Trà chiều

Bình yên như hoàng hôn của mỗi chúng ta

Vào giờ tan tầm, ai cũng hối hả hòa vào dòng xe kẹt cứng. Liệu ta có thể dành cho mình vài phút bình yên ngắn ngủi để ngắm hoàng hôn?

Published

on

Mỗi khi nghĩ đến em, tôi đều nghĩ đến hoàng hôn. Vì hoàng hôn là một trong những điều em thích nhất – theo như tôi được biết. Tôi phải thêm hậu tố “- theo như tôi được biết” vì tôi không có đủ tự tin mình hiểu được em. Hoàng hôn cũng giống như vậy.

So với bình minh, hoàng hôn là thứ nhiều người dễ ngắm hơn – tôi tin chắc là như vậy. Không giống như bình minh – bạn phải dậy cực sớm tầm 5, 6 giờ sáng mới ngắm được; hoàng hôn là cảnh tượng mà dù bạn thức dậy sớm hay muộn, bạn vẫn có thể dễ dàng nhìn thấy. Chẳng ai đi ngủ vào lúc 5, 6 giờ chiều khi hoàng hôn xuất hiện và sắp sửa tàn đúng không nhỉ? Bạn chỉ không thể thấy hoàng hôn nếu như quá bận rộn với công việc hoặc các điều khác đang gây phiền nhiễu tâm trí. Nhưng hoàng hôn thì vẫn ở đó vào giờ tan tầm – một giờ rất thuận lợi cho hầu hết chúng ta nhìn ngắm. Và nếu nhìn hoàng hôn, bạn sẽ nhìn trong bao lâu? Từ lúc bầu trời chớm những mảng cam cho đến khi đỏ rực lên phút chốc và lịm dần sang xanh sẫm rồi tối hẳn, hay chỉ là vài giây bâng quơ đưa mắt lên rồi lại quay về công việc. Tôi còn nhớ trong một buổi chiều rất bận bịu của một ngày tháng Tư hoặc tháng Năm năm ngoái – bạn biết đấy, hai tháng này dường như là thời điểm nắng tắt muộn hơn, hoàng hôn kéo dài hơn các thời điểm khác trong năm; vì vậy, hôm đó tôi đã có chút ỷ y. Tôi nhớ rằng mình khá mệt mỏi và chợt quay qua nhìn khung cửa sổ, hoàng hôn khi ấy chỉ là một mảng màu cam nhỏ bé hòa quyện với sắc xanh ngọc lục bảo đã dịu nhẹ của bầu trời tạo mảng màu pastel êm đềm, nhìn rất thích mắt. Tôi cứ muốn ngắm nhìn mãi nhưng lại tự nhủ phải quay về với công việc thôi, và cũng theo kinh nghiệm của tôi, nếu bầu trời chưa rực sáng hẳn kiểu “một phút huy hoàng rồi chợt tắt” mà cứ dịu nhẹ như thế thì nó sẽ còn le lói – không hẳn là suốt trăm năm nhưng chí ít là trong khoảng thời gian khá dài nữa. Khi ấy, mặt trời tròn như lòng đỏ trứng gà – xin lỗi vì phép so sánh quá cũ kĩ này, vẫn đương nằm trên ngọn cây đứng chắn trước một tiệm karaoke – điều đó càng thêm cơ sở khiến tôi tự tin mà rời mắt khỏi bức tranh tuyệt đẹp đó trong phút chốc để quay trở lại với bản thảo còn đang làm dở. Tôi nhớ rằng mình không đọc được nhiều và thời gian chưa trôi qua được lâu, chỉ tầm khoảng 15 – 20 phút sau đó, qua cảm nhận ánh sáng nhạt dần nơi khóe mắt, trang bản thảo trước mắt dần mất đi màu nắng tự nhiên, thay vào đó là sắc trắng nhân tạo của đèn neon xâm chiếm, tôi mới giật mình ngẩng nhìn ra khung cửa sổ thì thấy lúc này, mặt trời đã lặn xuống ngọn cây trước tiệm karaoke, bị nuốt trọn trong màu xanh thẫm lá cây, như một loài sinh vật bị bóp nghẹt hơi thở, yếu ớt hắt ra chút khí cam sau cùng trên nền trời xanh sẫm. Nhưng loài thực vật ăn mất sự tồn tại của nó trong ngày hôm nay – cái cây ấy, rồi cũng sẽ lại sớm bị nuốt trọn bởi một quái vật to lớn hơn: bóng tối khôn cùng của đêm. Chúng ta, ai mà không sợ con quái vật này chứ – dù trong ý thức rõ ràng hay chỉ phảng phất trong tiềm thức, tôi tin là ta đều sợ. Vì sợ nên qua bao năm tháng, ta mới hình thành cách lưu giữ ánh sáng: từ ánh lửa thời nguyên thủy cho đến bóng đèn thời hiện đại. Nỗi sợ này đúng cả về mặt vật lí lẫn ý thức. Bóng tối vật lí sẽ giúp ta dễ chìm vào giấc ngủ hơn và tốt cho não bộ lẫn da khi được nghỉ ngơi, nhưng nó chỉ thật sự êm dịu ru ta ngủ khi trong ý thức của ta không tối hoàn toàn, ta biết có một vùng sáng sẽ chờ đợi ta vào ngày mới khi thức dậy – vùng sáng đó nhỏ hay lớn là tùy thuộc vào trạng thái tinh thần của mỗi người. Nhưng nếu trong lòng ta chỉ là bóng tối, kết hợp với bóng tối vật lí bên ngoài; khi nhắm mắt, cả hai vùng bóng tối đó cộng hưởng sẽ thành những làn sóng đêm dập dờn dữ dội, lay động ý thức ta tròng trành, chao nghiêng, xô qua đổ lại, mất thăng bằng rồi thao thức không thể nào ngủ được. Hoặc ngược lại, cả hai hợp thành vực sâu hun hút như một tròng mắt đen vời vợi khiến ta chỉ muốn nhảy xuống với thứ ảo tưởng có thể dò được độ sâu của bóng tối, hay nỗi lòng tuyệt đối của một ai đó. Chỉ là ta sẽ cứ chìm vào vực sâu, bóng tối, đáy mắt, và giấc ngủ không lối thoát. Thế nên, có cho mình chút niềm tin về ánh sáng còn sót lại – theo cả nghĩa vật lí lẫn ý thức thì vẫn hơn đúng không?

