Phía sau trang sách

Murakami Haruki giới thiệu tác phẩm “Sanshiro” của Natsume Soseki

Published

on

Tôi thừa nhận, mình mới thực sự nghiêm túc hứng thú với văn chương Natsume Soseki khi đã bước vào tuổi trưởng thành. Thời gian từ khi tôi tốt nghiệp đại học đến khi kết hôn, tôi hiếm khi để mắt tới các tác phẩm của ông, nói nghe không chính xác lắm, vì thực ra tôi đã kết hôn trước khi tốt nghiệp. Lý do chính là vì khi ấy tôi nghèo.

Vậy tại sao trước khoảng thời gian đó tôi vẫn chưa đọc Soseki? Tôi không thể nhớ rõ, nhưng có lẽ nguyên do lớn nhất là vì thuở thiếu thời, tôi bị ám ảnh bởi ngoại văn và đơn giản là không thèm đọc các tiểu thuyết Nhật ngữ. Một lý do khác có lẽ là vì tôi không có nhiều cảm xúc với các tiểu thuyết Soseki chúng tôi học tại trường (vấn đề ở đây là cách chọn lựa tác phẩm). Một lần khác, giữa những năm 1960 đầy biến động, khi tôi còn thanh niên, đọc Soseki không phải mốt: chẳng mang lại sự ngưỡng mộ hay lời tán dương nào cả. Đó là thời kỳ cải cách và biến đổi văn hóa, thời của Che Guevara và Jimi Hendrix. Ngày nay, dĩ nhiên, Natsume Soseki là biểu tượng của tiểu thuyết gia Nhật Bản đương đại, một nhân vật mang tầm vóc quốc gia, nhưng các tác phẩm của ông đã không được đón nhận nồng nhiệt vào thời điểm đó, tôi nghĩ vậy, ít nhất là trong thế hệ trẻ.

Tôi kết hôn năm 1972 với một người bạn cùng lớp đại học (đến nay vẫn còn là vợ tôi). Cô ấy tốt nghiệp trước tôi và đi làm công việc của một người đọc bản thảo theo hợp đồng với một công ty xuất bản. Tôi đã làm hàng loạt các công việc bán thời gian, mỗi tuần vài ngày khi còn học đại học để kiếm đủ tiền trả phần nợ còn lại trước khi tốt nghiệp – thu ngân ở một cửa hàng băng đĩa, phục vụ bàn, những việc đại loại như vậy. Khi có thời gian, tôi làm việc nhà – giặt ủi, nấu nướng, mua sắm, chăm sóc lũ mèo. Tôi là kiểu mẫu người chồng của gia đình. Cuộc sống khó khăn, nhưng tôi không để tâm mấy, trừ việc là chúng tôi không đủ tiền mua sách.

Như tôi đã nói, chúng tôi nghèo, hay thậm chí nên nói là phải cố gắng tằn tiện chi tiêu. Chúng tôi dự định mở một câu lạc bộ nhạc jazz. Với chúng tôi, sống cuộc đời an nhàn với công việc được trọng vọng ở những công ty được trọng vọng đơn giản không phải một lựa chọn. Viễn cảnh đó không thu hút chúng tôi. Vậy nên hai chúng tôi làm việc chăm chỉ và dành dụm tiền. Nếu không trả được tiền máy sưởi, chúng tôi trải những đêm giá rét bằng cách ngủ với lũ mèo, ve vuốt nhau. Nếu đồng hồ báo thức hỏng, chúng tôi chẳng thể mua một cái mới. Nhưng chúng tôi trẻ khỏe và khát khao, chúng tôi có một mục tiêu.

Dù vậy thì không thể mua sách: thực sự rất khó khăn. Không chỉ không mua được, chúng tôi còn thường xuyên phải bán những cuốn mình có để trang trải cuộc sống. Những ngày đó (và giờ không còn nữa) tôi thực sự đã thèm khát sách. Tôi đọc ngấu nghiến cuốn này sang cuốn khác như chạy đua với thời gian. Tôi thấy như thể đó là cách duy nhất mình có thể tiếp tục sống, vậy nên việc không thể mua thêm sách mới rất đau lòng và bóp nghẹt tôi như là không được hít thở không khí trong lành.

Tôi chóng phải đọc lại sách cũ. Và khi không còn sách để đọc lại lần hai, tôi bắt đầu đọc những cuốn còn lại trong kệ của vợ tôi. Chuyên ngành của cô ấy là văn học Nhật Bản, nên cô ấy có rất nhiều quyển tôi chưa từng đọc. Trong số đó có hai tuyển tập “Trọn bộ tác phẩm” khiến tôi tò mò: một là của nhà thơ Miyazawa Kenji (1896–1933) và hai là của Natsume Soseki. Vợ tôi ban đầu dự định viết luận văn tốt nghiệp về Miyazawa Kenji. Cô ấy để dành tiền và mua được trọn bộ các tác phẩm, nhưng rồi giữa chừng cô ấy bỏ dở (tôi không rõ tại sao) và chuyển sang Soseki. Một người bạn của cô đã lấy Soseki làm đề tài luận văn và không còn dùng đến những cuốn sách nữa, nên vợ tôi có thể mua lại với giá rẻ. Đó là giá trị của tính thực tế. Cô ấy cũng có nhiều sách của Tanizaki Junichiro (1886–1965), tác phẩm kinh điển của thế kỷ mười một Truyện Genji, và Thế giới văn chương cho Nam và Nữ của nhà xuất bản Iwanami. Tất cả đều rất khác với sở thích văn chương của tôi, nhưng ít nhất là không có sự trùng lặp – không chút nào.

Vì không còn gì để đọc, lúc có thời gian rảnh tôi tìm đến những quyển sách này, dù không thực sự hứng thú. Miyazawa Kenji, thật lòng mà nói, không ảnh hưởng nhiều đến tôi, và ít nhất tôi ngày ấy cũng chẳng thấy được điều gì có thể thích ở Truyện Genji. Soseki và Tanizaki, trái lại, không tệ. Và cũng vì các tiểu thuyết của Soseki và Tanizaki luôn khiến tôi liên hệ đến cuộc sống nghèo khổ của một cặp vợ chồng son vừa mới 22. Chỗ chúng tôi trong nhà rất lạnh, và nước trong bồn rửa nhà bếp thường đóng băng vào mùa đông. Đồng hồ báo thức bị hỏng, vậy nên muốn biết giờ giấc tôi phải liếc qua cái đồng hồ trước cửa hiệu thuốc lá dưới chân đồi (khi ấy tôi vẫn còn hút thuốc). Chúng tôi có một cửa sổ lớn ở hướng nam, vậy nên chí ít cũng có chút ánh sáng lọt vào, nhưng đường tàu sắt quốc gia Chuo chạy ngang qua cửa sổ, gây ồn kinh khủng (tương tự như căn hộ của Dan Aykroyd cạnh đường tàu cao tốc trong bộ phim Blues Brothers). Khi có đình công và tàu ngưng chạy trong 24 giờ, người khác đều cảm thấy rất bất tiện, nhưng riêng tôi thì nhẹ nhõm vô cùng. Có những lúc tàu chở hàng chạy ngang qua cho tới lúc mặt trời mọc.

Đây chính là hoàn cảnh tôi đã đọc các tác phẩm của Soseki, là lý do mà đối với tôi, chúng ăn sâu vào ký ức việc đọc trong khi nằm dài trong nắng và nghe tiếng gào rú của những chuyến tàu cao tốc ngang qua. Tất nhiên không phải lúc nào mặt trời cũng đổ nắng, nhưng đó là ấn tượng lưu lại mạnh mẽ nhất. Lũ mèo nằm cạnh tôi, ngủ ngoan. Khi ấy tôi không đọc toàn bộ các tác phẩm của Soseki mà chọn những tác phẩm quan trọng nhất, và trong số đó có những quyển tôi thích hơn số còn lại. Những tiểu thuyết yêu thích nhất của tôi là ba cuốn tạo nên cái được gọi là “tuyển tập” đầu tiên của ông ấy, Sanshiro, Sore kara (Rồi sau đó), và Mon (Cánh cổng). Tôi đặc biệt nhớ cảm giác liên hệ mạnh mẽ mà tôi có với Mon, câu chuyện về hai vợ chồng trẻ sống trong điều kiện vô cùng thiếu thốn.

