Phía sau trang sách

The Sympathizer: Tự do văn chương, tự do văn hóa, tự do tư tưởng

Nếu cái tự do được văn chương bảo bọc đem đến những câu văn đậm thời đại mới; thì cái tự do được tư tưởng bảo hộ lại mang đến sự thật khôn cưỡng.

Published

on

Viet Thanh Nguyen là cái tên không mấy xa lạ với độc giả Việt Nam những năm gần đây kể từ khi tập truyện ngắn Người tị nạn và tập tiểu luận Kẻ ly hương được chuyển ngữ và giới thiệu tại Việt Nam. Cũng như những tác gia gốc Việt hiện đang sinh sống tại nước ngoài như Thuận, Linda Lê, Ocean Vương, Doan Bui… Viet Thanh Nguyen đồng thời góp tên mình vào danh sách những nhà văn bên kia xứ sở có lối nhìn vào quê nhà một cách rất khác. Là nhà văn gốc Việt đầu tiên giành giải Pulitzer ở hạng mục Fiction cho tiểu thuyết đầu tay – The Sympathizer – cuốn tiểu thuyết lạ lẫm, khắc sâu và vươn những xúc tu khác lạ vào trong khoảng dài lịch sử đã qua, bơm vào đó thứ adrenalin kích thích, tân thời và, dĩ nhiên, cũng khá truân chuyên cho việc tiếp cận đa số.

Cùng với Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh, Người Mỹ trầm lặng của Graham Greene và Những thứ họ mang của Tim O’Brien, The Sympathizer của Viet Thanh Nguyen có thể nói là bốn cuốn tiểu thuyết chiến tranh Việt Nam nổi tiếng và được quan tâm nhiều nhất trong những năm qua. Lấy bối cảnh cuộc chiến tranh Quốc – Cộng những ngày cuối cùng trước khi miền Nam Việt Nam hoàn toàn giải phóng, The Sympathizer là câu chuyện của một điệp viên hai mang và những xung động thời khắc – con người xung quanh dữ kiện ấy. Viet Thanh Nguyen mở ra một hành trình mới lạ khi tiếp cận sự kiện dưới con mắt của một phe khác, của lịch sử chỉ đúng một phần và lần đầu tiên (có lẽ) được trưng ra dưới ánh sáng ban ngày. Ở đó lần mò như bầy kiến nheo nhóc theo chân điệp viên nằm vùng, ta thấy đồng thời là những diễn biến chính trị – lịch sử, là cuộc sống kham khổ sau cơn tị nạn, là chuyện phục quốc, quá trình hợp nhất bản thân, những tư duy triết học – văn hóa – văn chương… The Sympathizer đồng thời là một tác phẩm văn chương đậm chất Pulitzer, nhưng cũng là tuyển truyện ngắn dưới định danh tiểu thuyết cuốn hút, khai phá và mới mẻ.

Xây dựng nhân vật chính lấy cảm hứng từ điệp viên tình báo Phạm Xuân Ẩn vào những ngày Saigon thất thủ cuối tháng 4 nóng bức, Viet Thanh Nguyen khôn khéo khi xây dựng vẻ hai mang, để đồng thời vừa khai thác cái thật cá nhân, nhưng cũng thật chung quy về thời khắc cuối cùng. Mở đầu tiểu thuyết là một khẳng định chắc nịch: “Tôi là một gián điệp, một kẻ mai phục, một con ma, một kẻ hai mang”. Tôi và cái tôi – hai bản thể hiện thân, những tranh giành lý tưởng, đồng thời là bản chất thật sự đời sống; nhưng cũng đồng thời nhân đôi hướng đi câu chuyện, biến The Sympathizer không còn đơn thuần là cuốn tiểu thuyết phản ánh chiến tranh, mà sâu trong nó là cơn dằn vặt những dằn xé tự thân.

1.
Hiện thực

Như đã nói trên, The Sympathizer là một tiểu thuyết dưới dạng chuỗi truyện ngắn dài tập. Theo suốt câu chuyện của viên Đại úy nằm vùng, ở mỗi chương tiếp theo, tác giả đồng thời cài cắm vào đó câu chuyện di dân, cuộc sống tị nạn, câu chuyện văn hóa bản địa, sự xâm nhập – chiếm hữu – hòa hợp, thuyết gia đình, giải phóng tình dục, giấc mơ Mỹ,… Cuốn sách có thể nói, dù ở góc độ nào, như một tra cứu điển hình cho thời đoạn lịch sử trước và sau thời khắc năm 75 trên ba chân kiềng là thế mạnh của Viet Thanh Nguyen: văn chương – thi ca – triết học. Có lẽ vì tính tuần tự và sự thống nhất trong mạch kể, The Sympathizer vượt qua điểm yếu của tập truyện ngắn trước đó Người tị nạn – khi bị giới hạn bởi hình thức (truyện ngắn) và cả nội dung (tị nạn), khi dẫu đã xoay chuyển dưới nhiều hình thức – nó cũng không đủ che giấu cái manh mún mạch truyện hoặc cái hiếu kỳ nửa vời – khi những người sống ngay trong lòng đất nước không thấy một đột phá hay mới mẻ nào; có chăng là cái hiếu kỳ của những con mắt chưa thấu trải đời ở những vùng đất cách đó ngàn dặm.

