Trà chiều

Em đã dạy tôi tất cả những điều quan trọng nhất về văn chương

Mỗi khi viết, em đều nghĩ đến thời gian người đọc sẽ dành cho nó, và em trân trọng thời gian của người đọc, đôi khi em còn trân trọng nó hơn cả thời gian mình dành ra để viết.

Published

on

Em đã dạy cho tôi biết về sách, về việc viết, những niềm vui và nỗi buồn xoay quanh văn chương… Vì nghĩ rằng biết đâu những điều em đã dạy tôi cũng sẽ có ích cho một người nào đó, tôi đã quyết định viết ra những điều này để lưu lại và chia sẻ với nhiều người. Và vì, việc đọc và việc viết sẽ luôn là điều quan trọng (có thể là quan trọng nhất) với chúng ta – tôi tin, hay ít nhất là hi vọng vào điều đó.

Đừng đọc em

Có lẽ, người viết nào cũng mong những gì mình viết ra được người khác đọc, đồng cảm và số người đọc như thế càng nhiều sẽ càng tốt. Nhưng buổi trưa ngày hôm ấy, em đem đến cho tôi một ấn tượng ngược lại hoàn toàn. Vì nhớ nhau, chúng ta chat với nhau. Khi đó, Facebook vẫn còn chưa có chế độ chat như bây giờ, chúng ta dùng Yahoo! Messenger để chat. Em hỏi tôi rằng tôi đang làm gì. Tôi bảo tôi đang đọc thơ em. Mà quả thật, lúc đó tôi đang đọc thơ em thì tình cờ em lại online và hỏi tôi điều đó. Tôi đã nói ra việc này rất thật thà, không hề có ý nghĩ nói để làm em vui lòng. Khi nói ra, tôi cứ nghĩ theo phản ứng thông thường, em sẽ hỏi tôi đang đọc bài thơ gì, cảm nhận của tôi như thế nào. Thế nhưng, dòng chữ đầu tiên hiện lên trên khung chat lại là: “Đừng đọc em, thơ em không hay lắm đâu. Đọc thử Wislawa Szymborska đi. Có lẽ anh sẽ thích.” Và em không chỉ nói suông, ngay lập tức, em gửi cho tôi một đường link để đọc Szymborska. Tôi đành bỏ dở việc đọc thơ em mà chuyển sang đọc Szymborska. Quả nhiên, bà viết rất hay. Ấn tượng của tôi lúc đó là sao bà có thể viết về nỗi buồn, nỗi đau khổ của con người, sự mất mát, chiến tranh bằng một giọng điệu giản dị, chân thành nhưng ngôn ngữ thơ lại giàu hình ảnh, cảm xúc, có vài ý tứ mới lạ, sáng tạo như thế. Quả thực, đến thời điểm đó, tôi chưa từng có cảm giác thán phục như vậy khi đọc thơ ai bao giờ. Trong lúc, tôi đọc Szymborska, em còn gửi kèm thêm cho tôi file PDF trọn tập thơ bằng tiếng Anh của một nhà thơ nào đó nữa mà lúc ấy tôi chưa kịp đọc, tôi lưu nó vào một nơi nào đó trong máy tính và sau nhiều lần chuyển đổi dữ liệu trong ổ cứng, bây giờ tôi không còn tìm thấy nữa, tôi cũng không nhớ nổi tiêu đề của tập thơ hay là tên nhà thơ.

Ngày đó và cả bây giờ vẫn vậy, tôi luôn muốn cảm ơn em vì đã giới thiệu Wislawa Szymborska với tôi dù rằng nếu em không giới thiệu, sau một thời gian mò mẫm đọc thơ, biết đâu một lúc nào đó, tôi cũng sẽ đọc đến bà. Nhưng điều đó không quan trọng, điều quan trọng là phản ứng của em khi ấy thật dễ thương, nghiêm túc đến là dễ thương trong mắt tôi. Bây giờ, tôi nhận ra rằng khi tôi đọc thơ em và cả khi tôi nói với em tôi đang đọc thơ em, có một điều ẩn ý mà tôi muốn nói với em lúc đó: “Anh đang quan tâm em đấy. Vì muốn hiểu em hơn, anh đã làm việc đó đấy.” Nghĩa là, tôi đã đọc thơ em không phải chỉ với tư cách một độc giả đọc thơ của một nhà thơ thông thường, hành động đọc khi ấy còn có nghĩa là hành động tìm hiểu, quan tâm người yêu. Nhưng em nghiêm túc với việc viết, việc đọc, với chính bản thân mình đến mức em nói với tôi – một độc giả tiềm năng của em rằng thực ra còn có một tác giả khác xứng đáng hơn để tôi dành thời gian đọc người đó thay vì đọc em, rằng nếu đọc người đó thì tôi sẽ có được nhiều lợi ích hơn thay vì đọc em. Ở đây, em đã hoàn toàn bỏ qua vai trò người tình của tôi, nếu xét đến văn chương thì chỉ có người viết và người đọc. Em nghiêm túc như thế. Nhưng em rất thích kinh doanh và trong kinh doanh, người ta thường hay nói rằng có một điều cấm kị là: đừng giới thiệu với khách hàng sản phẩm của công ty đối thủ. Vì vậy, điều em đã làm với tôi có lẽ sẽ trở thành ví dụ không hay trong giới kinh doanh. Nhưng, kể cả trong giới viết lách, tôi cũng chưa thấy ai có phản ứng tương tự thế này bao giờ. Có thể, em cho rằng tôi dở hơi nhưng điều đơn giản em đã làm lúc ấy khiến tôi nhớ mãi đến bây giờ, khiến tôi như cảm thấy chính mình cũng được sưởi ấm vì tình yêu thơ của em, vì sự nghiêm túc, vì sự đam mê, nhiệt huyết em dành cho văn chương. Đó cũng là điều đã khiến tôi vô cùng yêu em khi mình còn ở cạnh nhau.

