Trà chiều

Có một Alice lạc lõng, u sầu trong Alice’s Adventures in Wonderland (1966)

Alice’s Adventures in Wonderland cũng chỉ là giấc mộng thoáng qua của một cô bé mà hơn 100 năm đã trôi qua vẫn không ngừng đeo đuổi, ám ảnh và truyền cảm hứng cho biết bao tác phẩm

Published

on

Nền điện ảnh thế giới đến nay đã có vô số bản chuyển thể Alice’s Adventures in Wonderland, bao gồm cả phiên bản gần đây của Tim Burton. Nhưng một trong những bản chuyển thể ấn tượng nhất với mình là bộ phim truyền hình chiếu trên BBC vào năm 1966 của đạo diễn Jonathan Miller.

Mọi người đều quen thuộc với hình ảnh cô bé Alice tóc vàng mặc váy xanh da trời mang tạp dề, tung tăng trong xứ sở thần tiên và trò chuyện cùng những loài động vật biết nói. Nhưng bộ phim đen trắng của Jonathan Miller chẳng có điểm gì giống thế.

Được quay bằng máy quay 35mm, bản phim 1966 không có âm nhạc nhộn nhịp hay hiệu ứng đặc biệt, lại càng thiếu vắng những chi tiết mua vui cho trẻ con. Jonathan Miller đã định vị đây là bộ phim truyền hình hướng tới người lớn, chiếu vào quãng thời gian sau 9 giờ tối.

Bộ phim của Jonathan Miller hướng đến người lớn

Trước khi phim phát sóng, Mary Jean St Clair – cháu gái của Alice Liddell (nguyên mẫu nhân vật Alice) đã lo ngại Jonathan Miller sẽ xây dựng hình tượng bà của cô sai lệch với hiện thực. Thậm chí nhiều người còn sợ rằng Jonathan Miller sẽ phá hỏng sự trong sáng của nguyên tác bằng những tình tiết “người lớn”.

Nhưng hóa ra lo ngại của họ bằng thừa, bởi đoàn làm phim biết chính xác mình đang làm gì.

Bản phim năm 1966 tập trung khắc họa bầu không khí kỳ ảo, mơ màng của nguyên tác, thay vì theo đuổi sự kì dị và hài hước như phần đông khán giả mong đợi.

Bao trùm bộ phim là bầu không khí như trong mơ của một mùa hè vĩnh hằng. Bối cảnh chỉ xoay quanh những đồng cỏ hoang vắng dưới nắng hè, những tòa nhà, hành lang bỏ hoang im lìm nơi cô bé Alice dạo chơi. Không có hang thỏ ở đây, Alice một mình bước qua hành lang dài. Những tấm màn trắng phồng lên trước cơn gió vô hình. Chớp mắt, em đã thấy mình lạc vào thế giới khác.  

Tạo hình Alice trong bản phim BBC

Hình tượng Alice trong phim được lấy cảm hứng từ tranh minh họa của Lewis Carroll thay vì dựa trên thiết kế nhân vật của họa sĩ John Tenniel. Chẳng là Lewis Carroll, tên thật là Charles Lutwidge Dodgson, đã viết tay và đích thân vẽ minh họa bản thảo câu chuyện đầu tiên để tặng bé Alice Liddell mà ông yêu quý như món quà dịp Giáng Sinh. Chính vì thế nên cô bé Alice trong bản phim BBC (do Anne-Marie Mallik thủ vai) mang vẻ mặt u sầu, nghiêm trang và mái tóc xù như những nàng thơ của trường phái Pre-Raphaelite – một trường phái hội họa thời Victoria ở Anh Quốc. Có lẽ do Lewis Carroll sống cùng thời với nhóm họa sĩ trường phái này và đã xem qua khá nhiều tranh của họ nên không tránh khỏi bị ảnh hưởng phong cách vẽ.