Với tôi, tiểu thuyết nổi tiếng nhất của Soseki, Kokoro (Lòng người), có chút gì đó chưa thỏa mãn, và dù rất thích các tác phẩm về sau này được đánh giá cao về chiều sâu tâm lý, tôi không bao giờ hoàn toàn đồng cảm được với những nỗi thống khổ sâu sắc của tri thức đương thời trong đó. “Cứ nói mãi về những chuyện này thì có nghĩa lý gì cơ chứ?” Tôi hay tự hỏi như thế. Theo hướng này, tôi có phần hơi khác với những người đọc Soseki thông thường. Dù vậy, chắc chắn rằng, “trải nghiệm Soseki” tôi có khi ấy, dù đến muộn màng, vẫn còn in đậm trong tâm trí tôi đến tận bây giờ, và bất cứ khi nào có cơ hội đọc lại các tiểu thuyết của Soseki, tôi vẫn cứ ngạc nhiên trước giá trị của chúng. Soseki vẫn luôn là cái tên đầu tiên bật ra trong đầu tôi khi được hỏi về tác giả Nhật Bản yêu thích nhất.

Khi tôi có được “trải nghiệm Soseki”, phong trào sinh viên đã đi qua giai đoạn mãnh liệt nhất, bầu không khí đã nhanh chóng chuyển sang ôn hòa hơn. Khuôn viên trường đại học vẫn còn đầy biểu ngữ viết những khẩu hiệu chính trị, nhưng khả năng xảy ra một cuộc cách mạng đơn giản đã tan biến (chứ không phải là bắt đầu nhen nhóm, dĩ nhiên), và hy vọng vào cải cách đã nhanh chóng phai nhạt. Những biểu ngữ của lý tưởng hầu hết đều đã bị xếp xó. Janis Joplin, Jimi Hendrix, và Jim Morrison qua đời. Trong bầu không khí vô vọng, tan hoang này, thế giới của những tác gia như Soseki và Tanizaki lần nữa mang lại một ý nghĩa mới. Chúng tôi như hít thở được bầu không khí ấy. Hay ít nhất, tôi cảm thấy như vậy khi nhìn lại từ hoàn cảnh đầm ấm của mình bây giờ. Dù sao chăng nữa, đó chính là cuộc hội ngộ đúng nghĩa đầu tiên của tôi với Soseki. Với riêng tôi, Sanshiro chính là mẫu tiểu thuyết để đọc trên hiên nhà ngập nắng. Dù hoang mang lạc lối, nhân vật chính tựu trung có tầm nhìn hướng về tương lai. Cậu ấy nhẹ ngẩng đầu, và bầu trời cao rộng mở ra trước mắt cậu. Đây chính là ấn tượng mà cuốn sách mang lại. Và thực sự, các nhân vật của cuốn tiểu thuyết không ngừng hướng về bầu trời trong xanh, mà những biến cố xoay quanh họ là phần trọng tâm của câu chuyện.

Những tiểu thuyết thế này hiếm thấy trong văn nghiệp của Soseki – hay có lẽ tôi nên nói là hoàn toàn không tồn tại. Hầu hết các nhân vật chính của ông phải đối mặt với những mâu thuẫn rất đời thực. Họ nếm trải sự khổ não về việc nên sống thế nào, và phải đối diện với những quyết định cuộc đời họ buộc phải đưa ra. Họ đấu tranh quyết liệt để tìm ra chỗ cho mình giữa ước muốn đối lập tiền hiện đại và hiện đại, giữa tình yêu và đạo đức, giữa Tây phương và Nhật Bản. Họ dường như chẳng có thời gian để ngắm nhìn bầu trời. Thay vào đó, những nhân vật xuất hiện trong tiểu thuyết khác của Soseki dường như lúc nào cũng cúi nhìn xuống đất khi bước đi. Những nhân vật trong các tác phẩm về sau này khiến người đọc cảm tưởng họ cũng chịu đựng những cơn đau dạ dày nghiêm trọng nhưng chính tác giả (dù lạ lùng thay, ngòi bút của Soseki không bao giờ mất đi nét hài hước tự nhiên.)

Tuy vậy, nhân vật chính của Sanshiro lại rất khác biệt. Cậu ấy chật vật tìm kiếm vị trí cho riêng mình giữa những cảnh huống rối ren, nhưng cậu không bao giờ hoàn toàn phải đối diện với chúng như vấn đề của chính mình. Trái lại, cậu chấp nhận chúng một cách tự nhiên, với sự cam chịu lãnh đạm của một cậu thanh niên, như thể chấp nhận một điều gì đó hoàn toàn nằm ngoài bản thân. “À, được thôi, đó là lẽ tự nhiên,” cậu có vẻ như vậy. Đau dạ dày chưa kịp thâm nhập vào thế giới của cậu. Tôi nghĩ Sanshiro chính là tiểu thuyết mình yêu thích nhất vì nó miêu tả những chuyển biến tự nhiên của tâm lý nhân vật chính với văn phong dịu dàng vô cùng. Sanshiro nhìn cuộc đời trôi qua như cách mà cậu nhìn mây trắng trôi trên bầu trời. Ánh nhìn vô ưu của cậu cuốn ta theo trước khi kịp nhận ra điều ấy, và rồi ta quên phải khắt khe đánh giá cậu.

Dĩ nhiên, lối sống vô lo, không ràng buộc như thế không thể kéo dài mãi. Một người chợt sẽ nhìn lại và thừa nhận “Mình chưa từng quyết định điều gì cả”, nhưng chuyện này chỉ có thể kéo dài trong một giai đoạn ngắn ngủi – và có lẽ là hạnh phúc của cuộc đời. Cuối cùng, dù muốn hay không, ai cũng mang gánh nặng của trách nhiệm, và một khi ngày đó đến, chẳng còn thể nào mãi ngắm nhìn mây trời nữa. Đây chính là điều đã xảy ra với Daisuke, nhân vật chính trong tiểu thuyết tiếp theo của Soseki, Sore kara (Rồi sau đó), và thậm chí còn bi kịch hơn với Sosuke, nhân vật chính của tác phẩm sau đó, Mon (Cánh cổng). Cùng với nhau, ba tiểu thuyết tạo thành bộ ba mà Soseki hoàn thành như một chuỗi tiểu thuyết đăng từng phần ngắn trên báo trong ba năm, tinh tế khắc họa thanh xuân – và kết thúc thanh xuân – của những tri thức trẻ sống vào thời Minh Trị. Chúng ta có thể gọi ba cuốn tiểu thuyết này là “Tuyển tập Trưởng thành”. Sự trưởng thành của chính Soseki với tư cách một nhà văn trong ba năm ấy cũng nhanh một cách bất ngờ, như một bộ phim tua nhanh.

Nhưng hãy để tôi quay lại với Sanshiro. Nhân vật chính của tiểu thuyết này vẫn còn đang đứng trước bình minh cuộc đời. Cậu vẫn chưa ý thức được những gánh nặng rồi đây mình sẽ phải gánh chịu, và điều này chính là điều đã tạo nên một Sanshiro: một thanh niên trẻ vẫn còn thời giờ để vô tư ngắm nhìn trời xanh mây trắng. Điều chúng ta nhìn thấy không phải là tai ương, mà là điềm báo tai ương sắp đến, những khổ đau vẫn còn chưa thành hình. Soseki chẳng vội vã chút nào với tiểu thuyết này. Ông đứng sau thúc đẩy Sanshiro, giục cậu tiến về phía trước, ép cậu đến những bất hạnh hay thất bại trước giờ chúng đến. Ông chẳng chỉ trích cũng chẳng ngợi ca Sanshiro. Ông đơn thuần để Sanshiro là chính Sanshiro, xây dựng cậu như cậu vốn vậy, tự do và ung dung rỗi rãi, và đây chính là điểm ta thấy được tất cả sự vĩ đại của Soseki.