Và hôm ấy, sau khi đọc xong thơ của Wislawa Szymborska, tôi vẫn lén đọc thơ em.

Trân trọng thời gian của người đọc

Trước em, đã có rất nhiều người chê tôi viết dài. Tự bản thân tôi cũng nhận thấy điều đó nhưng không cách nào khắc phục được. Đâu là ranh giới cho cảm nhận dài và ngắn? Rõ ràng mọi thứ chỉ là phép đo đạc cảm tính. Vì thế, tôi không biết nên tiếp tục triển khai ý đang viết hay chuyển sang một ý mới. Mọi người hầu như chỉ nói cảm giác dài một cách chung chung. Nhưng em thì khác. Em đã giúp tôi hiểu được thêm điều trước đó tôi chưa bao giờ chú ý: thời gian của người đọc.

“Anh biết không, khi viết anh đừng chỉ nghĩ đến việc sẽ dành bao nhiêu thời gian để hoàn thành nó. Anh phải nghĩ đến thời gian người đọc sẽ dành ra cho nó. Họ có thể dành thời gian để làm những việc khác hay đọc những thứ khác, thế nhưng, họ lại chọn đọc những gì anh viết. Vì vậy, anh phải viết như thế nào đó để họ đọc xong, họ không có cảm giác bỏ phí thời gian đã đọc. Đời người có bao lâu, đúng không? Thế nên, mỗi giây phút họ đã dành ra để đọc những gì ta viết, dù là khoảng thời gian dài hay ngắn ngủi đều đáng quí trọng như nhau. Viết ngắn không có nghĩa là viết ít chữ lại. Số lượng chữ không phải là vấn đề. Điều quan trọng nằm ở hàm lượng nội dung chứa trong chữ. Anh phải viết như thế nào để người đọc nhận được nhiều nhất trong số lượng chữ ít nhất có thể. Mỗi khi viết, em đều nghĩ đến thời gian người đọc sẽ dành cho nó, và em trân trọng thời gian của người đọc, đôi khi em còn trân trọng nó hơn cả thời gian mình dành ra để viết. Khi nghĩ như thế, em cố gắng làm sao để tiết kiệm thời gian giúp họ, làm sao để khoảng thời gian bỏ ra ấy trở nên có ý nghĩa nhất. Anh muốn viết ngắn ư? Vậy thì, cứ thử như em xem. Mỗi lần viết hãy nghĩ đến thời gian của người đọc và học cách trân trọng nó. Nếu như anh thực sự chân thành nghĩ về họ, từ từ anh sẽ có thể viết ngắn hay viết cô đọng.”

Trân trọng thời gian của người đọc mỗi khi viết – đó là điều thậm chí đến bây giờ chưa một ai nói với tôi ý tương tự như vậy. Hầu hết, mọi người sẽ nói đến việc làm cách nào để viết hay hơn, để trau dồi kĩ năng, để giữ được ước mơ trong cuộc sống hối hả này… nghĩa là mọi thứ chỉ xoay quanh bản thân người viết, người đọc được nhìn nhận như người vô danh và không cần phải chú tâm, miễn sao có thể truyền đạt những gì người viết mong muốn là đủ. Nhưng em nhắc tôi nhớ rằng vai trò giữa người viết và người đọc là hoàn toàn bình đẳng. Vì vậy, thời gian của cả hai là quí giá và đáng trân trọng như nhau. Mọi người thường hay nói một nhà văn đã dành bao nhiêu năm, bao nhiêu thời gian để viết một tác phẩm nào đó nhưng mấy ai lại nói đến một độc giả đã dành bao nhiêu thời gian để đọc một tác phẩm nào đó dù rằng việc đọc đã khiến họ phải đánh đổi những giây phút ở bên người thân yêu hay tận hưởng cuộc sống theo cách khác. Sau khi em gieo vào đầu tôi ý niệm này, mỗi lần đọc các kiệt tác của những nhà văn lớn, tôi lại càng biết ơn họ hơn, không chỉ biết ơn vì họ đã viết ra tác phẩm đó mà còn biết ơn vì họ đã dành ngần ấy thời gian, có thể là cả một phần đời của mình để viết ra tác phẩm chứa nhiều ý nghĩa như thế nhưng lại chỉ lấy đi ít thời gian để người khác đọc, hoặc dù người đọc có mất nhiều thời gian thế nào vẫn không bằng thời gian người viết đã bỏ ra.