Lewis Carroll vẽ Alice

Phim cũng không có màn người hóa trang thành thú biết nói như các bản phim trước đó. Diễn viên trong vai các nhân vật kinh điển như mèo Cheshire, White Rabbit, March Hare… hoàn toàn không hóa trang, chỉ mặc tuxedo như người bình thường. Trong một bài phỏng vấn, Jonathan Miller giải thích ý đồ của mình: “Nếu bỏ hết lớp vỏ ngoài thú vật đi, thì tác phẩm đơn thuần xoay quanh một cô bé vật lộn giữa ngưỡng trưởng thành và sự trẻ thơ, mà những con thú trong truyện chính là những người lớn được thú hóa vậy“.

Cảnh Alice chạy theo Thỏ trắng

Bản phim của BBC thường xuyên trích dẫn những bài đồng dao hay thơ trong tác phẩm gốc, trong khi ở các bản chuyển thể khác, nhà làm phim thường chỉ giữ lại những bài thơ nổi tiếng như Jabberwocky. Đặc biệt, đạo diễn Jonathan Miller còn để Alice mở đầu phim bằng một bài thơ của William Wordsworth – “Intimations of Immortality”:

“There was a time when meadow, grove, and stream,
The earth, and every common sight,
To me did seem
Apparell’d in celestial light…”

(mình không dịch thơ được, nhưng ý bài thơ diễn xuôi đại loại thế này: “Có một thời mà đồng cỏ, lùm cây, những con suối, cả đất trời và từng quang cảnh bình thường nhất đối với tôi đều trông như được tắm mình trong ánh sáng thiên đường”).

Alice luôn trưng ra bộ mặt chán chường

Quả thật, Jonathan Miller đã nhìn tác phẩm như là câu chuyện về một thiếu nữ lưỡng lự khi đứng trước ngưỡng cửa trưởng thành. Xuyên suốt phim, cô bé Alice luôn giữ vẻ mặt chán chường, đáp trả người khác bằng những câu nói cộc lốc, thậm chí là xấc xược khi chứng kiến thế giới người trưởng thành với đủ các trò điên loạn, vô lí (như phiên tòa cuối phim của Nữ hoàng Đỏ chẳng hạn). Vậy nên ta cũng có thể hiểu câu chuyện trong phim được kể qua góc nhìn của cô thiếu nữ Alice đang sắp sửa bước vào một thế giới hỗn loạn, kì quái mà em không thể nào hiểu nổi.

Bản thân Lewis Carroll luôn thân với trẻ nhỏ hơn là người lớn. Và William Wordsworth, thi sĩ lãng mạn người Anh, đã luôn gắn bó với thiên nhiên, với tuổi thơ hơn là với những mối quan hệ người lớn. Họ là những linh hồn còn mãi kẹt lại trong ấu thơ vĩnh cửu, quãng thời gian mà ta còn cảm thấy vạn vật trên Trái Đất nguyên vẹn và tươi mới như được tắm mình trong thứ ánh sáng đến từ thiên đường. Khi ta lớn lên, ánh sáng đó lịm tắt. Xin trích nốt vài câu nữa của bài thơ trên.

“The glory and the freshness of a dream.
It is not now as it hath been of yore;— 
Turn wheresoe’er I may, 
By night or day, 
The things which I have seen I now can see no more.”

(đại ý: Giấc mơ bây giờ không còn vẻ rực rỡ và tươi mới như những ngày xưa cũ, dù tôi có kiếm tìm nơi đâu, cả đêm lẫn ngày. Những thứ mà tôi thấy trước đó, giờ tôi không còn thấy nữa.)

Alice đi trong khu vườn ở xứ sở thần tiên

Nhưng rồi Lewis Carroll đã nói gì về ánh sáng và những giấc mơ?

“In a Wonderland they lie,
Dreaming as the days go by,
Dreaming as the summers die;
Ever drifting down the stream–
Lingering in the golden gleam–
Life, what is it but a dream?”

(ta chỉ cần chú ý đến câu thơ cuối: Đời là chi, hay chỉ là một cơn mộng?)