Vậy là, ánh hoàng hôn của ngày hôm ấy đã tắt rất nhanh – nhanh hơn rất nhiều so với thời gian tôi dự kiến. Tôi cảm thấy tiếc nuối khi mình không thể chứng kiến trọn vẹn quá trình chuyển sắc dữ dội xảy ra chỉ trong vài phút từ tông màu pastel sang hẳn dark theme. Nhưng hoàng hôn là như thế. Cũng giống như mây trên bầu trời thôi. Đó là những thứ mà chỉ cần nhìn vài giây, thậm chí một, hai phút, bạn sẽ có ảo tưởng rằng nó dường như không bao giờ thay đổi, hoặc sẽ thay đổi rất chậm; để rồi khi ngoảnh đầu đi, chỉ trong phút chốc, cảnh sắc xưa đã không còn nữa. Nhưng dường như mọi thứ trong cuộc đời cũng tuân theo qui luật này, chỉ là ở một cấp độ rộng lớn hơn. Bài học này có lẽ chúng ta đã biết quá rõ rồi nhưng vẫn thường hay quên: khi một điều ở bên cạnh ta, ta thường hay nghĩ nó sẽ không thay đổi; qua năm tháng, ta dần đánh mất sự trân trọng đã từng có; và đến một ngày, khi nó biến mất, nhận ra nó quí giá như thế nào, ta có hối hận thì cũng đã muộn. Đương nhiên, hoàng hôn thì không như thế. Nó sẽ luôn trở lại vào ngày mai. Nhưng có phải những người yêu hoàng hôn, khi ngắm nhìn cảnh sắc này đều cảm thấu triết lí đó? Hoàng hôn, mây, cũng như cả bầu trời kia, xuất hiện mỗi ngày rồi biến mất và lại quay trở về vào hôm sau, có phải để nhắc nhở chúng ta bài học phải trân trọng hiện tại? Nhưng nếu suy nghĩ vấn đề theo câu châm ngôn quen thuộc: “Không ai tắm hai lần trên một dòng sông,” bạn sẽ thấy rằng hoàng hôn cũng giống như vậy thôi: “Không ai ngắm cùng một hoàng hôn hai lần.” Hoàng hôn của ngày hôm nay khi đã tàn thì thực sự đã chết. Một hoàng hôn mới sẽ được sinh ra vào ngày mai. Từng ngày, mỗi một sắc cam, xanh, tím đều phân bổ ở những vị trí khác nhau trên bảng màu, bố cục của mây cũng khác biệt. Mỗi hoàng hôn là một em bé chào đời vào lúc bốn giờ chiều và chỉ sống được tối đa đến sáu giờ chiều cùng ngày hôm đó. Nhưng trong thời gian ngắn ngủi lưu lại dương gian này, em đã hân hoan hòa ca bằng những biểu cảm phong phú của mình như một người họa sĩ thoải mái đi những nét cọ phóng khoáng, không bị ràng buộc bởi bất cứ điều gì. Cũng có khi, em chỉ nhẹ nhàng cất lên một giai điệu mộc mạc bằng sắc cam duy nhất rồi biến mất. Nhưng dù thế nào, bản thân em khi sinh ra cũng đã là một tác phẩm nghệ thuật tuyệt đẹp giúp ích cho bao người theo những cách khác nhau. Vì vậy, tôi rất thích cách em trân trọng hoàng hôn mỗi ngày bằng việc chụp những bức ảnh, tạo thành Sunset Project của riêng em. Tôi nhớ rằng lần nào gặp em mà nếu vào buổi chiều, dù câu chuyện đang sôi nổi hay dần lắng xuống, em cũng sẽ bảo tôi dừng lại trong phút chốc để em có thể chụp ảnh hoàng hôn. Và khi lưu giữ lại được hoàng hôn ngày hôm ấy, tôi có thể nhận ra em đã rất vui. Đôi khi vào tối ngày hôm đó, em sẽ chia sẻ lại cho tôi bức ảnh hoàng hôn em đã chụp lúc chiều. Với tôi, chúng đều là những kiệt tác từ tự nhiên, từ đôi tay em gầy và từ đôi mắt như thấu suốt mọi lẽ đời của em. Em sinh vào buổi sáng sớm ngày cuối cùng của năm. Nếu như xét thời gian một năm bằng tỉ lệ của một ngày thì chẳng phải buổi sáng của ngày