Khi lần đầu đọc Sanshiro năm hai mươi hai tuổi, chính bản thân tôi cũng không nhận thức được những gánh nặng sắp đến. Tôi vừa mời kết hôn, vẫn còn là sinh viên. Dù khi ấy nghèo khó thế nào, dù còi tàu réo rắt bên ngoài ra sao, tôi vẫn nằm ườn dưới nắng với hai chú mèo vừa mềm vừa ấm ngủ cạnh bên.

Tôi lớn lên trong vùng ngoại ô yên tĩnh của thành phố Kobe và đến Tokyo năm mười tám tuổi khi vào đại học Waseda. Ban đầu tôi không tha thiết đến Tokyo lắm và dự định một hành trình dễ thở hơn ở một trường cao đẳng địa phương, nhưng vào phút cuối tôi lại bắt đầu thấy muốn xa nhà và thử thách bản thân – sống độc lập lần đầu tiên trong đời. Tôi thu dọn đồ đạc và từ biệt bạn gái. Đã gửi trước những kiện hành lý lớn đến ký túc xá, tôi chỉ mang theo mình một chiếc giỏ xách khi lên chuyến tàu shinkansen mới mở ở ga Osaka. Trong túi là bản bìa mềm cuốn Trường âm nhạc (The Music School) của John Updike vẫn còn đọng lại nơi tâm trí tôi như một phần của khoảng thời gian đặc biệt ấy. (Rất đau lòng phải nhắc đến chuyện John Updike vừa qua đời trước khi tôi viết lời giới thiệu này vài ngày.)

Tôi đã làm những điều mà ta thấy Sanshiro làm ở mở đầu tiểu thuyết, đến Tokyo từ tỉnh lẻ để học đại học, dù các chi tiết thì khác. Sanshiro được viết năm 1908, tôi đến Tokyo năm 1968, đúng sáu mươi năm sau. Đi từ Kobe đến Tokyo bằng tàu hơi nước khi ấy mất khoảng mười lăm hay hai mươi tiếng. Với tôi, trên tàu điện shinkansen, chỉ mất có bốn tiếng. Đi từ Kyushu xa xôi đến Tokyo, Sanshiro mất hai ngày đường. Nói cách khác, chúng tôi lớn lên trong môi trường rất  khác nhau. Vị trí xã hội của sinh viên đại học cũng khác. Bất kỳ ai vào đại học vào thời của Sanshiro cũng rất được trọng vọng, nhưng vào thời của tôi, chẳng có gì là đặc biệt. Hệ thống giáo dục cũng khác biệt. Sanshiro vừa tốt nghiệp “trường cao đẳng” (kotogakko), gần với đại học giáo dục khai phóng ngày nay, và cậu đã hai mươi hai tuổi (tuổi tính theo phương Tây) khi nhập học đại học, để học vào chuyên ngành, trong khi tôi mới mười tám. Tuy vậy, có lẽ không có quá nhiều khác biệt giữa chúng tôi, trong nỗi háo hức ở một thành phố xa lạ rộng lớn, khởi đầu một cuộc đời mới.

Không cần phải nói, cuộc tình thoáng qua của Sanshiro đã không xảy đến với tôi trên đường đến Tokyo trên chuyến tàu shinkansen. Cậu ấy qua đêm ở một quán trọ, còn tôi chỉ ngồi bốn tiếng trên tàu cao tốc. Thật sự thì, chuyện tương tự với trải nghiệm Sanshiro đã xảy đến với tôi. Để tiến kiệm chi phí, tôi đã bắt chuyến tàu tốc hành chậm hơn, chuyến Kodama, dừng nhiều chặng hơn chuyến Hikari thông thường, và tại một điểm dừng – Shizuoka, tôi nghĩ – một phụ nữ trẻ đã đến ngồi cạnh tôi. Khoang tàu gần như trống, và cô ấy có thể dễ dàng chọn một ghế hai người ngồi một mình, nhưng cô ấy quyết định ngồi cạnh tôi. Cô ấy là một phụ nữ ngoài đôi mươi xinh đẹp – chưa đến hai lăm – không hẳn là một mỹ nhân, nhưng đủ hấp dẫn. Không ngạc nhiên, việc có cô ấy ngồi cạnh khiến tôi khá căng thẳng.

Khi đã yên vị, cô ấy mở lời với nụ cười thân thiện. Tôi đến từ đâu? Định đi đâu? Cô ấy nói chuyện rất cởi mở, thẳng thắn, và tôi trả lời thành thực nhất có thể. Tôi nói mình đến từ Kobe và sắp học đại học ở Kobe, sẽ học chuyên ngành văn học, rằng tôi thích đọc sách, chắc sẽ sống ở ký túc xá trong khu Mejiro, chuyện tôi là con một, vân vân và vân vân. Tôi không nhớ chi tiết. Thậm chí ngay lúc đó đầu óc của tôi cũng không tập trung, các câu trả lời của tôi có vẻ lạc đề.

Dù thế nào, cô ấy cũng đã ngồi cạnh tôi suốt đường đến Tokyo. Chúng tôi nói chuyện suốt, tôi nhớ cô ấy đã mua cho tôi ít thức uống. Chúng tôi bước xuống sân ga khi tàu đến Tokyo. “Chúc may mắn ở trường, học chăm nhé,” cô ấy nói với tôi, và rồi đi mất với một cái vẫy tay. Đó là kết thúc câu chuyện. Tôi không rõ tại sao cô ấy lại chọn ngồi kế mình trong toa tàu gần như trống ấy. Có thể cô ấy chỉ muốn có người trò chuyện cùng và thấy một thằng nhóc như tôi sẽ không nguy hại gì (tôi khá chắc là thế). Hay có thể cô có em trai trạc tuổi tôi. Dù lý do là gì, cô ấy đã bỏ tôi lại sân ga Tokyo với cảm giác kỳ lạ, gần như là lâng lâng. Đó là khởi đầu cuộc sống mới của tôi ở Tokyo, phảng phất mùi hương phụ nữ, mùi hương diệu kỳ của một phụ nữ trẻ, như là điềm báo cho những việc sắp đến. Không nghi ngờ gì, những mùi hương như thế đã giúp tôi quyết định hướng đi đời mình từ thời điểm ấy.

Giờ thì tôi đã đọc Sanshiro vài lần rồi, và lần nào nó cũng gợi tôi nhớ về giai đoạn đó của cuộc đời mình. Cuốn sách luôn làm sống dậy trong tôi cảm giác lạ lùng ngày mới lên Tokyo và nhận thấy mình đang từ từ mà chắc chắn xa rời những con đường quê, khỏi cuộc sống tôi đã bỏ lại phía sau, xa cả hệ giá trị mà tôi biết đến trước đó. Thực sự, tôi không biết chắc có gì tồn tại thay thế những điều ấy không. Tôi vừa mang cảm giác khấp khởi tự do, vừa sợ hãi cô đơn, như một nghệ sĩ nhào lộn vừa bỏ qua một cú nhào lộn trước khi biết chắc có cú tiếp theo để thực hiện.

