Trà chiều

Bên nhau trọn đời – Trong dáng em cúi đầu

Tôi tình cờ biết em vào những ngày giữa tháng Một năm nay. Những ngày đó tôi đã bị dìm trong nỗi buồn như đang ở dưới đáy nước sâu bơ vơ không điểm tựa.

Published

on

Tôi muốn đọc Dostoevsky ngay tức khắc để thực hiện điều đã tự hứa với chính bản thân mình cách đây bốn năm. Tôi muốn đọc Dostoevsky để đỡ tủi hờn. Tôi muốn đọc Dostoevsky để tiến gần hơn đến điểm ảo ảnh không thể chạm vào được nữa. Tôi muốn Dostoevsky cho tôi câu trả lời của bốn năm vừa qua, của những gì tôi đang phải trải qua… Nhưng tôi không có sức lực để đọc Dostoevsky. Vẫn là những lí do như bốn năm trước: độ dài, cảm giác sợ hãi khi chạm phải một điều gì đó quá nặng nề, quá sâu… và giờ đây còn có thêm lí do nữa là sợ chạm phải vết thương ngày cũ. Thế là vào tháng Một, tôi vẫn chưa đọc Dostoevsky. Tôi chỉ biết lang thang trên News Feed của Facebook suốt ngày nhìn cuộc sống sinh động của mọi người trôi qua trước mắt. Và rồi tôi bắt gặp em. Tôi không nhớ hình ảnh đầu tiên của em mà mình nhìn thấy nhưng tôi nhớ được cảm giác lúc đó. Khi đang lướt trang vùn vụt qua những hình ảnh, tin tức, status, note… ngón tay lướt chuột của tôi đã dừng lại khi thấy hình em. Tôi dừng một lúc lâu để ngắm nhìn em. Rồi tôi lại click vào hình để có thể nhìn em gần hơn một chút, kĩ hơn một chút. Khuôn mặt khả ái này dường như có gì đó vừa thân quen lại vừa xa lạ. Em trông giống một người tôi đã biết từ lâu. Suy nghĩ một lúc, tôi mới nhận ra em có nét giống Gakky những lúc mặt cúi nghiêng hoặc cười mỉm. Tôi muốn xem phim em đóng để kiểm nghiệm điều này nhưng Bên nhau trọn đời là một phim truyền hình được chuyển thể từ tiểu thuyết ngôn tình mà tôi thì lại không mặn mà lắm với thể loại này. Chẳng lẽ chỉ vì muốn kiểm nghiệm một điều như thế mà mất thời gian xem hết 34 tập phim. Thế là sau khi phim chiếu, tôi chần chừ mãi hơn một tuần vẫn không xem. Tôi cố gắng dành thời gian đó để đọc sách nhưng rồi tôi phát hiện chữ không thể trôi vào đầu mình được nữa. Trong khi đó, hình ảnh em vẫn hiện trên News Feed của tôi, thỉnh thoảng tôi lại nghĩ đến em, đến ánh mắt buồn da diết đó… Vì sao ánh mắt ấy lại buồn như thế? Tôi bị cuốn hút bởi khuôn mặt buồn của em còn hơn cả khuôn mặt tươi cười.

Đến một ngày, khi không thể nào kiềm chế được nữa, tôi bắt đầu xem Bên nhau trọn đời tập 1. Tôi nghĩ rằng cứ thử xem tập 1 như thế nào và có thể là chỉ xem tập 1 thôi. Nhưng chỉ trong tập 1, tôi lại bắt gặp ánh mắt đó. Tôi cứ xem đi xem lại nhiều lần phân cảnh Mặc Sênh tình cờ gặp Dĩ Thâm ở siêu thị, ánh mắt em nhìn Dĩ Thâm lúc đó chứa thật nhiều cảm xúc: sững sờ, hoang mang, buồn bã, có chút gì đó chờ đợi, có chút gì đó sợ sệt vì lo lắng người ấy sẽ lạnh nhạt với mình, đồng thời cũng có chút gì đó là niềm vui nhỏ bé thoáng qua khi gặp lại người xưa. Tôi không biết làm sao em có thể diễn được ánh mắt như thế nếu như em không thật sự sống với nhân vật? Trong phim, có rất nhiều cảnh Mặc Sênh buồn bã; ở những phân đoạn như thế, ánh mắt buồn của em có thể giống nhau, có thể không giống nhau nhưng ánh mắt Mặc Sênh nhìn Dĩ Thâm trong lần đầu tiên gặp gỡ sau bảy năm xa cách thì tuyệt nhiên không giống với bất cứ ánh mắt buồn nào của Mặc Sênh sau này. Chính điều đó mà ánh mắt ấy càng quí giá, càng đáng trân trọng, là cảm xúc duy nhất thuộc về khoảnh khắc ấy. Và tôi có thể hiểu rằng em đã hoàn thành xuất sắc vai trò của mình vì quả thực đó chính là một cảnh quan trọng trong câu chuyện này, một khoảnh khắc đáng nhớ với cả hai nhân vật. Đó là lần đầu tiên, tôi thấy đầu em khẽ cúi xuống một chút. Khi Dĩ Thâm lạnh lùng lướt qua em, em không biết làm gì khác ngoài việc đó. Chỉ một cử chỉ nhỏ ấy thôi cũng cho tôi biết rằng em cô đơn, em buồn bã, em tự ti về bản thân mình đến nhường nào.