cuối cùng trong tháng 12 sẽ có vai trò giống như hoàng hôn của năm đó trước khi bước dần vào tối giao thừa giữa năm cũ và năm mới hay sao? Phải chăng vì vậy mà em yêu hoàng hôn hơn bình minh, dù đúng ra, theo như trí nhớ của tôi thì em sinh vào tầm năm giờ sáng – thời khắc của bình minh? Nhưng tôi cũng cảm thấy, em hợp với hoàng hôn hơn là bình minh. Bình minh cũng yên bình nhưng là sự yên bình để báo hiệu một ngày mới lại bắt đầu, kéo theo sau đó là muôn vàn âm thanh nhộn nhịp của cuộc sống khi mọi người hối hả, tất bật cuốn theo guồng quay của nó. Còn sự yên bình của hoàng hôn thực sự là để báo hiệu mọi người nên nghỉ ngơi đi, đã đến giờ nghỉ rồi. Vào những hôm tôi làm việc chăm chỉ, khi phát hiện ra hoàng hôn đã đến, tôi cảm thấy cảnh tượng ấy như đang muốn động viên tôi: “Bạn đã làm việc chăm chỉ cả ngày rồi, hết giờ làm rồi, bây giờ là lúc để nghỉ ngơi.” Còn vào những hôm tôi lười biếng cả ngày, khi hoàng hôn ghé thăm, tôi cũng không có cảm giác nó đang giễu cợt hay trách móc gì tôi, chỉ đơn giản nhẹ nhàng nhắc nhở và ủi an: “Bạn thấy không, một ngày dần tàn rồi đó. Đừng để một ngày phải trôi qua trong hối tiếc như vậy nữa. Nhưng dù sao thì ngày cũng tàn rồi, hôm nay chưa làm được gì nhưng bạn hãy cứ nghỉ ngơi để mai lại bắt đầu.” Hoàng hôn không tạo cho tôi cảm giác áp lực giống như bình minh, khi hoàng hôn buông xuống và sau đó đêm tối đến, tôi thực ra có thể lựa chọn làm việc hoặc chơi đùa theo ý mình – đương nhiên vào những thời điểm deadline thúc ép mà vẫn lựa chọn chơi đùa thì hậu quả sẽ rất nghiêm trọng. Nhưng nếu bình minh của ngày mới đến mà tôi vẫn chưa nghĩ ra được hôm nay cần làm gì thì trong lòng tôi sẽ có ít nhiều hoang mang. Còn với riêng em, tôi không biết em có yêu bình minh không, em suy nghĩ gì về bình minh, em có từng chụp cảnh mặt trời mọc không…; nhưng tôi biết bản thân em đã luôn là một bình minh, hoặc em đã luôn cố gắng là một bình minh – vượt qua bóng tối của đêm hôm trước để nhiệt thành miệt mài vào sáng hôm nay. Em lúc nào cũng chăm chỉ, nghiêm túc với công việc như một mặt trời tất bật đều đặn làm công việc của mình mỗi ngày. Nhưng mặt trời cũng có lúc mệt mỏi và cần nghỉ ngơi. Thế nên chúng ta mới có hoàng hôn và sau đó mặt trời chuyển ca làm việc vào buổi tối cho mặt trăng. Em thấy đó, khỏe mạnh như mặt trời mà cũng có lúc đình công đấy thôi. Vậy mà bao năm qua, em – một cô gái lúc nặng cân nhất là 45 kg cũng chỉ dám yêu hoàng hôn và bản Clair de Lune để thầm hình dung về một ánh trăng êm dịu trong chút thời gian nghỉ ngơi hiếm hoi em có được. Em chưa từng thực sự nghỉ ngơi, em chỉ yêu nhưng chưa từng thực sự là hoàng hôn, mặt trăng của riêng em. Em đã luôn là mặt trời, là ngày dài bất tận nối liền vào đêm. Vậy thì em ơi, em xứng đáng có được sự nghỉ ngơi em mong muốn. Bất cứ khi nào em cần, em hãy cho phép mình là một hoàng hôn, mặt trăng của riêng em với ánh sáng êm dịu, tận hưởng sự yên bình tự tại. Bởi vì em luôn xứng đáng với cả mặt trời và mặt trăng, bình minh lẫn hoàng hôn, tất thảy mọi điều tốt đẹp nhất trên cuộc đời này.

