Trích đăng

Trích đăng “Kẻ ly hương” – Viet Thanh Nguyen

Trở thành một người tị nạn là biết chắc chắn rằng quá khứ không chỉ được đánh dấu bởi quãng thời gian đã trôi qua, mà còn bởi sự mất mát – mất mát những người thân yêu, quê cha đất tổ, bản sắc, bản ngã.

Published

on

Chi tiết tác phẩm

Trích từ: Kẻ ly hương

Tác giả: Viet Thanh Nguyen

Đơn vị giữ bản quyền: Phương Nam Book

Phát hành: tháng 11.2019

Lời giới thiệu

NGUYỄN THANH VIỆT

Tôi đã từng là người tị nạn, mặc dù bây giờ chắc không ai còn nhìn lầm tôi với một nạn dân nữa. Chính vì lẽ này, tôi cứ nhất quyết muốn được gọi là một nạn dân, vì nỗi cám dỗ để giả vờ rằng mình chưa từng bao giờ là một người tị nạn thật là mãnh liệt. Sẽ thật dễ dàng hơn nếu tôi tự gọi mình là người nhập cư, vờ như mình thuộc về một kiểu nhân loại du cư rày đây mai đó vốn ít gây tranh cãi hơn, ít rầy rà hơn, và ít dọa dẫm hơn những người tị nạn.

Tôi chào đời như một công dân và như một con người. Năm lên bốn tuổi tôi đã trở thành một cái gì đó thấp kém hơn con người, ít ra trong mắt những kẻ không nghĩ về các nạn dân như là con người. Giờ đây khi nhìn lại, tôi chẳng nhớ gì về trải nghiệm đã biến tôi thành một người tị nạn. Nó bắt đầu với việc mẹ tôi đã tự mình ra một quyết định sinh tử. Ba tôi bấy giờ đang ở Sài Gòn, và mọi đường dây liên lạc đã bị cắt đứt. Tôi không nhớ việc mẹ tôi đã chạy trốn khỏi quê nhà với anh trai mười tuổi của tôi và tôi, để lại phía sau người chị nuôi mới mười sáu tuổi của chúng tôi để trông coi sản nghiệp gia đình. Tôi không nhớ chị tôi, người mà ba mẹ tôi sẽ không được gặp lại trong gần hai mươi năm trời, người mà tôi sẽ không còn gặp lại trong gần ba mươi năm.

Anh trai tôi nhớ những xác lính dù treo lủng lẳng trên cây trong hành trình trốn chạy của chúng tôi, mặc dù tôi không nhớ gì về chuyện đó. Tôi cũng không nhớ liệu mình có đi bộ hết một trăm tám mươi tư cây số tới Nha Trang, hay mẹ tôi có bồng tôi không, hay chúng tôi có xoay xở leo lên được một trong những chiếc xe hơi, xe tải, xe ngựa, xe bò, xe mô tô, và xe đạp nằm ngổn ngang la liệt trên đường không. Có lẽ mẹ tôi nhớ nhưng tôi chưa bao giờ hỏi về cuộc di tản thảm khốc đó, hoặc về mười ngàn nạn dân và binh lính đang táo tác tháo chạy, hay cuộc tranh cướp tuyệt vọng để lên được một chiếc thuyền ở Nha Trang, hay vụ vài binh lính nổ súng vào thường dân để mở đường chạy lên thuyền, như về sau tôi đọc được trong những ghi chép về thời kỳ này.

Tôi không nhớ việc đã tìm gặp ba ở Sài Gòn, hoặc chúng tôi đã nơm nớp suốt một tháng chờ đợi ngày quân đội Cộng sản tiến đến rìa thành phố ra sao, hoặc chúng tôi đã xoay xở mọi cách để đến phi trường, rồi đến Đại sứ quán Mỹ, và cuối cùng đã bằng cách nào chen lấn qua những đám đông tại bến tàu để tìm tới một con thuyền, hoặc việc ba tôi đã bị thất lạc với chúng tôi nhưng vẫn quyết định tự mình lên một chiếc thuyền dù sao mặc lòng, và việc mẹ tôi đã quyết định một điều tương tự, hoặc làm thế nào chúng tôi đã cuối cùng tái hợp trên một con tàu lớn hơn. Tôi nhớ rằng chúng tôi đã gặp may mắn một cách khó tin, tìm được đường rời khỏi đất nước, khi mà nhiều triệu người không thể, và không lạc mất một ai, khi mà nhiều ngàn người đã bị như vậy. Không ai cả, ngoại trừ chị tôi.

Trong hầu hết quãng đời đã qua của mình, tôi đều nhớ chuyện những binh lính trên thuyền chúng tôi nổ súng vào một chiếc thuyền nhỏ hơn chứa đầy người tị nạn đang cố sấn lại gần. Nhưng khi tôi nhắc chuyện đó với anh trai nhiều năm sau, anh nói rằng không bao giờ có việc nổ súng cả.

Tôi không nhớ rất nhiều chuyện, và tôi lấy làm biết ơn vì điều ấy, bởi lẽ những chuyện tôi nhớ được đã đủ làm tôi tổn thương lắm rồi. Ký ức của tôi bắt đầu sau những lần dừng chân của chúng tôi tại một chuỗi các căn cứ quân sự của Mỹ ở Philippines, đảo Guam, và sau cùng là Pennsylvania. Để được rời trại tị nạn ở Pennsylvania, những người Việt tị nạn cần những người Mỹ đỡ đầu. Một người đỡ đầu đã nhận bảo trợ ba mẹ tôi, một người khác nhận nuôi anh tôi, một người khác nữa nuôi tôi. Trong hầu hết cuộc đời mình, tôi đã cố không nhớ về thời khắc này ngoại trừ ghi nhận nó như một sự kiện hiển nhiên, như một chuyện đã xảy ra với chúng tôi nhưng không để lại thiệt hại nào cả, nhưng sự thật không phải vậy. Là một nhà văn và cha của một bé trai bốn tuổi, cùng độ tuổi mà tôi đã trở thành người tị nạn, tôi phải nhớ, hoặc đôi khi tưởng tượng, không chỉ những gì đã xảy ra, mà cả cảm giác đã được trải nghiệm. Tôi phải hình dung đến tình cảnh của một người cha và một người mẹ có những đứa con bị bắt khỏi vòng tay mình. Tôi phải tưởng tượng cảm nhận của mình lúc bấy giờ, mặc dù tôi nhớ đến việc đã bị người cha đỡ đầu bắt đưa đi thăm cha mẹ tôi và khóc thét mỗi khi chia tay ra về.

Tôi nhớ đến cảnh sum họp với cha mẹ sau vài tháng và tuyết và sự giá lạnh và việc mẹ tôi biến mất khỏi cuộc đời chúng tôi trong một quãng thời gian tôi không thể nhớ và vì những lý do tôi không thể hiểu, và với một nhận biết mơ hồ rằng nó có gì đó liên quan tới vết thương nhói lòng của một người mất nước, mất gia đình, của cải, sự an toàn, và có lẽ cả chính bản thân mình. Nhớ lại điều này, tôi biết rằng tôi cũng đang tiên báo một thứ tương lai u ám nhất có thể, về những gì sẽ xảy đến với mẹ trong nhiều thập kỷ sắp tới. Mặc cho sự vắng mặt ngắn ngủi, hoặc có lẽ là rất lâu của mẹ, tôi nhớ mình đã tận hưởng cuộc sống ở Harrisburg, Pennsylvania, vì trẻ con có thể vui thú với những thứ mà người lớn không thể miễn là chúng có thể nô đùa, và tôi nhớ về chiếc ghế tràng kỷ nằm ở sân sau và những đứa trẻ hàng xóm lấy trộm kẹo Halloween của chúng tôi và anh trai đã giận dữ dắt tôi về nhà trước khi tự mình đánh bạo đi lấy lại những thứ đã mất.