Bao năm qua, tôi vẫn luôn cố gắng trân trọng thời gian của người đọc mỗi khi viết để viết ngắn lại. Tôi không rõ liệu bây giờ mình đã tiến bộ trong việc này hơn chưa nếu so với ngày trước.

Nghĩ về những quyển sách ta chưa đọc

Em nói với tôi rằng em rất dễ dàng trong việc tặng sách. Đa phần, sách nào đọc xong là em đều tặng. Em không muốn sở hữu quá nhiều bất cứ điều gì, kể cả sách. Em muốn mình càng tự do càng tốt. Hơn nữa, em cũng nghĩ rằng một cuốn sách hay có nhiều người đọc sẽ càng nhân giá trị của nó lên. Vì vậy, em tặng sách để nó tiếp tục có đời sống mới trong tay một người khác.

Một lần, em nói thêm cho tôi biết về ý nghĩa của việc này: em tặng những quyển sách đã đọc rồi để trước mặt em chỉ còn những quyển sách em chưa đọc, để em sẽ luôn nhìn thấy nó, luôn nghĩ về nó và tìm cách đọc hết nó trong thời gian ngắn nhất có thể.

“Em không thích để những cuốn sách đã đọc trước mắt mình. Có thể, một ngày nào đó, khi em càng đọc nhiều, em sẽ càng thấy nhiều hơn những quyển sách em đã đọc trưng bày trước mắt em. Điều đó có thể khiến em nghĩ rằng mình đã đọc nhiều lắm. Nhưng thực tế, em vẫn chưa đọc được bao nhiêu và vẫn còn rất nhiều quyển sách to lớn chờ đợi em đọc. Vì vậy, em tặng sách cũng là để trong phòng em chỉ còn những quyển sách em chưa đọc. Anh có hiểu cảm giác đó không? Rằng tuy có những quyển sách anh chưa đọc, nhưng nó cứ ở đó, có đời sống riêng của nó, anh nhìn nó một thời gian và dường như trưởng thành cùng nó dù vẫn chưa đọc nó. Và rồi, bỗng nhiên đến một lúc, anh cảm thấy mình đã đủ lớn để đọc nó. Thế là anh đọc.”

Có lẽ phần nào đó, đối với em, những quyển sách chưa đọc còn quan trọng hơn cả những quyển sách đã đọc nữa. Hình như, Umberto Eco đã nói điều này, và hình như, chính em cũng đã từng nói với tôi: những quyển sách chưa đọc có ý nghĩa quan trọng hơn những quyển sách đã đọc vì chúng giúp ta học cách khiêm tốn, chúng nhắc ta biết thế giới rộng lớn thế nào, chúng là minh chứng cho một phần cuộc sống ta vẫn chưa từng thử bước vào…

Từ khi em đi, bốn năm vừa qua, tôi đã tặng sách rất nhiều. Em biết đấy, tôi từng là người rất keo kiệt trong việc này. Đó là việc ít khi nào thoáng qua suy nghĩ của tôi. Tôi chỉ cho mượn sách và lúc nào cũng nơm nớp lo sợ không biết người ta có trả cho mình không. Nhưng khi không còn gặp em nữa, tôi mới nhận ra rằng việc giữ những quyển sách đã đọc rồi, việc cố gắng để sở hữu chúng quả thực chẳng đem lại mấy lợi ích gì. Nếu như những tinh hoa trong quyển sách đã được bản thân thẩm thấu thì việc xa rời chúng không có nghĩa là mất đi những điều đã ở lại trong lòng. Tương tự như vậy, nếu bản thân đã không thể thu vào lòng những điều hay của quyển sách thì việc khăng khăng giữ lại quyển sách bên mình, không đồng nghĩa với việc giữ những tinh chất đó bên trong mình. Vật chất hay thể xác không bao giờ quan trọng bằng tinh thần hay ý niệm. Điều này không chỉ áp dụng trong mối quan hệ giữa con người với nhau mà còn trong mối quan hệ giữa người với sách. Thực ra, nếu suy xét kĩ thì sách cũng là một con người, nó chính là một phần của người đã tạo ra nó. Vậy nên, việc chia tay một quyển sách không quan trọng bằng việc rốt cuộc đã có bao giờ, ta thực sự sống trong nó chưa.