Em đừng sợ một khi cho phép mình là hoàng hôn và mặt trăng thì sẽ mãi chìm trong sự nghỉ ngơi vô độ, bị kéo lùi về phía sau so với mọi người. Kết thúc và bắt đầu chỉ là hai khái niệm tương đối, bởi lẽ khi kết thúc một điều cũ cũng đồng nghĩa với việc khởi đầu một điều mới, và khởi đầu một điều mới cũng đồng nghĩa với việc kết thúc một điều cũ, hai hành động này thường diễn ra song song nên ta khó lòng nói được đó là khởi đầu hay đó là kết thúc. Nếu qui đổi “bắt đầu” thành “làm việc”, “kết thúc” thành “nghỉ ngơi”, ta cũng sẽ có một kết quả tương tự. Ta làm việc là để được nghỉ ngơi, và ta nghỉ ngơi cũng là để sẽ có thể tiếp tục làm việc trong tương lai. Vì vậy, em hãy cứ nghỉ ngơi mà đừng bận tâm lo âu quá nhiều điều nhé.

Em bình yên như hoàng hôn.

Và dù không cố tình, thậm chí đôi khi còn cố ý che giấu mình sau những bộ trang phục đen, em vẫn rực rỡ như mặt trời vì nội lực toát ra từ bên trong em.

Em có đủ cả một ngày trong em, từ sáng tinh mơ đến tối khuya mờ, trọn vẹn, nguyên khôi.

Vậy nên, em sẽ ổn thôi.

Kodaki

Click to comment

Viết bình luận

Your email address will not be published. Required fields are marked *

Trà chiều

Thế giới viễn tưởng độc đáo trong bốn bộ phim mang đậm tính thể nghiệm

Published

on

Thế giới của phim khoa học viễn tưởng không phải lúc nào cũng chỉ có AI, robot, hay du hành không gian mà còn vô vàn những điều đặc biệt khác có thể bạn chưa biết.

Năm 2023 vừa qua đã ghi nhận sự phát triển ngày càng mạnh mẽ của AI. Điều đó khiến cho dòng phim khoa học viễn tưởng nhận được nhiều sự quan tâm trở lại. Nhắc đến dòng phim này, người ta vẫn thường đóng khung nó với vài yếu tố tiêu biểu thường gặp như: AI, robot, du hành vũ trụ, thế giới song song… Tuy nhiên, có rất nhiều tác phẩm sci-fi kinh điển đã chứng minh điều ngược lại.

Hãy cùng Bookish khám phá những bộ phim sci-fi không thuần túy là sci-fi vì ở đó, người xem được tận hưởng bữa tiệc điện ảnh đỉnh cao với những hương vị hòa quyện mĩ mãn từ nhiều thể loại khác nhau.