Ở đó, cuộc sống tị nạn và sự thất thế của chế độ cũ được Viet Thanh Nguyen viết ra rất đậm thực tế. Có lẽ cũng từng là người tị nạn, anh hiểu rõ và chắt lọc những gì làm suy yếu đi bản lai diện mục, làm con người ta tổn thương hơn cái mới mẻ của nơi đất hứa. Trong đó, anh viết: “tình trạng tàn tạ ẩn sau những căn nhà chung cư trợ cấp như một thứ bệnh ung thư di căn đang gặm nhấm hủy hoại úa nhàu những con người đang chịu thử thách ngày lại ngày qua mòn mỏi mang hội chứng u uất trầm cảm không sao tránh khỏi theo chuỗi ngày lưu vong. […] Thêm vào đó là vai trò của đàn bà trẻ con vốn dễ bị tổn thương và dễ làm mồi cho những tiêm nhiễm xa lạ phương Tây. Bọn nhóc con gây phiền muộn cứ cãi lại họ không phải bằng ngôn ngữ mẹ đẻ mà bằng tiếng ngoại ngữ mà mấy nhóc đã học mau hơn bố nhiều. Còn các bà vợ hầu hết buộc phải đi tìm việc làm, và trong môi trường làm việc mới họ đã chuyển đổi khác đi không còn là những đóa sen yêu kiều hiền thục thuở xưa như các ông nghĩ nữa”.

Ở đó, giá trị gia đình bị hạ thấp, bản lai diện mục suy vong, con người đấu tranh với cơn hậu chấn tâm lý; tất cả là tổng hòa của cái đã mất, của tình trạng ly hương, của nỗi nhớ nhà, của khát khao chiến đấu, của quyền lực, của lẽ sống, của động cơ,… tất cả làm họ như bó bột vào thứ hoàn cảnh tàn tạ, vật vờ như những bóng ma để hiện thân ra ngoài là những trang phục kiệt suy “Họ dạo quanh cửa hiệu, tán gẫu với nhau, chân mang những đôi giày rẻ tiền đại hạ giá, trên mình khoác những bộ y phục thùng thình chẳng vừa với người mặc thường được rao bán với giá rẻ và một đổi một. Nào cà vạt mu soa tất vớ mang vội vào, cả món xa xỉ đĩ thỏa nước hoa, những thứ những tưởng che lấp được mùi bại trận lịch sử cay đắng còn rành rành kia”.

Những lề thói này hoàn toàn không mới và không phải không có tiền lệ ở những tác phẩm ly hương dài trước đó; nhưng bỏ qua lớp vỏ văn chương mà đôi lần ông cố khoác lên lớp truyện ngắn của mình, lần này bằng cái thực tế, Viet Thanh Nguyen đã thành công khi khắc họa được trạng thái vật vờ ấy. The Sympathizer dễ nói là cuốn sách ổn, ổn hơn rất nhiều các tuyến truyện ngắn trước kia, đơn giản, một góc nhìn và không quá sức.

2.
Nhân bản

Ngoài xây dựng hiện thực cuộc sống như thế, ở The Sympathizer ta cũng đồng thời nhận thấy hiện thân của nhân bản. Nó có thể là cái nhân bản cá nhân, nhưng cũng có thể thuộc về nhân quần xã hội. Như chi tiết cuộc nói chuyện với những cô gái phường vẫy trước khi lên chuyến bay sơ tản quân lực VNCH cuối cùng, Viet Thanh Nguyen bằng góc nhìn của nhân vật tôi, bằng một suy ngẫm sâu xa nào đó vẫn nhìn thấy “trái tim vàng son còn đập” trong lòng ngực các cô gái. Ông không coi họ là những kẻ bỏ đi – như chính họ tưởng tượng khi phe chiến thắng ập vào – mà bằng góc nhìn của người từng trải, ông thấy ở đó là sự cảm thông sâu sắc với người đàn bà, với người phụ nữ, với mẹ ông, với Lan. Ông viết: “Tôi vốn dành cho các nàng gái giang hồ một sự tôn trọng nhất định, họ quen gian giảo nhưng dẫu sao cũng còn rộng rãi […] Chỉ nơi những góc khuất, hay nơi tối tăm sâu thẳm nhất của những trà đình tửu điếm ăn chơi mới có nàng gái điếm mà trong ngực luôn đập rộn một trái tim vàng. Tôi bảo đảm với bạn rằng nếu có một phần thân thể của gái ăn sương được làm bằng vàng, thì đó không phải là trái tim mà là một chút gì ta tin vẫn còn sót lại nơi một khía cạnh khác của nàng đó là dấu chỉ của một người diễn tuồng vẫn còn giữ cái tâm sòng phẳng”.

Cái nhân bản ấy đôi khi còn được xây dựng bằng lòng căm thù. Tưởng chừng việc xây dựng một nhân vật hai mang, một kẻ nằm vùng đã đủ thuận lợi bao quát bối cảnh; nhưng không, Viet Thanh Nguyen cũng đồng thời xây dựng nhân vật ấy đậm tính văn chương – với những đỉnh trào lên xuống của kiếp người lê thê, của nền móng kịch nghệ cần có; và ở đó, là hình tượng người Cha theo cả hai nghĩa – người cha sinh học và Cha xứ Công giáo; người bỏ rơi ông, cho ông ghẻ lạnh hơn sự ấm êm. Cái nhân bản khi yêu thiết tha mẹ ông được phân bổ rải rác suốt chiều dài tiểu thuyết, cái nhân bản khi căm thù cha ông, quăng thẳng vào nỗi căm thù những lời nguyền chuốc: “vậy nên tôi đã tưởng tượng ra một tia sấm sét, một con voi điên, một căn bệnh hiểm nghèo, một thiên thần giáng xuống sau lưng ông trên bục giảng, thổi tiếng kèn vào tai ông để triệu hồi ông trở về với đấng Tạo hóa”.

Và sâu xa hơn cả là cái nhân bản dành cho con người, cho những đồng bào khốn khổ của ông – những người chỉ mong muốn độc lập, tự do, nhưng rồi bị cuốn vào cuộc chiến vô ích. Ở đó, ông viết, như thể ngay từ khi sinh ra từ buồng ói của người mẹ, chính những đứa trẻ ngây thơ đã bắt đầu phải chọn – phe bên này hay bên kia – không thể lưng lửng, không thể dửng dưng, không một gợi ý, cứ thế mà chọn. Hay, cái dằn vặt của nhân vật tôi khi hạ sát những người vô tội, là Thiếu tá trác táng, là Sonny – để rồi đến nỗi hai bóng ma ấy như loài tầm gửi cộng sinh cùng cuộc sống suốt đời.