Nói thế không sai, vì cả tác phẩm Alice’s Adventures in Wonderland cũng chỉ là giấc mộng thoáng qua của một cô bé. Mà hơn 100 năm đã trôi qua, giấc mộng ấy vẫn không ngừng đeo đuổi, ám ảnh và truyền cảm hứng cho biết bao tác phẩm, công trình nghiên cứu ngay cả trong những lĩnh vực vượt ngoài phạm trù văn chương nghệ thuật như y học, triết học, tâm lí học.

Nếu bạn là người yêu thích nguyên tác Alice’s Adventures in Wonderland, chắc chắn không thể bỏ qua bộ phim này. Nhưng nếu chỉ đơn thuần muốn thưởng thức một bộ phim nói về tuổi trưởng thành với góc quay đẹp và tư duy nghệ thuật khác lạ, thì bản phim năm 1966 đang chờ bạn khám phá.

Hải Đường

Tham khảo:
Sense of Cinema, “That’s the Great Puzzle: Who Am I?”: Jonathan Miller’s Alice in Wonderland (1966), Michelle J. Smith.

Trà chiều

Thế giới viễn tưởng độc đáo trong bốn bộ phim mang đậm tính thể nghiệm

Published

on

Thế giới của phim khoa học viễn tưởng không phải lúc nào cũng chỉ có AI, robot, hay du hành không gian mà còn vô vàn những điều đặc biệt khác có thể bạn chưa biết.

Năm 2023 vừa qua đã ghi nhận sự phát triển ngày càng mạnh mẽ của AI. Điều đó khiến cho dòng phim khoa học viễn tưởng nhận được nhiều sự quan tâm trở lại. Nhắc đến dòng phim này, người ta vẫn thường đóng khung nó với vài yếu tố tiêu biểu thường gặp như: AI, robot, du hành vũ trụ, thế giới song song… Tuy nhiên, có rất nhiều tác phẩm sci-fi kinh điển đã chứng minh điều ngược lại.

Hãy cùng Bookish khám phá những bộ phim sci-fi không thuần túy là sci-fi vì ở đó, người xem được tận hưởng bữa tiệc điện ảnh đỉnh cao với những hương vị hòa quyện mĩ mãn từ nhiều thể loại khác nhau.

Back to The Future (1985)

Sci-fi x Road Trip Comedies

Cùng với The Terminator, Back To The Future ra đời năm 1985 đã trở thành biểu tượng kinh điển của dòng phim sci-fi lấy chủ đề du hành thời gian. Đó cũng là một trong những nguyên nhân mà bộ phim này được nhắc đến nhiều lần trong Avengers: Endgame lúc cả nhóm quyết định quay về quá khứ.

Tuy nhiên, không giống như The Terminator, Back To The Future mang màu sắc vui nhộn, hài hước của lứa tuổi học trò. Cậu học sinh tuổi teen Marty McFly ở thập niên 80 vô tình bị kéo về quá khứ trên chiếc xe cỗ máy thời gian của nhà khoa học Emmett Brown. Cậu quay trở về thập niên 50 – lúc này bố mẹ cậu cũng ở lứa tuổi học trò như cậu. Để có thể quay về hiện tại năm 80, cậu phải tìm cách hàn gắn mối quan hệ của bố mẹ, nếu không bản thân cậu cũng sẽ không tồn tại ở năm 80. Từ đó, câu chuyện nảy sinh nhiều tình huống dở khóc dở cuối. Nếu như The Terminator là sự phối trộn hoàn hảo giữa thể loại sci-fi và hành động thì Back To The Future lại là màn kết hợp ăn ý giữa thể loại sci-fi và hài hành trình. Bộ phim tốn kinh phí thực hiện là 19 triệu USD nhưng lại có doanh thu phòng vé lên đến 388 triệu USD. Chính vì thành công này mà đạo diễn Robert Zemeckis đã thực hiện hai phần tiếp theo cũng vui nhộn không kém.