Back to The Future (1985)

Sci-fi x Road Trip Comedies

Cùng với The Terminator, Back To The Future ra đời năm 1985 đã trở thành biểu tượng kinh điển của dòng phim sci-fi lấy chủ đề du hành thời gian. Đó cũng là một trong những nguyên nhân mà bộ phim này được nhắc đến nhiều lần trong Avengers: Endgame lúc cả nhóm quyết định quay về quá khứ.

Tuy nhiên, không giống như The Terminator, Back To The Future mang màu sắc vui nhộn, hài hước của lứa tuổi học trò. Cậu học sinh tuổi teen Marty McFly ở thập niên 80 vô tình bị kéo về quá khứ trên chiếc xe cỗ máy thời gian của nhà khoa học Emmett Brown. Cậu quay trở về thập niên 50 – lúc này bố mẹ cậu cũng ở lứa tuổi học trò như cậu. Để có thể quay về hiện tại năm 80, cậu phải tìm cách hàn gắn mối quan hệ của bố mẹ, nếu không bản thân cậu cũng sẽ không tồn tại ở năm 80. Từ đó, câu chuyện nảy sinh nhiều tình huống dở khóc dở cuối. Nếu như The Terminator là sự phối trộn hoàn hảo giữa thể loại sci-fi và hành động thì Back To The Future lại là màn kết hợp ăn ý giữa thể loại sci-fi và hài hành trình. Bộ phim tốn kinh phí thực hiện là 19 triệu USD nhưng lại có doanh thu phòng vé lên đến 388 triệu USD. Chính vì thành công này mà đạo diễn Robert Zemeckis đã thực hiện hai phần tiếp theo cũng vui nhộn không kém.

Snowpiercer (2013)

Sci-fi x Dystopia

Bong Joon Ho không chỉ tạo ra những bộ phim sâu sắc về đề tài xã hội mà ông còn có khả năng làm phim khoa học viễn tưởng rất chặt chẽ, thuyết phục. Điều này thể hiện rõ nhất qua Snowpiercer. Phim dựa trên tiểu thuyết Pháp Le Transperceneige lấy đề tài hậu tận thế. Trong tương lai, sau một thí nghiệm thất bại, khí hậu toàn cầu biến đổi dẫn đến gần như toàn bộ sinh vật đều bị diệt vong, ngoại trừ một số người may mắn có mặt trên con tàu Snowpiercer chạy vòng quanh Trái đất với động cơ vĩnh cửu. Tại đây, một xã hội thu nhỏ mới lại được hình thành. Dưới bàn tay tài hoa của Bong Joon Ho, Snowpiercer cũng không đơn giản là tác phẩm sci-fi thuần túy mà ông còn lồng ghép vào nhiều thể loại khác nhau: có những phân đoạn hành động mãn nhãn, đồng thời cũng có những phân đoạn dí dỏm, và cách đặt vấn đề về giai tầng xã hội vẫn mang phong cách rất đặc trưng của Bong. 

Eternal Sunshine Of The Spotless Mind (2004)

Sci-fi x Romance

Sẽ như thế nào nếu kết hợp thể loại sci-fi với phim tình cảm? Khi đó, chúng ta sẽ có kiệt tác Eternal Sunshine Of The Spotless Mind của bộ đôi đạo diễn Michel Gondry và biên kịch Charlie Kaufman. Bộ phim sử dụng đề tài “can thiệp kí ức” để khám phá bản năng con người khi tình yêu tan vỡ. Sẽ ra sao nếu khi chia tay một ai đó, bạn có thể xóa toàn bộ những kí ức vui buồn liên quan đến họ ra khỏi tâm trí? Sau khi Joel biết được Clementine – người yêu cũ của anh đã xóa kí ức tình yêu, anh quyết định bản thân mình cũng sẽ thực hiện việc này. Nhưng khi anh khám phá được điều gì đã khiến họ gắn kết rồi lại chia xa, anh nhận ra mình vẫn còn tình cảm dành cho cô. Nếu như công nghệ trong phim là thứ hư cấu thì cảm xúc giữa hai nhân vật trong Eternal Sunshine hoàn toàn chân thực, lay động trái tim người xem, khiến ai cũng phải thổn thức.