3.
Văn chương

Nhìn chung, lối viết của Viet Thanh Nguyen không quá mới lạ, không hẳn có gì đột phá, nhưng phải thừa nhận một điều, anh rất thông minh khi tổng hòa được những chi tiết thiết yếu cần có của một tiểu thuyết hay. Anh biết khi nào bám sườn hay dịch xa một đoạn, biết sắp xếp trình tự tiểu thuyết, biết tạo tình huống dẫn dắt sang mảnh đất triết lý – lí luận mà người phương Tây vốn rất ưa. Việc thắng Pulitzer năm 2016 cho hạng mục Fiction khi đọc The Sympathizer không khó giải thích. Bởi lẽ anh biết người đọc muốn gì và không ngại cuốc thuổng trên mảnh đất đặc trưng ấy. Tuy là cuốn sách về chiến tranh Việt Nam, nhưng nó không thiếu những vấn đề lớn lao, từ giấc mơ Mỹ đến văn hóa Hollywood, từ tinh thần dân chủ Mỹ đến giải phóng tình dục, đôi khi là đối ngẫu Đông Tây và cách văn hóa – nghệ thuật gắn kết cách mạng.

Những tư duy này của Viet Thanh Nguyen không quá khó hiểu, nhưng đôi khi nhìn lại, liệu có quá cần thiết? Đặt một trường hợp khác, Con sẻ vàng của Donna Tart từng bị ta thán vì độ dày của nó, có người còn bảo đưa vào tay cô sẽ còn cắt giảm 1/3 thời lượng để bảo vệ môi trường?! Nhưng với người đọc bảo thủ – như người viết bài này – cái hay của Donna Tart là dùng những nhân sinh quan của bà gắn chặt vào cuộc đời nhân vật vốn rất cần kíp cho một tác phẩm lớn. Còn The Sympathizer, vốn dĩ sở hữu một nền tảng bối cảnh hợp lý, một góc nhìn mới lạ, cách xây dựng tình tiết khó đi vào lối cụt; nên khi thêm thắt những “tính chất Pulitzer” này vào, ít nhiều gây hoang mang. Chẳng hạn vấn đề văn hóa – nghệ thuật gắn với Cách mạng bằng trích dẫn Mao, có thể là một gợi mở tốt. Cũng như thế, những khác biệt văn hóa Đông – Tây, công cuộc giải phóng tình dục trong chủ thuyết Cộng sản cũng có thể khai thác. Nhưng văn hóa Hollywood, tập tính dân chủ Mỹ hay luận bàn về chế độ Cộng sản phương Đông đầy triết lý của học giả nổi danh và dành riêng đến hơn hai chương để khai phá cái văn hóa điện ảnh hay cái lí luận triết gia này, liệu có cần thiết?

Dĩ nhiên, không thể nói những đổi mới văn chương này là không cần thiết. Rõ ràng nó góp phần nâng The Sympathizer lên một nấc nữa, khi đó không phải là những khai thác chiến tranh bình thường – như Graham Greene với hình tượng phụ nữ (từng vấp phải không ít khó chịu từ nơi bản quốc). Nhưng một mặt khác, vốn bản thân là người tị nạn từ khi lên 4, với trí nhớ và trải nghiệm không quá đặc sắc, đòi hỏi Viet Thanh Nguyen phải dựa trên những mẫu vật, những câu chuyện được kể đi kể lại hay đi thực địa. Nhìn xuyên suốt cuốn sách này, ta thấy giọng văn hồ hởi của người xa quê tìm về nguồn cội, tuôn trào, thấm đẫm. Và cũng đôi khi, chính sự tăng động (hay năng động cực điểm – nói đúng hơn) làm câu văn không suôn sẻ, một cách gần như còn chứa cảm tính. Viet Thanh Nguyen đôi khi vẫn không tiết chế để chọn cái cần kíp đem vào văn chương; mà như thể từ những vết sẹo thiếu ăn ngày cũ nơi bản xứ, anh dọn đầy ứ một bàn và khiến người thưởng (hay người đọc tác phẩm của anh) ngấy đến tận cổ. Nhưng nhìn chung, sự khôn ngoan khi biết khai thác để nâng tầm tác phẩm dường như che lấp những khuyết điểm này; và dĩ nhiên là cuốn tiểu thuyết đầu tay, biết đâu sau The Sympathizer sẽ là một cuốn sách khác biết kiềm chế và chắt lọc nhiều hơn? Hy vọng một ngày nào đó.

4.
Tự do

Tự do góp phần làm nên tính chất văn chương của tác phẩm này. Không thể chỉ nói tác phẩm mang những giá trị cũ, nó đủ mới – đủ tự do để nhắc đến những tư tưởng mới. Được bảo bọc trong vỏ “văn chương”, Viet Thanh Nguyen tha hồ khai thác những góc khuất thường được cho là ý nhị trong văn hóa phương Đông, của tự do con người, tháo khỏi guồng xích, đi ra ánh sáng. Như thể anh viết: “Nếu có cuộc cách mạng thực sự xảy ra thì ắt nó phải không được tách lìa với công cuộc giải phóng tình dục”. Thiết nghĩ, tư tưởng này không gì mới mẻ, nhưng nhờ tự do văn chương, ít ra nó cũng đâm nát cái đạo đức giả, cái lạm dụng tôn giáo vẫn được giấu kín: “chốn muôn màu về tình dục của người đồng tính, lưỡng tính, lẫn ấu dâm nam lúc nào cũng rêu rao là không bao giờ có, thực ra là được che kín bên dưới tấm áo choàng của Vatican”.

