Trà chiều

Tản mạn về tiểu thuyết “Mắt biếc” và chuyển thể điện ảnh

Published

on

Mắt biếc là tiểu thuyết thành công của nhà văn Nguyễn Nhật Ánh, ra mắt vào năm 1990 và đã đi vào lòng nhiều thế hệ người đọc ở cả Việt Nam và quốc tế. Cuối năm 2019, độc giả yêu mến nhà văn Nguyễn Nhật Ánh đã được mãn nhãn với sự ra mắt của bộ phim Mắt biếc được chuyển thể từ tiểu thuyết cùng tên. Theo cá nhân tôi đánh giá, đây là một bộ phim thành công trong việc cụ thể hóa hình tượng các nhân vật trong nguyên tác một cách khá hợp lý; bối cảnh và kỹ thuật quay phim cũng rất ấn tượng… Tuy nhiên, đối với những người đã đọc và yêu mến nguyên tác thì bộ phim vẫn còn nhiều vấn đề cần phải bàn luận lại.

Hà Lan có từng yêu Ngạn hay không?

Trong chuyển thể điện ảnh, tình cảm của Hà Lan đối với Ngạn đã được đoàn làm phim khẳng định rõ ràng qua phân cảnh trong rừng sim, trước lúc mà Hà Lan lên thành phố. Cụ thể hơn, nhân vật Hà Lan trong phim đã có những biểu cảm ngại ngùng, chờ mong, thất vọng… trong cái khoảnh khắc mà Ngạn “suýt” hôn mình. Điều đó chứng minh rằng Hà Lan chắc chắn đã từng yêu Ngạn. Vậy còn trong nguyên tác, khi mà những biểu cảm đó chưa từng xuất hiện thì sao? Hãy cùng phân tích tiểu thuyết gốc để trả lời câu hỏi này nhé.

Cũng như trong phim, Hà Lan và Ngạn trong tiểu thuyết có một tuổi thơ êm đềm và gắn bó. Chưa biết giữa họ có tình yêu hay không, nhưng phải khẳng định rằng Hà Lan và Ngạn có một tình bạn thân thiết, và tình bạn đó đã tiến thêm một bước nhỏ nữa bằng những lời hát nồng nàn của Ngạn. Giữa Hà Lan và Ngạn đã manh nha tồn tại một chút gì đó “trên tình bạn nhưng dưới tình yêu”; họ đã biết tìm những khoảng không gian cho riêng nhau, cảm thụ tình cảm của nhau…

“Tôi về làng với Hà Lan. Tất nhiên chúng tôi đi chung với cả một đám bạn. Nhưng dọc đường, hai đứa tôi cố tình đi tụt lại phía sau. Thoạt đầu, bạn bè còn dừng xe lại chờ. Về sau, thấy chúng tôi không có vẻ gì muốn tiến lên phía trước, tụi nó chán quá, liền vọt thẳng. Còn lại hai đứa, tôi với Hà Lan thong thả đạp xe đi. Sau một tuần lễ vùi đầu vào học tập, ngày thứ bảy là một ngày thảnh thơi tuyệt diệu. Chiều loang nắng, chúng tôi lặng lẽ đi bên nhau, lòng êm đềm và thanh thản.”

Sỡ dĩ tôi cho rằng mối quan hệ này “trên tình bạn, dưới tình yêu” là dựa vào phân tích các phản ứng của của nhân vật Hà Lan trong nguyên tác. Cụ thể hơn, Hà Lan trả lời rằng cô đã biết những bài hát mình được nghe là của Ngạn sáng tác, nhưng biểu cảm lúc đó lại là hờ hững, là “tỉnh khô”. Hơn nữa, Hà Lan còn có phản ứng trốn chạy vào nhà khi Ngạn hát những câu từ yêu thương “rõ ràng” hơn bình thường.

“Một mình anh đang ngồi
Không dưng em bước tới
Anh bỗng thành song đôi.”

Nếu nói Hà Lan trốn vì ngại ngùng thì quá gượng ép. Rõ ràng Hà Lan tuy đã hiểu tình cảm của Ngạn, nhưng cô chỉ muốn tình cảm đó dừng ở một mức độ mập mờ và không muốn Ngạn tiến xa hơn nữa. Phản ứng của Hà Lan có thể là biểu hiện của một phức cảm rất nguyên thủy và thường thấy ở con người, cái cảm giác thỏa mãn khi được người khác giới yêu thương hay khi được nghe những ngôn từ chỉ thuộc về bản thân mình, cho dù bản thân chưa chắc có thể đáp lại tình cảm đó.

Dựa vào những phân tích trên, cá nhân tôi cho rằng Hà Lan vẫn chưa từng yêu Ngạn trong nguyên tác. Tình cảm của Hà Lan đối với Ngạn tuy vẫn có tồn tại, nhưng chỉ ở một mức độ mông lung, không rõ ràng, không đến mức độ của tình yêu. Tâm lý Hà Lan trong nguyên tác hoàn toàn phù hợp với tâm lý thực tế của một cô bé mới lớn và vẫn còn lạ lẫm với chuyện yêu đương. Đó là phản ứng nên có ở một thiếu nữ thích thú khi lần đầu nếm được tình yêu từ một người khác giới, và chính việc tình cảm của Hà Lan thay đổi quá nhanh từ khi gặp Dũng đã chứng minh tình cảm của cô dành cho Ngạn là ở mức độ nào rồi.