Điều biến Sanshiro thành một tiểu thuyết xuất sắc như vậy, với tôi chính là cách nhân vật chính, Sanshiro, không bao giờ cởi mở bày tỏ mâu thuẫn giữa niềm vui và nỗi sợ của mình. Điều ấy không hiển hiện ra bên ngoài – theo kiểu “tâm lý phức tạp” của tiểu thuyết hiện đại. Trong câu chuyện, Sanshiro luôn là một người quan sát. Cậu chấp nhận và để mọi chuyện trôi ngang qua cuộc đời mình. Đôi khi cậu cũng có nhận xét điều này điều kia tốt xấu, về sở thích sở ghét của bản thân, thi thoảng lại miêu tả lại những ấn tượng của mình với ngôn ngữ mượt mà đáng kể, nhưng luôn chỉ ở dạng “đề xuất kết án”. Cậu ấy dành nhiều năng lượng tinh thần hơn cho việc quan sát và suy nghĩ. Cậu không mặn mà gì chuyện nhặt nhạnh chất liệu cho một quyết định được đưa ra về sau. Bước chân của cậu không hề nhẹ nhàng; thực ra, cậu có thể lóng ngóng, nhưng đồng thời cũng chẳng khập khiễng bước đi. Soseki đã thành công trong việc xây dựng chàng trai tỉnh lẻ ngây thơ – nhưng cơ bản vẫn tri thức và, được chu cấp dư dả theo cách của riêng mình – với một quan điểm tự do và cởi mở.

Sự tự do và cởi mở này, đi cùng với mối nguy hiểm ẩn sau bối cảnh, đều là bản chất tuổi trẻ của riêng Sanshiro, và có lẽ, của chính Nhật Bản, giai đọa chuyển-giao-thế-kỷ được biết đến như “trung-hậu Minh Trị”. Trong dấu chân và ánh nhìn tràn đầy sức trẻ của Sanshiro, ta có thể thấy những điểm tương đồng với một quốc gia trong giai đoạn tăng trưởng bùng nổ, nhịp đập tăng cao của nó khi bỏ lại hệ thống lỗi thời, hít sâu bầu không khí văn hóa Tây phương mới lạ, và tự vấn về định hướng và mục tiêu tương lai của mình. Nhưng cả trong dấu chân hay ánh nhìn ta đều không thấy được sự nhất quán mạnh mẽ. Hiện tại chuyện tưởng như ở thế cân bằng, nhưng chẳng ai biết trước điều gì sắp xảy đến khiến họ vấp ngã.

Tuy vậy, có một nhân vật có vẻ cảm thấy được mối nguy sắp đến. Giáo sư Hirota, vị tiền bối kỳ lạ mà Sanshiro tình cờ gặp mặt trên tàu lửa nội ô Tokyo, cũng là người thầy tương lai, dự đoán mộ số phận không mấy dễ dàng của Nhật Bản. Nhật Bản có thể vênh váo như cường quốc hạng nhất sau chiến thắng trong chiến tranh Nga – Nhật (năm 1905, chỉ ba năm trước sự ra đời của cuốn tiểu thuyết), nhưng vẫn là một đất nước với bộ rễ còn nông cạn. Người Nhật có gì để khoe khoang ở nước ngoài? Đỉnh Phú Sĩ? Nó chẳng hơn gì một thực thể tự nhiên đã luôn tồn tại ở đó. Người Nhật đâu làm ra nó. Nhật có thể tạo nên ấn tượng một nước đã hiện đại hóa, Giáo sư chỉ ra, nhưng đó chỉ là bề mặt. Về mặt tâm lý, đất nước vẫn còn đặt một chân rất sâu trong thế giới tiền hiện đại.

Sanshiro không đặc biệt yêu nước, nhưng những lời nói của người đàn ông lạ đã xúc phạm đến cậu, và cậu làm hết sức để biện hộ cho đất nước mình: “Nhưng mà từ bây giờ, Nhật Bản sẽ dần dần mạnh lên, phải vậy không?” Người đàn ông đáp lại lạnh lùng “Nhật Bản rồi sẽ suy vong.” Sanshiro sốc, nhưng đồng thời cũng ngưỡng mộ người đàn ông. Cậu ấy nghĩ, hẳn rồi, người Tokyo có khác. Chẳng ai ở đảo Kyushu quê cậu (một vùng đặc biệt bảo thủ) dám thốt lên những lời kinh hoàng như vậy. “Nhật Bản rồi sẽ suy vong.” Nhưng Sanshiro chẳng bao giờ tự hỏi “Tại sao?”

Cậu phải nhìn thế giới với nhãn quan rộng mở hơn, Giáo sư khuyên răn Sanshiro, và quan trọng hơn, cậu phải khắt khe với chính mình. Có thể ông ấy đang cố tình khiêu khích, nhưng những lời của ông dần trở thành lời tiên tri dọc theo câu chuyện – lời cảnh báo – với cả yểu mệnh tiềm tàng của Nhật Bản, cũng như với giới hạn tâm lý của tri thức Minh Trị trẻ tên Sanshiro.

Sanshiro được cho một lời tiên đoán khác, trực tiếp hơn về mặt tình ái. Đó là từ người phụ nữ cậu gặp trên tàu mà tình cờ khi dừng chân ở Nagoya cậu đã chia sẻ căn phòng. Khi từ biệt sáng hôm sau, cô nhìn cậu vẻ biết tuốt và nói “Anh đúng là một gã nhát gái”, vừa giễu nhại vừa thất vọng về chuyện cậu đã không thể có xíu xiu chủ động nào với cô vào đêm hai người ở cùng. Sanshiro “cảm giác như vừa bị ném thẳng từ trên cao xuống đất” khi nghe điều này. Hai tai cậu nóng bừng bừng trong hồi lâu; cậu biết điều ngăn mình chạm vào cô gái khuya vừa rồi không phải là giới hạn đạo đức mà đơn giản là sự thiếu tự tin. Bản năng phụ nữ của cô ấy đã bắt thóp được điểm yếu kinh khủng nhất của cậu.

Một cách mãnh liệt nhất, Sanshiro tin vào hai lời tiên tri/cảnh báo kia từ tận đáy lòng khi hòa mình vào cuộc sống mới ở Tokyo. Về mặt này, từ Kyushu đến Tokyo là chuyến tàu đầu tiên trong chuỗi nghi thức chuyển mình của Sanshiro. Nói theo kiểu thần thoại, hai lời tiên tri thuộc mô tuýp quen thuộc quan trọng của chàng hoàng tử ngây thơ đặt chân vào rừng sâu. Liệu Sanshiro có vượt qua hai lời tiên tri này trên chặng đường trưởng thành? Liệu anh hùng trẻ tuổi này có dấn thân vào rừng sâu bí ẩn, chiến đấu với cái bóng của chính mình, và giành lấy cho bản thân chí ít một phần túi khôn đang chờ cuối con đường?

Chẳng có câu trả lời dễ dàng nào chờ đợi độc giả của Sanshiro, cuốn tiểu thuyết chỉ chứa đựng những chỉ dẫn mơ hồ nhất của bí ẩn. Nhân vật chính chẳng có mấy dấu hiệu sẵn sàng đối đầu với một ai hay giành lấy thứ gì đó về tay mình. Thực sự, anh ta vẫn chưa rõ ngoài kia có gì để mình giành lấy. Biến một người như thế thành một anh hùng huyền thoại thực sự bất khả. Về mặt này, Sanshiro khá khác biệt với tiêu biểu của thể loại bildungsroman của văn học châu Âu đương đại, trong đó một nam/nữ thanh niên tầm tuổi Sanshiro từ tỉnh lẻ, còn ngây thơ – đối mặt với rất nhiều trở ngại, chịu đựng nhiều tổn thương và thất bại, thiết lập được những giá trị tinh thần và tình cảm mới, trưởng thành và vượt qua cánh cổng bước vào một xã hội rộng lớn hơn, giờ đây đã là một “công dân” đủ lông cánh, như trong Jean-Christophe của Romain Rolland, hay L’Éducation Sentimentale của Flaubert.