Chính tự do cũng mang đến đỉnh cao văn chương, khi cái bó buộc không còn đè nén như những quả tạ, từ đó người viết thả mình theo những suy tưởng cá nhân. Như đoạn văn sau chỉ là một câu chuyện nhỏ trong toàn tiểu thuyết, nhưng đứng dưới góc độ cá nhân – sự giải phóng bản thân này dường như là điểm sáng nhất của toàn tiểu thuyết. Phóng túng, khoan thai mà man dã, anh viết: “Còn nếu bảo thủ dâm, ngay cả thủ dâm với một con mực ống đã chết đứ đừ mà mắc tội là có được nó đồng ý hay không nữa ư? Cường điệu quá phải không? Tôi, cá nhân tôi, khẳng định thế giới sẽ đẹp hơn nhiều nếu người ta luôn lảm nhảm ám ảnh trong đầu hai chữ ‘thủ dâm’ nhiều hơn là hai chữ ‘giết người’”. Là một cá nhân đứng giữa hai bờ lịch sử, giữa hai nền văn hóa Đông – Tây rất ít chạm nhau, Viet Thanh Nguyen sở hữu trong mình cái giao hòa của thời đại, của văn hóa. Tự do, dĩ nhiên, anh không ngại khi khai thác cuộc chiến dưới một góc nhìn cá nhân, tự do văn chương, tự do tư tưởng, tự do văn hóa – ba trụ cột chính làm nên tính tự do của The Sympathizer. Nếu cái tự do được văn chương bảo bọc đem đến những câu văn đậm thời đại mới; thì cái tự do được tư tưởng bảo hộ lại mang đến sự thật khôn cưỡng. Anh viết The Sympathizer trong khi lịch sử đã được định đoạt, những gì quá vãng đã lùi lại xa; và cũng bởi dĩ nhiên lịch sử được viết ra bởi kẻ chiến thắng, và con người vốn bản chất được sinh trong nỗi tị hiềm; ít ra anh đã dũng cảm cho thấy lịch sử từ phe thảm bại, từ những gì vẫn còn trầm tích dưới đáy biển sâu. Không tiện trích dẫn những điều thuộc về một phạm trù khác, không còn văn chương để mà bảo bọc một bài điểm sách – chỉ xin được dẫn một câu không quá động chạm, không quá xách động, nhưng đúng và đủ: “Cuộc cách mạng của chúng ta chẳng qua chỉ cố tiên khởi trong việc thay đổi chính trị nhưng hậu ý là để thu lấy quyền lực. Trong cái biến hình này, chúng ta cũng không phải là kẻ mới mẻ gì. Há chẳng phải người Pháp người Mỹ cũng làm có khác chi cái trò biến hình đó đâu? Chính họ rêu rao cách mạng trước rồi thì họ đã biến thành đế quốc, thực dân và kẻ chiếm đóng cái xứ nhược tiểu khó nhai của chúng ta, tước đoạt quyền dân tộc tự quyết dưới danh nghĩa cứu lấy chúng ta. Đành rằng công cuộc cách mạng của chúng ta tốn nhiều thời gian hơn so với họ và được coi là đẫm máu hơn nhưng khoảng thời gian đã tốn mất kia rất đáng. Bởi khi học đòi theo những thói nết xấu xa nhất của các ông chủ người Pháp và rồi là kẻ đến thế họ, người Mỹ, chúng ta đã mau chóng chứng tỏ mình mới là kẻ xuất sắc nhất chớ bọn họ vẫn còn kém”.

*

Diêm Liên Khoa – nhà văn có nhiều sách cấm và gây tranh cãi nhất Trung Quốc – từng phát biểu rằng: “Nghệ thuật cũng sẽ không vì bạn sống ở quốc gia nào đó, trong hoàn cảnh và thời đại nào đó chịu sự áp bức của chính trị, quyền lực đối với bạn mà nhấc thêm một quả cân nặng ký đặt lên bàn cân thành tựu của bạn. Cho dù đã đặt lên rồi thì tới một ngày nào đó, khi cảm thấy chưa công bằng và thỏa đáng, nó sẽ lặng lẽ lấy quả cân ấy ra khỏi bàn cân”. Ở đây ta thấy, bằng bốn chân kiềng hiện thực – nhân bản – văn chương – tự do và nhất là tự do, ít nhất nó đã nhấc quả cân Pulitzer lên sức nặng cho cuốn sách này về mặt văn chương. Ở mặt giá trị, tuy cấm nhưng nó cho ta góc nhìn vô cùng mới mẻ vào trong câu chuyện từ lâu bị phong tỏa bởi nền chính trị. Tuy là tiểu thuyết đầu tay và dĩ nhiên còn nhiều sạn, nhiều chỗ chưa tới – nhưng hy vọng, với tự do và ba chân kiềng ấy, Viet Thanh Nguyen sẽ không lặng lẽ để mất quả cân cho sự cân bằng.

Hết.

Ngô Thuận Phát

Ảnh đầu bài: ig@almightyalicia

Các trích dẫn được dẫn theo bản chuyển ngữ của Lê Tùng Châu.

Xem tất cả những bài viết của Ngô Thuật Phát tại đây.


Tìm hiểu thêm về nhà văn Viet Thanh Nguyen


Phía sau trang sách

Patrick Hogan: “Những gì xảy ra ở Việt Nam sẽ không ở lại Việt Nam”

Published

on

By

Mockup_Mua_xuan_vang_lang_Mua_thu_chet_choc_cua_chien_tranh_VN

Patrick Hogan đóng quân tại miền Nam Việt Nam từ tháng 9.1966 đến tháng 6.1969 tại Cam Ranh (Khánh Hòa). Sau khi giải ngũ, ông được bổ nhiệm vào Sở cảnh sát Teaneck với tư cách là nhân viên thực thi pháp luật. Vào năm 2012, sau khi nghe bài phát biểu của cựu Tổng thống Barack Obama về chiến tranh Việt Nam, ông bỗng cảm thấy vô cùng cấp bách để điều tra về việc phơi nhiễm chất độc màu da cam và những hóa chất mà chính quyền Mỹ đã rải xuống Việt Nam trong giai đoạn này.