Về tình cảm giữa Trà Long và Ngạn

Theo tôi, Trà Long và Ngạn là hai nhân vật ít có sự thay đổi giữa chuyển thể điện ảnh với nguyên tác nhất. Dưới góc nhìn của một độc giả yêu mến nguyên tác, tôi đánh giá cao khi đoàn làm phim đã truyền tải khá chính xác tình cảm của hai nhân vật này. Vậy nên ở phần tản mạn này tôi xin phép phân tích chung về tình cảm của hai nhân vật, không có sự so sánh, đối chiếu giữa hai phiên bản.

Như chúng ta đã biết, Trà Long là con gái của Hà Lan với Dũng, cô bé được gửi về quê từ lúc còn tấm bé. Không chỉ vì hoàn cảnh kinh tế, mà còn vì Hà Lan lúc này rất muốn quên Dũng. Làm sao Hà Lan có thể quên đi khi luôn giữ kết tinh máu thịt của Dũng bên mình? Vậy nên cô đã chọn cách rời xa con và dùng công việc để quên dần những lầm lỡ của tuổi thanh xuân. Còn Ngạn, anh đã chọn quê hương từ rất lâu và thời điểm này Ngạn đã chứng minh điều đó. Ngạn trở về ngôi làng Đo Đo yên bình và thân thuộc, nơi có những kỷ niệm đẹp nhất của riêng anh, và cũng ở nơi này, Ngạn tìm thấy một hình ảnh nho nhỏ để bám víu vào – đó chính là Trà Long.

Ban đầu, tình cảm của Ngạn đối với Trà Long rất gần với tình cảm cha con. Hay nói đúng hơn, Ngạn mong muốn được thay Dũng làm cha của cô bé Trà Long tội nghiệp. Cái hi vọng nhỏ nhoi về một gia đình ba người đã nhen nhóm trong Ngạn từ lúc mà Trà Long được sinh ra, và Ngạn đã thực sự cố gắng để điều đó thành hiện thực. Ngạn đã ở bên cạnh, đã yêu thương và chăm lo cho Trà Long như với đứa con ruột của chính mình, và có lẽ Trà Long cũng từng rất muốn Ngạn làm được điều đó.

Từ lúc lên lớp năm, Trà Long đã đủ thông minh và tò mò để tìm hiểu về người cha ruột và không ai có thể trả lời cho cô bé. Với sự thông minh của mình, Trà Long có lẽ đã hiểu rằng cha ruột mình là một người cha không xứng đáng, thế nên mỗi khi Hà Lan về thăm, Trà Long đều cố gắng để cả ba người Hà Lan-Ngạn-Trà Long được ở bên nhau. Hành động của Trà Long đã chứng minh cho mong muốn của cô bé, mong muốn Ngạn trở thành một người cha thực thụ của mình.

Mọi thứ thay đổi từ lúc Trà Long lớn lên thành thiếu nữ. Cô bé ngày càng giống mẹ “như hai giọt nước”, giống đến mức khiến Ngạn đôi lúc lầm lẫn giữa cả hai. Khi ngắm nhìn khung cảnh quen thuộc đầy kỷ niệm, tâm trí sẽ kích động mà hồi tưởng về những ký ức liên quan, trường hợp của Ngạn chính là như vậy. Hơn thế nữa, bên cạnh Ngạn còn có một bản sao của Hà Lan. Như vậy làm sao mà Ngạn có thể dằn lại được sự rung động của trái tim? Làm sao còn có thể coi Trà Long là cô con gái nhỏ bé của mình? Đúng vậy, Ngạn đã yêu Trà Long dưới cái bóng của Hà Lan và chắc chắn anh đã hoảng sợ khi nhận ra điều đó. Tình cảm này là không đúng đắn đối với Ngạn và anh buộc phải bỏ chạy để bản thân không phải phạm sai lầm.

Với Trà Long, cô bé yêu thương Ngạn vì mặc cảm tội lỗi. Trà Long đã quá hiểu tình cảm của Ngạn dành cho mẹ mình và còn hiểu hơn nữa việc tình cảm đó sẽ không có kết quả. Cô bé chỉ muốn bù đắp cho Ngạn những tổn thương mà Hà Lan mang lại chứ không hẳn là tình yêu. Có lẽ, Ngạn đã nhận ra điều đó khi quyết định trốn chạy Trà Long – cũng chính là trốn chạy chính bản thân mình.

Tại sao đoàn làm phim lại thêm nhân vật Hồng?