Snowpiercer (2013)

Sci-fi x Dystopia

Bong Joon Ho không chỉ tạo ra những bộ phim sâu sắc về đề tài xã hội mà ông còn có khả năng làm phim khoa học viễn tưởng rất chặt chẽ, thuyết phục. Điều này thể hiện rõ nhất qua Snowpiercer. Phim dựa trên tiểu thuyết Pháp Le Transperceneige lấy đề tài hậu tận thế. Trong tương lai, sau một thí nghiệm thất bại, khí hậu toàn cầu biến đổi dẫn đến gần như toàn bộ sinh vật đều bị diệt vong, ngoại trừ một số người may mắn có mặt trên con tàu Snowpiercer chạy vòng quanh Trái đất với động cơ vĩnh cửu. Tại đây, một xã hội thu nhỏ mới lại được hình thành. Dưới bàn tay tài hoa của Bong Joon Ho, Snowpiercer cũng không đơn giản là tác phẩm sci-fi thuần túy mà ông còn lồng ghép vào nhiều thể loại khác nhau: có những phân đoạn hành động mãn nhãn, đồng thời cũng có những phân đoạn dí dỏm, và cách đặt vấn đề về giai tầng xã hội vẫn mang phong cách rất đặc trưng của Bong. 

Eternal Sunshine Of The Spotless Mind (2004)

Sci-fi x Romance

Sẽ như thế nào nếu kết hợp thể loại sci-fi với phim tình cảm? Khi đó, chúng ta sẽ có kiệt tác Eternal Sunshine Of The Spotless Mind của bộ đôi đạo diễn Michel Gondry và biên kịch Charlie Kaufman. Bộ phim sử dụng đề tài “can thiệp kí ức” để khám phá bản năng con người khi tình yêu tan vỡ. Sẽ ra sao nếu khi chia tay một ai đó, bạn có thể xóa toàn bộ những kí ức vui buồn liên quan đến họ ra khỏi tâm trí? Sau khi Joel biết được Clementine – người yêu cũ của anh đã xóa kí ức tình yêu, anh quyết định bản thân mình cũng sẽ thực hiện việc này. Nhưng khi anh khám phá được điều gì đã khiến họ gắn kết rồi lại chia xa, anh nhận ra mình vẫn còn tình cảm dành cho cô. Nếu như công nghệ trong phim là thứ hư cấu thì cảm xúc giữa hai nhân vật trong Eternal Sunshine hoàn toàn chân thực, lay động trái tim người xem, khiến ai cũng phải thổn thức.

Under The Skin (2013)

Sci-fi x Experimental film

Cuối cùng, không thể không nhắc đến bộ phim sci-fi mang tính thể nghiệm, tiên phong đáng nhớ: Under The Skin. Có rất nhiều phim lấy đề tài sinh vật ngoài hành tinh xâm nhập Trái đất, nhưng có lẽ chưa bộ phim nào kể câu chuyện thật đặc biệt nhưng lại với nhịp điệu từ tốn như Under The Skin. Scarlett Johansson trong vai sinh vật ngoài hành tinh vô danh chỉ làm đúng một công việc là đi lang thang trên một chiếc xe tải, lựa chọn những người đàn ông cô đơn làm con mồi. Bộ phim rất kiệm lời thoại, khiến người xem rợn người không chỉ bởi những hình ảnh thị giác lạ mắt mà còn bởi thứ âm nhạc cũng đầy tính thể nghiệm độc đáo của Mica Levi. Tuy nhiên, nếu chỉ tập trung vào thể nghiệm mà bỏ qua nội dung, Under The Skin đã không gây được tiếng vang lớn như thế trong cộng đồng điện ảnh. Sau tất cả, bộ phim của đạo diễn Jonathan Glazer lại khiến người xem trăn trở nhiều về thân phận làm người.

Hoàng Đức Nhiên

Đọc bài viết

Trà chiều

The Terminator & Blade Runner: Hai tượng đài điện ảnh độc đáo của thập niên 80

Published

on

Cùng ra mắt vào thập niên 80, The Terminator (1984) và Blade Runner (1982) đều là hai kiệt tác điện ảnh độc đáo, góp phần rất lớn trong việc tạo ra diện mạo mới cho thể loại sci-fi.