Under The Skin (2013)

Sci-fi x Experimental film

Cuối cùng, không thể không nhắc đến bộ phim sci-fi mang tính thể nghiệm, tiên phong đáng nhớ: Under The Skin. Có rất nhiều phim lấy đề tài sinh vật ngoài hành tinh xâm nhập Trái đất, nhưng có lẽ chưa bộ phim nào kể câu chuyện thật đặc biệt nhưng lại với nhịp điệu từ tốn như Under The Skin. Scarlett Johansson trong vai sinh vật ngoài hành tinh vô danh chỉ làm đúng một công việc là đi lang thang trên một chiếc xe tải, lựa chọn những người đàn ông cô đơn làm con mồi. Bộ phim rất kiệm lời thoại, khiến người xem rợn người không chỉ bởi những hình ảnh thị giác lạ mắt mà còn bởi thứ âm nhạc cũng đầy tính thể nghiệm độc đáo của Mica Levi. Tuy nhiên, nếu chỉ tập trung vào thể nghiệm mà bỏ qua nội dung, Under The Skin đã không gây được tiếng vang lớn như thế trong cộng đồng điện ảnh. Sau tất cả, bộ phim của đạo diễn Jonathan Glazer lại khiến người xem trăn trở nhiều về thân phận làm người.

Hoàng Đức Nhiên

Đọc bài viết

Trà chiều

The Terminator & Blade Runner: Hai tượng đài điện ảnh độc đáo của thập niên 80

Published

on

Cùng ra mắt vào thập niên 80, The Terminator (1984) và Blade Runner (1982) đều là hai kiệt tác điện ảnh độc đáo, góp phần rất lớn trong việc tạo ra diện mạo mới cho thể loại sci-fi.

Bài viết này sẽ dẫn dắt bạn khám phá những vấn đề khác nhau được đặt ra trong hai phim: từ những dòng suy tư về mối liên hệ nhân quả giữa hành động và thời gian trong The Terminator đến không gian đô thị đậm chất noir và những truy vấn về bản chất con người trong Blade Runner.

The Terminator (1984)

The Terminator là bước đột phá ngoạn mục trong sự nghiệp điện ảnh của đạo diễn James Cameron. Vào thời điểm ra mắt, bộ phim gây ấn tượng bởi việc pha trộn nhiều đặc tính giữa các thể loại khác nhau, mang đến màu sắc mới cho dòng phim sci-fi.

The Terminator kể câu chuyện về một người máy sát thủ ra đời năm 2029, được trao nhiệm vụ quay về năm 1984 để giết người phụ nữ trẻ tên là Sarah Connor. Sarah hoàn toàn không biết rằng cuộc đời cô có ảnh hưởng đáng kể đến số phận nhân loại và cô có thể chết bất cứ lúc nào dưới sự truy sát của cỗ máy bất khả chiến bại được gọi là Kẻ Hủy Diệt. Kyle Reese cũng đến từ tương lai nhưng nhiệm vụ của anh là bảo vệ Sarah – người mẹ của thủ lĩnh tương lai.

Với cốt truyện như thế, The Terminator vừa có những pha hành động mãn nhãn, vừa có nhiều tầng suy tư phức tạp về dòng chảy của thời gian, về phương thức thay đổi một sự kiện trong quá khứ có thể dẫn đến tương lai khác biệt hoàn toàn – đây vốn là chủ đề hiếm gặp trong phim hành động ở giai đoạn đó. Ngoài ra, những bản nhạc nền tạo không khí căng thẳng của nhạc sĩ Brad Fiedel cũng góp phần lớn vào thành công của phim.

Tất cả những nhân tố đó đã khiến phim trở thành một mảnh ghép quan trọng của văn hóa đại chúng đến tận ngày nay. Câu nói “I'll be back” của nhân vật Kẻ Hủy Diệt trong phim được sử dụng phổ biến, trở thành slogan thương hiện cho chính Arnold Schwarzenegger.

Từ năm 1984 đến nay, The Terminator đã sản xuất 6 phần phim: The Terminator (1984), Terminator 2: Judgment Day (1991), Terminator 3: Rise of the Machines (2003), Terminator Salvation (2009), Terminator Genisys (2015), Terminator: Dark Fate (2019). Tất cả những phần phim này đều đạt được doanh thu khủng, riêng phần đầu tiên The Terminator đã trụ vững ở vị trí số 1 trên bảng xếp hạng phòng vé ở Mỹ trong suốt hai tuần. Năm 2008, The Terminator đã được Thư viện Quốc hội Hoa Kỳ đưa vào Viện lưu trữ phim quốc gia để bảo tồn với lí do là bộ phim “nổi bật ở phương diện văn hóa, lịch sử, và mĩ học”.                          