Hồng là nhân vật không hề tồn tại trong tiểu thuyết gốc của nhà văn Nguyễn Nhật Ánh. Đoàn làm phim muốn nhấn mạnh một điều gì đó, một ý nghĩa nào đó khi thêm nhân vật nữ phụ này vào bộ phim – vậy ý nghĩa tồn tại của nhân vật này là gì? Nó có đủ lớn để nhân vật tồn tại hay không?

Như Xuân Diệu đã từng than thở:

“Yêu, là chết ở trong lòng một ít
Vì mấy khi yêu mà chắc được yêu?”

Trong tình yêu ai mà chẳng một lần đơn phương. Không có ai bắt buộc Ngạn phải yêu thương Hà Lan và cũng không có sức mạnh nào có thể làm điều ngược lại. Đối với Hồng cũng vậy, Hồng chỉ tồn tại như một phần của chuyến tàu tình yêu trái ngang, nơi mà những toa tàu nối đuôi nhau trong một hành trình vô định. Hà Lan mãi chạy theo bóng hình của Dũng; Ngạn nối đuôi theo mắt biếc của đời mình trong nỗi khổ đau; Hồng dõi theo Ngạn… và những người mà cô đã từ chối là những toa tàu ở đằng sau, sau nữa, kéo dài nỗi khổ đau đến một điểm vô cùng.

Có ai đã từng tưởng tượng một viễn cảnh khác, khi mà Ngạn có thể từ bỏ tình yêu với ngôi làng Đo Đo để làm việc ở thành phố, để ở bên cạnh Hà Lan cái lúc mà cô đang dùng công việc để quên đi nỗi đau của mình. Nếu Ngạn có thể làm như vậy thì liệu Hà Lan có chấp nhận anh hay không? Câu trả lời đã được đoàn làm phim đáp lại bằng nhân vật Hồng, khi mà Hồng đã từ bỏ tương lai để quay về Đo Đo cùng Ngạn. Hồng không yêu ngôi làng của mình quá nhiều như Ngạn và cô trở về chỉ vì có Ngạn ở đó (điều này được chứng minh qua lời bộc bạch cuối cùng của Hồng trước khi ra đi). Cuối cùng, Ngạn không thể chấp nhận Hồng, và có lẽ nếu Ngạn làm theo cách của Hồng thì Hà Lan cũng sẽ không chấp nhận Ngạn.

Như vậy, có thể thấy mục đích mà đoàn làm phim thêm nhân vật Hồng vào chuyển thể điện ảnh là để nâng cao, để nhấn mạnh phần nào giá trị ý nghĩa của nhân vật Ngạn. Hơn thế nữa, nhân vật Hồng là một nhân vật cần thiết để hiển thị rõ cái thứ được coi là nghịch lý của tình yêu, cái thứ mà chúng ta vẫn thường gọi là “đơn phương” một cách đầy đớn đau, đầy ảm đạm.

Tản mạn về cái kết

Cái kết là phần mà cá nhân tôi không thích nhất trong chuyển thể điện ảnh. Đoàn làm phim “không cho” Hà Lan lấy chồng như nguyên tác và dẫn đến tình tiết nhân vật này bỗng nhiên chấp nhận tình cảm của Ngạn ngay lúc biết tin anh lên tàu quyết định ra đi. Ý tưởng của đoàn làm phim có thể là người ta chỉ biết trân trọng khi đã mất đi, đây là một ý tưởng hay – nhưng không phù hợp và phần nào đã làm giảm giá trị mà nguyên tác muốn truyền tải.

Với một chuyển thể điện ảnh dạng chiếu rạp thì đây vẫn là một đoạn kết hợp lý, nó phù hợp với phần lớn những người yêu thích phim và chưa đọc qua nguyên tác. Cái kết không quá buồn và tuyệt vọng, lại phần nào tạo ra một cái kết mở để người xem có thể tự dự đoán tương lai của Ngạn và Hà Lan. Có thể Hà Lan sẽ đi theo và tìm được Ngạn, có thể là một ngày nào đó Ngạn quay về thăm và thấy Hà Lan vẫn chờ, cũng có thể cả hai sẽ liên lạc được với nhau qua thư từ để rồi tìm về với nhau… rất nhiều chuyện “có thể” xảy ra khiến cái kết giảm đi nhiều sự hụt hẫng và đến gần với nhiều người xem hơn là cái kết theo đúng nguyên tác mang lại.

Việc thay đổi cái kết tỷ lệ cao là sẽ mang lại nhiều lợi nhuận hơn cho nhà làm phim. Thế nhưng, cái mất đi ở đây là giá trị cốt lõi của nguyên bản, cái giá trị khiến cho độc giả phải đọc đi đọc lại, cái cảm giác buồn rười rượi và day dứt khó quên sẽ khó mà đạt được ở phiên bản điện ảnh này. Dĩ nhiên, chuyển thể điện ảnh của đạo diễn Victor Vũ vẫn là một sản phẩm nghệ thuật đáng khen trên nhiều phương diện, việc ấn phẩm đưa nguyên tác đến rộng rãi người xem hơn cũng là một điểm thành công rất đáng để những độc giả yêu mến nhà văn Nguyễn Nhật Ánh đón nhận phiên bản chuyển thể này.