Khi hiểu ra những điều ấy, tôi trở nên vô cùng thoải mái trong việc tặng sách. Có thời điểm, đi đâu, gặp ai, tôi cũng đều sẽ chọn ra ba quyển sách mà tôi nghĩ rằng phù hợp với người sắp gặp để tặng họ. Tại sao lại là ba? Vì tặng một thì tôi sợ là không đúng quyển người đó thích, tặng hai thì sợ người ta nghĩ hai quyển sách có liên quan với nhau; vậy nên, ba là số an toàn. Theo thời gian, cuối cùng tôi cũng tặng hết những quyển sách tôi đã đọc, chỉ còn những quyển sách tôi chưa đọc. Vì vậy sau này, tôi cũng không thể tặng một lần ba quyển khi gặp ai đó nữa mà chỉ có thể là một quyển tôi mới đọc xong. Tôi không biết liệu em có ngạc nhiên về điều này không nhưng chính tôi thì ngạc nhiên về tôi đấy. Vì tôi của khoảng chừng mười năm trước đó không thể nào hình dung ra được tôi của mười năm sau này lại tặng sách nhiều như vậy. Trước đây, tủ sách của tôi ngập tràn sách văn học Nhật. Bao nhiêu sách của Haruki, Banana, Ryu, Yoko Ogawa, Yamada Amy… phát hành trên thị trường là tôi mua hết. Đến nỗi có thời gian hầu như chẳng còn sách văn học Nhật mới trên thị trường cho tôi đọc. Nhưng bây giờ, nếu chỉ nhìn vào tủ sách của tôi thì có lẽ khó ai đoán được rằng tôi đã từng thích văn học Nhật đến vậy. Bởi vì, bao nhiêu sách văn học Nhật – nằm trong nhóm sách tôi đã đọc rồi đều được tôi đem đi tặng hết và những năm vừa qua, tôi không mua cũng như đọc sách văn học Nhật nhiều nữa. Thay vào đó, sách chiếm phần lớn tủ sách của tôi bây giờ là sách văn học phương Tây. Đây cũng là điều mà tám năm về trước, khi lần đầu bước chân vào trường đại học, tôi đã không thể ngờ sẽ có ngày tủ sách của mình biến thành như vậy.

Bây giờ, trước mắt tôi chỉ còn những quyển sách tôi chưa đọc. Ngày ngày tôi nhìn chúng, ngày ngày tôi đối diện với chúng, với việc chưa đọc chúng, với việc mình ngu dốt như thế nào, với việc còn rất nhiều thế giới tôi chưa biết đến. Và quả thực, việc này đã phần nào kích thích tôi, buộc tôi cố gắng dành nhiều thời gian hơn để đọc những cuốn sách tôi chưa đọc. Nếu là lúc trước, khi những quyển sách đã đọc và chưa đọc được đặt kề nhau, hỗn độn với nhau, có lẽ, sự kích thích này sẽ giảm đi rất nhiều.

Tạm biệt em

Vẫn còn một vài điều quan trọng em đã dạy cho tôi biết, nhưng tôi chỉ có thể chia sẻ ba điều quan trọng ấy với tất cả mọi người khi nghĩ về việc đọc, việc viết: sự nghiêm túc – cạnh tranh một cách công bằng, sự trân trọng, sự khiêm nhường. Cảm ơn em vì đã dạy cho tôi biết những điều quan trọng này. Và cũng xin lỗi em vì khoảng thời gian mình còn quen nhau, có lẽ tôi đã không thể mang đến cho em những điều quan trọng, sâu sắc tương tự hay những điều mới mẻ hơn điều em đã vốn có trong cuộc sống trước đó. Dù đã xảy ra nhiều chuyện, dù không gặp đã lâu, dù tình yêu ngày trước không còn nữa, nhưng thực sự trong lòng tôi lúc nào cũng nghĩ về em với cảm giác trân trọng. Dù nhiều lúc tôi từng nghĩ giá mà ngày ấy không gặp em sẽ tốt hơn, nhưng rồi ngay sau đó, tôi lại nghĩ thật may mắn vì đã gặp được em.

Có thể em đã quên tất cả những điều này, những gì đã xảy ra, những lời em đã nói, bởi lẽ chúng chỉ là những mảnh nhỏ tưởng chừng vụn vặt trong nhiều ngày bình dị và cũng nhiều ngày đầy biến động ta đã ở bên nhau. Tuy vậy, những điều ấy luôn khắc sâu trong tôi bốn năm vừa qua. Ba điều này hay ba vệt kí ức này là thứ tôi thường nghĩ về mỗi khi cảm thấy bản thân dần mất đi ý chí để viết hay những khi tôi dường như bị sao lãng khỏi điều tâm niệm cốt yếu, dường như đi chệch điểm trọng tâm của giấc mơ văn chương tôi muốn hướng đến. Thật may mắn vì ba điều này đã giúp tôi phần nào có thể đứng vững và cố gắng tiếp tục viết đến bây giờ. Tôi mong rằng, trong tương lai sẽ vẫn luôn như thế.

Và em như thế nào? Em vẫn ổn chứ? Vẫn đọc và viết nhiều chứ?

Câu trả lời ấy không dành cho tôi nữa và việc biết nó hay không cũng không còn quan trọng nữa. Nhưng dù thế nào, dù viết hay không viết, vẫn luôn mong em bình yên và hạnh phúc. Bởi vì, cuối cùng em đã khiến tôi thật sự cảm thấy thanh thản, không còn đau khổ khi nghĩ về quá khứ nữa. Bây giờ, chỉ còn sự thanh thản và chút hoài niệm tuổi trẻ khi nhớ về ngày ấy.