So với những tiểu thuyết này, quá trình trưởng thành của Sanshiro không đều đặn liên tục mấy. Cậu vấp ngã, cậu vỡ mộng, nhưng dù chuyện không xảy đến như cậu đã kỳ vọng, câu chuyện không bao giờ nói rõ liệu chừng ấy trải nghiệm có tích tụ lại mà đánh gục Sanshiro, hay, vạch ra một tiêu chuẩn rõ ràng đâu là định nghĩa “gục ngã” trong tâm trí của Sanshiro. Đối mặt với tình huống trước mắt mình, nếm trải những khổ đau nó mang lại, yêu cầu một câu trả lời từ nó: những điều ấy hoàn toàn không có ở Sanshiro. Khi chuyện không lường trước xảy đến, Sanshiro đơn giản chỉ cảm thấy ngạc nhiên, cảm động, bối rối hay ấn tượng.

Ở Tokyo, Sanshiro gặp lại Giáo sư Hirota, người anh tình cờ gặp trên tàu, và bắt đầu xem ông ấy là thầy. Không có nhiều dấu hiệu chuyện Sanshiro thấy được một phương pháp để học điều gì đó quan trọng từ người thầy đã dẫn dắt cậu vào một cuộc đời đẳng cấp hơn. Cậu chỉ đơn giản quan sát Giáo sư như quan sát một đám mây kỳ vĩ trôi ngang bầu trời. Cậu cũng làm tương tự với vòng tròn quan hệ bé nhỏ của mình, nhìn họ như những đám mây đẹp đẽ và thú vị. Cậu có chút gì hướng theo lối sống của Giáo sư, nhưng chẳng bao giờ cậu xem đó là tấm gương để noi theo. Cậu rơi vào lưới tình với một trong số những cô bạn đồng trang lứa, Mineko xinh đẹp và thông minh (cô có vẻ bị thu hút bởi vẻ ngây thơ tột độ của Sanshiro), nhưng chẳng chút nào chủ động kéo cô về thành của mình. Cả về đời sống tinh thần lẫn tình ái, cậu luôn giữ mình trong một giới hạn an toàn. Không lần nào cậu buộc mình vào với lý trí.

Có thể Sanshiro ấp ủ quá ít khát khao trưởng thành của một người trẻ, hay cậu chẳng có chút khái niệm gì về điều làm nên một “công dân”. Từ quan điểm Tây phương, biểu hiện của cậu có lẽ quá thiếu chín chắn và vô trách nhiệm, cả trên phương diện cá nhân lẫn xã hội. Cậu đã hai mươi hai tuổi (và hai mươi ba theo tuổi Nhật), và là một sinh viên tại Đại học hoàng gia Tokyo dưới thời Minh Trị, cậu thuộc vào tầng lớp tinh hoa, sẽ góp phần gánh vác những trọng trách quốc gia. Làm thế nào một nhân vật như thế có thể khoanh tay đứng đó, thiếu chính kiến, không thể tự chọn hướng đi đời mình? Nếu một bạn đọc nước ngoài hỏi tôi câu ấy, tôi có lẽ không thể trả lời gì ngoài, “Có lẽ anh nói đúng.” Tuy vậy, thật lòng thì, kiểu khoanh tay lãnh đạm với đời gợi nhiều suy tư cả về tư duy lẫn đạo đức trong vỏ bọc xúc cảm mềm mỏng nhất có thể như thế, lạ lùng thay, lại rất thoải mái với tôi và hầu hết độc giả Nhật Bản.

Theo nghĩa này, có thể định nghĩa Sanshiro như một tiểu thuyết về sự lớn lên mà không có trưởng thành. Sanshiro ngây thơ bước chân vào một thế giới mới, và dần người lớn hơn nhờ gặp gỡ những người mới, có những trải nghiệm mới, nhưng chuyện cậu có bao giờ trưởng thành được đến mức bước ra xã hội như một “công dân trưởng thành” theo lối hiểu của người phương Tây vẫn còn là dấu hỏi lớn. Chẳng có tác động ngoại cảnh nào từ xã hội thúc đẩy cậu làm điều ấy, vì xã hội Nhật Bản đã chuyển từ chế độ phong kiến sang quân chủ chuyên chế tồn tại đến Thế chiến thứ hai mà không chứng kiến quá trình trưởng thành của tầng lớp trung lưu. Đây là điều mà tôi cảm thấy rõ rệt.

“Sự hiện đại” Tây hóa theo nghĩa đó chưa bén rễ vào Nhật Bản thời Minh Trị, cũng như đến nay vẫn chưa từng bén rễ. Tốt hay xấu gì thì khái niệm “công dân trưởng thành” không quan trọng với chúng tôi lắm (không ai dám khẳng định thế nào là tốt, xấu). Đây có lẽ chính là lý do Sanshiro đã trở thành một tác phẩm kinh điển bất hủ với người Nhật, luôn thu hút một lượng độc giả ổn định đồng cảm sâu sắc qua hàng năm trời. Tôi khó mà ngăn những suy nghĩ ấy khi đọc cuốn tiểu thuyết.

Là một độc giả chăm chỉ và nhà nghiên cứu xuất sắc văn chương Anh ngữ, Soseki hẳn nắm rõ khái niệm phương Tây bildungsroman, và lối kể chuyện của ông mượt mà đúng chất Jane Austen. Ông sẵn sàng áp dụng cấu trúc tiểu thuyết phương Tây như kiểu mẫu và biến đổi chúng theo cách của riêng mình. Thực tế, với vốn kiến thức vững vàng về cả hai nền văn hóa (phương Tây và Nhật Bản), ông chính là tác giả có thể cho ra một sự kết hợp hoàn hảo: Soseki cực kỳ sành sỏi văn chương Anh ngữ, và vài tác phẩm trong tuyển tập “Trọn bộ tác phẩm” của ông thể hiện trình độ tiếng Anh bậc thầy, nhưng ông cũng viết thơ haiku suốt thời trẻ và được đào tạo bài bản về những tác phẩm Trung Hoa kinh điển.

Kết quả là, trong Sanshiro, bất chấp cấu trúc Tây phương của nó, quan hệ nhân quả đôi khi không rõ ràng, yếu tố hữu hình và siêu hình kết hợp, khẳng định và phủ nhận gần như khó phân biệt. Đây hiển nhiên là lựa chọn có chủ đích của tác giả, và Soseki mượt mà dẫn dắt câu chuyện trong khi vẫn giữ sự mơ hồ căn bản này bằng cách đưa vào tác phẩm của mình khiếu hài hước phức tạp độc đáo, phong cách tự do, lối mô tả chân thực và trên tất cả là sự trung thực giản đơn của nhân vật chính.

Soseki vẫn luôn được biết đến như “nhà văn quốc dân” của Nhật Bản, và tôi sẽ không tranh cãi về danh hiệu này. Dưới dạng tiểu thuyết phương Tây hiện đại, ông đã khéo léo và chính xác chuyển tải nhiều dạng thức và chức năng của tâm thức Nhật Bản ông quan sát được quanh mình, điều mà ngày nay chúng ta dễ dàng nhận thấy. Ông đã làm điều ấy với sự trung thực tột cùng, và do đó, cũng gặt hái thành công tuyệt vời.