Blade Runner (1982)

Không may mắn như The Terminator, Blade Runner của đạo diễn Ridley Scott là một tuyệt tác có số phận khá hẩm hiu khi vừa ra đời. Tuy nhiên, qua nhiều thập kỉ với những bản dựng khác nhau, tác phẩm này đã trở thành một tượng đài lớn của thể loại sci-fi.

Dựa trên tiểu thuyết gốc Do Androids Dream Of Electric Sheep? của nhà văn Philip K. Dick, Blade Runner vẽ nên viễn cảnh ảm đạm của thế giới vào năm 2019. Khi đó, thế giới tràn ngập những replicant – người máy có hình dạng giống con người, được tạo ra với vòng đời ngắn ngủi để làm những công việc nguy hiểm phục vụ cho con người. Một nhóm replicant bất mãn trước việc này đã làm một cuộc phản loạn, quay trở về Trái Đất và giết con người. Rick Deckard, một cảnh sát đã nghỉ hưu ở Los Angeles nhận nhiệm vụ phải truy lùng và tận diệt toàn bộ nhóm replicant nổi loạn này.

Blade Runner là sự pha trộn giữa sci-fi, trinh thám và phim noir – thể loại phim hình sự tội phạm mang đậm phong cách Hollywood, thường thể hiện thái độ hoài nghi, mỉa mai. Thông qua hành trình của Rick Deckard, bộ phim đặt ra nhiều câu hỏi triết học về tính người, thế nào là một con người.

Nhưng không chỉ sâu sắc về nội dung, Blade Runner còn là bữa tiệc chiêu đãi về thị giác qua cách bộ phim thể hiện không gian đô thị tương lai với những màn hình quảng cáo lớn, đèn neon luôn lấp lánh và đường phố lúc nào cũng nhộn nhịp. Cảm hứng thị giác của phim kết hợp từ những bức tranh cổ điển của danh họa Edward Hopper và các khu phố với những tòa nhà chọc trời ở Hong Kong. Sự kết hợp này đã tạo nên không gian thị giác ấn tượng của phim khi con người bị nhấn chìm trong công nghệ. Mĩ thuật của phim tạo ảnh hưởng lớn đến cách xây dựng không gian cho những phim sci-fi hay hành động của Hollywood ra đời sau đó như: The Matrix (1999), bộ ba Dark Knight (2005 – 2012) của đạo diễn Christopher Nolan, Ghost in the Shell (2017)…

Ngày nay, Blade Runner đã có một chỗ đứng không thể thay thế trong dòng phim sci-fi với nhiều ảnh hưởng mang tính định hình về mĩ thuật, tư duy về cách kể chuyện và nhân vật. Blade Runner 2049 – phần tiếp theo của phim ra đời vào năm 2017, đúng 35 năm kể từ phần đầu tiên đã không làm người hâm mộ thất vọng với điểm số trên Rotten Tomatoes lên đến 88%.

Hoàng Đức Nhiên

Đọc bài viết

Trà chiều

Hai tác phẩm định hình dấu ấn cá nhân của đạo diễn James Cameron và Christopher Nolan

Published

on

Đạo diễn James Cameron và đạo diễn Christopher Nolan đều là những cá nhân kiệt xuất trong ngành điện ảnh với nhiều bộ phim kinh điển vừa đạt được doanh thu khủng, vừa có giá trị nghệ thuật cao.

Tuy nhiên, khi nhắc đến hai vị đạo diễn tài danh này, có hai tác phẩm đặc biệt mà người hâm mộ điện ảnh không thể nào bỏ lỡ.Hãy cùng Bookish khám phá những dấu ấn đặc trưng cá nhân của đạo diễn James Cameron trong Avatar và của đạo diễn Christopher Nolan trong Inception.  

Avatar (2009)

Năm 2009, bộ phim sci-fi Avatar của đạo diễn James Cameron ra đời đã tạo nên bước ngoặt lớn cho sự phát triển công nghệ điện ảnh. Lần đầu tiên, cả thế giới được xem một bộ phim 3D. Kĩ thuật thị giác đột phá đã khiến trải nghiệm của phim cực kì sống động.