Hết.

Nguyễn Đình Duy Lộc


Nếu bạn yêu tác giả Nguyễn Nhật Ánh…


Trà chiều

Sài Gòn – Hồi sinh từ ký ức, vươn mình đến tương lai

Từ ngày 1/7/2025, cái tên “Sài Gòn” chính thức trở lại trên bản đồ hành chính Việt Nam. Đây không phải là tên thành phố, mà là tên của một phường trung tâm thuộc TPHCM. Một sự thay đổi tưởng chừng kỹ thuật, hành chính, nhưng lại gợi lên những suy tư lớn hơn: về ký ức đô thị, về cách chúng ta gọi tên một vùng đất và về hướng đi của tương lai giữa dòng chảy đổi mới.

Published

on

Từ nay, người dân sẽ phải làm quen với những tên gọi mới, địa giới mới và cả cách quản lý mới. Nhưng giữa tất cả những đổi thay ấy, cái tên “Sài Gòn” không trở lại như một nỗi hoài niệm, mà như một sợi chỉ đỏ âm thầm nối liền ký ức và hiện tại: bền bỉ, lặng lẽ nhưng chưa từng đứt đoạn. Một cái tên chưa bao giờ mất đi trong tâm thức người dân, nay được trả về đúng vị trí của nó: chính danh và được ghi nhận.

Tên cũ hồi sinh, đô thị vươn mình

Không chỉ hiện diện trong ký ức của hàng triệu người dân, Sài Gòn còn là mạch nguồn cảm hứng bất tận cho nhiều thế hệ người viết, người sáng tác. Trong đó, có thể kể đến tác giả Phạm Công Luận - một cây bút gắn bó lâu năm với Phương Nam Book và được xem là người dành trọn tâm huyết để viết về Sài Gòn. Gần như mỗi năm, ông lại cho ra đời một tác phẩm mới, nhưng điều đặc biệt là dù đã viết rất nhiều năm, rất nhiều sách, ông vẫn luôn tìm ra được những góc nhìn mới, tinh tế và giàu cảm xúc về vùng đất này.

Từ Sài Gòn ngoảnh lại trăm năm, Hồi ức Phú Nhuận,đến Có một thời ở Chợ LớnMade in Sài Gòn - hai tác phẩm vừa được phát hành đầu năm nay, những trang viết của ông như một hành trình gom nhặt lại những ký ức xưa cũ về Sài Gòn. Chính những tác phẩm ấy là bằng chứng cho thấy: Sài Gòn không chỉ tồn tại trên bản đồ, mà sống động trong văn hóa, tâm tưởng và cả trong từng chi tiết đời sống hàng ngày của người dân.

Bởi vậy, khi cái tên “Sài Gòn” trở lại trong một vị trí hành chính cụ thể, đó không đơn thuần là sự phục dựng danh xưng, mà là sự thừa nhận giá trị văn hóa, tinh thần mà vùng đất này đã và đang mang trong mình. Nhưng câu chuyện không chỉ dừng ở ký ức hay bản sắc. Việc sáp nhập, thay đổi đơn vị hành chính lần này còn là một phần trong chiến lược cải tổ toàn diện, nhằm nâng cao hiệu quả quản lý, tinh gọn bộ máy và hướng đến một đô thị hiện đại.

Bởi vậy, mô hình hành chính mới không đơn thuần là tinh gọn bộ máy, mà còn là cơ hội để đẩy mạnh ứng dụng công nghệ, hiện đại hóa quản lý, nâng cao chất lượng dịch vụ công và cuộc sống người dân. Đây là một phần trong chiến lược phát triển bền vững, toàn diện và hội nhập sâu rộng mà Việt Nam đang theo đuổi. Và để chiến lược đó đi vào thực tế, không thể thiếu sự góp sức của mỗi cá nhân - những người đang sống, làm việc, học tập và trực tiếp cảm nhận từng thay đổi nhỏ nhất trong đời sống hàng ngày.

Đổi mới không chỉ đến từ chính sách, mà bắt đầu từ chính chúng ta - những người kiến tạo nên diện mạo mới cho đô thị mỗi ngày.

Thế hệ trẻ giữ vai trò tiên phong trong hành trình đổi mới

Đổi mới không phải là khẩu hiệu treo tường, mà là từng hành động cụ thể mỗi ngày: một sinh viên chọn học thêm kỹ năng mềm; một kỹ sư chủ động cập nhật công nghệ mới; một giáo viên thay đổi cách giảng dạy để học sinh dễ tiếp cận tri thức hơn. Con đường học vấn không chỉ là hành trang cá nhân, mà còn là cách mỗi người góp phần xây dựng quốc gia trong thời đại tri thức. Như lời Tổng Bí thư Tô Lâm đã nói: “Mỗi ngày làm việc là một ngày kiến tạo”. Và với người trẻ hôm nay, sự kiến tạo ấy chính là học tập, là tư duy phản biện, là sự dấn thân vào hành trình đổi mới - không chỉ để thay đổi bản thân, mà còn để thay đổi xã hội.