Khi bắt đầu nghiên cứu, ông chưa từng nghĩ mình sẽ chạm đến những bí mật khổng lồ về các loại hóa chất này. Nhưng sau cái chết của người bạn và cũng là cựu chiến binh Larry White, ý tưởng về Mùa xuân vắng lặng - Mùa thu chết chóc của Chiến tranh Việt Nam đã ra đời. Tác phẩm vừa được Phương Nam Books và NXB Thế giới ấn hành, qua việc chuyển ngữ của dịch giả Nguyễn Văn Minh. Cuộc phỏng vấn sau đây sẽ nói nhiều hơn về tác phẩm ông đã “thai nghén” trong nhiều năm qua.

- “Mùa xuân vắng lặng - Mùa thu chết chóc của Chiến tranh Việt Nam” nói về điều gì, thưa ông?

- Đây là câu chuyện về chiến tranh, câu chuyện về sự giận dữ và cuồng nộ, một cuốn biên niên sử được viết trong đau buồn và hy vọng. Đó là câu chuyện của vô số cựu binh từng phục vụ tại Việt Nam. Đó là một cuốn sách đi sâu vào các hóa chất chết người đã được sử dụng trong suốt cuộc chiến và ảnh hưởng của chúng lên các cựu binh. Nhiều trong số đó vẫn đang được sử dụng trên khắp nước Mỹ, thậm chí cho đến ngày nay. Đó là hành trình phơi bày mọi điều mà chính phủ Hoa Kỳ chưa từng và chưa bao giờ muốn phơi bày ra ánh sáng.

- Điều gì đã truyền cảm hứng cho ông viết về chiến tranh Việt Nam?

- Thực ra tôi chưa bao giờ nung nấu ý định trở thành nhà văn. Cuốn sách ra đời trong một hoàn cảnh gần như ngẫu nhiên. Điều tốt nhất tôi có thể làm gần nửa thế kỷ sau chiến tranh là viết lại “sự phản bội” mà chúng tôi nhận được khi bị buộc phải tiếp xúc với thuốc trừ sâu độc hại và những điều kiện khắc nghiệt của chiến tranh Việt Nam. Tất cả là nỗ lực đưa ra ánh sáng những gì đã xảy ra ở đó để chúng sẽ không bao giờ có khả năng lặp lại với các thế hệ quân nhân mới, với cả gia đình và con cháu họ, thậm chí là cả cháu chắt nữa.

Mùa Xuân Vắng Lặng - Mùa Thu Chết Chóc Của Chiến Tranh Việt Nam

Ban đầu, việc viết sách hay trở thành tác giả là điều xa vời trong tâm trí tôi. Tuy nhiên, ngay sau khi tôi từ Việt Nam trở về, cha tôi đã thúc giục tôi nộp đơn yêu cầu bồi thường khuyết tật lên Bộ Cựu chiến binh (DVA) vì những vấn đề y tế mà tôi gặp phải trong thời gian phục vụ quân ngũ. Tôi bắt đầu quá trình này không mấy nhiệt tình và nhanh chóng bị cuốn hút bởi cuộc sống dân sự mới.

Tôi không truy tầm lại chúng suốt nhiều thập kỷ, cho đến vào một ngày tháng 5 của năm 2012, sau khi xem Tổng thống Barack Obama phát biểu về sự khủng khiếp của Chiến tranh Việt Nam, thì điều gì đó trong con người tôi bất chợt “sống dậy”. Từ đó dấn thân nghiên cứu và điều tra mối liên hệ nhân quả giữa vô số vấn đề về sức khỏe và việc tôi bị phơi nhiễm chất độc màu da cam ở Việt Nam.

- Ông có thể chia sẻ về quá trình nghiên cứu của mình không? Đâu là khía cạnh thú vị nhất?

- Nghiên cứu của tôi kéo dài vài năm vì sự phức tạp của tất cả các hóa chất độc hại mà chúng tôi đã tiếp xúc và tương tác. Càng điều tra, tôi càng nhìn lại và cân nhắc tất cả những sinh mạng đã bị rút ngắn một cách không cần thiết - bị lấy đi, bị hủy diệt và chết dần mòn do việc sử dụng tràn lan thuốc trừ sâu. Tôi tức giận và quyết tâm hoàn thành cuốn sách.

Chúng tôi không chỉ bị phơi nhiễm chất độc màu da cam mà còn vô số hóa chất độc hại chết người. Thật đáng xấu hổ khi có biết bao nhiêu sinh mạng đã thiệt mạng trong nửa thế kỷ qua mà không ai biết sự thật về chúng. Một trong những điều hối tiếc lớn nhất của tôi là đã mất quá nhiều thời gian để thức tỉnh và viết cuốn sách này.

- Ông là một cựu trung sĩ. Điều này đã ảnh hưởng đến việc viết như thế nào?

- Việc là một sĩ quan cảnh sát và điều tra viên đã nghỉ hưu thực sự có ích trong giai đoạn nghiên cứu và viết nó ra. Thực ra, tất cả kinh nghiệm sống của tôi đều được phát huy trong quá trình viết sách.

- Về thuốc trừ sâu và thuốc diệt cỏ được sử dụng trong giai đoạn ấy, ông có nghĩ rằng tác động của chúng đã dần giảm đi trong những năm qua?