Vậy nên, tôi đã quyết định lần này sẽ thực sự là lần cuối cùng tôi viết về em. Từ bây giờ, tôi sẽ để mọi thứ âm thầm trôi qua và mặc cho bản thân quên lãng. Duy chỉ có ba điều này là ba điều tôi không bao giờ muốn quên. Nó không chỉ là những kí ức đẹp; hơn hết, nó là điều quan trọng với một người đã lựa chọn con đường văn chương là tôi. Tôi không muốn quên đi điều sơ tâm của mình, điều sơ tâm mà em đã vô tình khai sáng cho tôi.

Fretto Frek

Click to comment

Viết bình luận

Your email address will not be published. Required fields are marked *

Trà chiều

Thế giới viễn tưởng độc đáo trong bốn bộ phim mang đậm tính thể nghiệm

Published

on

Thế giới của phim khoa học viễn tưởng không phải lúc nào cũng chỉ có AI, robot, hay du hành không gian mà còn vô vàn những điều đặc biệt khác có thể bạn chưa biết.

Năm 2023 vừa qua đã ghi nhận sự phát triển ngày càng mạnh mẽ của AI. Điều đó khiến cho dòng phim khoa học viễn tưởng nhận được nhiều sự quan tâm trở lại. Nhắc đến dòng phim này, người ta vẫn thường đóng khung nó với vài yếu tố tiêu biểu thường gặp như: AI, robot, du hành vũ trụ, thế giới song song… Tuy nhiên, có rất nhiều tác phẩm sci-fi kinh điển đã chứng minh điều ngược lại.

Hãy cùng Bookish khám phá những bộ phim sci-fi không thuần túy là sci-fi vì ở đó, người xem được tận hưởng bữa tiệc điện ảnh đỉnh cao với những hương vị hòa quyện mĩ mãn từ nhiều thể loại khác nhau.

Back to The Future (1985)

Sci-fi x Road Trip Comedies

Cùng với The Terminator, Back To The Future ra đời năm 1985 đã trở thành biểu tượng kinh điển của dòng phim sci-fi lấy chủ đề du hành thời gian. Đó cũng là một trong những nguyên nhân mà bộ phim này được nhắc đến nhiều lần trong Avengers: Endgame lúc cả nhóm quyết định quay về quá khứ.

Tuy nhiên, không giống như The Terminator, Back To The Future mang màu sắc vui nhộn, hài hước của lứa tuổi học trò. Cậu học sinh tuổi teen Marty McFly ở thập niên 80 vô tình bị kéo về quá khứ trên chiếc xe cỗ máy thời gian của nhà khoa học Emmett Brown. Cậu quay trở về thập niên 50 – lúc này bố mẹ cậu cũng ở lứa tuổi học trò như cậu. Để có thể quay về hiện tại năm 80, cậu phải tìm cách hàn gắn mối quan hệ của bố mẹ, nếu không bản thân cậu cũng sẽ không tồn tại ở năm 80. Từ đó, câu chuyện nảy sinh nhiều tình huống dở khóc dở cuối. Nếu như The Terminator là sự phối trộn hoàn hảo giữa thể loại sci-fi và hành động thì Back To The Future lại là màn kết hợp ăn ý giữa thể loại sci-fi và hài hành trình. Bộ phim tốn kinh phí thực hiện là 19 triệu USD nhưng lại có doanh thu phòng vé lên đến 388 triệu USD. Chính vì thành công này mà đạo diễn Robert Zemeckis đã thực hiện hai phần tiếp theo cũng vui nhộn không kém.

Snowpiercer (2013)

Sci-fi x Dystopia

Bong Joon Ho không chỉ tạo ra những bộ phim sâu sắc về đề tài xã hội mà ông còn có khả năng làm phim khoa học viễn tưởng rất chặt chẽ, thuyết phục. Điều này thể hiện rõ nhất qua Snowpiercer. Phim dựa trên tiểu thuyết Pháp Le Transperceneige lấy đề tài hậu tận thế. Trong tương lai, sau một thí nghiệm thất bại, khí hậu toàn cầu biến đổi dẫn đến gần như toàn bộ sinh vật đều bị diệt vong, ngoại trừ một số người may mắn có mặt trên con tàu Snowpiercer chạy vòng quanh Trái đất với động cơ vĩnh cửu. Tại đây, một xã hội thu nhỏ mới lại được hình thành. Dưới bàn tay tài hoa của Bong Joon Ho, Snowpiercer cũng không đơn giản là tác phẩm sci-fi thuần túy mà ông còn lồng ghép vào nhiều thể loại khác nhau: có những phân đoạn hành động mãn nhãn, đồng thời cũng có những phân đoạn dí dỏm, và cách đặt vấn đề về giai tầng xã hội vẫn mang phong cách rất đặc trưng của Bong. 