Những thay đổi ấy đang diễn ra ở khắp nơi: từ miền núi, hải đảo xa xôi đến các đô thị trung tâm hay những vùng sáp nhập mới. Và câu chuyện của Sài Gòn hôm nay - một địa danh cũ trở lại trong hình hài hành chính mới chỉ là một lát cắt trong bức tranh cải tổ rộng lớn mà cả nước đang cùng nhau vẽ nên.

Tên gọi có thể đổi. Địa giới có thể gộp. Nhưng khát vọng vươn lên, ý chí tự cường và tinh thần làm chủ vận mệnh thì vẫn còn nguyên vẹn, thậm chí mạnh mẽ hơn bao giờ hết.

Sài Gòn hôm nay đang bước vào một hành trình mới: hành trình của hiện đại, của tinh gọn, của đổi mới. Nhưng trên hết, đó là hành trình mà trong đó, người dân không chỉ là đối tượng của thay đổi, mà là chủ thể kiến tạo.

Một cái tên trở lại. Và cả một thời đại mới - bắt đầu.

Thùy Dương

Đọc bài viết

Trà chiều

Tết Đoan Ngọ ở Việt Nam có gì khác các nước đồng văn?

Published

on

Mỗi năm vào ngày mùng 5 tháng 5 âm lịch, Việt Nam và các nước đồng văn như Trung Quốc, Hàn Quốc và Nhật Bản lại cùng nhau chào đón một dịp lễ truyền thống mang đậm dấu ấn văn hóa phương Đông: Tết Đoan Ngọ. Dù tên gọi và nghi lễ có phần khác biệt, ngày lễ này đều gắn liền với ý nghĩa thanh lọc cơ thể, xua đuổi bệnh tật và bảo vệ sức khỏe trong thời khắc giao mùa quan trọng của năm. Từ bữa cơm "diệt sâu bọ" của người Việt, tục uống rượu hùng hoàng ở Trung Quốc, đến gội đầu và xông hơi bằng thảo dược ở Hàn Quốc; Tết Đoan Ngọ không chỉ phản ánh đời sống tâm linh mà còn cho thấy sự giao thoa và phát triển đa dạng của các nền văn hóa Á Đông.

Nguồn gốc và tục lệ Tết Đoan Ngọ ở Việt Nam

Ở nước ta, Tết Đoan Ngọ được dân gian gọi bằng một cái tên dân dã: Tết diệt sâu bọ vì người ta tin rằng khi ăn món đầu tiên trong ngày này thì sâu bọ, giun sán trong người sẽ bị chết hết. Theo nhà nghiên cứu văn hóa Trần Ngọc Thêm, ngày Tết này của Việt Nam có nguồn gốc chung với các dân tộc Bách Việt sinh sống ở khu vực Nam Trung Hoa và Bắc Đông Dương. Đây là vùng canh tác lúa nước lâu đời, nơi khí hậu mùa hè nóng bức ảnh hưởng xấu đến sức khỏe con người. Tuy nhiên, nhờ vào kinh nghiệm quan sát thời tiết để canh tác, người dân nơi đây đã hình thành nên Tết Đoan Ngọ như một nghi lễ nhằm thích ứng và tận dụng quy luật tự nhiên trong chu kỳ khí hậu hàng năm. 

Đặc biệt hơn, đây còn là ngày mang tính biểu tượng của ngày giỗ Quốc Mẫu Âu Cơ - ngày vô cùng quan trọng trong đời sống văn hóa tâm linh của mỗi người dân Việt. Ca dao ông cha ta có câu: Tháng Năm ngày tết Đoan Dương/ Là ngày giỗ Mẹ Việt Thường Văn Lang.  

Theo truyền thống của dân tộc Việt, người dân ăn tết Đoan Ngọ bằng sự cúng lễ. Tại các làng xã có lễ thần tại đình, đền; ở thôn, xóm có cúng tại miếu còn trong mỗi gia đình, mâm cỗ được dâng lên tổ tiên. Vì đây là thời điểm tiết trời nắng gắt nhất trong năm (Cực Âm – tiết Hạ chí), nên các món ăn thường là đồ nguội, mát mang tính hàn. Những món không thể thiếu trong mâm cỗ cúng Tết Đoan Ngọ ở khắp 3 miền là rượu nếp (cơm rượu) và trái cây. Trái cây được chọn có hình tròn như vải, mận (miền Nam gọi là mận bắc), hạt sen (làm chè). 