Và sau đó, tôi đã thấy em cúi đầu rất nhiều lần: những khi em gặp trắc trở trong công việc, những khi em bị sếp hay đồng nghiệp chỉ trích, những khi em bị Dĩ Thâm nạt… Không hiểu sao mỗi khi nhìn em cúi đầu tôi lại thấy… rất thích. Tôi chưa bao giờ thích nhìn thấy ai cúi đầu như vậy. Tôi cũng chưa bao giờ nghĩ mình sẽ thích nhìn bất cứ ai cúi đầu. Nói rằng mình luôn muốn nhìn thấy mọi người tươi cười, hạnh phúc thì nghe có vẻ giả tạo nhưng nếu xét đến việc thích nhìn thấy một cảm xúc tiêu cực nào đó thì trước đây, tôi nghĩ rằng mình thích nhìn thấy ai đó khóc. Tôi thích việc ấy không phải vì tôi thích khi nhìn ai đó buồn mà vì tôi thích khi biết người đó không cần phải kiềm chế cảm xúc lúc ở bên cạnh tôi, vì người đó đã tin tưởng cho tôi thấy lúc bản thân yếu đuối nhất, vì khi có thể nhìn thấy một ai đó khóc và đặc biệt là lúc thường người đó lại tỏ ra rất mạnh mẽ thì nghĩa là mối quan hệ giữa tôi và người đó đã trở nên thân thiết hơn. Vì những điều đó mà tôi thích khi có thể nhìn thấy một người khóc trước mặt tôi. Còn cúi đầu thì tôi đã từng nghĩ mình sẽ không thích. Đơn giản vì khi một ai đó cúi đầu nghĩa là người đó đang rất sợ hãi, rất tự ti, rất e dè, cũng có thể là rất buồn… Nhưng nỗi buồn khi cúi đầu rất khác với nỗi buồn khi khóc. Khi cúi đầu, dường như người ta đang muốn thu mình lại, muốn trốn tránh người đối diện, không muốn cho người đối diện thấy những cảm xúc của mình; trong khi khóc thì lại phơi bày hết tất cả nỗi buồn cho đối phương biết. Vậy nên, tôi không thích khi nhìn thấy người khác cúi đầu với mình những lúc buồn. Điều đó nghĩa là họ đang trốn tránh tôi hoặc tôi không thể cho họ cảm giác thoải mái để bộc lộ bản thân. Nhưng vì sao mỗi lần nhìn em cúi đầu, tôi lại cảm thấy thích đến như thế? Dường như dáng vẻ ấy đã chạm đến một điều gì đó sâu trong tâm trí tôi. Cách em cúi đầu dù với nguyên do gì, trong bất cứ trạng huống nào cũng đều không hề cho tôi cảm giác em là người yếu đuối. Có thể em đang là người yếu thế trước mặt mọi người do sự tự ti và cô độc nhưng yếu đuối thì không. Một chút cũng không. Ngược lại, tôi cảm nhận được sự mạnh mẽ sau chính cử chỉ có lẽ dễ bị đánh giá là yếu đuối ấy. Thực tế, tôi khá bất ngờ trước những hành động của em. Với kinh nghiệm xem phim thần tượng từ khoảng mười năm trước, tôi nhận thấy nhân vật nữ chính thường là những cô gái hiền lành, ngây thơ, vô tư, thẳng thắn. Những cô gái ấy nếu đặt trong hoàn cảnh của em thường sẽ phản ánh bằng cách nói thẳng những suy nghĩ của mình, những uất ức của mình mà không chút e dè sẽ làm mất lòng đối phương; nhờ chính sự vô tư đó, chẳng những đối phương không ghét mà ngược lại còn yêu mến. Đó là cách các cô gái ấy thu phục lòng người trong những bộ phim đó. Lúc đầu, trong dáng vẻ em cúi nhìn ấy, tôi đã lầm tưởng em cũng giống các cô gái ấy. Nhưng dần dần tôi phát hiện ra em không hề giống những cô gái ấy. Trong công việc, khi đồng nghiệp hay sếp chỉ trích em, bất kể là em đúng hay em sai, người ta có hiểu lầm hay không, phản ứng đầu tiên của em cũng đều là cúi đầu im lặng, không giải thích nhiều. Dáng vẻ đó không hoàn toàn là dáng vẻ của người yếu thế, tôi cảm nhận đó còn là dáng vẻ của người có trách nhiệm, người sẵn sàng nhận lỗi trong phạm vi công việc của mình cho dù lỗi ấy có thể đến từ nguyên nhân khách quan. Và quả thực, em đúng là như thế. Em không thẳng thắn nói ra những suy nghĩ của mình hay cố gắng tranh cãi lí lẽ khi bị chỉ trích nhưng em lặng lẽ tìm những giải pháp và làm nốt các phần việc còn thiếu sót. Tôi thật sự thích hình ảnh em những lúc đó. Quả thực, đó chính là hình ảnh của người trưởng thành đã trải qua nhiều mất mát trong cuộc đời: dù có những mặc cảm nhất định về bản thân nhưng lại là người điềm tĩnh, có thể kiểm soát tốt cảm xúc của mình, không tranh chấp lí lẽ những chuyện không đáng, biết nhu biết cương.