Tôi nhớ việc di chuyển tới San Jose, California, vào năm 1978 và cha mẹ tôi mở một cửa hàng tạp hóa Việt thứ hai trong thành phố và tôi nhớ cuộc gọi vào ngày lễ Giáng Sinh mà anh tôi nhận được, báo cho anh biết rằng cha mẹ tôi đã bị bắn trong một vụ cướp có vũ trang, và tôi nhớ sự tình không đến nỗi tồi tệ lắm, chỉ là những vết thương phần mềm, họ đã trở lại làm việc không lâu sau đó, và tôi nhớ rằng những người duy nhất muốn mở cửa hàng trong khu buôn bán xập xệ San Jose là những người Việt tị nạn, và tôi nhớ đã bước xuống đường phố từ cửa hàng của ba mẹ tôi và trông thấy tấm bảng trên một tủ kính bày hàng ghi MỘT NGƯỜI MỸ NỮA ĐÃ SẬP TIỆM VÌ NGƯỜI VIỆT NAM, và tôi nhớ một tên găng-xtơ lẽo đẽo theo chúng tôi về đến nhà và gõ cửa và vung vẩy khẩu súng vào mặt tất cả chúng tôi và mẹ đã cứu chúng tôi với việc chạy vụt qua mặt y và lao ra ngoài vệ đường, nhưng tôi không nhớ chuyện hai cảnh sát bị bắn chết trước cửa tiệm của cha mẹ chúng tôi vì bấy giờ tôi đã đi học đại học xa nhà và cha mẹ tôi không muốn gọi điện làm tôi lo lắng.

Tôi nhớ tất cả những điều này vì nếu tôi không nhớ và viết chúng ra ắt có lẽ tất cả chúng sẽ tan biến vào hư vô, cũng như tất cả những cửa hàng Việt Nam đã biến mất, vì sau khi họ đã giúp hồi sinh khu buôn bán mà chẳng ai buồn đầu tư vào, thành phố San Jose nhận ra rằng khu buôn bán ấy còn có thể tốt hơn thế nhiều bèn bắt buộc tất cả chủ cửa hàng bán lại mọi sản nghiệp của họ và nếu bạn ghé thăm khu thương mại San Jose ngày nay bạn sẽ nhìn thấy một tòa thị chính khổng lồ, lấp lánh, mới tinh biểu trưng cho sự thịnh vượng của Thung lũng Silicon chỉ vừa vặn bắt đầu tồn tại năm 1978 nhưng bạn sẽ không thấy cửa tiệm của ba mẹ tôi vốn nằm bên kia đường đối diện tòa thị chính mới. Cái bạn sẽ thấy thay vì vậy là một bãi đỗ xe với vài chiếc xe hơi ở đó vì hội đồng thành phố nghĩ rằng quang cảnh một bãi đỗ xe trống trơn nhìn từ những cửa sổ và phòng giải lao của tòa thị chính hấp dẫn hơn quang cảnh một tiệm tạp hóa gia đình của người Việt phục vụ những người tị nạn.

Là những nạn dân không chỉ một mà đến hai lần, từ miền Bắc chạy vào miền Nam năm 1954 khi quốc gia bị chia đôi, cha mẹ tôi đã trải nghiệm một tình thế lưỡng phân đau đớn thường thấy của một người bị coi là kẻ xa lạ. Kẻ khác lạ tồn tại trong sự mâu thuẫn, hoặc có lẽ trong sự nghịch lý, hoặc như một thứ người vô hình, hoặc bị săm soi tận chân tơ kẽ tóc, nhưng hiếm khi được nhìn nhận một cách đàng hoàng tử tế. Trong hầu hết thời gian chúng ta không thấy kẻ khác hoặc là nhìn xuyên qua họ, bất kể kẻ khác ấy là ai với chúng ta, vì mỗi chúng ta – ngay cho dù bị một số người coi là kẻ khác lạ – vẫn có những kẻ khác lạ của riêng mình. Khi chúng ta nhìn kẻ khác lạ, kẻ khác lạ ấy không thật sự là con người đối với chúng ta, bởi cùng cách thức chúng ta định nghĩa về kẻ khác lạ, mà thay vào đó là một ấn tượng bất di bất dịch, một trò đùa, hay một nỗi ghê sợ. Trong trường hợp của người Việt tị nạn ở Mỹ, chúng tôi hiện thân cho bóng ma Á châu đến để phục vụ hoặc để đe dọa.

Vô hình và hiện diện mọi lúc khắp nơi, những người tị nạn bị thờ ơ và quên lãng bởi những người không phải người tị nạn cho đến khi họ biến thành một mối đe dọa. Những người tị nạn, như tất cả những người khác, bị coi là vô hình cho đến khi họ bị nhìn thấy ở khắp nơi, đe dọa tràn vào biên giới của chúng ta, xâm lấn văn hóa chúng ta, cưỡng hiếp phụ nữ chúng ta, dọa nạt con cái chúng ta, hủy hoại nền kinh tế chúng ta. Chúng ta những người làm ngơ và lãng quên thường không nhận thức đó là hành xử thô bạo, vì chúng ta không biết mình đang làm điều đó. Nhưng đôi khi chúng ta cố tình thờ ơ và lãng quên người khác. Khi chúng ta làm vậy, chúng ta chắc chắn ý thức rằng chúng ta đang gây tổn thương, đang hành xử thô bạo, dù đó là ở trên sân trường khi còn là những đứa trẻ hay là trên bình diện quốc gia. Khi những kẻ khác lạ này chống trả vì nhu cầu được nhìn thấy và nghe thấy – như những người tị nạn đôi khi làm – họ có thể trông giống như những bóng ma hăm dọa mà số phận của họ chính chúng ta đã gây ra và đã phủ nhận. Vậy thì chẳng có gì là lạ khi chúng ta không muốn thấy họ.

Khi tôi nói chúng ta, tôi muốn kể cả những người từng là những nạn dân. Có một vài cựu nạn dân đang cảm thấy yên ổn thoải mái trong sự vô hình của họ, trong sự an toàn với tư cách công dân mới của họ, vốn nhìn những người tị nạn hiện diện khắp nơi như những mối đe dọa và nói, “Đủ rồi.” Những cựu nạn dân này nghĩ rằng họ là những người tị nạn tốt, những người tị nạn đặc biệt, trong khi rất có thể họ chỉ đơn giản là những người may mắn, những người tị nạn có số phận tương hợp với bối cảnh chính trị của đất nước tiếp nhận họ. Những người Việt tị nạn đến Mỹ đã may mắn nhận được thiện tâm phát sinh từ một nước Mỹ mang nặng mặc cảm tội lỗi về cuộc chiến, và còn từ nỗi khao khát của một nước Mỹ muốn chứng tỏ rằng quốc gia tư bản chủ nghĩa và dân chủ tốt hơn nhiều so với quốc gia cộng sản chủ nghĩa mới thành hình mà những nạn dân đang sống chết tháo chạy. Những người tị nạn Cuba trong thập niên 1970 và 1980 được hưởng lợi từ một bối cảnh chính trị Mỹ tương tự, nhưng những nạn dân Haiti trong thời của mình thì không. Màu da đen của họ đã ngăn trở họ, cũng như việc là người Hồi giáo làm tổn thương nhiều nạn dân Syria ngày nay khi họ tìm kiếm nơi lánh nạn vậy.

Từ mọi điều tôi nhớ và mọi điều tôi không nhớ, tôi tin vào sự tương đồng về số phận con người giữa tôi và những nạn dân Syria và với 65,6 triệu người mà Liên Hiệp Quốc định nghĩa là người lưu vong. Trong số đó, 40,3 triệu là những người mất nhà mất cửa, lưu lạc tha hương ngay trong xứ sở; 22,5 triệu là những nạn dân phải trốn chạy liên miên trong đất nước mình; 2,8 triệu là những người tìm kiếm nơi lánh nạn. Nếu 65,6 triệu người này có quốc gia, quốc gia của họ sẽ lớn thứ hai mươi mốt thế giới, nhỏ hơn Thái Lan nhưng lớn hơn Pháp. Ấy vậy mà, họ không có một xứ sở cho riêng mình. Thay vì vậy, họ – để mượn cách diễn giải của sử gia nghệ thuật Robert Storr, người đang viết về vai trò của những người Việt Nam trong tâm thức nước Mỹ – là những kẻ phiêu bạt vô sở trú của lương tâm thế giới.