Eternal Sunshine Of The Spotless Mind (2004)

Sci-fi x Romance

Sẽ như thế nào nếu kết hợp thể loại sci-fi với phim tình cảm? Khi đó, chúng ta sẽ có kiệt tác Eternal Sunshine Of The Spotless Mind của bộ đôi đạo diễn Michel Gondry và biên kịch Charlie Kaufman. Bộ phim sử dụng đề tài “can thiệp kí ức” để khám phá bản năng con người khi tình yêu tan vỡ. Sẽ ra sao nếu khi chia tay một ai đó, bạn có thể xóa toàn bộ những kí ức vui buồn liên quan đến họ ra khỏi tâm trí? Sau khi Joel biết được Clementine – người yêu cũ của anh đã xóa kí ức tình yêu, anh quyết định bản thân mình cũng sẽ thực hiện việc này. Nhưng khi anh khám phá được điều gì đã khiến họ gắn kết rồi lại chia xa, anh nhận ra mình vẫn còn tình cảm dành cho cô. Nếu như công nghệ trong phim là thứ hư cấu thì cảm xúc giữa hai nhân vật trong Eternal Sunshine hoàn toàn chân thực, lay động trái tim người xem, khiến ai cũng phải thổn thức.

Under The Skin (2013)

Sci-fi x Experimental film

Cuối cùng, không thể không nhắc đến bộ phim sci-fi mang tính thể nghiệm, tiên phong đáng nhớ: Under The Skin. Có rất nhiều phim lấy đề tài sinh vật ngoài hành tinh xâm nhập Trái đất, nhưng có lẽ chưa bộ phim nào kể câu chuyện thật đặc biệt nhưng lại với nhịp điệu từ tốn như Under The Skin. Scarlett Johansson trong vai sinh vật ngoài hành tinh vô danh chỉ làm đúng một công việc là đi lang thang trên một chiếc xe tải, lựa chọn những người đàn ông cô đơn làm con mồi. Bộ phim rất kiệm lời thoại, khiến người xem rợn người không chỉ bởi những hình ảnh thị giác lạ mắt mà còn bởi thứ âm nhạc cũng đầy tính thể nghiệm độc đáo của Mica Levi. Tuy nhiên, nếu chỉ tập trung vào thể nghiệm mà bỏ qua nội dung, Under The Skin đã không gây được tiếng vang lớn như thế trong cộng đồng điện ảnh. Sau tất cả, bộ phim của đạo diễn Jonathan Glazer lại khiến người xem trăn trở nhiều về thân phận làm người.

Hoàng Đức Nhiên

Đọc bài viết

Trà chiều

The Terminator & Blade Runner: Hai tượng đài điện ảnh độc đáo của thập niên 80

Published

on

Cùng ra mắt vào thập niên 80, The Terminator (1984) và Blade Runner (1982) đều là hai kiệt tác điện ảnh độc đáo, góp phần rất lớn trong việc tạo ra diện mạo mới cho thể loại sci-fi.

Bài viết này sẽ dẫn dắt bạn khám phá những vấn đề khác nhau được đặt ra trong hai phim: từ những dòng suy tư về mối liên hệ nhân quả giữa hành động và thời gian trong The Terminator đến không gian đô thị đậm chất noir và những truy vấn về bản chất con người trong Blade Runner.

The Terminator (1984)

The Terminator là bước đột phá ngoạn mục trong sự nghiệp điện ảnh của đạo diễn James Cameron. Vào thời điểm ra mắt, bộ phim gây ấn tượng bởi việc pha trộn nhiều đặc tính giữa các thể loại khác nhau, mang đến màu sắc mới cho dòng phim sci-fi.

The Terminator kể câu chuyện về một người máy sát thủ ra đời năm 2029, được trao nhiệm vụ quay về năm 1984 để giết người phụ nữ trẻ tên là Sarah Connor. Sarah hoàn toàn không biết rằng cuộc đời cô có ảnh hưởng đáng kể đến số phận nhân loại và cô có thể chết bất cứ lúc nào dưới sự truy sát của cỗ máy bất khả chiến bại được gọi là Kẻ Hủy Diệt. Kyle Reese cũng đến từ tương lai nhưng nhiệm vụ của anh là bảo vệ Sarah – người mẹ của thủ lĩnh tương lai.

Với cốt truyện như thế, The Terminator vừa có những pha hành động mãn nhãn, vừa có nhiều tầng suy tư phức tạp về dòng chảy của thời gian, về phương thức thay đổi một sự kiện trong quá khứ có thể dẫn đến tương lai khác biệt hoàn toàn – đây vốn là chủ đề hiếm gặp trong phim hành động ở giai đoạn đó. Ngoài ra, những bản nhạc nền tạo không khí căng thẳng của nhạc sĩ Brad Fiedel cũng góp phần lớn vào thành công của phim.

Tất cả những nhân tố đó đã khiến phim trở thành một mảnh ghép quan trọng của văn hóa đại chúng đến tận ngày nay. Câu nói “I'll be back” của nhân vật Kẻ Hủy Diệt trong phim được sử dụng phổ biến, trở thành slogan thương hiện cho chính Arnold Schwarzenegger.