Dáng vẻ em cúi đầu trước bạn bè hay đồng nghiệp trong công ty cũng khác với dáng vẻ em cúi đầu trước Dĩ Thâm. Khi bị Dĩ Thâm nạt, em sẽ giật mình, có khi run bắn cả người lên và lúc cúi đầu thì hai vai sẽ so lại nhiều hơn, đầu cũng cúi sâu hơn. Nếu như dáng vẻ em cúi đầu trước đồng nghiệp giống như dáng vẻ của người trưởng thành sẵn sàng nhận lỗi, không thèm tranh chấp thì dáng vẻ em cúi đầu trước Dĩ Thâm lại giống dáng vẻ của một đứa trẻ sợ hãi khi biết mình đã phạm phải lỗi lầm rất lớn và đồng thời cũng có dáng vẻ cam chịu của người phụ nữ khi đứng trước người đàn ông mình yêu. Hai dáng vẻ cúi đầu đó rõ ràng khác nhau. Vì vậy, tôi không hề thấy nhàm chán khi nhìn em cúi đầu.

Em biết không, những ngày này tôi lại nhớ đến mùa hè cách đây mười mấy năm, mùa hè khi tôi học lớp 8. Tôi nhớ da diết mùa hè năm đó. Bây giờ, nếu có thể quay ngược thời gian thì tôi sẽ chọn mùa hè năm đó. Lúc ấy, tôi còn nhỏ, tôi còn khỏe mạnh, tràn đầy sức sống, không chút bệnh tật, dù có một nỗi buồn rất lớn luôn đeo bám mỗi ngày nhưng tôi biết mình muốn làm điều gì và tôi say mê làm theo điều ấy mà chẳng hề bận tâm kết quả sẽ ra sao. Mùa hè năm ấy tôi đã học tiếng Trung cùng chị tôi trong một ngôi trường nằm cạnh nhà thờ. Tôi không bao giờ muốn quên không khí những buổi tối đi học đầu tiên, những bài giảng đầu tiên, những khái niệm đầu tiên về tiếng Quan Thoại, những nét bút đầu tiên tôi say sưa tập viết chữ Hán… Ở thời điểm đó, việc học tiếng Trung đã cứu rỗi tôi rất nhiều: mùa hè của tôi trở nên sinh động hơn, có gì đó để yêu da diết, có gì đó làm động lực để cố gắng. Tôi còn nhớ mỗi lần tập viết xong một trang giấy, tôi đều ngừng lại ngắm nhìn một chút trước khi qua trang mới và nghĩ rằng chữ Hán thật đẹp. Dù chỉ là ba tháng hè ngắn ngủi, tôi còn nhớ ngày đó mình đã yêu chữ Hán giống như một người bạn, một người tình, một người quan trọng mà chỉ cần mỗi ngày tôi có thể biết thêm chút gì về người đó là tôi rất vui, mỗi lần học thêm được chữ mới là tôi lại phấn khích vô cùng. Chữ Hán thật đẹp em nhỉ… Có lẽ cũng nhờ ba tháng hè chăm chỉ học tiếng Trung ấy mà sau này nhiều năm, khi bắt đầu học tiếng Nhật, tôi không quá bỡ ngỡ khi bắt đầu học những chữ Hán người Nhật sử dụng. Ngược lại, càng học tôi càng nhớ tiếng Trung vô cùng. Lúc bắt đầu học, mỗi lần bắt gặp một chữ quen thuộc tôi luôn nghĩ từ này trong tiếng Trung đọc như thế này, tại sao người Nhật lại đọc thành như thế này? Tôi mang tâm trạng đó khoảng một năm đầu tiên khi học tiếng Nhật và sau đó thì dần dần tôi mới hết tâm trạng này. Nguyên nhân tôi chỉ học tiếng Trung ba tháng là vì khi vào lại năm lớp 9, mẹ muốn tôi nghỉ học để tập trung ôn thi tốt nghiệp. Tôi đã luôn tự nhủ khi tốt nghiệp cấp 2, việc đầu tiên mình làm sẽ là tiếp tục học tiếng Trung. Nhưng rốt cuộc, tôi đã dừng lại cho đến bây giờ. Và ba tháng ngắn ngủi đó trở thành ba tháng duy nhất tôi học tiếng Trung. Cũng vì hối tiếc sự dở dang đó mà khi bắt đầu học tiếng Nhật, tôi đã quyết tâm phải học đến nơi đến chốn, không thể để có thêm một sự dang dở nào nữa.