Những kẻ tha hương này hầu hết không được hoan nghênh ở nơi từ đó họ trốn chạy; không được hoan nghênh nơi họ đang ở, trong những trại tị nạn; và không được hoan nghênh nơi họ muốn đến. Họ đã phải chạy trốn dưới những điều kiện hết sức nghiệt ngã; họ mất hết thân bằng, quyến thuộc, nhà cửa, quê hương; họ bị giam cầm trong những trại tị nạn với những điều kiện dưới mức con người, không một kết cục rõ ràng về nơi lưu trú, và không một lối thoát dứt khoát nào; họ thường bị đe dọa trục xuất về bản thổ; và rất nhiều khả năng họ sẽ bị lãng quên, vốn là chỗ mà công việc của các nhà văn trở nên quan trọng, nhất là những nhà văn là người tị nạn hoặc từng là người tị nạn – nếu có thể vạch ra một sự khác biệt như vậy.

Liên Hiệp Quốc nói rằng người tị nạn sẽ thôi là người tị nạn nếu họ tìm được một ngôi nhà mới và cố định. Đã rất lâu kể từ khi tôi còn là một người tị nạn theo định nghĩa của Liên Hiệp Quốc: “người bị buộc trốn chạy khỏi quê hương vì lý do bị bức hại, chiến tranh, hay bạo lực.” Nhưng tôi vẫn khắc sâu trong lòng mình những ký ức vỡ vụn của việc chính mình là một nạn dân, vì nơi mà một nhà văn nên đặt chân đến là nơi khổ đau mất mát, và vì một nhà văn cần phải biết đến cái cảm nhận của một kẻ xa lạ lạc lõng là như thế nào. Công việc của một nhà văn là bất khả nếu ông ta hay bà ta không thể khơi gợi trong tâm tưởng độc giả những thân phận con người, và chỉ thông qua những hành động ghi nhớ, tưởng tượng, và cảm thông như thế chúng ta mới có thể làm lớn lên trong chính mình khả năng cảm nhận người khác.

Nhiều nhà văn, có lẽ hầu hết nhà văn hay thậm chí là tất cả các nhà văn, là những người không cảm thấy hoàn toàn thoải mái yên ổn. Họ thường khi là những kẻ lạc lõng, những kẻ ly hương thất tán về mặt cảm xúc hoặc tinh thần hoặc xã hội ở mức độ này hay mức độ khác, vào lúc này hay lúc khác. Hay có lẽ chỉ riêng tôi cảm nhận như vậy chăng. Nhưng tôi không thể không nghi ngờ rằng chính là vì trạng huống lưu vong đày ải này mà các nhà văn bắt đầu hiện hữu, và chính đây là lý do nhiều nhà văn có mối đồng cảm và thông hiểu đến vậy với những kẻ ly hương thất tán cách này hay cách khác, dù đó là một kẻ thất cơ lỡ vận trong xã hội hay là cả một làn sóng hàng triệu con người vô gia cư gây ra bởi những thế lực ngoài tầm kiểm soát của họ. Trong trường hợp của tôi, tôi nhớ rõ thân phận lưu vong của mình đến nỗi mà giờ đây tôi có thể cảm nhận nguyên vẹn cảm giác của những phận đời ly hương. Tôi ghi nhớ nỗi bất công của cuộc sống lưu vong đến độ tôi có thể hình dung tác phẩm của tôi như một nỗ lực thực thi phần nào công lý cho những người bị bức bách ra đi. Điều không công bằng với những cuộc đời tị nạn, những con người vô tổ quốc, những kẻ tìm nơi nương náu, những kẻ không còn có mái nhà để về là gì đây? Khi nói tới công bằng, điều quan trọng không phải là liệu người dân ở đất nước cưu mang có nghĩ rằng họ không có nghĩa vụ hay nợ nần gì với các nạn dân hay là ngược lại. Giam giữ con người trong trại tập trung là trừng phạt họ khi mà họ không phạm một tội nào ngoài việc cố gắng cứu lấy sinh mệnh của chính mình và của người thân. Trại tị nạn là một người anh em họ hàng bất nhân đồng hạng với trại giam, trại tập trung, trại tử thần. Trại là nơi để chúng ta giam giữ những kẻ chúng ta không coi là con người hoàn toàn, và nếu chúng ta không chủ tâm tìm cách đưa họ đến chỗ chết trong hầu hết trường hợp, chúng ta cũng thường không tích cực tìm cách trả lại cho họ cuộc sống mà họ đã có trước kia, cuộc sống mà chúng ta đang có.

Chúng ta nên nhớ rằng công lý không giống như luật pháp. Nhiều điều luật nói rằng biên giới là bất khả xâm phạm, và rằng vượt biên trái phép là tội hình sự. Những người nhập cư trái phép vì lẽ ấy là những tội phạm và trại tị nạn là một thứ nhà tù. Nhưng nếu những đường biên giới là hợp pháp, liệu chúng cũng có công bằng chăng? Những khái niệm của chúng ta về biên giới đã thay đổi qua nhiều thế kỷ, cũng như những quan niệm về công lý và lòng nhân đạo của chúng ta vậy. Ngày nay chúng ta thường có thể di chuyển tự do giữa các thành phố trong một đất nước, ngay cho dù những thành phố ấy đã từng là những thực thể với những đường biên giới riêng của chúng và đã từng đánh nhau sứt đầu mẻ trán. Giờ đây chúng ta hãy quay nhìn lại thời kỳ của những thành bang – nếu chúng ta còn nhớ về chúng – và tôi ngờ rằng sẽ chẳng mấy ai trong chúng ta có mong muốn trở lại một điều kiện sống như thế.

Cũng vậy, chúng ta nên nhìn vào hiện trạng của những biên giới quốc gia và chúng ta nên hình dung về một thế giới công bình hơn nơi những ranh giới này là những cột mốc biểu thị văn hóa và bản sắc, quan trọng nhưng dễ dàng vượt qua, thay vì những biên giới pháp lý bày đặt ra để khoác lên bản sắc quốc gia chúng ta một diện mạo nghiệt ngã, sẵn sàng gây hấn và chiến tranh, chia rẽ chúng ta với những người khác. Sự tan rã của những biên giới là viễn kiến về một thế giới chủ nghĩa không tưởng, về nền hòa bình toàn cầu và một nơi chốn toàn cầu nơi không ai phải sống lưu vong, về nhân loại như một cộng đồng toàn cầu vốn cho phép những dị biệt văn hóa nhưng không phải loại dị biệt dẫn chúng ta đến chỗ áp bức, trừng phạt, hoặc giết chóc. Làm cho những đường biên giới trở nên dễ vượt qua, ấy là chúng ta đang đưa chúng ta lại gần hơn với người khác, và đưa người khác lại gần chúng ta hơn. Tôi thấy phấn chấn với một viễn cảnh như thế, nhưng vài người nhận thấy sự gần gũi này là điều vô cùng gây kinh hãi.

Nếu chưa thành tựu được cộng đồng toàn cầu này, ấy không phải tại vì đó là một giấc mơ hoàn toàn không tưởng, một cõi trời hư vô không được vẽ ra bởi bất kỳ biên giới nào. Có những thời khắc trong lịch sử nhân loại – và nhiều lần trong những tác phẩm văn học và văn hóa dân gian và thần học của mình – chúng ta đã đạt đến cảnh giới cao thượng nhất của phẩm cách trong khả năng mở lòng với tha nhân, cho kẻ đói ăn, cho kẻ rách rưới áo mặc, cho khách trọ nhà. Đây là điều chúng ta cần ghi nhớ khi chúng ta ấp ủ hy vọng và ra sức vì một tương lai, nơi mà thứ quan trọng không phải là biên cương, mà là con người. Đây là loại ký ức, ký ức về lòng nhân đạo của chúng ta, và sự bất nhân của chúng ta, mà các nhà văn có thể khơi dậy.

Chúng ta cần những câu chuyện để biểu đạt viễn kiến của một nhà văn, nhưng đồng thời để có thể thốt lên tiếng lòng của những người phải biền biệt câm nín. Nỗi khao khát lắng nghe sự câm lặng vô thanh này là một phép tu từ mãnh liệt đồng thời ẩn tàng nguy hiểm nếu nó ngăn chúng ta làm nhiều hơn là chỉ lắng nghe một câu chuyện hay đọc một quyển sách. Chỉ vì chúng ta đã nghe câu chuyện đó hay đọc quyển sách đó không có nghĩa đã có bất kỳ thay đổi gì cho những kẻ câm lặng. Những độc giả và nhà văn không nên tự đánh lừa mình rằng văn chương có thể thay đổi thế giới. Văn chương thay đổi thế giới của các độc giả và nhà văn, nhưng văn chương không thay đổi thế giới cho đến khi người ta nhảy ra khỏi ghế bành, lăn xả vào cuộc đời, và làm điều gì đó để đổi thay những tình cảnh mà văn chương đã nói lên. Bằng không văn chương sẽ chỉ là một vật thờ lố lăng đối với các độc giả và nhà văn, cho phép họ nghĩ rằng họ đang lắng nghe những kẻ câm lặng, trong khi thật ra họ chỉ đang nghe tiếng nói cá nhân của nhà văn mà thôi.