Bài viết này sẽ dẫn dắt bạn khám phá những vấn đề khác nhau được đặt ra trong hai phim: từ những dòng suy tư về mối liên hệ nhân quả giữa hành động và thời gian trong The Terminator đến không gian đô thị đậm chất noir và những truy vấn về bản chất con người trong Blade Runner.

The Terminator (1984)

The Terminator là bước đột phá ngoạn mục trong sự nghiệp điện ảnh của đạo diễn James Cameron. Vào thời điểm ra mắt, bộ phim gây ấn tượng bởi việc pha trộn nhiều đặc tính giữa các thể loại khác nhau, mang đến màu sắc mới cho dòng phim sci-fi.

The Terminator kể câu chuyện về một người máy sát thủ ra đời năm 2029, được trao nhiệm vụ quay về năm 1984 để giết người phụ nữ trẻ tên là Sarah Connor. Sarah hoàn toàn không biết rằng cuộc đời cô có ảnh hưởng đáng kể đến số phận nhân loại và cô có thể chết bất cứ lúc nào dưới sự truy sát của cỗ máy bất khả chiến bại được gọi là Kẻ Hủy Diệt. Kyle Reese cũng đến từ tương lai nhưng nhiệm vụ của anh là bảo vệ Sarah – người mẹ của thủ lĩnh tương lai.

Với cốt truyện như thế, The Terminator vừa có những pha hành động mãn nhãn, vừa có nhiều tầng suy tư phức tạp về dòng chảy của thời gian, về phương thức thay đổi một sự kiện trong quá khứ có thể dẫn đến tương lai khác biệt hoàn toàn – đây vốn là chủ đề hiếm gặp trong phim hành động ở giai đoạn đó. Ngoài ra, những bản nhạc nền tạo không khí căng thẳng của nhạc sĩ Brad Fiedel cũng góp phần lớn vào thành công của phim.

Tất cả những nhân tố đó đã khiến phim trở thành một mảnh ghép quan trọng của văn hóa đại chúng đến tận ngày nay. Câu nói “I'll be back” của nhân vật Kẻ Hủy Diệt trong phim được sử dụng phổ biến, trở thành slogan thương hiện cho chính Arnold Schwarzenegger.

Từ năm 1984 đến nay, The Terminator đã sản xuất 6 phần phim: The Terminator (1984), Terminator 2: Judgment Day (1991), Terminator 3: Rise of the Machines (2003), Terminator Salvation (2009), Terminator Genisys (2015), Terminator: Dark Fate (2019). Tất cả những phần phim này đều đạt được doanh thu khủng, riêng phần đầu tiên The Terminator đã trụ vững ở vị trí số 1 trên bảng xếp hạng phòng vé ở Mỹ trong suốt hai tuần. Năm 2008, The Terminator đã được Thư viện Quốc hội Hoa Kỳ đưa vào Viện lưu trữ phim quốc gia để bảo tồn với lí do là bộ phim “nổi bật ở phương diện văn hóa, lịch sử, và mĩ học”.                          

Blade Runner (1982)

Không may mắn như The Terminator, Blade Runner của đạo diễn Ridley Scott là một tuyệt tác có số phận khá hẩm hiu khi vừa ra đời. Tuy nhiên, qua nhiều thập kỉ với những bản dựng khác nhau, tác phẩm này đã trở thành một tượng đài lớn của thể loại sci-fi.

Dựa trên tiểu thuyết gốc Do Androids Dream Of Electric Sheep? của nhà văn Philip K. Dick, Blade Runner vẽ nên viễn cảnh ảm đạm của thế giới vào năm 2019. Khi đó, thế giới tràn ngập những replicant – người máy có hình dạng giống con người, được tạo ra với vòng đời ngắn ngủi để làm những công việc nguy hiểm phục vụ cho con người. Một nhóm replicant bất mãn trước việc này đã làm một cuộc phản loạn, quay trở về Trái Đất và giết con người. Rick Deckard, một cảnh sát đã nghỉ hưu ở Los Angeles nhận nhiệm vụ phải truy lùng và tận diệt toàn bộ nhóm replicant nổi loạn này.