- Cuốn sách không chỉ thảo luận về các hóa chất đã được sử dụng ở Việt Nam mà còn về tất cả các loại thuốc diệt cỏ và thuốc trừ sâu độc hại được dùng trong chiến tranh nói chung. Thật không may, ngày nay hầu hết mọi người đều tin rằng chất độc màu da cam là loại thuốc trừ sâu duy nhất mà chúng ta bị phơi nhiễm. Sự thật là chiến tranh Việt Nam đã bị chính phủ biến thành một chiến dịch truyền thông sai lệch nhằm hạ thấp hoặc phớt lờ tất cả các hóa chất khác mà chúng ta đã tiếp xúc ở đó.

- Ông cũng trích dẫn nhiều thông điệp tích cực từ “Kinh Thánh”. Vì sao trong một nghiên cứu đầy cuồng nộ vẫn có những niềm hy vọng như thế?

- Đối với tôi, ở cả thời điểm này, tôi vẫn khó có thể hiểu được động cơ của tội ác ấy, cũng như sự vụ che giấu trong nhiều thập kỷ. Nhưng dù thế nào thì vẫn có ánh sáng trong ngày tăm tối. Hy vọng trong tương lai những hồ sơ này sẽ được tiết lộ, và tội ác sẽ không xảy ra thêm lần nào nữa với thế hệ quân nhân khác.

- Xin ông chia sẻ khía cạnh thách thức nhất khi viết cuốn sách này là gì?

- Đó là nỗi buồn cá nhân khi viết câu chuyện của Larry – bạn tôi, và quay lại khoảng thời gian tôi ở Việt Nam cũng như rất nhiều căn bệnh mà tôi đã mắc trong những năm qua.

Patrick Hogan

Hồ sơ chính thức của chính phủ Hoa Kỳ ghi nhận hơn 58.280 quân nhân Hoa Kỳ đã chết ở Việt Nam. Đó là thương vong cuối cùng của cuộc chiến đó. Ngoài ra, có trên 300.000 quân nhân được ghi nhận là bị thương và tàn phế. Tuy nhiên, những số liệu thống kê nghiêm túc đó lại không ghi nhận hàng chục nghìn binh sĩ, thủy quân lục chiến và thủy thủ đã thiệt mạng, bị thương và bị thương tật do thuốc trừ sâu sử dụng ở Việt Nam. Ai sẽ ghi lại sự hy sinh và cái chết của họ? Mặc dù tôi không mong đợi cuốn sách của mình sẽ thay đổi những số liệu thống kê, nhưng tôi hy vọng có thể giúp ích một phần nào đó cho thế hệ tương lai.

- Ông có bao giờ rơi vào tình trạng bị bí ý tưởng?

- Không. Bản thảo ban đầu của cuốn sách dài khoảng 400 trang, ngoại trừ câu chuyện của Larry và việc hồi tưởng lại thời gian tôi ở Việt Nam thì mọi việc diễn ra suôn sẻ.

- Ông có phải là một tác giả có kỷ luật hay có lịch trình cụ thể không?

- Tôi tự coi mình là một tác giả có kỷ luật, nhưng ngay cả vậy tôi cũng thường mang theo tập giấy và bút vì sẽ có những cảm hứng sẽ đến bất chợt. Đặc biệt là sau sự tương tác căng thẳng của tôi với Bộ Cựu chiến binh (DVA) và vòng xoay hành chính.

Đọc thêm nội dung sách: tại đây!

Đọc bài viết

Phía sau trang sách

Khán giả học – vai trò của người xem phim

Published

on

Kevin Goetz và Darlene Hayman nghiên cứu tâm lý người xem nhằm lý giải sự thành bại của các phim Hollywood, trong sách "Khán giả học".

Cuốn sách xuất bản trong nước, Phương Nam Book phát hành, đưa ra cách tiếp cận mới khi khảo sát những điều khán giả chờ đợi ở một bộ phim. Hai tác giả đi sâu vào bóc tách tâm lý của khán giả trong 10 chương, từ đó đưa ra sự đúc kết về tầm ảnh hưởng của người xem đối với điện ảnh.

Kevin Goetz cho rằng những lời góp ý, nhận xét sẽ làm thay đổi diện mạo phim. Phản hồi từ khán giả trong các buổi chiếu thử có thể giúp tác phẩm được quảng bá rộng rãi, thậm chí nâng cao chất lượng về mặt nghệ thuật lẫn doanh thu. Goetz lấy ví dụ: "Tờ giấy khảo sát sau khi xem phim có khối lượng chưa đến 100 gr, song lại mang sức mạnh tựa như cú móc hàm phải của võ sĩ Tyson".

Sách có đoạn: "Qua nhiều năm, các nhà nghiên cứu và những người dày dặn kinh nghiệm trong ngành công nghiệp điện ảnh đều biết rõ, thước đo then chốt cho mức độ hấp dẫn của bất kỳ bộ phim thương mại nào cũng được xác định bởi các điểm số xuất sắc và rất hay mà phim nhận được từ phản hồi của khán giả tham dự buổi chiếu thử".

Bìa sách Khán giả học, tựa gốc Audience-ology: How Moviegoers Shape the Films We Love. Tác phẩm dày 364 trang, do Thanh Vy biên dịch. Ảnh: Phương Nam Book
Bìa cuốn "Khán giả học", tên gốc "Audience-ology: How Moviegoers Shape the Films We Love". Sách dày 364 trang, do Thanh Vy biên dịch. Ảnh: Phương Nam Book

Trong sách, hai nhà nghiên cứu thuật lại quy trình của buổi chiếu thử, từ việc chọn khán giả dựa theo số liệu nhân khẩu học, tiêu chí chọn địa điểm công chiếu, đến những khoảnh khắc trong phim khiến người xem bật cười hay òa khóc. Goetz nhấn mạnh việc lấy khảo sát từ khán giả có thể giúp biên kịch, nhà sản xuất và đạo diễn lược bỏ chi tiết thừa hoặc thêm yếu tố mới, nhằm đẩy câu chuyện lên cao trào, đồng thời giúp phim đạt hiệu quả tốt nhất.