Ngoài ra, ẩm thực Tết Đoan Ngọ cũng có nhiều điểm khác nhau ở 3 miền. Miền Bắc thường có bánh gio trên bàn cúng, từ Thanh Hóa vào đến Huế thường nấu xôi ăn với thịt vịt. Người dân từ Đà Nẵng đến Quảng Ngãi thường cho trẻ nhỏ vào vườn hái quả ăn, một số ít gia đình nấu xôi chè cúng lễ. Trong khi đó, người nông dân miền Nam thường đúc bánh lọt, nấu chè trôi nước và xôi gấc cúng tổ tiên rồi cả nhà quây quần cùng nhau ăn. Với tư duy tiếp biến làm mới cách chế biến, trang trí, phong vị các món chay truyền thống cùng mong muốn giao thoa ẩm thực 3 miền, bạn có thể tham khảo công thức món chè trôi nước tam sắc trong cuốn Thanh tịnh mâm cỗ Việt của hai tác giả Hồ Đắc Thiếu Anh Nguyễn Hồ Tiếu Anh.

Nguồn gốc và tục lệ Tết Đoan Ngọ ở Trung Quốc 

Khác với Việt Nam, ý nghĩa ngày tết Đoan Ngọ của người Trung Hoa gắn với tích về ông Khuất Nguyên nước Sở cuối thời chiến quốc. Là một nhà thơ và chính trị gia nước Sở, ông nổi tiếng vì lòng yêu nước và tài văn chương. Sau khi bị vu cáo và thất sủng, ông sống trong đau khổ và sáng tác thiên "Ly Tao" thể hiện nỗi lòng. Những ngày cuối đời, ông bị đày đến Giang Nam, rồi trong tuyệt vọng, đã tự vẫn bằng cách ôm đá nhảy xuống sông Mịch La. Theo truyền thuyết ấy, hàng năm người ta tổ chức ngày mồng 5 tháng 5 là ngày Tết Đoan Ngọ để tưởng nhớ ông. 

Cũng theo tích trên, sau khi Khuất Nguyên trầm mình xuống sông Mịch La, người dân Trung Quốc xưa đã tổ chức chèo thuyền ra cứu ông nhưng không thành. Từ đó, truyền thống đua thuyền rồng vào ngày Tết Đoan Ngọ ra đời để tưởng niệm ông. Ngoài ra, người Trung Quốc còn giữ nhiều phong tục đặc trưng trong dịp lễ này như đeo túi thơm để xua đuổi tà ma, hái thuốc, hái trà và tổ chức lễ hội rước rồng ở một số vùng dân tộc thiểu số như người Mèo.

Hoạt động đua thuyền rồng trong ngày Tết Đoan Ngọ

Về ẩm thực, người Trung Quốc ăn bánh ú (zongzi) với nhiều loại nhân tùy vùng như thịt, đậu xanh, long nhãn, trứng muối hay bột dẻ…và uống rượu hùng hoàng - một loại rượu có pha khoáng chất màu vàng, được tin là có thể xua đuổi sâu bọ và tà khí.

Nguồn gốc và tục lệ ở Hàn Quốc 

Còn tại xứ sở kim chi, ngày Tết Đoan Ngọ được biết đến với tên gọi Dano (단오) hay Surinal (수릿날). Ở đây, “Suri” có nghĩa là “Thần”, là “cao”, tức là vị thần tối cao, ám chỉ mặt trời. Tết Đoan Ngọ báo cho mọi người biết ánh nắng chói chang của mùa hè sắp lan tỏa khắp nơi, cây cối hoa màu cũng sắp tới thời điểm sinh trưởng tốt tươi nhất trong năm. Người ta tổ chức các hoạt động ăn chơi nhằm tượng trưng cho sức mạnh và sự cường tráng, cầu nguyện cho mùa màng bội thu không bị sâu bệnh phá hoại.

Phong tục tập quán truyền thống tiêu biểu nhất của Hàn Quốc trong ngày Tết Đoan Ngọ là đấu vật truyền thống Ssireum. Trước kia, người giành chiến thắng trên sân đấu vật thường được thưởng một con bê. Vào ngày Tết Đoan Ngọ xa xưa, phụ nữ thường kéo nhau ra suối gội đầu bằng nước lá cỏ Thạch Dương Bồ, rồi chơi đánh đu. Đến cả các cô gái đài các giới thượng lưu ngày thường chỉ quanh quẩn trong dinh thự, nhưng tới Tết Đoan Ngọ cũng được cha mẹ cho phép ra ngoài ngắm cảnh.

Bánh Suritteok và Yaktteok là hai loại bánh truyền thống làm từ gạo, các loại hạt và lá cây được người Hàn thưởng thức trong ngày 5/5 này. Nếu như bánh Suritteok chỉ đơn giản là chiếc bánh ngải cứu hình bánh xe thì những chiếc bánh Yaktteok đa dạng hơn khá nhiều. Cũng được làm từ gạo không dính nấu chín nhưng không phải với lá ngải cứu mà với các loại hạt khác nhau và tạo thành những hình dáng phong phú.

Như vậy, không chỉ là dịp đánh dấu bước chuyển quan trọng trong chu kỳ mùa vụ và thời tiết, Tết Đoan ngọ còn là tấm gương phản chiếu bản sắc văn hóa riêng của các quốc gia Á Đông. Dù cùng chung cội nguồn từ nền văn minh nông nghiệp lúa nước và chịu ảnh hưởng của triết lý phương Đông, mỗi dân tộc lại sáng tạo nên những phong tục, nghi lễ mang màu sắc riêng. Việc tiếp nối và gìn giữ các giá trị này không chỉ giúp mỗi dân tộc lưu giữ ký ức văn hóa truyền thống, mà còn góp phần tạo nên sự đa dạng và sâu sắc trong di sản tinh thần chung của khu vực.