Vấn đề ở đây là những người mà chúng ta gọi là câm lặng thường khi không thật sự câm lặng. Nhiều người câm lặng thật ra đang luôn luôn giãi bày. Họ nói rất to, nếu bạn đến đủ gần để nghe họ, nếu bạn có khả năng lắng nghe, nếu bạn ý thức về những gì bạn không thể nghe. Vấn đề là phần lớn thế giới không muốn lắng nghe những kẻ câm lặng hoặc không thể nghe họ. Sự công bình chân chính là tạo ra một thế giới của những cơ hội xã hội, kinh tế, văn hóa, và chính trị vốn sẽ cho phép tất cả những con người câm nín này kể lại câu chuyện của họ và được nghe thấy, thay vì lệ thuộc vào một nhà văn hay một kiểu người đại diện nào đó. Không có sự công bình như thế, sẽ không bao giờ có hồi kết cho những làn sóng người lưu vong, cho việc tạo ra những con người càng câm lặng hơn nữa, hoặc, chính xác hơn, cho sự câm lặng khôn cùng của hàng triệu tiếng nói. Sự công bình chân chính sẽ là khi chúng ta không còn cần một tiếng nói cho những ai câm nín nữa.

Trong khi chờ đợi, chúng ta có quyển sách với những tiếng nói vang vọng mãnh liệt này, từ những cây bút vốn dĩ là những người tị nạn. Joseph Azam, đến từ Afghanistan, kể về quá trình tự chuyển biến dài lâu rốt cuộc đã dẫn tới việc tỉa tót cái tên cúng cơm của mình theo một hơi hướng rất Mỹ. David Bezmozgis, đến từ Liên bang Xô Viết, định cư ở Canada, nơi anh mô tả quá trình vun đắp mối tình đoàn kết thầm lặng với một người tị nạn mới đang cố gắng xin phép được ở lại. Fatima Bhutto, chào đời ở Afghanistan, có cha là một người Pakistan xuất thân từ một gia thế có bề dày làm chính trị, đã tự mình kinh qua những trải nghiệm của một nạn dân trong phiên bản thực tại ảo, và bất ngờ bị xúc động mãnh liệt. Bùi Thi, người trốn chạy cuộc chiến tranh Việt Nam để đến Hoa Kỳ, đã suy ngẫm về hành trang và những mảnh vỡ rời rạc của cuộc đời tị nạn qua những bức tranh được khắc họa sắc nét. Ariel Dorfman rời Chile và định cư ở Bắc Carolina, nơi ông bài xích đường lối chính trị của Donald Trump và tìm thấy hy vọng trong một siêu thị liên Mỹ La-tinh. Reyna Grande, người đến Mỹ như một người nhập cư không giấy tờ từ Mexico, đã nêu ra những câu hỏi quyết liệt về vấn đề định nghĩa: Điều gì làm cho anh trở thành người tị nạn thay vì người nhập cư?

Lev Golinkin, một người Liên Xô gốc Do Thái qua bao gian khổ đã tị nạn được ở Vienna, đã mô tả cuộc gắng sức triền miên tháng ngày để giữ lại được nhân tính khi trải nghiệm tị nạn hóa thành một bóng ma ghê khiếp. Meron Hadero, người đã đến Đức từ Ethiopia khi còn đỏ hỏn, quay trở lại Đức khi trưởng thành để tìm lại những trải nghiệm của phận đời lưu vong và nhập cư mà cô không còn nhớ.

Aleksandar Hemon, một người Chicago đến từ Bosnia, kể lại những trải nghiệm như nhân vật Candide của một đồng hương người Bosnia đã phải sống một cuộc đời quá đỗi bi tráng nhưng khôn cùng bất hạnh. Joseph một người tị nạn gốc Do Thái đến từ Hungary, miêu tả vị thế độc nhất vô nhị của Canada như một xứ sở dành cho những người ngoại cuộc, sau Mỹ, nhưng không hoàn toàn giống Mỹ (trong ý nghĩa tích cực). Porochista Khakpour cung cấp một tự truyện chân thực về cuộc hành trình của cô từ Iran đến Mỹ, bao gồm thân phận bấp bênh của cô với tư cách người Hồi giáo, người da nâu, và người Mỹ trong thời chiến. Marina Lewycka, sinh ra bởi một cặp vợ chồng người Ukrainia trong một trại “lưu vong”, định cư ở Anh với một căn cước Anh đàng hoàng tử tế – cho đến khi tâm cảm bài xích người nhập cư ngày một dâng cao khiến cô hoài nghi căn cước ấy. Maaza Mengiste, một nhà văn Mỹ đến từ Ethiopia, lần nọ trong một quán cà-phê Ý quan sát thấy hình ảnh khổ sở tàn tạ của một thanh niên da đen nhập cư, và cảm nhận nỗi đau của sự gắn bó giữa cô với anh ta và với nhiều người bị bức bách tha hương khác.

Dina Nayeri, sinh ra ở Iran, lớn lên ở Mỹ, và hiện là một cư dân Anh quốc, đã thách thức cái ý niệm rất phổ biến rằng những người tị nạn phải biết ơn bằng việc cho thấy lòng biết ơn là một cái bẫy như thế nào. Trần Vũ, một người Việt tị nạn đã đến Oklahoma, đưa ra một bảng phân loại nhiều lốt vỏ của người tị nạn: trẻ mồ côi, diễn viên, bóng ma. Novuyo Rosa Tshuma, có gia đình đã rời Zimbabwe để đặt chân đến một Nam Phi vừa hiếu khách vừa thù địch, mô tả nỗi sợ bị bức hại của người tị nạn như là nguồn cơn của nỗi khao khát tỏ ra khác thường, và vì lẽ ấy được chấp nhận. Kao Kalia Yang, một người tị nạn gốc Hmong đã cùng với gia đình đến Minnesota từ Lào, mãi ám ảnh với ký ức về những trẻ em tị nạn trong trại của cô đã vật lộn và chiến đấu để sinh tồn như thế nào.

Tất cả những nhà văn này chắc chắn đã viện đến những ký ức về quá khứ của chính họ và gia đình họ. Trở thành một người tị nạn là biết chắc chắn rằng quá khứ không chỉ được đánh dấu bởi quãng thời gian đã trôi qua, mà còn bởi sự mất mát – mất mát những người thân yêu, quê cha đất tổ, bản sắc, bản ngã. Chúng tôi muốn giãi bày tất cả những nỗi mất mát đau thương mà lẽ ra hãy còn chưa được nghe thấy ngoại trừ bởi chúng ta và những ai gần gụi và thân thương với chúng ta. Trong trường hợp của tôi, tôi nhớ đến những mất mát của cha mẹ tôi, và tôi nhớ giọng nói của họ. Tôi nhớ giọng nói của tất cả những người Việt tị nạn mà tôi đã gặp trong thời tuổi trẻ, khản cổ vì phải nhiều lần kể đi kể lại câu chuyện của mình. Nhưng tôi không nhớ giọng chị tôi. Tôi không nhớ giọng nói của tất cả những nạn dân đã chia sẻ cuộc di cư bi thảm với tôi và không đến được bến bờ, hoặc không sống sót. Nhưng tôi có thể hình dung về họ, và nếu tôi có thể hình dung về họ, ắt tôi cũng có thể nghe thấy họ. Đó là giấc mộng của nhà văn, rằng chỉ cần chúng tôi có thể nghe thấy những con người mà không ai khác muốn nghe này, ắt là chúng tôi cũng có thể khiến cho bạn nghe thấy họ.

-Còn tiếp-

Tác phẩm được trích đăng với sự đồng ý của Phương Nam Book.