Quay lại mùa hè năm nay.

Bây giờ, tôi đã khác với tôi của mùa hè năm lớp 8 rất nhiều. Tôi yếu đuối hơn, sức khỏe kém hơn, bệnh nhiều hơn, ngủ nhiều hơn, làm việc ít hơn, động não suy nghĩ cũng ít hơn, buồn nhiều hơn, tự ti nhiều hơn. Vậy nên, tôi cần nhiều nguồn năng lượng hơn, cần nhiều niềm an ủi hơn, cần nhiều sự ấm áp hơn. Và tôi đã tìm được em giữa tháng Một năm nay lúc tôi đang tuyệt vọng nhất. Khi xem phim của em, tôi đã phần nào có được điều tôi cần. Bây giờ nghĩ lại, tôi nhận ra nhờ ngắm nhìn em vào tháng Một, tôi đã có năng lượng để bắt đầu đọc Dostoevsky suốt từ tháng Hai đến tháng Năm: Lũ người quỉ ám, Là bóng hay là hình, Bút kí dưới hầm, Tội ác & Trừng phạt… Tôi đã muốn đọc nốt Anh em nhà Karamazov…, đọc hết tất cả những tác phẩm của Dostoevsky mà tôi có thể đọc bằng tiếng Việt trước sinh nhật năm nay. Nhưng cuối cùng, tôi đã không thực hiện được điều đó. Vẫn còn hai tác phẩm của Dostoevsky tôi chưa đọc. Tháng Sáu, tháng Bảy tôi đã mệt nhoài. Tôi đọc những quyển sách khác. Và tháng Tám thì tôi đổ gục hoàn toàn. Không còn một chút năng lượng để đọc sách nữa dù lòng rất muốn. Tôi lại nhớ đến em. Không chịu nổi nữa. Và tôi lại tự dễ dãi cho phép bản thân mình giải trí. Tôi biết rằng một khi tôi quyết định xem phim truyền hình giải trí, tôi sẽ trải qua những tâm trạng như thư giãn, say mê rồi sau đó là buồn bã, hối tiếc giá như mình đã dành thời gian đó để đọc sách hoặc nếu có xem phim thì cũng phải xem phim điện ảnh nghệ thuật cho đỡ tiếc. Nhưng trải qua tháng Một gian khó năm nay và tháng Hai đến tháng Năm miệt mài đọc Dostoevsky, tôi biết rằng có thể tôi sẽ chẳng học được gì khi xem một phim truyền hình giải trí nhưng tôi sẽ có được sự ấm áp, nguồn năng lượng tôi cần phải có để tiếp tục những điều tôi muốn làm. Có lẽ đó cũng là giá trị của một tác phẩm giải trí: nó khiến ta hoàn toàn thư giãn. Nhưng tôi sẽ cố gắng để bản thân mình không lún sâu vào sự dễ dãi như lúc trước nữa. Chỉ là mệt quá dừng chân nghỉ lại một lúc thôi. Nó là những trạm dừng của tôi, không phải bến đỗ. Tôi phải luôn ghi nhớ điều này. Và tôi sẽ lại đọc sách vào tháng Chín, những cuốn sách tôi đã muốn đọc từ lâu, những cuốn sách không phải cho tôi sự giải trí, thư giãn, cảm xúc mà là suy nghĩ, tra vấn, học hỏi. Chúng ta sẽ lại tạm chia tay nhau. Và năm sau chúng ta gặp lại.

Những ngày hè cuối cùng của năm nay đã gần kết thúc.

Trong dáng em cúi đầu, tôi thấy một nỗi buồn ấm áp, một hạnh phúc nhỏ bé đang khẽ rơi vào lòng mình.

Đường Đường… cảm ơn em vì đã đến.

Hết.