Hà Nhi

Đọc bài viết

Trà chiều

Phía sau Ngày của Mẹ: Câu chuyện lịch sử bị lãng quên

Published

on

Ít ai biết rằng, Ngày của Mẹ khởi nguồn như một phong trào của những người phụ nữ mong muốn mang lại cuộc sống tốt đẹp hơn cho người dân Mỹ. Nguồn gốc bị lãng quên ấy xuất phát từ hai nhà hoạt động suốt đời cống hiến những nỗ lực cải thiện y tế, phúc lợi và hòa bình. Hiểu về lịch sử Ngày của Mẹ - để thêm trân trọng và tìm thấy cảm hứng từ đó.

Ai là người sáng lập ra Ngày của Mẹ?

Việc tạo ra một ngày lễ quốc gia dành riêng cho mẹ phần lớn là công lao của ba người phụ nữ: Julia Ward Howe, Ann Reeves Jarvis, và con gái của Ann - Anna M. Jarvis.

Ann Reeves Jarvis

Được nhiều người gọi trìu mến là “Mẹ Jarvis”, Ann Reeves Jarvis là một người nội trợ trẻ sống ở vùng núi Appalachian, từng giảng dạy trong lớp học Kinh Thánh mỗi Chủ nhật. Nhưng bên cạnh đó, bà còn là một nhà hoạt động xã hội suốt đời. Vào giữa thế kỷ 19, bà đã tổ chức các “Câu lạc bộ hành động của những người Mẹ” (“Mothers’ Day Work Clubs”) tại West Virginia nhằm chống lại điều kiện sống mất vệ sinh nghiêm trọng lúc bấy giờ. Mẹ Jarvis lo lắng trước tỷ lệ trẻ sơ sinh tử vong quá cao - thậm chí trở nên tràn lan tại khu vực này, đồng thời mong muốn hỗ trợ và giáo dục các bà mẹ đang gặp khó khăn nhất.

Trong thời kì nội chiến Hoa Kỳ, bà tiếp tục tổ chức các đoàn phụ nữ, khuyến khích họ cùng giúp đỡ, bất kể chồng con họ đang đứng về phe nào. Sau chiến tranh, bà đề xuất tổ chức một “Ngày tình thân của những người Mẹ” (Mothers’ Friendship Day) - với hy vọng hàn gắn những rạn nứt giữa các gia đình từng đứng ở hai chiến tuyến: Liên minh miền Nam và Liên bang miền Bắc.

Julia Ward Howe

Julia Ward Howe là một nhà thơ và nhà cải cách nổi tiếng. Trong thời kỳ Nội chiến, bà tình nguyện làm việc cho Ủy ban Vệ sinh Hoa Kỳ, góp phần mang lại môi trường sạch sẽ cho các bệnh viện và đảm bảo điều kiện vệ sinh trong việc chăm sóc thương binh, bệnh binh. Năm 1861, bà sáng tác bài thánh ca nổi tiếng của thời Nội chiến – “The Battle Hymn of the Republic”, lần đầu được phát rộng rãi vào tháng 2 năm 1862. 

Khoảng năm 1870, Julia đã kêu gọi tổ chức riêng một “Ngày của Mẹ vì hòa bình” (“Mother’s Day for Peace”) để tôn vinh hòa bình và chấm dứt chiến tranh. Trong bản “Tuyên ngôn Ngày của Mẹ” (“Mother’s Day Proclamation”) do bà viết, Julia cảm thấy rằng chính những người mẹ - những người phải gánh chịu và thấu hiểu cái giá phải trả của chiến tranh - cần phải cùng nhau lên tiếng chống lại sự tàn khốc và sự phí hoài cuộc sống vì súng gươm. 

“Ngày của Mẹ” theo góc nhìn của Julia từng được tổ chức tại Boston và một vài nơi khác trong khoảng 30 năm nhưng nhanh chóng biến mất vào những năm trước Thế chiến thứ nhất.

Không có gì mới mẻ diễn ra trong phong trào này cho đến năm 1907, khi cô Anna M. Jarvis ở Philadelphia tiếp tục giương cao ngọn cờ ấy. 

Anna M. Jarvis

Sau khi mẹ qua đời vào năm 1905, cô Anna M. Jarvis ở Philadelphia đã ấp ủ ước nguyện tưởng nhớ cuộc đời đầy cống hiến của mẹ mình. Cô bắt đầu vận động một ngày lễ toàn quốc nhằm tôn vinh tất cả những người mẹ. “Tôi hy vọng và cầu nguyện rằng rồi sẽ có ai đó, vào một lúc nào đó, lập nên một ngày tôn vinh mẹ - để ghi nhận những cống hiến vĩ đại mẹ dành cho nhân loại trong mọi khía cạnh của cuộc sống,” Anna từng khẳng định - “Mẹ xứng đáng với điều đó.” 