Trích đăng

Sứ đoàn Iwakura – Chuyến Tây du khảo cứu nhằm canh tân dưới thời Duy Tân Minh Trị

Published

on

Trích từ: Sứ đoàn Iwakura
Tác giả: Ian Nish
Đơn vị giữ bản quyền: Phương Nam Book

Phát hành: tháng 11.2023

Nhắc đến Duy Tân Minh Trị, không gì ý nghĩa hơn khi lật lại trang sử về Sứ mệnh Iwakura vì tính khai sáng như Columbus đi tìm Tân thế giới. Họ đem Văn minh khai sáng về trồng trên mảnh đất Phù Tang, để mãi mãi là di sản chung của châu Á. 

Minh Trị Duy Tân có tác động cách mạng không chỉ cho Nhật Bản, mà cho cả châu Á trong tiến trình phát triển và tìm lại mình, với đầy những kịch tính. 

Chuyến công du Iwakura với khẩu hiệu nước giàu quân mạnh và độc lập dân tộc

Cải cách Minh Trị tôn Hoàng đế Minh Trị lên ngôi năm 1868 (lúc đó ông mới 16 tuổi), xoá bỏ chế độ Mạc Phủ, xoá bỏ các bất bình đẳng giữa các đẳng cấp xã hội, thành lập chính truyền trung ương, tái lập mối quan hệ hàng dọc và hàng ngang trong xã hội, người Nhật tạo điều kiện cho cuộc thay đổi một cách triệt để và hệ thống trong việc xây dựng một nhà nước hiện đại và một nền khoa học công nghệ hiện đại. Khẩu hiệu chính của họ là Fukoku kyohei (Nước giàu quân mạnh), và độc lập dân tộc, từng bước ngang bằng với các cường quốc phương Tây.

Iwakura Tomoki (người mặc trang phục truyền thống Nhật Bản) bên cạnh 4 phó sứ, từ trái sang phải, Kido Takayoshi, Yamaguchi Masuka, Ito Hirobumi và Okubo Toshimichi. Hình ảnh được Ishiguro Keisho sưu tầm).

Họ bắt đầu bằng Sứ mệnh Iwakura do công tước Iwakura Tomomi (1835-1883) dẫn đầu với khoảng 50 thành viên gồm nhiều nhân vật chính phủ cao cấp, trong đó có Ito Hirobumi, lúc đó mới 30 tuổi và là Thứ trưởng Bộ Công nghiệp, chưa tính khoảng 60 du học sinh phục vụ việc thông dịch, thông tin. Họ đi thăm Hoa Kỳ và hàng chục các quốc gia châu Âu, như Anh, Pháp, Đức, Áo, Ý, Bỉ, Hà Lan, Đan Mạch, Thụy Sĩ, Thụy Điển, Nga. Chuyến đi được thực hiện chỉ ba năm sau cuộc cách mạng Minh Trị, giữa lúc một cuộc khủng hoảng chính trị nổ ra tại quê nhà về bán đảo Triều Tiên.

Để động viên các sứ thần, Nhật hoàng Minh Trị đã đọc một bài diễn văn:

“Sau khi nghiên cứu và quan sát kỹ, “trẫm” có ấn tượng sâu sắc và tin rằng các quốc gia hùng mạnh và khai sáng nhất của thế giới là những quốc gia đã có những nỗ lực cần cù để vun xới trí tuệ, và tìm cách phát triển đất nước họ một cách đầy đủ và hoàn hảo... Nếu muốn ứng dụng khoa học, các kỹ xảo và những điều kiện của xã hội đang thịnh hành tại các quốc gia khai sáng, chúng ta hoặc phải tự học hỏi, hoặc gửi một đoàn nghiên cứu gồm những quan sát viên có óc thực tế đến các nước khác, tiếp thu những gì nhân dân đang thiếu để làm lợi cho quốc gia.”

Rõ ràng đây là trọng tâm của chuyến công du. Họ sẽ đi thăm từ nhà máy, công xưởng, đến trường học, đại học, bệnh viện, bảo tàng, thư viện, toà án; nghiên cứu đời sống tính tình dân chúng, làng xã, thành thị, đặc thù của mỗi quốc gia, sự phồn vinh thời Victoria của Anh quốc, các thể chế chính trị khác nhau, các cơ quan chính trị, quân sự. Họ gặp tất cả đại diện giới thương mại, công nghiệp, thượng lưu, cầm quyền, chính khách, quân sự, vua chúa, Tổng thống Grant của Hoa Kỳ (người hùng trong cuộc chiến tranh Nam Bắc dưới thời Tổng thống A. Lincoln), Nữ hoàng Victoria của Anh, Vua Wilhelm I và Thủ tướng Bismarck của Phố (Đức), Tổng thống Thiers của Pháp... Họ xuất hiện trong những bộ Âu phục quý phái. 

Họ muốn làm rõ nền tảng của “văn minh khai sáng”, các nguồn gốc sức mạnh và sự phồn vinh của phương Tây. Trong giáo dục, một lĩnh vực hết sức quan trọng, họ muốn học hỏi các mô hình tổ chức giáo dục tiểu học, trung học và đại học. Đó là chuyến công du lịch sử đi tìm khai sáng (khai minh) cho Nhật Bản.

Nhật Bản cởi mở chấp nhận những giá trị phương Tây

Sau chuyến công du kết thúc các nhà lãnh đạo Nhật Bản nhận định rằng, nguy cơ trực tiếp cho nền độc lập Nhật Bản không cấp bách như họ nghĩ. Sự ưu việt của phương Tây chưa lâu, và Nhật Bản có thể đuổi kịp. Kume chỉ ra trong nhật ký hành trình: “Của cải và sự phồn vinh ở mức độ đáng kể mà người ta nhìn thấy tại châu Âu xuất hiện sau 1800... Năm 1830, tàu thủy hơi nước và xe lửa mới xuất hiện. Đó là sự thay đổi đột ngột trong nền thương mại châu Âu, và người Anh là người đầu tiên dồn hết năng lượng đầu tư vào sự đổi mới.”

Nhật Bản do đó chưa phải là tuyệt vọng. Tuy nhiên, phải nhanh chóng thay đổi toàn diện. Sự đối đầu quân sự chưa phải lúc, mà phải chấn hưng đất nước trước (như Phan Châu Trinh sau này). Đoàn có mang theo một số người bảo thủ, để cho họ thấy, phải cải cách đất nước trước, và một số người quá khích để họ thấy đối đầu quân sự là vô vọng. Những năm 1863-1864, dưới thời Hoàng đế Komei, bố của Minh Trị, người rất thù ghét phương Tây, Nhật Bản đã gây chiến với hải quân các nước Hoa Kỳ, Anh, Pháp và Hà Lan, nhưng đại bại, và phải bồi thường $3.000.000, một bài học đắt giá. Khác với những chuyến công du khác trong lịch sử có đích đến là Trung Hoa, chuyến đi này hướng về phương Tây.

Đoàn cũng nhận ra sâu sắc rằng, không có sự tham gia của nhân dân vào các định chế đại nghị thì không thể có sự đồng thuận cho các hành động của chính quyền. Kido dẫn kinh nghiệm của Ba Lan để chứng minh rằng, thiếu vắng sự tham gia của dân chúng sẽ là tai họa cho nền độc lập quốc gia. Ông cho rằng Năm điều thề ước năm 1868 chính là nền tảng của Hiến pháp cho phép mọi người tham gia; rằng (điều 2) “tất cả các giai cấp, cao cũng như thấp, sẽ hợp lại thực hiện mạnh mẽ chương trình của chính quyền; (điều 3) “tất cả các giai cấp được quyền thực hiện những hoài bão của họ mà không gặp phải khó khăn nào”.

Họ hiểu và tỏ ra kính trọng hơn giá trị của tôn giáo trong đời sống công dân cũng như chính trị. Khi trở về họ đã bỏ lệnh cấm hành đạo Kitô giáo.

Nhật Bản sẽ chấp nhận những giá trị phương Tây: tham gia, cạnh tranh và luôn luôn mở rộng ảnh hưởng. Chỉ có phát triển nội lực mới bảo đảm sự tồn tại của mình. Nhật Bản chấp nhận cuộc chơi mới. Giáo dục là then chốt. Trong khoảng 1868-1902, Nhật Bản đã cấp 11.148 visa du học. Đó là đợt thủy triều du học đầu tiên từ châu Á. Tư nhân tự nỗ lực cho con du học rất nhiều. Bản thân Iwakura và Kido cũng có con trai du học tại Mỹ (ở Rutgers) trong thời gian công du của đoàn.