Freegene


Bài viết cùng chủ đề



Trà chiều

Thế giới viễn tưởng độc đáo trong bốn bộ phim mang đậm tính thể nghiệm

Published

on

Thế giới của phim khoa học viễn tưởng không phải lúc nào cũng chỉ có AI, robot, hay du hành không gian mà còn vô vàn những điều đặc biệt khác có thể bạn chưa biết.

Năm 2023 vừa qua đã ghi nhận sự phát triển ngày càng mạnh mẽ của AI. Điều đó khiến cho dòng phim khoa học viễn tưởng nhận được nhiều sự quan tâm trở lại. Nhắc đến dòng phim này, người ta vẫn thường đóng khung nó với vài yếu tố tiêu biểu thường gặp như: AI, robot, du hành vũ trụ, thế giới song song… Tuy nhiên, có rất nhiều tác phẩm sci-fi kinh điển đã chứng minh điều ngược lại.

Hãy cùng Bookish khám phá những bộ phim sci-fi không thuần túy là sci-fi vì ở đó, người xem được tận hưởng bữa tiệc điện ảnh đỉnh cao với những hương vị hòa quyện mĩ mãn từ nhiều thể loại khác nhau.

Back to The Future (1985)

Sci-fi x Road Trip Comedies

Cùng với The Terminator, Back To The Future ra đời năm 1985 đã trở thành biểu tượng kinh điển của dòng phim sci-fi lấy chủ đề du hành thời gian. Đó cũng là một trong những nguyên nhân mà bộ phim này được nhắc đến nhiều lần trong Avengers: Endgame lúc cả nhóm quyết định quay về quá khứ.

Tuy nhiên, không giống như The Terminator, Back To The Future mang màu sắc vui nhộn, hài hước của lứa tuổi học trò. Cậu học sinh tuổi teen Marty McFly ở thập niên 80 vô tình bị kéo về quá khứ trên chiếc xe cỗ máy thời gian của nhà khoa học Emmett Brown. Cậu quay trở về thập niên 50 – lúc này bố mẹ cậu cũng ở lứa tuổi học trò như cậu. Để có thể quay về hiện tại năm 80, cậu phải tìm cách hàn gắn mối quan hệ của bố mẹ, nếu không bản thân cậu cũng sẽ không tồn tại ở năm 80. Từ đó, câu chuyện nảy sinh nhiều tình huống dở khóc dở cuối. Nếu như The Terminator là sự phối trộn hoàn hảo giữa thể loại sci-fi và hành động thì Back To The Future lại là màn kết hợp ăn ý giữa thể loại sci-fi và hài hành trình. Bộ phim tốn kinh phí thực hiện là 19 triệu USD nhưng lại có doanh thu phòng vé lên đến 388 triệu USD. Chính vì thành công này mà đạo diễn Robert Zemeckis đã thực hiện hai phần tiếp theo cũng vui nhộn không kém.

Snowpiercer (2013)

Sci-fi x Dystopia

Bong Joon Ho không chỉ tạo ra những bộ phim sâu sắc về đề tài xã hội mà ông còn có khả năng làm phim khoa học viễn tưởng rất chặt chẽ, thuyết phục. Điều này thể hiện rõ nhất qua Snowpiercer. Phim dựa trên tiểu thuyết Pháp Le Transperceneige lấy đề tài hậu tận thế. Trong tương lai, sau một thí nghiệm thất bại, khí hậu toàn cầu biến đổi dẫn đến gần như toàn bộ sinh vật đều bị diệt vong, ngoại trừ một số người may mắn có mặt trên con tàu Snowpiercer chạy vòng quanh Trái đất với động cơ vĩnh cửu. Tại đây, một xã hội thu nhỏ mới lại được hình thành. Dưới bàn tay tài hoa của Bong Joon Ho, Snowpiercer cũng không đơn giản là tác phẩm sci-fi thuần túy mà ông còn lồng ghép vào nhiều thể loại khác nhau: có những phân đoạn hành động mãn nhãn, đồng thời cũng có những phân đoạn dí dỏm, và cách đặt vấn đề về giai tầng xã hội vẫn mang phong cách rất đặc trưng của Bong. 

Eternal Sunshine Of The Spotless Mind (2004)

Sci-fi x Romance

Sẽ như thế nào nếu kết hợp thể loại sci-fi với phim tình cảm? Khi đó, chúng ta sẽ có kiệt tác Eternal Sunshine Of The Spotless Mind của bộ đôi đạo diễn Michel Gondry và biên kịch Charlie Kaufman. Bộ phim sử dụng đề tài “can thiệp kí ức” để khám phá bản năng con người khi tình yêu tan vỡ. Sẽ ra sao nếu khi chia tay một ai đó, bạn có thể xóa toàn bộ những kí ức vui buồn liên quan đến họ ra khỏi tâm trí? Sau khi Joel biết được Clementine – người yêu cũ của anh đã xóa kí ức tình yêu, anh quyết định bản thân mình cũng sẽ thực hiện việc này. Nhưng khi anh khám phá được điều gì đã khiến họ gắn kết rồi lại chia xa, anh nhận ra mình vẫn còn tình cảm dành cho cô. Nếu như công nghệ trong phim là thứ hư cấu thì cảm xúc giữa hai nhân vật trong Eternal Sunshine hoàn toàn chân thực, lay động trái tim người xem, khiến ai cũng phải thổn thức.