Ý tưởng của Anna không xoay quanh những công việc xã hội như mẹ cô từng theo đuổi, mà thiên về việc tôn vinh vai trò thiêng liêng của người mẹ và những hy sinh thầm lặng trong mái ấm gia đình. Cô không ngừng gửi điện tín, thư từ, và gặp gỡ trực tiếp các nhân vật có tầm ảnh hưởng cũng như các tổ chức xã hội để thuyết phục họ ủng hộ. Dù tổ chức lớn hay nhỏ, cô đều kiên trì gửi thư trình bày ý tưởng của mình. Bằng chính tiền túi, Anna viết, in và phát hành hàng loạt tập sách ca ngợi Ngày của Mẹ.

Vì sao Ngày của Mẹ ở Mỹ lại rơi vào tháng 5?

Tháng 5 năm 1907, Anna tổ chức buổi lễ tưởng niệm để tưởng nhớ hành trình hoạt động không ngơi nghỉ của mẹ tại nhà thờ Giám Lý ở Grafton, West Virginia – nơi bà từng giảng dạy. Một năm sau, vào ngày 10 tháng 5, một buổi lễ chính thức nhân Ngày của Mẹ được tổ chức tại chính nhà thờ đó, lần này để vinh danh tất cả những người mẹ. Từ đây, ý tưởng dành riêng Chủ nhật thứ hai của tháng 5 để tôn vinh mọi người mẹ - dù còn sống hay đã khuất - bắt đầu hình thành.

Nỗ lực của Anna dần gây được sự chú ý. Thị trưởng Philadelphia là người đầu tiên tuyên bố tổ chức Ngày của Mẹ tại địa phương. Từ đó, Anna tiếp tục hành trình vận động ở thủ đô Washington, D.C. Các chính trị gia ở đây nhanh chóng nhận thấy đây là một đề xuất đáng giá và bày tỏ sự ủng hộ công khai.

West Virginia là bang đầu tiên chính thức công nhận ngày này. Sau đó, nhiều bang khác cũng làm theo. Việc các bang liên tiếp đưa ra tuyên bố công nhận Ngày của Mẹ đã dẫn đến việc Hạ nghị sĩ J. Thomas Heflin (bang Alabama) và Thượng nghị sĩ Morris Sheppard (bang Texas) cùng đệ trình một nghị quyết lên Quốc hội nhằm công nhận Ngày của Mẹ là ngày lễ trên toàn quốc. Cả hai viện của Quốc hội đều thông qua nghị quyết.

Đến năm 1914, Tổng thống Woodrow Wilson đã ký ban hành đạo luật chính thức công nhận Chủ nhật thứ hai của tháng 5 là ngày lễ quốc gia với tên gọi “Ngày của Mẹ” - dành riêng cho “người mẹ tuyệt vời nhất trên đời: mẹ của bạn.”

Trong những năm đầu tiên, Ngày của Mẹ được tổ chức một cách mộc mạc và đầy thành kính - thường là qua các buổi lễ nhà thờ để tưởng nhớ và vinh danh các bà mẹ, dù còn sống hay đã qua đời.

Ngọt ngào xen lẫn đắng cay khi kế thừa Ngày của Mẹ

Theo nhiều tài liệu, điều duy nhất mà Anna mong muốn là tưởng nhớ mẹ mình - người mà cô tin là người khởi xướng thực sự của Ngày của Mẹ. Nhưng khi ngày lễ trở nên phổ biến, Anna dần cảm thấy thất vọng khi nó bị thương mại hóa: người ta gửi thiệp, tặng hoa một cách máy móc. Thậm chí cô không đồng tình khi các tổ chức phụ nữ hay hội từ thiện dùng Ngày của Mẹ để gây quỹ - điều khá mâu thuẫn nếu nhìn vào lý tưởng y tế cộng đồng mà mẹ cô từng theo đuổi.

Năm 1948, Anna Jarvis qua đời tại một viện dưỡng lão trong tình trạng sa sút trí tuệ.

Ngày của Mẹ hiện nay

Ngày của Mẹ vẫn bền bỉ tồn tại và không ngừng phát triển. Cũng giống như khởi nguồn ngày lễ bắt đầu từ sự sáng tạo của nhiều người phụ nữ, Ngày của Mẹ trong thời đại hiện nay tôn vinh sự đa dạng trong vai trò của người mẹ hiện đại. Chúng ta nhớ ơn những người mẹ đã đấu tranh để cải thiện cuộc sống của con cái bằng nhiều cách - từ phúc lợi xã hội đến lý tưởng phi bạo lực. Và hơn hết, chúng ta thấu hiểu, trân trọng tinh thần dũng cảm cùng đức hy sinh quý giá vô ngần dành cho con trẻ từ lúc chúng mới lọt lòng.

Hà Nhi dịch từ Almanac

Đọc bài viết

Cafe sáng