Sanshiro là tiểu thuyết duy nhất của Soseki viết về tuổi trưởng thành của một chàng trai trẻ. Một tiểu thuyết có lẽ không đặc biệt quan trọng trong văn nghiệp của ông, nhưng ông đã phải viết ít nhất một tác phẩm như thế. Thực sự mọi tiểu thuyết gia đều có một tác phẩm như thế. Trường hợp của tôi chính là Rừng Na Uy (1987). Tôi không đặc biệt muốn đọc lại nó, hay có mong muốn viết một cuốn tiểu thuyết tương tự, nhưng tôi cảm thấy nếu hoàn thành nó, tôi sẽ tiến được một bước xa hơn, rằng sự tồn tại của tác phẩm đó sẽ tạo nền tảng vững chắc cho những tác phẩm về sau của tôi. Cảm xúc ấy rất quan trọng với tôi, và tôi tưởng tượng (dựa trên kinh nghiệm bản thân) Soseki cũng từng cảm thấy như thế với Sanshiro. Tôi rất nóng lòng muốn thấy phản ứng của độc giả nước ngoài với Soseki – đặc biệt là với Sanshiro – trong bản dịch chính xác và sinh động này. Tôi sẽ rất vui nếu bạn đọc yêu thích cuốn sách. Nó là một cuốn sách yêu thích của tôi, và tôi ngờ rằng chính bạn sẽ thấy, dù bạn đến từ đâu trong thế giới này, tuổi trẻ của bạn thành hình và định hướng ra sao, phong vị đặc biệt của giai đoạn quan trọng trong đời mà ta trải qua ấy đều như nhau.

Hết.

Murakami Haruki

Trần Nguyễn Tâm Anh dịch.
Ảnh trong bài: Tao Đàn

*

Muôn màu của Haruki Murakami





Click to comment

Viết bình luận

Your email address will not be published. Required fields are marked *

Phía sau trang sách

Đời sống thật đẹp, thật buồn nhưng đầy mong manh

Published

on

By

Được Amazon và hàng nghìn độc giả Goodreads bình chọn là cuốn sách hư cấu hay nhất của năm 2022, Ngày mai Ngày mai và Ngày mai nữa từ tác giả Gabrielle Zevin là một bản hùng ca về tình bạn, tình yêu và tuổi trẻ, được viết thông qua những trò chơi điện tử cuốn hút và đầy độc đáo.

Tác phẩm xoay quanh 3 nhân vật chính gồm Sam Masur, Sadie Green và Marx Watanabe. Trong khi Sam và Sadie đã quen biết nhau từ khi rất nhỏ, nhưng vì một hiểu lầm ngờ nghệch từ tuổi ấu thơ mà họ cắt đứt liên hệ và không còn nhìn thấy nhau; thì hơn 10 năm sau, vào một ngày tháng 12 lạnh giá, Sam vô tình nhìn thấy Sadie, từ đó nối lại mối quan hệ xưa. Lúc này họ đã trưởng thành và đang đứng trước cánh cửa cuộc đời. Với sự tham gia của Marx – bạn thân của Sam – cả 3 đã thiết lập nên một đế chế trò chơi điện tử của riêng mình, nhưng cũng từ đó mà những diễn biến tình cảm bắt đầu phức tạp và khó đoán hơn.

Câu chuyện giữa những tri kỷ

Ở đây cảm xúc giữa những tri kỷ đã được nữ tác giả thể hiện một cách đặc biệt. Đó là Sam và Sadie, những đứa trẻ bị tổn thương từ nhỏ, người tìm thấy được những sự ủi an qua người còn lại. Nếu Sam có một cuộc đời không thể tệ hơn: mẹ qua đời từ sớm, lâm vào nghèo túng vì không muốn ông bà ngoại lo, cha bỏ đi, bị phân biệt vì nguồn gốc xuất thân cũng như chân cẳng bị tật… thì Sadie tuy đến từ một gia đình thượng lưu ở khu Beverly Hill xa hoa, thế nhưng ngay từ rất nhỏ cô đã không hưởng được sự trọn vẹn từ cha mẹ mình, bởi người chị Alice bị bệnh ung thư đã cướp hết những sự quan tâm… Bằng sự tình cờ hay một sắp đặt nào đó của số phận, họ đã gặp gỡ và rồi kết nối thông qua các tựa game xưa.

Bìa sách Ngày mai, ngày mai và ngày mai nữa. Ảnh: Bookish

Cho đến một thập kỷ sau, vẫn Sam đau khổ, bị cái chân hành hạ với một tình cảm không thốt thành lời, gặp lại Sadie giờ đang chìm trong một cơn khủng hoảng về mối quan hệ mà cô có với một người đàn ông đã có gia đình… Cả 2 đã cùng nhau thực hiện tựa game Ichigo về một đứa bé rời xa vòng tay cha mẹ ngay từ rất sớm, nhưng đó cũng là một phiên bản khác về 2 người họ - những người đã phải tự mình tìm lối đi riêng trong một thế giới đầy nhẫn tâm và bóng tối. Chính 2 tâm hồn sáng bừng trong đêm đã cứu rỗi nhau và giải thoát nhau, bởi họ hiểu nhất người kia cần gì, và tình cảm ấy cũng là bất khả thốt lên thành lời.

Vì vậy cho đến cuối cùng thì 2 người họ không đến gần hơn cũng không xa hơn, nhưng luôn hiện diện khi người còn lại một khi cần chúng. Bởi lẽ “chính trái tim - đúng hơn là phần ý thức con người thể hiện qua trái tim - mới là điều bí ẩn”, cho nên không phải tình yêu hay là tình bạn, mà chính sợi dây của sự thấu hiểu cũng như đồng cảm đã kết nối họ lại cùng với nhau. Bởi như Sadie đã sớm nhận ra: “Người ta tạo ra mô hình thủy tinh của những thứ đang héo tàn, rồi đem chúng trưng bày trong viện bảo tàng. Nhân loại thật lạ kỳ, nhưng đồng thời thật đẹp đẽ. Mà cũng thật mỏng manh”.

Tác giả Gabrielle Zevin

Cũng chính vì thế mà dẫu cho Sam lỡ mất bao lần xác nhận tình cảm của mình dành cho Sadie, hay cũng đồng thời là phía ngược lại, thì ta luôn biết họ vẫn ở đó và dành cho nhau. Như Sam từng nói: “Chấp nhận chơi với ai đó mang tới rủi ro không nhỏ. Nó đồng nghĩa với cho phép bản thân mở lòng, phơi bày tất cả, chấp nhận bị tổn thương”. Cả 3 con người trong cuốn sách này dù phải trải qua những lần đau khổ cũng như niềm vui, những sự bội phản cũng như trung thành… thế nhưng họ luôn tìm thấy ở nhau một sự an ủi. Đó là tình cảm mà những tri kỷ dành riêng cho nhau, được thử thách qua tuổi trẻ, sự bồng bột, thành công lẫn thất bại, để từ đó mà họ nhận ra mình không chọn nhầm người.

Vì vậy Ngày mai, Ngày mai và Ngày mai nữa là một tác phẩm thật đẹp, thật buồn và đầy mong manh. Bởi tình cảm giữa bộ 3 ấy không phải là thứ mà ai trên cuộc đời này cũng tìm thấy được. Nó ủi an, xoa dịu những độc giả cảm thấy cô đơn trên hành trình của bản thân mình, nhưng cũng đồng thời cho ta sức mạnh và sự an yên để nhìn lại những mối quan hệ bản thân đã có. Có thể mọi thứ ta đã xác lập trong cuộc đời này đã từng có tên, nhưng chính qua cuốn tiểu thuyết, ta lại thấy nó muôn hình muôn vẻ và rất huy hoàng.

Từ giả lập đến đời thực

Và cũng có thể vì lý do này mà tựa sách cũng như cấu trúc đã được xây đắp từ những trò chơi điện tử, bởi một trò hay dẫu là rất khó nhưng rất công bằng, còn cuộc đời thực sẽ luôn bất công. Và cũng bởi chính những sự đẹp đẽ, mong manh và dễ chịu ấy nó khiến người ta muốn sống thêm ngàn lần nữa, để ta sẽ có vô hạn lần tái sinh, vô hạn lần sửa sai và sau ngày mai lại là ngày mai và ngày mai nữa. Nó là vòng lặp sẽ không bao giờ có thể khép lại, bởi khi càng đi ta càng khám phá thêm nhiều điều nữa, bởi không có thất bại nào là vĩnh cửu cả, và chẳng có gì là vĩnh cửu hết.