Under The Skin (2013)

Sci-fi x Experimental film

Cuối cùng, không thể không nhắc đến bộ phim sci-fi mang tính thể nghiệm, tiên phong đáng nhớ: Under The Skin. Có rất nhiều phim lấy đề tài sinh vật ngoài hành tinh xâm nhập Trái đất, nhưng có lẽ chưa bộ phim nào kể câu chuyện thật đặc biệt nhưng lại với nhịp điệu từ tốn như Under The Skin. Scarlett Johansson trong vai sinh vật ngoài hành tinh vô danh chỉ làm đúng một công việc là đi lang thang trên một chiếc xe tải, lựa chọn những người đàn ông cô đơn làm con mồi. Bộ phim rất kiệm lời thoại, khiến người xem rợn người không chỉ bởi những hình ảnh thị giác lạ mắt mà còn bởi thứ âm nhạc cũng đầy tính thể nghiệm độc đáo của Mica Levi. Tuy nhiên, nếu chỉ tập trung vào thể nghiệm mà bỏ qua nội dung, Under The Skin đã không gây được tiếng vang lớn như thế trong cộng đồng điện ảnh. Sau tất cả, bộ phim của đạo diễn Jonathan Glazer lại khiến người xem trăn trở nhiều về thân phận làm người.

Hoàng Đức Nhiên

Đọc bài viết

Trà chiều

The Terminator & Blade Runner: Hai tượng đài điện ảnh độc đáo của thập niên 80

Published

on

Cùng ra mắt vào thập niên 80, The Terminator (1984) và Blade Runner (1982) đều là hai kiệt tác điện ảnh độc đáo, góp phần rất lớn trong việc tạo ra diện mạo mới cho thể loại sci-fi.

Bài viết này sẽ dẫn dắt bạn khám phá những vấn đề khác nhau được đặt ra trong hai phim: từ những dòng suy tư về mối liên hệ nhân quả giữa hành động và thời gian trong The Terminator đến không gian đô thị đậm chất noir và những truy vấn về bản chất con người trong Blade Runner.

The Terminator (1984)

The Terminator là bước đột phá ngoạn mục trong sự nghiệp điện ảnh của đạo diễn James Cameron. Vào thời điểm ra mắt, bộ phim gây ấn tượng bởi việc pha trộn nhiều đặc tính giữa các thể loại khác nhau, mang đến màu sắc mới cho dòng phim sci-fi.

The Terminator kể câu chuyện về một người máy sát thủ ra đời năm 2029, được trao nhiệm vụ quay về năm 1984 để giết người phụ nữ trẻ tên là Sarah Connor. Sarah hoàn toàn không biết rằng cuộc đời cô có ảnh hưởng đáng kể đến số phận nhân loại và cô có thể chết bất cứ lúc nào dưới sự truy sát của cỗ máy bất khả chiến bại được gọi là Kẻ Hủy Diệt. Kyle Reese cũng đến từ tương lai nhưng nhiệm vụ của anh là bảo vệ Sarah – người mẹ của thủ lĩnh tương lai.

Với cốt truyện như thế, The Terminator vừa có những pha hành động mãn nhãn, vừa có nhiều tầng suy tư phức tạp về dòng chảy của thời gian, về phương thức thay đổi một sự kiện trong quá khứ có thể dẫn đến tương lai khác biệt hoàn toàn – đây vốn là chủ đề hiếm gặp trong phim hành động ở giai đoạn đó. Ngoài ra, những bản nhạc nền tạo không khí căng thẳng của nhạc sĩ Brad Fiedel cũng góp phần lớn vào thành công của phim.

Tất cả những nhân tố đó đã khiến phim trở thành một mảnh ghép quan trọng của văn hóa đại chúng đến tận ngày nay. Câu nói “I'll be back” của nhân vật Kẻ Hủy Diệt trong phim được sử dụng phổ biến, trở thành slogan thương hiện cho chính Arnold Schwarzenegger.