Từ năm 1984 đến nay, The Terminator đã sản xuất 6 phần phim: The Terminator (1984), Terminator 2: Judgment Day (1991), Terminator 3: Rise of the Machines (2003), Terminator Salvation (2009), Terminator Genisys (2015), Terminator: Dark Fate (2019). Tất cả những phần phim này đều đạt được doanh thu khủng, riêng phần đầu tiên The Terminator đã trụ vững ở vị trí số 1 trên bảng xếp hạng phòng vé ở Mỹ trong suốt hai tuần. Năm 2008, The Terminator đã được Thư viện Quốc hội Hoa Kỳ đưa vào Viện lưu trữ phim quốc gia để bảo tồn với lí do là bộ phim “nổi bật ở phương diện văn hóa, lịch sử, và mĩ học”.                          

Blade Runner (1982)

Không may mắn như The Terminator, Blade Runner của đạo diễn Ridley Scott là một tuyệt tác có số phận khá hẩm hiu khi vừa ra đời. Tuy nhiên, qua nhiều thập kỉ với những bản dựng khác nhau, tác phẩm này đã trở thành một tượng đài lớn của thể loại sci-fi.

Dựa trên tiểu thuyết gốc Do Androids Dream Of Electric Sheep? của nhà văn Philip K. Dick, Blade Runner vẽ nên viễn cảnh ảm đạm của thế giới vào năm 2019. Khi đó, thế giới tràn ngập những replicant – người máy có hình dạng giống con người, được tạo ra với vòng đời ngắn ngủi để làm những công việc nguy hiểm phục vụ cho con người. Một nhóm replicant bất mãn trước việc này đã làm một cuộc phản loạn, quay trở về Trái Đất và giết con người. Rick Deckard, một cảnh sát đã nghỉ hưu ở Los Angeles nhận nhiệm vụ phải truy lùng và tận diệt toàn bộ nhóm replicant nổi loạn này.

Blade Runner là sự pha trộn giữa sci-fi, trinh thám và phim noir – thể loại phim hình sự tội phạm mang đậm phong cách Hollywood, thường thể hiện thái độ hoài nghi, mỉa mai. Thông qua hành trình của Rick Deckard, bộ phim đặt ra nhiều câu hỏi triết học về tính người, thế nào là một con người.

Nhưng không chỉ sâu sắc về nội dung, Blade Runner còn là bữa tiệc chiêu đãi về thị giác qua cách bộ phim thể hiện không gian đô thị tương lai với những màn hình quảng cáo lớn, đèn neon luôn lấp lánh và đường phố lúc nào cũng nhộn nhịp. Cảm hứng thị giác của phim kết hợp từ những bức tranh cổ điển của danh họa Edward Hopper và các khu phố với những tòa nhà chọc trời ở Hong Kong. Sự kết hợp này đã tạo nên không gian thị giác ấn tượng của phim khi con người bị nhấn chìm trong công nghệ. Mĩ thuật của phim tạo ảnh hưởng lớn đến cách xây dựng không gian cho những phim sci-fi hay hành động của Hollywood ra đời sau đó như: The Matrix (1999), bộ ba Dark Knight (2005 – 2012) của đạo diễn Christopher Nolan, Ghost in the Shell (2017)…

Ngày nay, Blade Runner đã có một chỗ đứng không thể thay thế trong dòng phim sci-fi với nhiều ảnh hưởng mang tính định hình về mĩ thuật, tư duy về cách kể chuyện và nhân vật. Blade Runner 2049 – phần tiếp theo của phim ra đời vào năm 2017, đúng 35 năm kể từ phần đầu tiên đã không làm người hâm mộ thất vọng với điểm số trên Rotten Tomatoes lên đến 88%.

Hoàng Đức Nhiên

Đọc bài viết

Trà chiều

Hai tác phẩm định hình dấu ấn cá nhân của đạo diễn James Cameron và Christopher Nolan

Published

on

Đạo diễn James Cameron và đạo diễn Christopher Nolan đều là những cá nhân kiệt xuất trong ngành điện ảnh với nhiều bộ phim kinh điển vừa đạt được doanh thu khủng, vừa có giá trị nghệ thuật cao.

Tuy nhiên, khi nhắc đến hai vị đạo diễn tài danh này, có hai tác phẩm đặc biệt mà người hâm mộ điện ảnh không thể nào bỏ lỡ.Hãy cùng Bookish khám phá những dấu ấn đặc trưng cá nhân của đạo diễn James Cameron trong Avatar và của đạo diễn Christopher Nolan trong Inception.  

Avatar (2009)

Năm 2009, bộ phim sci-fi Avatar của đạo diễn James Cameron ra đời đã tạo nên bước ngoặt lớn cho sự phát triển công nghệ điện ảnh. Lần đầu tiên, cả thế giới được xem một bộ phim 3D. Kĩ thuật thị giác đột phá đã khiến trải nghiệm của phim cực kì sống động.