Những lý giải nhằm chứng minh công việc sáng tạo giống như trò chơi "đỏ đen" có tên là tâm lý học. Sau buổi công chiếu thử, tiếng vỗ tay, hò hét hay phản ứng khóc, cười từ khán giả có thể trở thành tín hiệu dự báo mức độ thành công.

Tác phẩm còn cho thấy nền điện ảnh không chỉ có bề dày lịch sử, các đạo diễn gạo cội, phim bất hủ, mà là một ngành khoa học phải đối mặt với nhiều thử thách. Goetz đưa chuyện thực tế trong các buổi chiếu thử phim nhằm giúp độc giả có cơ hội chứng kiến hậu trường Hollywood từ nhiều khía cạnh.

Goetz mời một số nhân vật nổi tiếng để chia sẻ trải nghiệm của họ với các buổi chiếu thử, gồm chủ hãng phim Blumhouse Jason Blum, đạo diễn Ron Howard và nhà sáng lập công ty Illumination Chris Meledandri. Theo Variety, sách cũng cung cấp góc nhìn về tác động của khán giả đối với bản dựng phim cuối trước khi công chiếu, như trong một số tác phẩm biểu tượng Fatal AttractionThelma & Louise và Cocktail.

Tác giả cuốn Khán giả học: Kevin Goetz (trái) và Darlene Hayman. Ảnh: Simon & Schuster
Tác giả cuốn "Khán giả học": Kevin Goetz (trái) và Darlene Hayman. Ảnh: Simon & Schuster

Khán giả học nhận nhiều ý kiến tích cực từ giới chuyên môn. Theo trang Goodreads, sách được viết với giọng văn hài hước, pha lẫn kịch tính và bất ngờ, mang đến cho độc giả cái nhìn mới về lịch sử điện ảnh. Trang tin tức A Frame của giải Oscar xếp tác phẩm là một trong những cuốn sách phải đọc về điện ảnh hiện đại.

Cựu chủ tịch hãng phim Sony Amy Pascal đánh giá tác phẩm gây ấn tượng khi mang đến câu chuyện ngoài lề thú vị ở Hollywood. "Tôi ước quyển sách này xuất hiện lúc tôi bắt đầu sự nghiệp trong ngành điện ảnh", Pascal cho biết trong một cuộc phỏng vấn.

Chủ tịch Sony Pictures Entertainment Motion Picture Group - Tom Rothman - nhận xét: "Thấu hiểu những gì khán giả thực sự nghĩ không phải là điều dễ dàng. Và Kevin là bậc thầy trong việc lắng nghe người xem, như những gì được tiết lộ trong quyển sách của anh".

Kevin Goetz là nhà sáng lập công ty nghiên cứu phim Screen Engine, có hơn 30 năm kinh nghiệm trong lĩnh vực điện ảnh. Anh cũng là thành viên của Viện Hàn lâm Khoa học Nghệ thuật Điện ảnh Mỹ, Hiệp hội các nhà sản xuất phim Mỹ. Sách đầu tay của Goetz Khán giả học ra mắt lần đầu năm 2021.

Darlene Hayman là nhà phân tích nghiên cứu thị trường phim ảnh ở Mỹ, cộng tác với Kevin Goetz hơn 15 năm. Cô nổi tiếng vì hỗ trợ các đạo diễn trong việc nắm bắt thị hiếu khán giả, góp phần tinh chỉnh tác phẩm trong giai đoạn cuối quá trình hậu kỳ.

Theo Vnexpress

Đọc bài viết

Phía sau trang sách

Cánh cửa mở vào nội tâm của Maupassant

Published

on

By

Cùng với Chekhov, Guy de Maupassant từ lâu đã được suy tôn là “bậc thầy của thể loại truyện ngắn”. Điều này không chỉ bởi văn phong độc đáo, mà còn nằm ở sự đa dạng về thể loại. Trong đó Horla và những truyện ngắn khác ra mắt gần đây chính là minh chứng cho nhận định này.

Tuy chỉ viết trong vỏn vẹn có 4 thập kỷ, nhưng những di sản mà Maupassant để lại là tương đối lớn. Ông nổi tiếng nhất với các tiểu thuyết cũng như truyện ngắn mang tính hiện thực, hài hước, lãng mạn, như những tập truyện Sáng trăng, Nơi nhà người bạn

Nhà văn nổi tiếng Guy de Maupassant

Nhưng ít người biết ông cũng bén duyên với thể loại kinh dị, và nó cũng truyền cảm hứng cho nhiều tác giả sau này, trong đó có H.P.Lovecraft với Lời hiệu triệu của Cthulhu. Vừa mới ra mắt trong thời gian qua, Horla và những truyện ngắn khác tập hợp 5 tác phẩm có màu sắc kinh dị, siêu nhiên, được Maupassant viết trải dài từ năm 1875 – 1890.

Trí tưởng tượng phong phú

Trong tập truyện Horla và những truyện ngắn khác, bạn đọc có thể thấy rõ 2 giai đoạn mà Maupassant tiến hành tiếp cận thể loại kinh dị. Trong 3 truyện ngắn được viết sớm nhất là Bàn tay bị lột da (1875), Hắn? (1883) và Nỗi sợ (1884), ta đơn thuần thấy đây là một tác phẩm ẩn chứa yếu tố siêu nhiên mà vị tác giả cố gắng khai thác.