Năm nữ sinh được gửi đi du học theo Sứ tiết Iwakura, từ trái sang phải: Nagai Shigeko, Ueda Teiko, Yoshimasu Ryoko, Tsuda Umeko và Yamakawa Sutematsu.

Sau chuyến đi, phái đoàn Iwakura thuê ngay hai chuyên gia quan trọng: Giáo sư David Murray của Đại học Rutgers cho lĩnh vực giáo dục tổng quát; Kỹ sư Henry Dyer của Đại học Glasgow làm cố vấn quan trọng cho Nhật Bản về việc xây dựng Kobu Daigakko (Đại học Kỹ thuật).

Chuyến đi mở màn làn sóng thuê chuyên viên nước ngoài toàn diện và ồ ạt. Năm 1875 Nhật đã thuê tổng cộng 500-600 chuyên viên nước ngoài về làm việc cho chính phủ. Tính đến năm 1890 Nhật đã thuê khoảng 3.000 chuyên viên tư vấn thường xuyên làm việc tại Nhật, đủ mọi lĩnh vực, ngành nghề. Riêng trong giáo dục, trong vòng 50 năm Bộ Giáo dục Nhật Bản đã thuê khoảng 400 thầy giáo nước ngoài từ các quốc gia phương Tây để dạy ở các đại học và các tổ chức học thuật khác. Năm 1873, Bộ Giáo dục phải trả một số tiền bằng khoảng 14% ngân quỹ cho giáo viên nước ngoài. Năm 1877 một phần ba ngân quỹ của Đại học Tokyo là dành cho người nước ngoài. Nhật Bản lần lượt thực hiện hai cuộc cách mạng công nghiệp trọng tâm, thứ nhất là công nghiệp nhẹ, thứ hai là công nghiệp nặng. 

Sứ đoàn Iwakura thực hiện đúng điều thứ 5 trong Năm điều thề ước của Hoàng đế Minh Trị và các nhà lãnh đạo trẻ xung quanh ông, rằng: “Tri thức phải được tìm kiếm khắp nơi trên thế giới, để mở rộng và tăng cường quyền lực của đế chế”. 

Chuyến công du Iwakura là một bài học kinh điển cho công cuộc đi tìm mô hình phát triển từ các quốc gia phương Tây. Chưa có dân tộc nào có năng lực quan sát trung thực và đưa ra những ý tưởng dự phóng, cũng như đủ quyết tâm theo đuổi đến khi thành công như họ.

Tác phẩm được trích đăng với sự đồng ý của Phương Nam Book.

Đọc bài viết

Trích đăng

Sứ đoàn Iwakura và bí mật từ chuyến Tây du lịch sử khiến nước Nhật phát triển thần kỳ

Published

on

Sứ đoàn Iwakura

Nhắc đến Minh Trị Duy Tân, không gì ý nghĩa hơn khi lật lại trang sử về Sứ mệnh Iwakura vì tính khai sáng như Columbus đi tìm Tân thế giới. Họ đem văn minh khai sáng “về trồng” trên mảnh đất Phù Tang, để mãi mãi là di sản chung của châu Á. 

Cải cách Minh Trị tôn Hoàng đế Minh Trị lên ngôi năm 1868 (lúc đó ông mới 16 tuổi), xoá bỏ chế độ Mạc Phủ, xoá bỏ các bất bình đẳng giữa các đẳng cấp xã hội, thành lập chính truyền trung ương, tái lập mối quan hệ hàng dọc và hàng ngang trong xã hội, người Nhật tạo điều kiện cho cuộc thay đổi một cách triệt để và hệ thống trong việc xây dựng một nhà nước hiện đại và một nền khoa học công nghệ hiện đại. Khẩu hiệu chính của họ là Fukoku kyohei (Nước giàu quân mạnh) và độc lập dân tộc, từng bước ngang bằng với các cường quốc phương Tây. 

Chuyến hải hành khám phá Hoa Kỳ và các nước châu Âu của sứ đoàn Iwakura kéo dài 1 năm 10 tháng (1871 - 1873), với một phái đoàn hùng hậu, gồm khoảng 100 người. Đoàn cũng có nhiều nữ sinh trẻ tuổi theo du học, phục vụ cho việc giáo dục phụ nữ sau này. 

Quyển sách Sứ đoàn Iwakura, tác giả Ian Nish biên soạn.

Ban đầu, họ lên kế hoạch đi thăm từ nhà máy, công xưởng, đến trường học, đại học, bệnh viện, bảo tàng, thư viện, toà án; nghiên cứu đời sống tính tình dân chúng, làng xã, thành thị, đặc thù của mỗi quốc gia, sự phồn vinh thời Victoria của Anh quốc, các thể chế chính trị khác nhau, các cơ quan chính trị, quân sự. Họ gặp tất cả đại diện giới thương mại, công nghiệp, thượng lưu, cầm quyền, chính khách, quân sự, vua chúa, Tổng thống Grant của Hoa Kỳ (người hùng trong cuộc chiến tranh Nam Bắc dưới thời Tổng thống A. Lincoln), Nữ hoàng Victoria của Anh, Vua Wilhelm I và Thủ tướng Bismarck của Phổ (Đức), Tổng thống Thiers của Pháp... Họ xuất hiện trong những bộ Âu phục quý phái.

Sứ đoàn Iwakura muốn làm rõ nền tảng của “văn minh khai sáng”, các nguồn gốc sức mạnh và sự phồn vinh của phương Tây. Trong giáo dục, một lĩnh vực hết sức quan trọng, họ muốn học hỏi các mô hình tổ chức giáo dục tiểu học, trung học và đại học. Đó là chuyến công du lịch sử đi tìm khai sáng (khai minh) cho Nhật Bản.

Nhà sử học Kume Kunitake nhìn thấy ở các viện bảo tàng Hoa Kỳ bản ghi chép về quá trình khai sáng, ông ý thức được rằng: “Nếu ý chí của con người không mạnh, họ không thể mở rộng quyền lực vươn ra khoảng cách lớn. Sự hưng vong của các quốc gia liên quan đến ý chí con người (dân tộc). Kỹ năng và sự giàu có, những điều này chỉ là thứ hai”.

Iwakura Tomomi (người mặc trang phục truyền thống) cùng 4 phó sứ (từ trái sang) Kido Takayoshi, Yamaguchi Masuka, Ito Hirobumi và Okubo Toshimichi. Ảnh: Ishiguro Keisho sưu tầm

Đối với phó sứ Kido không gì tạo ấn tượng cho ông bằng giáo dục ở Hoa Kỳ. Ông viết: “Không có gì khẩn trương đối với chúng ta hơn là các trường học, trừ khi chúng ta tạo được một nền tảng quốc gia vững vàng không lay chuyển được, chúng ta không thể nào nâng cao thanh thế đất nước trong nghìn năm tới... Dân tộc chúng ta không khác với các dân tộc Mỹ và châu Âu ngày nay; đó là vấn đề của giáo dục, hay sự thiếu hụt giáo dục”.

Nhật Bản sẽ chấp nhận những giá trị phương Tây: tham gia, cạnh tranh và luôn luôn mở rộng ảnh hưởng. Chỉ có phát triển nội lực mới bảo đảm sự tồn tại của mình. Nhật Bản chấp nhận cuộc chơi mới. Giáo dục là then chốt. Trong khoảng 1868-1902, Nhật Bản đã cấp 11.148 visa du học. Đó là đợt thủy triều du học đầu tiên từ châu Á. Tư nhân tự nỗ lực cho con du học rất nhiều. Bản thân Iwakura và Kido cũng có con trai du học tại Mỹ (ở Rutgers) trong thời gian công du của đoàn.

Sau chuyến đi, phái đoàn Iwakura thuê ngay hai chuyên gia quan trọng: Giáo sư David Murray của Đại học Rutgers cho lĩnh vực giáo dục tổng quát; Kỹ sư Henry Dyer của Đại học Glasgow làm cố vấn quan trọng cho Nhật Bản về việc xây dựng Kobu Daigakko (Đại học Kỹ thuật).

Chuyến đi mở màn làn sóng thuê chuyên viên nước ngoài toàn diện và ồ ạt. Năm 1875 Nhật đã thuê tổng cộng 500-600 chuyên viên nước ngoài về làm việc cho chính phủ. Tính đến năm 1890 Nhật đã thuê khoảng 3.000 chuyên viên tư vấn thường xuyên làm việc tại Nhật, đủ mọi lĩnh vực ngành nghề. Riêng trong giáo dục, trong vòng 50 năm Bộ giáo dục Nhật Bản đã thuê khoảng 400 thầy giáo nước ngoài từ các quốc gia phương Tây để dạy ở các trường đại học và các tổ chức học thuật khác. 