Một điều không thể phủ nhận là thành công của Ngày mai, Ngày mai và Ngày mai nữa nằm ở chủ đề phổ quát cũng như phương tiện mà chính từ đó nữ tác giả Gabrielle Zevin bám vào rất vững. Đối với thế hệ gen X hoặc gen Y, những trò chơi như Super Mario, Final Fantasy, Donkey Kong… đã là tuổi thơ của bản thân họ. Ở giai đoạn ấy họ có được những người bạn – những cộng sự mà mục tiêu duy nhất là cùng nhau vượt qua vô vàn thách thức cũng như khó khăn mà các trò chơi mang đến. Thông qua điều đó mà phần đông độc giả cũng tìm lại mình, và thấy một mẫu nào đó của chính bản thân trong các nhân vật.


Ngoài ra chủ đề của cuốn tiểu thuyết cũng rất phổ quát, khi nói về tuổi trẻ, tình bạn, tình yêu, hoài bão và sự nỗ lực. Cũng như nhiều tác phẩm của Hanya Yanagihara hay Sally Rooney, ở cuốn sách này, thất bại cùng với thành công luôn song hành nhau, và thế hệ Millennials chính là độ tuổi cảm nhận được mình một cách rõ nhất. Gabrielle Zevin không hồng hóa hay tiến hành làm các nhân vật trở nên hoàn hảo, mà chính sự bất toàn, đầy rẫy khiếm khuyết… khiến cho độc giả cảm thấy chính bản thân họ cũng từng trải qua những giai đoạn ấy.

Ngoài điều đó ra thì tác phẩm này cũng đã đề cập một cách phong phú đến những vận động của xã hội ngoài kia. Đó là một thời của phân biệt chủng tộc, phân biệt giới tính, phân biệt giai cấp. Khi đến gần mốc của ngày hiện tại, ta sẽ lại thấy những chỉ dấu của chiếm dụng văn hóa hay sự phụ thuộc một cách quá mức vào không gian mạng… Ở bất kỳ đâu ta cũng dễ thấy một sự quá khích và thiếu thấu hiểu của chính con người. Nhưng qua rất nhiều nhân vật đã sống cùng nhau một đời trọn vẹn, mà những mất mát và thiếu sót này cũng được lấp đầy, để không một ai sẽ phải sống trong một thế giới thực nhưng vẫn mơ về những không gian ảo mà ở nơi đó họ được là mình.

Vì thế có thể nói rằng Ngày mai, Ngày mai và Ngày mai nữa là một cuốn sách dành cho mọi người, nơi người ta có dịp nhìn lại, được luyến nhớ quá khứ cũng như tìm thấy được sự đồng cảm dù là thất bại hay sự thành công của những ngày này. Bằng cách viết nhẹ nhàng, điềm tĩnh, các nhân vật tự mình bộc lộ hoặc cho thấy được những cá tính riêng thông qua góc nhìn của phía đối diện, từ đó mà phía độc giả có dịp khám phá và tự nhìn lại những ngày đã qua, với những con người mà họ đã là một phần đời mình.

Đọc sách hay, gửi ngay bài review cho Bookish.vn

Bạn đọc sách và muốn chia sẻ những cảm nhận, hãy viết review và gửi đến chúng tôi. Bookish.vn có chuyên mục “Phía sau trang sách” – nơi đăng tải review sách do bạn đọc gửi đến email: truyenthong@pnc.com.vn. Bài viết cần gửi kèm ảnh chụp cuốn sách, tên tác giả, số điện thoại.

Trân trọng.
Đọc bài viết

Phía sau trang sách

‘Lập trình hạnh phúc’ để sống tích cực

Published

on

Sách nêu nhiều phương pháp dễ thực hành để phát triển cảm giác cân bằng, ổn định, nhận thức giá trị bản thân và đạt được sự bình an nội tâm.

Tiến sĩ Rick Hanson là nhà tâm lý học, thành viên cao cấp của Trung tâm Khoa học Greater Good, thuộc Đại học California, Berkeley, Mỹ. Ông từng diễn thuyết tại NASA, Google, Oxford, Harvard, và giảng dạy tại các trung tâm thiền định trên toàn thế giới.

Các cuốn sách NeurodharmaResilientBuddha’s BrainJust One ThingMother Nurture của ông đã được xuất bản bằng 29 ngôn ngữ, với 900.000 bản tiếng Anh. Một trong số những tựa sách nổi bật của ông không thể không nhắc đến Hardwiring Happiness (Lập trình hạnh phúc).

Dựa trên nền tảng khoa học về bộ não, tiến sĩ Rick Hanson - tác giả có lượng sách bán chạy nhất New York Times - đã viết tác phẩm thiết thực với nhiều phương pháp dễ thực hành để phát triển cảm giác cân bằng, ổn định, nhận thức giá trị bản thân và đạt được sự bình an nội tâm.

Bìa sách Lập trình hạnh phúc, tác giả Rick Hanson, Ph.D.

Sức mạnh nội tại chúng ta cần để có thể sống khỏe mạnh, đương đầu nghịch cảnh và thành công được xây dựng từ cấu trúc não bộ.

Trong quá trình tiến hóa, não bộ buộc phải tự hình thành cơ chế phòng vệ để thích nghi, khiến nó trở thành cái băng dính đối với trải nghiệm xấu nhưng lại trở nên trơ lì với trải nghiệm tích cực.

Dần dần, điều đó khiến chúng ta cảm thấy lo lắng, buồn bực và dẫn tới sức khỏe thể chất và tinh thần bị kiệt quệ không cần thiết.

“Tôi sẽ chỉ cho bạn cách biến khoảnh khắc tốt đẹp thành một bộ não vĩ đại, tin tưởng vào giá trị bản thân và cảm giác được quan tâm. Đây chẳng phải những giây phút đáng giá triệu đô gì cả. Chỉ đơn giản là cảm giác dễ chịu khi mặc vào chiếc áo len ưa thích, thưởng thức một tách cà phê, cảm nhận sự ấm áp từ người bạn, hài lòng sau khi hoàn thành một nhiệm vụ, hay là cảm nhận được tình yêu từ người bạn đời”, trích cuốn sách.

Trong nhịp sống hối hả thường nhật, lần cuối cùng bạn ngừng lại chỉ mười giây thôi để cảm nhận và hưởng thụ một vài khoảnh khắc tích cực hiện diện cả trong những ngày điên cuồng nhất là khi nào?

Nếu bạn không nán lại tận hưởng một vài giây và sống với trải nghiệm này, nó sẽ lướt qua như gió lùa qua cây, khoan khoái chốc lát nhưng không để lại chút giá trị gì.

“Vun trồng hạnh phúc là một trong các kỹ năng quan trọng nhất mà một người cần được học. May mắn thay, không khó cho ta biết cách tưới tắm và nuôi dưỡng các hạt mầm quý giá này, những điều đã có sẵn trong ý thức của ta.

Quyển sách này cung cấp các bước thực hành đơn giản và dễ đạt được, giúp ta chạm vào sự bình yên và niềm vui vốn là quyền lợi bẩm sinh của mỗi một con người”, thiền sư Thích Nhất Hạnh viết.

Theo ZNews

Đọc bài viết

Phía sau trang sách

‘Chiến binh Zulu’: Âm mưu muôn trùng

Published

on

By

Đoạt giải Grand Prix danh giá dành cho văn học trinh thám vào năm 2008, cũng như đã được chuyển thể thành phim điện ảnh với sự tham gia của Orlando Bloom, Forest Whitaker… tác phẩm Chiến binh Zulu của nhà văn Pháp - Caryl Férey không chỉ đơn thuần là một tác phẩm điều tra – phá án, mà còn phơi bày hiện trạng nhức nhối của một Nam Phi đầy rẫy chia rẽ.

