấu xôi ăn với thịt vịt. Người dân từ Đà Nẵng đến Quảng Ngãi thường cho trẻ nhỏ vào vườn hái quả ăn, một số ít gia đình nấu xôi chè cúng lễ. Trong khi đó, người nông dân miền Nam thường đúc bánh lọt, nấu chè trôi nước và xôi gấc cúng tổ tiên rồi cả nhà quây quần cùng nhau ăn. Với tư duy tiếp biến làm mới cách chế biến, trang trí, phong vị các món chay truyền thống cùng mong muốn giao thoa ẩm thực 3 miền, bạn có thể tham khảo công thức món chè trôi nước tam sắc trong cuốn Thanh tịnh mâm cỗ Việt của hai tác giả Hồ Đắc Thiếu Anh Nguyễn Hồ Tiếu Anh.

Nguồn gốc và tục lệ Tết Đoan Ngọ ở Trung Quốc 

Khác với Việt Nam, ý nghĩa ngày tết Đoan Ngọ của người Trung Hoa gắn với tích về ông Khuất Nguyên nước Sở cuối thời chiến quốc. Là một nhà thơ và chính trị gia nước Sở, ông nổi tiếng vì lòng yêu nước và tài văn chương. Sau khi bị vu cáo và thất sủng, ông sống trong đau khổ và sáng tác thiên "Ly Tao" thể hiện nỗi lòng. Những ngày cuối đời, ông bị đày đến Giang Nam, rồi trong tuyệt vọng, đã tự vẫn bằng cách ôm đá nhảy xuống sông Mịch La. Theo truyền thuyết ấy, hàng năm người ta tổ chức ngày mồng 5 tháng 5 là ngày Tết Đoan Ngọ để tưởng nhớ ông. 

Cũng theo tích trên, sau khi Khuất Nguyên trầm mình xuống sông Mịch La, người dân Trung Quốc xưa đã tổ chức chèo thuyền ra cứu ông nhưng không thành. Từ đó, truyền thống đua thuyền rồng vào ngày Tết Đoan Ngọ ra đời để tưởng niệm ông. Ngoài ra, người Trung Quốc còn giữ nhiều phong tục đặc trưng trong dịp lễ này như đeo túi thơm để xua đuổi tà ma, hái thuốc, hái trà và tổ chức lễ hội rước rồng ở một số vùng dân tộc thiểu số như người Mèo.

Hoạt động đua thuyền rồng trong ngày Tết Đoan Ngọ

Về ẩm thực, người Trung Quốc ăn bánh ú (zongzi) với nhiều loại nhân tùy vùng như thịt, đậu xanh, long nhãn, trứng muối hay bột dẻ…và uống rượu hùng hoàng - một loại rượu có pha khoáng chất màu vàng, được tin là có thể xua đuổi sâu bọ và tà khí.

Nguồn gốc và tục lệ ở Hàn Quốc 

Còn tại xứ sở kim chi, ngày Tết Đoan Ngọ được biết đến với tên gọi Dano (단오) hay Surinal (수릿날). Ở đây, “Suri” có nghĩa là “Thần”, là “cao”, tức là vị thần tối cao, ám chỉ mặt trời. Tết Đoan Ngọ báo cho mọi người biết ánh nắng chói chang của mùa hè sắp lan tỏa khắp nơi, cây cối hoa màu cũng sắp tới thời điểm sinh trưởng tốt tươi nhất trong năm. Người ta tổ chức các hoạt động ăn chơi nhằm tượng trưng cho sức mạnh và sự cường tráng, cầu nguyện cho mùa màng bội thu không bị sâu bệnh phá hoại.

Phong tục tập quán truyền thống tiêu biểu nhất của Hàn Quốc trong ngày Tết Đoan Ngọ là đấu vật truyền thống Ssireum. Trước kia, người giành chiến thắng trên sân đấu vật thường được thưởng một con bê. Vào ngày Tết Đoan Ngọ xa xưa, phụ nữ thường kéo nhau ra suối gội đầu bằng nước lá cỏ Thạch Dương Bồ, rồi chơi đánh đu. Đến cả các cô gái đài các giới thượng lưu ngày thường chỉ quanh quẩn trong dinh thự, nhưng tới Tết Đoan Ngọ cũng được cha mẹ cho phép ra ngoài ngắm cảnh.

Bánh Suritteok và Yaktteok là hai loại bánh truyền thống làm từ gạo, các loại hạt và lá cây được người Hàn thưởng thức trong ngày 5/5 này. Nếu như bánh Suritteok chỉ đơn giản là chiếc bánh ngải cứu hình bánh xe thì những chiếc bánh Yaktteok đa dạng hơn khá nhiều. Cũng được làm từ gạo không dính nấu chín nhưng không phải với lá ngải cứu mà với các loại hạt khác nhau và tạo thành những hình dáng phong phú.