Hình ảnh đoàn cấp cao do nhà quý tộc Iwakura Tomomi dẫn đầu đến thăm Hoa Kỳ và các nước phương Tây vào năm 1871 với sứ mệnh Iwakura. Nguồn ảnh Kameda Kinuko.

Chuyến công du Iwakura là một bài học kinh điển cho công cuộc đi tìm mô hình phát triển từ các quốc gia phương Tây. Cuộc canh tân Nhật Bản theo mô hình phương Tây, như thực tế là con đường nhanh nhất. Năm 1895, Nhật Bản đã đánh thắng quân đội nhà Thanh của Trung Hoa. Cùng lúc, các quốc gia phương Tây chính thức chấp nhận các hiệp ước thương mại bình đẳng như giữa họ với nhau, có hiệu lực năm 1899, thay cho hiệp ước cũ bất bình đẳng. Điều đó mặc nhiên công nhận Nhật Bản bước vào “câu lạc bộ” các quốc gia phát triển. Chỉ vỏn vẹn sau 30 năm! Nhật Bản đã sao chép thành công mô hình xã hội phương Tây và cuộc công nghiệp hóa chỉ trong vòng ba thập niên mà không có mô hình phát triển nào trước đó làm tiền đề, quả thật là điều thần kỳ. 

Một trong những nhật báo, Kokunim Shimbun, hãnh diện đăng đàn rằng: “Như hệ quả của cuộc chiến (Trung - Nhật), vị thế của Nhật Bản trên thế giới đã thay đổi với sự lộ diện của ba đặc tính cơ bản của người Nhật. Trước hết, Nhật Bản vượt trội thế giới ở lòng ái quốc. Thứ hai, ở năng lực có một không hai là hấp thụ, sử dụng và ứng dụng nền văn minh hiện đại. Thứ ba, là bản chất hay tính khí mạnh mẽ và vững chắc”.

Nhắc đến Minh Trị Duy Tân, không gì ý nghĩa hơn khi lật lại trang sử về Sứ mệnh Iwakura vì tính khai sáng như Columbus đi tìm Tân thế giới. Họ đem Văn minh khai sáng về trồng trên mảnh đất Phù Tang, để mãi mãi là di sản chung của châu Á. Minh Trị Duy Tân có tác động cách mạng không chỉ cho Nhật Bản, mà cho cả châu Á trong tiến trình phát triển và tìm lại mình, với đầy những kịch tính. 

Năm 1878, biên bản hành trình của Kume Kunitake được xuất bản thành một bộ sách năm tập có tên Beio Kairan Jikki, gọi tắt là Kairan Jikki, được in lại nhiều lần từ năm 1977, có giá trị như bộ sử của chính phương Tây công nghiệp hóa thế kỷ XIX dưới cái nhìn sắc sảo của các lãnh đạo Nhật Bản. Đây là một bộ sách kinh điển rất đáng được tham khảo, nhất là cho những quốc gia đang phát triển như Việt Nam. Những bài học năm xưa đọc lại vẫn thấy còn nóng hổi.

Trích đoạn

Không có sự phồn vinh, văn hóa của nhân dân không thể phát triển. Để cho lòng ái quốc tăng trưởng, nó phải phục vụ việc tạo ra của cải. Người ta nói, chúng ta phải bảo vệ đất nước, nhưng ích lợi gì nếu đất nước chỉ là mảnh đất cằn cỗi?

Chính sách quốc gia của Nhật Bản "mở cửa đất nước" không chỉ là một hành động mang tính ngoại giao. Nhiều quốc gia trên thế giới mở rộng cửa nhưng vẫn tiếp tục thực hành các tập quán man di, và bất lực trong cải cách, cũng như tu chỉnh các tập quán đó để có thể tiến lên trình độ văn minh", Ito Hirobumi - Thủ tướng đầu tiên của Nhật Bản.

***

"Chuyến đi có hai mục tiêu, thứ nhất là muốn giới thiệu với phương Tây về những gương mặt lãnh đạo mới của Nhật Bản và thương thảo lại các hiệp ước bất bình đẳng. Thứ hai là quan sát và đánh giá sự phát triển của phương Tây trong mọi lĩnh vực, từ chính trị, quân sự, văn hóa đến khoa học, công nghệ, sản xuất, thương mai, giáo dục và cách tổ chức quốc gia. Qua đó, tìm một mô hình khả thi phù hợp cho Nhật Bản nhằm chuyển đổi xã hội phong kiến lâu đời sang một quốc gia hiện đại, điều chưa có tiền lệ ngoài khu vực phương Tây. Nói đến Minh Trị Duy Tân, người ta không thể không nhắc đến chuyến đi lịch sử có tầm quan trọng chiến lược này", trích đoạn từ sách Sứ đoàn Iwakura, Ian Nish.

Về tác giả

Ian Nish (1926 – 2022) là học giả người Anh, nhà nghiên cứu Nhật Bản học, Giáo sư danh dự về Lịch sử Quốc tế tại Học viện Kinh tế và Chính trị London.

Đọc bài viết

Trích đăng

Tiếng đờn ca ở tiệm hớt tóc

Published

on

Hồi ức Phú Nhuận

Đầu thập niên 1960, dân cư quanh khu Bàn Cờ thấy có một tiệm hớt tóc được mở ra ở số 405B đường Phan Đình Phùng (nay là Nguyễn Đình Chiểu - TP.HCM), đoạn giữa chợ Vườn Chuối và đường Cao Thắng. Tiệm có tên Đời Mới, bảng hiệu vẽ ba đầu tóc đàn ông chải bồng kiểu tăng gô không khác gì những mái tóc của kép Dũng Thanh Lâm, kép Minh Phụng sau này. Tiệm không có gì đặc biệt, bề ngang chỉ 2,2m, nhưng ai nấy đều chú ý vì ở đó thỉnh thoảng lại có tiếng đờn ca cổ...

Ban đờn ca tài tử này, tuy lúc rảnh mới tụ lại với nhau mà tồn tại hơn chục năm. Dấu ấn của nó sâu đậm tới mức đến giờ người vùng Bàn Cờ còn nhắc, dù đã hơn 40 năm và các nhân vật trong câu chuyện này hầu như không còn mấy ai.

Ông Tư Triều, chủ tiệm hớt tóc Đời Mới vốn dân gốc ở quận Củ Chi, tỉnh Hậu Nghĩa. Về Sài Gòn lập nghiệp giữa thập niên 1950 sau khi gãy đổ cuộc hôn nhân đầu, ông cưới vợ lần nữa và mở tiệm hớt tóc khi vừa có đứa con gái.

Tiệm cũng là nhà ở, ông sống cùng hai người thợ. Vì có máu văn nghệ, thích ca cổ lại có nghề làm nhạc cụ, ông biến tiệm hớt tóc của mình thành nơi đờn ca tài tử những lúc rảnh. Từ hồi trai trẻ, ông đã mê cải lương, đờn ca cổ nhạc bên cạnh những thú vui khác như đá gà, đua ngựa...

Bạn thân ông đều là người thích tiếng hát, tiếng đờn như bác Năm Trèo ở Hóc Môn, cha của nghệ sĩ cải lương Hoài Thanh. Trước khi có tiệm hớt tóc, giữa thập niên 50, ông chơi thân với nghệ sĩ tài danh Hữu Phước và danh hài Văn Hường. Lúc đó họ chưa nổi tiếng, ông gọi Hữu Phước là Ri vì ông này quốc tịch Pháp có tên Henry và nghệ danh Hữu Phước chưa xuất hiện.

Ông Tư Triều cắt tóc cho một người khách ái mộ cải lương (ảnh tư liệu gia đình ông Tư Triều)

Khách đến hớt tóc có đủ loại người, già trẻ lớn bé, từ người trong giới bình dân, trí thức, luật sư, cảnh sát, hoặc phục vụ trong quân đội Sài Gòn, có cả một vị bộ trưởng. Ông Tư Triều là người từng trải, lịch duyệt lại có máu nghệ sĩ nên giỏi ăn nói, rành chuyện cải lương, rành nhạc cụ cổ nhạc. Ông còn biết sửa chữa nhạc cụ. Thoạt đầu, ông mua đờn cũ mang về chỉnh sửa theo ý mình rồi đưa cho bạn bè trong nhóm đờn ca dùng thử. Đến khi cứng tay nghề, ông đến xưởng gỗ bên Chánh Hưng (quận 8) đặt từng thanh gỗ để làm cần đờn, mặt đờn.