Từ năm 1984 đến nay, The Terminator đã sản xuất 6 phần phim: The Terminator (1984), Terminator 2: Judgment Day (1991), Terminator 3: Rise of the Machines (2003), Terminator Salvation (2009), Terminator Genisys (2015), Terminator: Dark Fate (2019). Tất cả những phần phim này đều đạt được doanh thu khủng, riêng phần đầu tiên The Terminator đã trụ vững ở vị trí số 1 trên bảng xếp hạng phòng vé ở Mỹ trong suốt hai tuần. Năm 2008, The Terminator đã được Thư viện Quốc hội Hoa Kỳ đưa vào Viện lưu trữ phim quốc gia để bảo tồn với lí do là bộ phim “nổi bật ở phương diện văn hóa, lịch sử, và mĩ học”.                          

Blade Runner (1982)

Không may mắn như The Terminator, Blade Runner của đạo diễn Ridley Scott là một tuyệt tác có số phận khá hẩm hiu khi vừa ra đời. Tuy nhiên, qua nhiều thập kỉ với những bản dựng khác nhau, tác phẩm này đã trở thành một tượng đài lớn của thể loại sci-fi.

Dựa trên tiểu thuyết gốc Do Androids Dream Of Electric Sheep? của nhà văn Philip K. Dick, Blade Runner vẽ nên viễn cảnh ảm đạm của thế giới vào năm 2019. Khi đó, thế giới tràn ngập những replicant – người máy có hình dạng giống con người, được tạo ra với vòng đời ngắn ngủi để làm những công việc nguy hiểm phục vụ cho con người. Một nhóm replicant bất mãn trước việc này đã làm một cuộc phản loạn, quay trở về Trái Đất và giết con người. Rick Deckard, một cảnh sát đã nghỉ hưu ở Los Angeles nhận nhiệm vụ phải truy lùng và tận diệt toàn bộ nhóm replicant nổi loạn này.

Blade Runner là sự pha trộn giữa sci-fi, trinh thám và phim noir – thể loại phim hình sự tội phạm mang đậm phong cách Hollywood, thường thể hiện thái độ hoài nghi, mỉa mai. Thông qua hành trình của Rick Deckard, bộ phim đặt ra nhiều câu hỏi triết học về tính người, thế nào là một con người.

Nhưng không chỉ sâu sắc về nội dung, Blade Runner còn là bữa tiệc chiêu đãi về thị giác qua cách bộ phim thể hiện không gian đô thị tương lai với những màn hình quảng cáo lớn, đèn neon luôn lấp lánh và đường phố lúc nào cũng nhộn nhịp. Cảm hứng thị giác của phim kết hợp từ những bức tranh cổ điển của danh họa Edward Hopper và các khu phố với những tòa nhà chọc trời ở Hong Kong. Sự kết hợp này đã tạo nên không gian thị giác ấn tượng của phim khi con người bị nhấn chìm trong công nghệ. Mĩ thuật của phim tạo ảnh hưởng lớn đến cách xây dựng không gian cho những phim sci-fi hay hành động của Hollywood ra đời sau đó như: The Matrix (1999), bộ ba Dark Knight (2005 – 2012) của đạo diễn Christopher Nolan, Ghost in the Shell (2017)…

Ngày nay, Blade Runner đã có một chỗ đứng không thể thay thế trong dòng phim sci-fi với nhiều ảnh hưởng mang tính định hình về mĩ thuật, tư duy về cách kể chuyện và nhân vật. Blade Runner 2049 – phần tiếp theo của phim ra đời vào năm 2017, đúng 35 năm kể từ phần đầu tiên đã không làm người hâm mộ thất vọng với điểm số trên Rotten Tomatoes lên đến 88%.

Hoàng Đức Nhiên

Đọc bài viết

Trà chiều

Hai tác phẩm định hình dấu ấn cá nhân của đạo diễn James Cameron và Christopher Nolan

Published

on

Đạo diễn James Cameron và đạo diễn Christopher Nolan đều là những cá nhân kiệt xuất trong ngành điện ảnh với nhiều bộ phim kinh điển vừa đạt được doanh thu khủng, vừa có giá trị nghệ thuật cao.

Tuy nhiên, khi nhắc đến hai vị đạo diễn tài danh này, có hai tác phẩm đặc biệt mà người hâm mộ điện ảnh không thể nào bỏ lỡ.Hãy cùng Bookish khám phá những dấu ấn đặc trưng cá nhân của đạo diễn James Cameron trong Avatar và của đạo diễn Christopher Nolan trong Inception.  

Avatar (2009)

Năm 2009, bộ phim sci-fi Avatar của đạo diễn James Cameron ra đời đã tạo nên bước ngoặt lớn cho sự phát triển công nghệ điện ảnh. Lần đầu tiên, cả thế giới được xem một bộ phim 3D. Kĩ thuật thị giác đột phá đã khiến trải nghiệm của phim cực kì sống động.