Như vậy, không chỉ là dịp đánh dấu bước chuyển quan trọng trong chu kỳ mùa vụ và thời tiết, Tết Đoan ngọ còn là tấm gương phản chiếu bản sắc văn hóa riêng của các quốc gia Á Đông. Dù cùng chung cội nguồn từ nền văn minh nông nghiệp lúa nước và chịu ảnh hưởng của triết lý phương Đông, mỗi dân tộc lại sáng tạo nên những phong tục, nghi lễ mang màu sắc riêng. Việc tiếp nối và gìn giữ các giá trị này không chỉ giúp mỗi dân tộc lưu giữ ký ức văn hóa truyền thống, mà còn góp phần tạo nên sự đa dạng và sâu sắc trong di sản tinh thần chung của khu vực.

Hà Nhi

Đọc bài viết

Trà chiều

Phía sau Ngày của Mẹ: Câu chuyện lịch sử bị lãng quên

Published

on

Ít ai biết rằng, Ngày của Mẹ khởi nguồn như một phong trào của những người phụ nữ mong muốn mang lại cuộc sống tốt đẹp hơn cho người dân Mỹ. Nguồn gốc bị lãng quên ấy xuất phát từ hai nhà hoạt động suốt đời cống hiến những nỗ lực cải thiện y tế, phúc lợi và hòa bình. Hiểu về lịch sử Ngày của Mẹ - để thêm trân trọng và tìm thấy cảm hứng từ đó.

Ai là người sáng lập ra Ngày của Mẹ?

Việc tạo ra một ngày lễ quốc gia dành riêng cho mẹ phần lớn là công lao của ba người phụ nữ: Julia Ward Howe, Ann Reeves Jarvis, và con gái của Ann - Anna M. Jarvis.

Ann Reeves Jarvis

Được nhiều người gọi trìu mến là “Mẹ Jarvis”, Ann Reeves Jarvis là một người nội trợ trẻ sống ở vùng núi Appalachian, từng giảng dạy trong lớp học Kinh Thánh mỗi Chủ nhật. Nhưng bên cạnh đó, bà còn là một nhà hoạt động xã hội suốt đời. Vào giữa thế kỷ 19, bà đã tổ chức các “Câu lạc bộ hành động của những người Mẹ” (“Mothers’ Day Work Clubs”) tại West Virginia nhằm chống lại điều kiện sống mất vệ sinh nghiêm trọng lúc bấy giờ. Mẹ Jarvis lo lắng trước tỷ lệ trẻ sơ sinh tử vong quá cao - thậm chí trở nên tràn lan tại khu vực này, đồng thời mong muốn hỗ trợ và giáo dục các bà mẹ đang gặp khó khăn nhất.

Trong thời kì nội chiến Hoa Kỳ, bà tiếp tục tổ chức các đoàn phụ nữ, khuyến khích họ cùng giúp đỡ, bất kể chồng con họ đang đứng về phe nào. Sau chiến tranh, bà đề xuất tổ chức một “Ngày tình thân của những người Mẹ” (Mothers’ Friendship Day) - với hy vọng hàn gắn những rạn nứt giữa các gia đình từng đứng ở hai chiến tuyến: Liên minh miền Nam và Liên bang miền Bắc.

Julia Ward Howe

Julia Ward Howe là một nhà thơ và nhà cải cách nổi tiếng. Trong thời kỳ Nội chiến, bà tình nguyện làm việc cho Ủy ban Vệ sinh Hoa Kỳ, góp phần mang lại môi trường sạch sẽ cho các bệnh viện và đảm bảo điều kiện vệ sinh trong việc chăm sóc thương binh, bệnh binh. Năm 1861, bà sáng tác bài thánh ca nổi tiếng của thời Nội chiến – “The Battle Hymn of the Republic”, lần đầu được phát rộng rãi vào tháng 2 năm 1862. 

Khoảng năm 1870, Julia đã kêu gọi tổ chức riêng một “Ngày của Mẹ vì hòa bình” (“Mother’s Day for Peace”) để tôn vinh hòa bình và chấm dứt chiến tranh. Trong bản “Tuyên ngôn Ngày của Mẹ” (“Mother’s Day Proclamation”) do bà viết, Julia cảm thấy rằng chính những người mẹ - những người phải gánh chịu và thấu hiểu cái giá phải trả của chiến tranh - cần phải cùng nhau lên tiếng chống lại sự tàn khốc và sự phí hoài cuộc sống vì súng gươm. 

“Ngày của Mẹ” theo góc nhìn của Julia từng được tổ chức tại Boston và một vài nơi khác trong khoảng 30 năm nhưng nhanh chóng biến mất vào những năm trước Thế chiến thứ nhất.

Không có gì mới mẻ diễn ra trong phong trào này cho đến năm 1907, khi cô Anna M. Jarvis ở Philadelphia tiếp tục giương cao ngọn cờ ấy. 

Anna M. Jarvis

Sau khi mẹ qua đời vào năm 1905, cô Anna M. Jarvis ở Philadelphia đã ấp ủ ước nguyện tưởng nhớ cuộc đời đầy cống hiến của mẹ mình. Cô bắt đầu vận động một ngày lễ toàn quốc nhằm tôn vinh tất cả những người mẹ. “Tôi hy vọng và cầu nguyện rằng rồi sẽ có ai đó, vào một lúc nào đó, lập nên một ngày tôn vinh mẹ - để ghi nhận những cống hiến vĩ đại mẹ dành cho nhân loại trong mọi khía cạnh của cuộc sống,” Anna từng khẳng định - “Mẹ xứng đáng với điều đó.” 