Vào năm 2154, nguồn tài nguyên Trái đất trở nên cạn kiệt dưới sự khai thác của con người dẫn đến khủng hoảng năng lượng. Lúc bấy giờ, tập đoàn RDA đang khai thác unobtanium – một loại khoáng sản có giá trị tại Pandora, một hành tinh tươi tốt mang sự sống giống Trái Đất nhưng lại có bầu khí quyển độc hại cho con người. Pandora là nơi sinh sống của người Na'vi da xanh, có hình dáng và trí óc giống con người. Để tìm hiểu về người Navi và sinh quyển ở Pandora, các nhà khoa học sử dụng cơ thể người lai Na’vi gọi là các Avatar, được hoạt động thông qua liên kết thần kinh với những người có kiểu gen phù hợp. Jake Sully là một cựu lính thủy quân được giao nhiệm vụ trà trộn vào hành tinh Pandora. Quá trình thực hiện nhiệm vụ đã khiến anh bị giằng xé giữa việc tuân theo mệnh lệnh hay bảo vệ xứ sở mà anh đã trót xem là quê nhà.

Đạo diễn James Cameron đã mất đến 15 năm để thực hiện Avatar từ lúc bộ phimcòn là ý tưởng năm 1994 cho đến khi ra đời năm 2009. Sở dĩ bộ phim mất nhiều thời gian như vậy là do Cameron không chỉ trau chuốt về mặt nghệ thuật mà còn cả kĩ thuật: từ công đoạn làm việc với chuyên gia ngôn ngữ để tạo ra tiếng Na’vi với hơn 1000 từ, cho đến việc tạo ra kĩ thuật 3D. Sự kì công này khiến Avatar chiều lòng được cả khán giả đại chúng lẫn giới hàn lâm. Avatar luônđứng đầu danh sách phim ăn khách nhất mọi thời đại với doanh thu lên đến 2,7 tỉ USD, và chỉ bị Avengers: Endgame vượt mặt vào năm 2019 sau suốt 10 năm thống trị bảng vàng.            

Avatar 3 dự kiến sẽ ra mắt vào năm 2025, tiếp tục hứa hẹn mang đến những thành tích khủng trong tương lai. 

James Cameron

Inception (2010)

Hầu như những bộ phim của đạo diễn Christopher Nolan đều có các yếu tố như: du hành thời gian, tìm hiểu bản chất thế giới… khiến người xem vừa rối não lẫn rối lòng. Và Inception chính là một tác phẩm hội tụ đủ các yếu tố làm nên thương hiệu Nolan, trở thành một tượng đài khó quên trong lòng người hâm mộ.

Inception là một trải nghiệm điện ảnh đáng nhớ khi Nolan cố gắng hình tượng hóa kiến trúc tư duy của con người, biến tiềm thức trở thành không gian vật lí cho các hoạt động đánh cắp được diễn ra. Bộ phim kể về một tên trộm có khả năng đi vào giấc mơ của người khác. Dom Cobb không trộm gì cả, anh chỉ trộm ý niệm. Bằng việc thâm nhập vào tiềm thức của đối tượng, anh có thể lấy thông tin mà đến cả những tay hacker sừng sỏ nhất cũng không thể làm được. Trong thế giới điệp viên, Cobb là vũ khí tối thượng. Nhưng kể cả vũ khí cũng có nhược điểm, khi Cobb gần như mất tất cả mọi thứ, anh được giao một nhiệm vụ cuối cùng để chuộc lỗi. Lần này, Cobb không gặt lấy ý niệm, anh gieo nó. Liệu anh và đồng đội có thành công?

Christopher Nolan

Inception có một kịch bản hoàn hảo, từng thế giới giấc mơ xuất hiện trong phim vừa chính xác, tinh tế, đôi khi lại hài hước. Thời gian là chủ đề yêu thích của Nolan và ông luôn tìm được cách thể nghiệm thú vị, có thể thấy rõ điều này qua cả phim InterstellarDunkirk. Nhưng trong Inception, thời gian không chỉ là chủ đề mà còn là công cụ kể chuyện khi tái hiện lại hoàn hảo nỗi ám ảnh của kẻ cắp giấc mơ. Từ đó, bộ phim đặt ra nhiều câu hỏi hóc búa: liệu rằng ta có đang sống trong thời gian thực, khi nào thì một giấc mơ trở thành thực tế, khi nào thì thực tế hóa ra lại chỉ là một giấc mơ, ta đang thức hay còn mơ?

Thông qua Inception, Nolan lồng ghép rất nhiều khái niệm về sự logic giấc mơ, đảo ngược các nguyên tắc vật lí, cho thấy những thực tại có thể vỡ vụn ra sao… Tất cả hòa quyện vào nhau, tạo thành một tác phẩm sci-fi tâm lí đỉnh cao mà có lẽ nhiều thập kỉ sau, vẫn còn khiến người ta trầm trồ.

Hoàng Đức Nhiên

Đọc bài viết

Cafe sáng