Chúng đơn giản xoay quanh những nỗi ám ảnh mà các cá nhân yếu bóng vía hay là nhạy cảm thường cảm nhận được. Chẳng hạn như trong truyện Hắn?, một người đàn ông vì bị ám ảnh bởi một bóng ma trong căn phòng của mình mà đã cưới lấy một người vợ mới, hay ở Nỗi sợ, chỉ vì trên tuyến tàu lửa khi nhìn thấy có 2 người đàn ông xuất hiện trong khu rừng vắng, mà nhân vật chính bỗng dưng cảm thấy trong mình trỗi dậy nỗi sợ chỉ vì không thể lý giải được động cơ của câu chuyện ấy…

Horla và những truyện ngắn khác là tác phẩm mới từ Maupassant

Đây đều là các nhân vật hoàn toàn tỉnh táo, họ nhận thức được những gì xảy ra và khó có thể nói họ có vấn đề riêng về tâm lý. Và vì tính hiện thực đó, Maupassant qua các tác phẩm cũng gửi gắm được bài học của mình. Chẳng hạn trong truyện Bàn tay bị lột da, thông qua nhân vật Pierre B. – một sinh viên trường luật, người xuất thân từ một trong những gia đình danh giá nhất xứ Normandie – ông đã cho thấy chỉ vì chính thói hư vinh cũng như trưởng giả mà y đã mạo phạm đến một phần thân thể của vị phù thủy, từ đó phải chịu cái chết có phần đau đớn.

Hay trong Nỗi sợ, Maupassant cũng khẳng định “cùng với những điều siêu nhiên, nỗi sợ hãi đích thực đã biến mất khỏi hành tinh này, bởi con người ta chỉ thực sự sợ những gì nằm ngoài tầm hiểu biết của mình”. Câu nói này như đại diện cho tất cả những gì ông muốn nhắm tới, về sự nhỏ bé và đầy mông muội của con người với những kỳ bí chưa được lý giải.

Như vậy những tác phẩm này đều được viết bởi một Maupassant khách quan, đứng ở bên ngoài, từ đó đưa ra những lời lý giải hoàn toàn hợp lý. Thế nhưng ở 2 truyện sau là Horla viết năm 1887 và Ai mà biết được? viết năm 1890, thì ta lại thấy có phần ngược lại, khi chính nhà văn dường như không thể thoát được cái bóng của bản thân mình.

Bi kịch của Maupassant

Hai truyện ngắn này có được điểm chung khi nhân vật chính đều là người đàn ông rơi vào loạn trí. Nhân vật chính này đã từng không dưới một lần thừa nhận chính mình như có đến 2 bản thể cùng nhau tồn tại. Một bên kêu gào giữ lại lý trí, trong khi phía còn lại đòi hỏi rất nhiều hành động mang tính tàn phá.

Sự chia đôi này gợi ta nhớ đến trường hợp của bác sĩ Jekyll và ông Hyde tương đối kinh điển trong tác phẩm nổi tiếng của Stevenson. Như vậy chủ đề của Maupassant đã chuyển từ những nỗi sợ tương đối hữu hình thành ra vô hình và khó lý giải, khi được bao bọc bởi những vấn đề có liên quan đến thần kinh cũng như tinh thần.

Tình tiết của những câu chuyện cũng khó nắm bắt. Ở Ai mà biết được?, đó là một người gần như điên loạn bởi sự xuất hiện và rồi biến mất của những vật dụng ngay trong nhà mình một cách liên tục. Còn ở Horla, đó là một sinh vật gần như trong suốt, thứ được nuôi sống bằng sữa và nước, luôn luôn theo dõi vật chủ mà nó bám theo, từ đó khiến họ “sống không bằng chết”.

Maupassant và những ám ảnh tâm trí của bản thân mình

Theo Charlotte Mandell – dịch giả của truyện ngắn này cho nhà xuất bản Melville House, thì “horla” là từ ghép của “hors” (“bên ngoài”), và “la” (“ở đó”). Vì vậy “horla” có nghĩa là “người ngoài cuộc”, “người bên ngoài”, và có thể được dịch theo nghĩa đen là “cái gì ở ngoài đó”. Thế nhưng cũng có những lý giải khác, khi nhiều người xem đây là một sự kết hợp của cụm “hors-la-loi” (tức “ngoài vòng pháp luật”) và “horsain” (có nghĩa là “thứ lạ lùng”).

Thế nhưng dù có là gì, thì Maupassant như đang cảm nhận những nỗi ám ảnh đến từ sâu hơn và khó lý giải hơn. Xét về bối cảnh của chính tác giả, thì những truyện này tương đối trùng khớp với thời kỳ mà ông có những dấu hiệu đầu tiên của chứng điên loạn, khi ông xuất hiện nhân cách kép và ngày càng gặp nhiều ảo giác do bệnh giang mai. Một năm sau đó, vào năm 1891, ông có dấu hiệu của chứng hoang tưởng.

Có thể là bởi xuất phát từ những trải nghiệm chính ông kinh qua, nên 2 truyện này trở nên chân thật và đầy ám ảnh đối với người đọc. Nếu được viết từ một người tỉnh táo, thì đây chính là tài năng của sự tưởng tượng. Nhưng với Maupassant thì đó là nỗi đau và sự sợ hãi mà bản thân ông mong muốn giải bày thông qua việc viết.

Như vậy đi từ mục đích sáng tạo ở buổi ban đầu, Maupassant dần dần chuyển sang hành động kể lại điều đã trải qua, và làm sáng tỏ chứng bệnh tâm lý mà thời kỳ đó còn bị che khuất bởi những định kiến mà những quan điểm mang tính thủ cựu. Có thể nói Horla và những truyện ngắn khác không chỉ mở ra cánh cửa khám phá một Maupassant rất khác, mà có thể nói cũng đã góp phần giúp ta hiểu được những gì đã từng xảy đến với một trong những nhà văn lớn của nhân loại.

Anh Đoàn

Đọc bài viết

Cafe sáng