Ý tưởng của Anna không xoay quanh những công việc xã hội như mẹ cô từng theo đuổi, mà thiên về việc tôn vinh vai trò thiêng liêng của người mẹ và những hy sinh thầm lặng trong mái ấm gia đình. Cô không ngừng gửi điện tín, thư từ, và gặp gỡ trực tiếp các nhân vật có tầm ảnh hưởng cũng như các tổ chức xã hội để thuyết phục họ ủng hộ. Dù tổ chức lớn hay nhỏ, cô đều kiên trì gửi thư trình bày ý tưởng của mình. Bằng chính tiền túi, Anna viết, in và phát hành hàng loạt tập sách ca ngợi Ngày của Mẹ.

Vì sao Ngày của Mẹ ở Mỹ lại rơi vào tháng 5?

Tháng 5 năm 1907, Anna tổ chức buổi lễ tưởng niệm để tưởng nhớ hành trình hoạt động không ngơi nghỉ của mẹ tại nhà thờ Giám Lý ở Grafton, West Virginia – nơi bà từng giảng dạy. Một năm sau, vào ngày 10 tháng 5, một buổi lễ chính thức nhân Ngày của Mẹ được tổ chức tại chính nhà thờ đó, lần này để vinh danh tất cả những người mẹ. Từ đây, ý tưởng dành riêng Chủ nhật thứ hai của tháng 5 để tôn vinh mọi người mẹ - dù còn sống hay đã khuất - bắt đầu hình thành.

Nỗ lực của Anna dần gây được sự chú ý. Thị trưởng Philadelphia là người đầu tiên tuyên bố tổ chức Ngày của Mẹ tại địa phương. Từ đó, Anna tiếp tục hành trình vận động ở thủ đô Washington, D.C. Các chính trị gia ở đây nhanh chóng nhận thấy đây là một đề xuất đáng giá và bày tỏ sự ủng hộ công khai.

West Virginia là bang đầu tiên chính thức công nhận ngày này. Sau đó, nhiều bang khác cũng làm theo. Việc các bang liên tiếp đưa ra tuyên bố công nhận Ngày của Mẹ đã dẫn đến việc Hạ nghị sĩ J. Thomas Heflin (bang Alabama) và Thượng nghị sĩ Morris Sheppard (bang Texas) cùng đệ trình một nghị quyết lên Quốc hội nhằm công nhận Ngày của Mẹ là ngày lễ trên toàn quốc. Cả hai viện của Quốc hội đều thông qua nghị quyết.

Đến năm 1914, Tổng thống Woodrow Wilson đã ký ban hành đạo luật chính thức công nhận Chủ nhật thứ hai của tháng 5 là ngày lễ quốc gia với tên gọi “Ngày của Mẹ” - dành riêng cho “người mẹ tuyệt vời nhất trên đời: mẹ của bạn.”

Trong những năm đầu tiên, Ngày của Mẹ được tổ chức một cách mộc mạc và đầy thành kính - thường là qua các buổi lễ nhà thờ để tưởng nhớ và vinh danh các bà mẹ, dù còn sống hay đã qua đời.

Ngọt ngào xen lẫn đắng cay khi kế thừa Ngày của Mẹ

Theo nhiều tài liệu, điều duy nhất mà Anna mong muốn là tưởng nhớ mẹ mình - người mà cô tin là người khởi xướng thực sự của Ngày của Mẹ. Nhưng khi ngày lễ trở nên phổ biến, Anna dần cảm thấy thất vọng khi nó bị thương mại hóa: người ta gửi thiệp, tặng hoa một cách máy móc. Thậm chí cô không đồng tình khi các tổ chức phụ nữ hay hội từ thiện dùng Ngày của Mẹ để gây quỹ - điều khá mâu thuẫn nếu nhìn vào lý tưởng y tế cộng đồng mà mẹ cô từng theo đuổi.

Năm 1948, Anna Jarvis qua đời tại một viện dưỡng lão trong tình trạng sa sút trí tuệ.

Ngày của Mẹ hiện nay

Ngày của Mẹ vẫn bền bỉ tồn tại và không ngừng phát triển. Cũng giống như khởi nguồn ngày lễ bắt đầu từ sự sáng tạo của nhiều người phụ nữ, Ngày của Mẹ trong thời đại hiện nay tôn vinh sự đa dạng trong vai trò của người mẹ hiện đại. Chúng ta nhớ ơn những người mẹ đã đấu tranh để cải thiện cuộc sống của con cái bằng nhiều cách - từ phúc lợi xã hội đến lý tưởng phi bạo lực. Và hơn hết, chúng ta thấu hiểu, trân trọng tinh thần dũng cảm cùng đức hy sinh quý giá vô ngần dành cho con trẻ từ lúc chúng mới lọt lòng.

Hà Nhi dịch từ Almanac

Đọc bài viết

Cafe sáng