Vào năm 2154, nguồn tài nguyên Trái đất trở nên cạn kiệt dưới sự khai thác của con người dẫn đến khủng hoảng năng lượng. Lúc bấy giờ, tập đoàn RDA đang khai thác unobtanium – một loại khoáng sản có giá trị tại Pandora, một hành tinh tươi tốt mang sự sống giống Trái Đất nhưng lại có bầu khí quyển độc hại cho con người. Pandora là nơi sinh sống của người Na'vi da xanh, có hình dáng và trí óc giống con người. Để tìm hiểu về người Navi và sinh quyển ở Pandora, các nhà khoa học sử dụng cơ thể người lai Na’vi gọi là các Avatar, được hoạt động thông qua liên kết thần kinh với những người có kiểu gen phù hợp. Jake Sully là một cựu lính thủy quân được giao nhiệm vụ trà trộn vào hành tinh Pandora. Quá trình thực hiện nhiệm vụ đã khiến anh bị giằng xé giữa việc tuân theo mệnh lệnh hay bảo vệ xứ sở mà anh đã trót xem là quê nhà.

Đạo diễn James Cameron đã mất đến 15 năm để thực hiện Avatar từ lúc bộ phimcòn là ý tưởng năm 1994 cho đến khi ra đời năm 2009. Sở dĩ bộ phim mất nhiều thời gian như vậy là do Cameron không chỉ trau chuốt về mặt nghệ thuật mà còn cả kĩ thuật: từ công đoạn làm việc với chuyên gia ngôn ngữ để tạo ra tiếng Na’vi với hơn 1000 từ, cho đến việc tạo ra kĩ thuật 3D. Sự kì công này khiến Avatar chiều lòng được cả khán giả đại chúng lẫn giới hàn lâm. Avatar luônđứng đầu danh sách phim ăn khách nhất mọi thời đại với doanh thu lên đến 2,7 tỉ USD, và chỉ bị Avengers: Endgame vượt mặt vào năm 2019 sau suốt 10 năm thống trị bảng vàng.            

Avatar 3 dự kiến sẽ ra mắt vào năm 2025, tiếp tục hứa hẹn mang đến những thành tích khủng trong tương lai. 

James Cameron

Inception (2010)

Hầu như những bộ phim của đạo diễn Christopher Nolan đều có các yếu tố như: du hành thời gian, tìm hiểu bản chất thế giới… khiến người xem vừa rối não lẫn rối lòng. Và Inception chính là một tác phẩm hội tụ đủ các yếu tố làm nên thương hiệu Nolan, trở thành một tượng đài khó quên trong lòng người hâm mộ.

Inception là một trải nghiệm điện ảnh đáng nhớ khi Nolan cố gắng hình tượng hóa kiến trúc tư duy của con người, biến tiềm thức trở thành không gian vật lí cho các hoạt động đánh cắp được diễn ra. Bộ phim kể về một tên trộm có khả năng đi vào giấc mơ của người khác. Dom Cobb không trộm gì cả, anh chỉ trộm ý niệm. Bằng việc thâm nhập vào tiềm thức của đối tượng, anh có thể lấy thông tin mà đến cả những tay hacker sừng sỏ nhất cũng không thể làm được. Trong thế giới điệp viên, Cobb là vũ khí tối thượng. Nhưng kể cả vũ khí cũng có nhược điểm, khi Cobb gần như mất tất cả mọi thứ, anh được giao một nhiệm vụ cuối cùng để chuộc lỗi. Lần này, Cobb không gặt lấy ý niệm, anh gieo nó. Liệu anh và đồng đội có thành công?

Christopher Nolan

Inception có một kịch bản hoàn hảo, từng thế giới giấc mơ xuất hiện trong phim vừa chính xác, tinh tế, đôi khi lại hài hước. Thời gian là chủ đề yêu thích của Nolan và ông luôn tìm được cách thể nghiệm thú vị, có thể thấy rõ điều này qua cả phim InterstellarDunkirk. Nhưng trong Inception, thời gian không chỉ là chủ đề mà còn là công cụ kể chuyện khi tái hiện lại hoàn hảo nỗi ám ảnh của kẻ cắp giấc mơ. Từ đó, bộ phim đặt ra nhiều câu hỏi hóc búa: liệu rằng ta có đang sống trong thời gian thực, khi nào thì một giấc mơ trở thành thực tế, khi nào thì thực tế hóa ra lại chỉ là một giấc mơ, ta đang thức hay còn mơ?

Thông qua Inception, Nolan lồng ghép rất nhiều khái niệm về sự logic giấc mơ, đảo ngược các nguyên tắc vật lí, cho thấy những thực tại có thể vỡ vụn ra sao… Tất cả hòa quyện vào nhau, tạo thành một tác phẩm sci-fi tâm lí đỉnh cao mà có lẽ nhiều thập kỉ sau, vẫn còn khiến người ta trầm trồ.

Hoàng Đức Nhiên

Đọc bài viết

Cafe sáng