Blade Runner là sự pha trộn giữa sci-fi, trinh thám và phim noir – thể loại phim hình sự tội phạm mang đậm phong cách Hollywood, thường thể hiện thái độ hoài nghi, mỉa mai. Thông qua hành trình của Rick Deckard, bộ phim đặt ra nhiều câu hỏi triết học về tính người, thế nào là một con người.

Nhưng không chỉ sâu sắc về nội dung, Blade Runner còn là bữa tiệc chiêu đãi về thị giác qua cách bộ phim thể hiện không gian đô thị tương lai với những màn hình quảng cáo lớn, đèn neon luôn lấp lánh và đường phố lúc nào cũng nhộn nhịp. Cảm hứng thị giác của phim kết hợp từ những bức tranh cổ điển của danh họa Edward Hopper và các khu phố với những tòa nhà chọc trời ở Hong Kong. Sự kết hợp này đã tạo nên không gian thị giác ấn tượng của phim khi con người bị nhấn chìm trong công nghệ. Mĩ thuật của phim tạo ảnh hưởng lớn đến cách xây dựng không gian cho những phim sci-fi hay hành động của Hollywood ra đời sau đó như: The Matrix (1999), bộ ba Dark Knight (2005 – 2012) của đạo diễn Christopher Nolan, Ghost in the Shell (2017)…

Ngày nay, Blade Runner đã có một chỗ đứng không thể thay thế trong dòng phim sci-fi với nhiều ảnh hưởng mang tính định hình về mĩ thuật, tư duy về cách kể chuyện và nhân vật. Blade Runner 2049 – phần tiếp theo của phim ra đời vào năm 2017, đúng 35 năm kể từ phần đầu tiên đã không làm người hâm mộ thất vọng với điểm số trên Rotten Tomatoes lên đến 88%.

Hoàng Đức Nhiên

Đọc bài viết

Trà chiều

Hai tác phẩm định hình dấu ấn cá nhân của đạo diễn James Cameron và Christopher Nolan

Published

on

Đạo diễn James Cameron và đạo diễn Christopher Nolan đều là những cá nhân kiệt xuất trong ngành điện ảnh với nhiều bộ phim kinh điển vừa đạt được doanh thu khủng, vừa có giá trị nghệ thuật cao.

Tuy nhiên, khi nhắc đến hai vị đạo diễn tài danh này, có hai tác phẩm đặc biệt mà người hâm mộ điện ảnh không thể nào bỏ lỡ.Hãy cùng Bookish khám phá những dấu ấn đặc trưng cá nhân của đạo diễn James Cameron trong Avatar và của đạo diễn Christopher Nolan trong Inception.  

Avatar (2009)

Năm 2009, bộ phim sci-fi Avatar của đạo diễn James Cameron ra đời đã tạo nên bước ngoặt lớn cho sự phát triển công nghệ điện ảnh. Lần đầu tiên, cả thế giới được xem một bộ phim 3D. Kĩ thuật thị giác đột phá đã khiến trải nghiệm của phim cực kì sống động.

Vào năm 2154, nguồn tài nguyên Trái đất trở nên cạn kiệt dưới sự khai thác của con người dẫn đến khủng hoảng năng lượng. Lúc bấy giờ, tập đoàn RDA đang khai thác unobtanium – một loại khoáng sản có giá trị tại Pandora, một hành tinh tươi tốt mang sự sống giống Trái Đất nhưng lại có bầu khí quyển độc hại cho con người. Pandora là nơi sinh sống của người Na'vi da xanh, có hình dáng và trí óc giống con người. Để tìm hiểu về người Navi và sinh quyển ở Pandora, các nhà khoa học sử dụng cơ thể người lai Na’vi gọi là các Avatar, được hoạt động thông qua liên kết thần kinh với những người có kiểu gen phù hợp. Jake Sully là một cựu lính thủy quân được giao nhiệm vụ trà trộn vào hành tinh Pandora. Quá trình thực hiện nhiệm vụ đã khiến anh bị giằng xé giữa việc tuân theo mệnh lệnh hay bảo vệ xứ sở mà anh đã trót xem là quê nhà.