Vào năm 2154, nguồn tài nguyên Trái đất trở nên cạn kiệt dưới sự khai thác của con người dẫn đến khủng hoảng năng lượng. Lúc bấy giờ, tập đoàn RDA đang khai thác unobtanium – một loại khoáng sản có giá trị tại Pandora, một hành tinh tươi tốt mang sự sống giống Trái Đất nhưng lại có bầu khí quyển độc hại cho con người. Pandora là nơi sinh sống của người Na'vi da xanh, có hình dáng và trí óc giống con người. Để tìm hiểu về người Navi và sinh quyển ở Pandora, các nhà khoa học sử dụng cơ thể người lai Na’vi gọi là các Avatar, được hoạt động thông qua liên kết thần kinh với những người có kiểu gen phù hợp. Jake Sully là một cựu lính thủy quân được giao nhiệm vụ trà trộn vào hành tinh Pandora. Quá trình thực hiện nhiệm vụ đã khiến anh bị giằng xé giữa việc tuân theo mệnh lệnh hay bảo vệ xứ sở mà anh đã trót xem là quê nhà.

Đạo diễn James Cameron đã mất đến 15 năm để thực hiện Avatar từ lúc bộ phimcòn là ý tưởng năm 1994 cho đến khi ra đời năm 2009. Sở dĩ bộ phim mất nhiều thời gian như vậy là do Cameron không chỉ trau chuốt về mặt nghệ thuật mà còn cả kĩ thuật: từ công đoạn làm việc với chuyên gia ngôn ngữ để tạo ra tiếng Na’vi với hơn 1000 từ, cho đến việc tạo ra kĩ thuật 3D. Sự kì công này khiến Avatar chiều lòng được cả khán giả đại chúng lẫn giới hàn lâm. Avatar luônđứng đầu danh sách phim ăn khách nhất mọi thời đại với doanh thu lên đến 2,7 tỉ USD, và chỉ bị Avengers: Endgame vượt mặt vào năm 2019 sau suốt 10 năm thống trị bảng vàng.            

Avatar 3 dự kiến sẽ ra mắt vào năm 2025, tiếp tục hứa hẹn mang đến những thành tích khủng trong tương lai. 

James Cameron

Inception (2010)

Hầu như những bộ phim của đạo diễn Christopher Nolan đều có các yếu tố như: du hành thời gian, tìm hiểu bản chất thế giới… khiến người xem vừa rối não lẫn rối lòng. Và Inception chính là một tác phẩm hội tụ đủ các yếu tố làm nên thương hiệu Nolan, trở thành một tượng đài khó quên trong lòng người hâm mộ.

Inception là một trải nghiệm điện ảnh đáng nhớ khi Nolan cố gắng hình tượng hóa kiến trúc tư duy của con người, biến tiềm thức trở thành không gian vật lí cho các hoạt động đánh cắp được diễn ra. Bộ phim kể về một tên trộm có khả năng đi vào giấc mơ của người khác. Dom Cobb không trộm gì cả, anh chỉ trộm ý niệm. Bằng việc thâm nhập vào tiềm thức của đối tượng, anh có thể lấy thông tin mà đến cả những tay hacker sừng sỏ nhất cũng không thể làm được. Trong thế giới điệp viên, Cobb là vũ khí tối thượng. Nhưng kể cả vũ khí cũng có nhược điểm, khi Cobb gần như mất tất cả mọi thứ, anh được giao một nhiệm vụ cuối cùng để chuộc lỗi. Lần này, Cobb không gặt lấy ý niệm, anh gieo nó. Liệu anh và đồng đội có thành công?

Christopher Nolan

Inception có một kịch bản hoàn hảo, từng thế giới giấc mơ xuất hiện trong phim vừa chính xác, tinh tế, đôi khi lại hài hước. Thời gian là chủ đề yêu thích của Nolan và ông luôn tìm được cách thể nghiệm thú vị, có thể thấy rõ điều này qua cả phim InterstellarDunkirk. Nhưng trong Inception, thời gian không chỉ là chủ đề mà còn là công cụ kể chuyện khi tái hiện lại hoàn hảo nỗi ám ảnh của kẻ cắp giấc mơ. Từ đó, bộ phim đặt ra nhiều câu hỏi hóc búa: liệu rằng ta có đang sống trong thời gian thực, khi nào thì một giấc mơ trở thành thực tế, khi nào thì thực tế hóa ra lại chỉ là một giấc mơ, ta đang thức hay còn mơ?

Thông qua Inception, Nolan lồng ghép rất nhiều khái niệm về sự logic giấc mơ, đảo ngược các nguyên tắc vật lí, cho thấy những thực tại có thể vỡ vụn ra sao… Tất cả hòa quyện vào nhau, tạo thành một tác phẩm sci-fi tâm lí đỉnh cao mà có lẽ nhiều thập kỉ sau, vẫn còn khiến người ta trầm trồ.

Hoàng Đức Nhiên

Đọc bài viết

Cafe sáng