Về nhà, ông tiếp tục gọt giũa từng chi tiết rất công phu. Ông tự chế keo dán gỗ, mua dây đàn nhập từ Tây Đức... Khi đờn hình thành, ông đem đi cẩn ốc xà cừ. Ông cầu kỳ đến mức mua đờn tranh, thấy 16 “con nhạn”(miếng gỗ kê dây đờn) không đẹp, đặt luôn những miếng gỗ hình tam giác mang về gọt giũa thành những “con nhạn” mới.

Từ khi nhóm đờn ca tài tử của ông bắt đầu tụ lại, khách đến đông thêm. Những người thường ghé chơi là mấy thầy dạy bên trường Quốc gia âm nhạc như bác Hai Khuê, bác giáo Thinh và bác Bảy Hàm, có nhạc sĩ Vĩnh Bảo, nghệ sĩ tiền phong Duy Lân, bác Mười Phú, chú Mười Hoa (nhạc phụ nghệ sĩ Viễn Sơn), nhạc sĩ nổi tiếng Văn Giỏi, anh Minh Hữu nghệ sĩ đờn kìm, bác Tư Tuất (nghệ sĩ đờn cò một thời của gánh Hương Mùa Thu, thân phụ các nghệ sĩ Hoài Dung, Hoài Mỹ)...

Trong số đó, ông Tư Triều thương anh Minh Hữu vì anh có tài và khiêm tốn, luôn nho nhã với sơ mi trắng và đeo kính cận. Sau này, khi gánh hát Phụng Hảo của nghệ sĩ Phùng Há lên tivi, bà mời anh Minh Hữu chơi đờn kìm cho tuồng của bà và ông Tư Triều rất sung sướng khi nhìn thấy cây đờn kìm ông làm được Minh Hữu dùng biểu diễn trên truyền hình.

Hầu hết họ đều là các nghệ sĩ đánh đờn, chỉ có vài giọng ca là anh Biện (hay Biền) to cao nhưng hiền lành. Một giọng khác là anh Ngọc, đẹp trai còn hơn nghệ sĩ với mái tóc chải ép, ca rất hay. Ngày đó không dễ gì liên lạc nhau nhưng không hiểu sao mấy nghệ sĩ tài tử này "đụng" nhau thường xuyên ở tiệm Đời Mới như đã hẹn hò từ trước. Mỗi tuần ông Tư Triều đều dành một buổi chơi đờn hay hòa đờn với nhau. Lâu lâu vào buổi tối ông mời bạn bè lên gác hát xướng, hòa điệu cho đến khuya.

Bà Tư niềm nở hiếu khách nên bạn bè ông Tư không ngại. Khách đến chơi, hứng thú khi nhìn chung quanh tiệm treo đầy những cây đờn. Ở nhà sau treo trên hai bên vách hơn 30 loại nhạc cụ (kìm, cò, tranh, sến, guitar, gáo, đoản...), có cây vĩ cầm trong chiếc hộp gỗ thiệt đẹp, bên trong lót vải nhung đỏ rực. Đó là tất cả gia tài và niềm đam mê của ông Tư Triều.

Chú bé Tâm, con trai út của ông Tư Triều nay đã ở tuổi năm mươi, sinh sống tại Đức còn nhớ những ngày vui đầu thập niên 1970 khi mới lên bảy. Lúc đó, cuộc sống còn dễ thở, khách đến đông và giới đờn ca tài tử thường xuyên đến góp vui. Mỗi lần tụ họp thường từ 9, 10 giờ sáng đến quá trưa rồi ai về nhà nấy. Khách qua đường thường đứng lại nghe đờn. Nếu có người ca thì người xem đông hơn.

Có chị hàng xóm dắt con đến cắt tóc, cũng xin ngồi vào ca vài bài, rất đúng nhịp trong khi đợi cậu con trai. Các chú các anh ít khi ca bài vọng cổ mà thường ca những bài cổ, khó hơn như Tây Thi, Lưu Thủy Trường, Xàng Xê, Tứ Đại Oán... Anh Ngọc, giọng ca chính có bài ca Phù Đổng Thiên Vương cách thể hiện rất hào hùng. Ông Tư Triều thỉnh thoảng cũng góp giọng, dù làn hơi yếu nhưng điệu ca lạ tai, vững nhịp.

Nhóm đờn ca tài tử ở tiệm hớt tóc Đời Mới (ảnh tư liệu gia đình ông Tư Triều)

Tâm còn nhớ nghệ sĩ Duy Lân thường chở cô học trò cưng Ngọc Hoa (bây giờ là nghệ sĩ Thoại Miêu) đến chơi. Thầy bảo hát gì là chị răm rắp nghe lời. Có lần, tàn cuộc thầy dắt chiếc xe Mobylette ra về, đạp hoài không nổ. Thầy bảo: “Phụ thầy đẩy đi con” là chị lập tức cột hai vạt áo dài trắng tinh, cong lưng đẩy ngay. Một lần Tâm chứng kiến ông Tư Triều đồng ý bán cây đờn do ông chế tác.

Số là trong số khách đến hớt tóc có trung tá X., luôn đi bằng xe Jeep. Anh này thích tiếng của cây đờn tranh, có mướn thầy về dạy riêng ở nhà. Anh kính mến ông Tư, nhiều khi tóc chưa dài cũng ghé cắt, chỉ để nói chuyện với ông. Anh mê một cây đờn tranh cẩn xà cừ rất đẹp của ông và sau nhiều lần thuyết phục, anh được ông Tư đồng ý đổi chiếc đờn lấy một tivi Sanyo 17 inch mới toanh, giá lúc ấy 90.000 đồng. Hẳn ông rất quý anh bạn trẻ và cũng muốn có tivi cho vợ con xem cải lương nên chấp nhận cho cây đờn ra đi.

Từ năm 1973, tiệm hớt tóc Đời Mới dần vắng khách. Kinh tế lúc đó bắt đầu đi xuống do người Mỹ rút đi. Chính quyền đặt ra loại thuế T.V.A (trị giá gia tăng), ngoài thuế môn bài. Tất cả cửa tiệm kinh doanh đều phải kê khai từ ngày thành lập cho đến thời điểm hiện tại và phải đóng một số tiền khổng lồ, nếu không thì dẹp. Ông Tư Triều quyết định đóng cửa tiệm lui về Củ Chi trồng rau nuôi gà và cắt tóc cho dân quanh vùng mưu sinh, cuối tuần lại về Sài Gòn thăm vợ con.

Mấy mươi năm theo tiếng đờn ca của những ban nhạc tài tử, ông gặp đủ loại người. Nhưng không bao giờ gặp lại những bạn bè cùng đi hát trên xe vespa từ khi họ nổi danh, thậm chí còn không nhận ra ông là người quen. Đó là lý do ông không thích đến rạp hát nữa. Nhóm đờn ca tài tử, nơi quy tụ những người cùng ngân nga những bài ca cổ đề cao nhân hiếu tiết nghĩa, cũng là nơi lui tới của những người “vui đâu chầu đó”, điều đó không có gì lạ.

Năm 1979, Tâm gặp lại anh trung tá năm xưa mua cây đờn tranh. Biết tin ông Tư đã về Củ Chi, anh buồn buồn chia tay. Sau đó vài năm, ông Tư Triều mất vì tai biến lúc Tâm đã ra nước ngoài.

Ông Tư Triều và ban đờn ca tài tử của ông chỉ là một mảnh nhỏ xíu trong đời sống văn hóa người Sài Gòn - Gia Định. Họ có thể vô danh hay hữu danh, yêu lời ca tiếng nhạc bằng tâm hồn rộng mở, hồn nhiên và tình cờ góp phần tạo nên mạch ngầm chảy âm ỉ nhưng đủ sức nuôi dưỡng vốn cổ văn hóa của ông bà, từ thời mở cõi vô Nam.

Hồi ức Phú Nhuận | Phạm Công Luận

Đọc bài viết

Cafe sáng