Đạo diễn James Cameron đã mất đến 15 năm để thực hiện Avatar từ lúc bộ phimcòn là ý tưởng năm 1994 cho đến khi ra đời năm 2009. Sở dĩ bộ phim mất nhiều thời gian như vậy là do Cameron không chỉ trau chuốt về mặt nghệ thuật mà còn cả kĩ thuật: từ công đoạn làm việc với chuyên gia ngôn ngữ để tạo ra tiếng Na’vi với hơn 1000 từ, cho đến việc tạo ra kĩ thuật 3D. Sự kì công này khiến Avatar chiều lòng được cả khán giả đại chúng lẫn giới hàn lâm. Avatar luônđứng đầu danh sách phim ăn khách nhất mọi thời đại với doanh thu lên đến 2,7 tỉ USD, và chỉ bị Avengers: Endgame vượt mặt vào năm 2019 sau suốt 10 năm thống trị bảng vàng.            

Avatar 3 dự kiến sẽ ra mắt vào năm 2025, tiếp tục hứa hẹn mang đến những thành tích khủng trong tương lai. 

James Cameron

Inception (2010)

Hầu như những bộ phim của đạo diễn Christopher Nolan đều có các yếu tố như: du hành thời gian, tìm hiểu bản chất thế giới… khiến người xem vừa rối não lẫn rối lòng. Và Inception chính là một tác phẩm hội tụ đủ các yếu tố làm nên thương hiệu Nolan, trở thành một tượng đài khó quên trong lòng người hâm mộ.

Inception là một trải nghiệm điện ảnh đáng nhớ khi Nolan cố gắng hình tượng hóa kiến trúc tư duy của con người, biến tiềm thức trở thành không gian vật lí cho các hoạt động đánh cắp được diễn ra. Bộ phim kể về một tên trộm có khả năng đi vào giấc mơ của người khác. Dom Cobb không trộm gì cả, anh chỉ trộm ý niệm. Bằng việc thâm nhập vào tiềm thức của đối tượng, anh có thể lấy thông tin mà đến cả những tay hacker sừng sỏ nhất cũng không thể làm được. Trong thế giới điệp viên, Cobb là vũ khí tối thượng. Nhưng kể cả vũ khí cũng có nhược điểm, khi Cobb gần như mất tất cả mọi thứ, anh được giao một nhiệm vụ cuối cùng để chuộc lỗi. Lần này, Cobb không gặt lấy ý niệm, anh gieo nó. Liệu anh và đồng đội có thành công?

Christopher Nolan

Inception có một kịch bản hoàn hảo, từng thế giới giấc mơ xuất hiện trong phim vừa chính xác, tinh tế, đôi khi lại hài hước. Thời gian là chủ đề yêu thích của Nolan và ông luôn tìm được cách thể nghiệm thú vị, có thể thấy rõ điều này qua cả phim InterstellarDunkirk. Nhưng trong Inception, thời gian không chỉ là chủ đề mà còn là công cụ kể chuyện khi tái hiện lại hoàn hảo nỗi ám ảnh của kẻ cắp giấc mơ. Từ đó, bộ phim đặt ra nhiều câu hỏi hóc búa: liệu rằng ta có đang sống trong thời gian thực, khi nào thì một giấc mơ trở thành thực tế, khi nào thì thực tế hóa ra lại chỉ là một giấc mơ, ta đang thức hay còn mơ?

Thông qua Inception, Nolan lồng ghép rất nhiều khái niệm về sự logic giấc mơ, đảo ngược các nguyên tắc vật lí, cho thấy những thực tại có thể vỡ vụn ra sao… Tất cả hòa quyện vào nhau, tạo thành một tác phẩm sci-fi tâm lí đỉnh cao mà có lẽ nhiều thập kỉ sau, vẫn còn khiến người ta trầm trồ.

Hoàng Đức Nhiên

Đọc bài viết

Cafe sáng