Trong suốt sự nghiệp của mình, Férey nổi danh với tiểu thuyết đen (roman noir) và có bối cảnh nước ngoài. Vì vậy đặc trưng của Chiến binh Zulu nói riêng và các tác phẩm khác nói chung là sự không khoan nhượng trong mạch truyện, song hành cùng đó là tính thời sự cũng được khai thác cho đến tận cùng. Theo dõi tiểu thuyết, độc giả không chỉ hồi hộp với quá trình suy luận, phá án, mà còn đồng thời có được cơ hội tiếp cận với các bối cảnh cũng như không gian tương đối đặc biệt của đất nước này.


Lấy mốc thời gian những năm đầu tiên của thế kỷ 21 và bối cảnh Nam Phi, tác phẩm xoay quanh một loạt những vụ án mạng diễn ra liên tiếp nhưng có liên hệ mật thiết với nhau. Đó là nạn nhân của loại ma túy được pha chế mới chưa từng biết đến, trong khi các thi thể được tìm thấy không còn vẹn nguyên và khó nhận diện. Trong đó Ali Neuman – cảnh sát trưởng Cape Town và 2 cộng sự Dan Fletcher và Brian Epkeen, đã bước chân vào quá trình khám phá bộ máy đằng sau, từ đó lật mở bí ẩn vẫn còn che giấu. Liệu ai đứng sau những âm mưu này? Và đâu chính là mục đích của loại thuốc mới?

Cốt truyện nghẹt thở

Có thể thấy Férey đã rất thành công trong việc lựa chọn bối cảnh đặc biệt để khai thác. Đó là Nam Phi hậu Apartheid những tưởng vấn nạn phân biệt chủng tộc đã không còn nữa, thế nhưng hóa ra nó vẫn lơ lửng trong bầu không khí bởi những ân oán chưa được giải quyết. Tình trạng “chân trong chân ngoài” của đất nước này là một “cú hích” tương đối đặc biệt, từ đó tạo ra tầng tầng lớp lớp ngụy trang cho những động cơ cũng như mục đích đã được khéo léo giữ lại cho đến sau cùng.

Thế giới nhân vật trong cuốn tiểu thuyết có nhiều lý do để thiết lập nên động cơ của mình. Đó có thể là rất nhiều ẩn ức của người bị hại, khi thế hệ trước chịu nhiều bất công, và sự tồn tại cũng như hiện diện cho đến giờ đây của thế hệ sau chỉ là trả thù. Ali Neuman vốn là cá thể như thế. Khi còn rất nhỏ, anh đã chứng kiến anh trai cũng như bố mình bị sát hại một cách tàn bạo khi họ tham gia vào lực lượng phản đối Apartheid. Từ nỗi đau ấy, anh và mẹ mình đã phải rời bỏ quê cũ, thay đổi họ tên, để sống những ngày tháng tới mà nỗi ám ảnh không thôi bám riết.

Orlando Bloom trong phim chuyển thể

 Đó cũng là người mà sự báo thù mang tính hội nhóm cũng được bắt đầu, khi Uỷ ban Hòa bình và Hòa giải bởi tham nhũng, quan liêu đã không xét xử một cách công bằng những tên tội phạm. Trước tình thế đó, những người đã chịu tổn thương đã tụ họp lại, tự mình giải quyết những món “nợ máu” mà cả chính phủ và nền công chính đã không thực thi. Từ một cá nhân cho đến tập thể, tiếng nói yếu hèn giờ đây nổi dậy, bắt đầu khiến cho Nam Phi dần dần rung chuyển.

Nhưng không chỉ có những cá thể bị dồn nén, mà sự điên cuồng cũng như bạo tàn cũng sẽ đến từ những kẻ thù cũ – những tên đã duy trì chế độ Apartheid khủng khiếp, bỗng chốc thấy mình đã bị phế truất và không hài lòng – tiến hành lên các kế hoạch trả đũa lại một Nam Phi “cất cánh” đi lên. Chính những mũi dùi nói trên đã được Férey sử dụng và đan cài ấn tượng, khiến cho cuốn sách trở nên linh hoạt, phong phú, chồng chéo bí ẩn, và mỗi một chương đều sẽ mang đến những điều mới lạ.

Ngoài những vấn đề có liên quan đến động cơ ngấm ngầm, việc Nam Phi là một đất nước đậm đà bản sắc với nhiều chủng người cũng là một đặc điểm tốt đã được khai thác. Trong đó những phong tục dân gian, những điểm xuyết truyền thống được ông sử dụng đặc biệt ấn tượng. Cũng như Dolores Redondo, Michel Bussi hay những tác giả chủ ý sử dụng bối cảnh, Férey đã biến Chiến binh Zulu thành một tụ điểm của những mâu thuẫn ngày càng phức tạp và không dễ đoán.

Lối viết không khoan nhượng

Được đánh giá là tác phẩm thành công nhất của Caryl Férey, Chiến binh Zulu có nhiều lý do để nó xứng đáng với danh xưng này. Theo đó Férey không chỉ tạo ra motif kinh điển: nạn nhân xuất hiện, cảnh sát điều tra, tội phạm bị bắt; mà ngay tại đây ông đã khuấy động cả mạch truyện lên, để không một ai là an toàn cả. Không chỉ nạn nhân mà người truy tìm công lý cũng không có gì là được đảm bảo, từ đó cốt truyện bắt đầu rối ren để chính độc giả cũng thấy hoang mang khi những rường cột đạo đức và chân lý không còn bền vững.

Nam Phi những năm 2000 không chỉ giằng xé bởi những phe phái với sự trả thù khác nhau, mà còn suy yếu bởi các băng đảng được trang bị vũ khí hạng nặng, bởi những khu vực của người di dân, cũng như dịch AIDS liên tiếp hoành hành… Chính sự biến động trong các khayelitsha - "ngôi nhà mới" - hình mẫu đô thị có sự kiểm soát theo kiểu Nam Phi với trẻ em, người nhập cư và nghèo đói chen chúc sinh sống… đã làm ra một mạng lưới tội phạm phức tạp, từ gốc đến ngọn. Như vậy từ một vụ án giết người liên hoàn, cuốn sách trở nên hỗn loạn với băng đảng ngầm, nỗi đau lịch sử cũng như là sự nguy hiểm lan tràn khắp nơi. 


Điều này tạo cho tác phẩm một “bộ áo” lớn, khi nó không còn là câu chuyện riêng của một dân tộc, mà có liên kết đến cả thế giới và những nước khác. Điều này gợi nhắc đến một tác phẩm đoạt giải Renaudot khác của Pháp là Vận hành hỗn mang, khi những tội phạm xuyên quốc gia rồi cũng sẽ thành xương sống chính cho toàn tác phẩm. Từ đó có thể thấy rằng theo cả chiều dọc cũng như chiều ngang, Caryl Férey liên tục khai thác được những “điểm nóng”, với những âm mưu và nhiều nhóm người hóa ra có sự liên kết, và không dễ dàng để giải mã được một cách phiến diện.

Tính “noir” trong cuốn tiểu thuyết cũng được thể hiện ở những chi tiết không hề khoan nhượng, về tội ác cũng như hình ảnh mang sức ám ảnh. Férey cũng không thuộc lớp nhà văn bám theo chủ nghĩa nhân vật hay chủ nghĩa anh hùng, khi người tốt chiến thắng, kẻ xấu bị trừng phạt, mà tác phẩm này rất đời, rất thực, khi ai rồi cũng có thể trở thành nạn nhân cho câu chuyện này, và không một ơn gọi nào có thể giúp họ thoát ra theo kiểu cổ tích. Cũng chính điều này là một lý do khiến cho tác phẩm phù hợp với việc chuyển thể, bởi hiệu ứng về mặt hình ảnh và sức ám ảnh là tương đối lớn, đánh mạnh vào trong tâm lý người xem, người đọc.

Tác giả Caryl Férey

Cũng như những khía cạnh khác, yếu tố tình cảm cũng được Férey gửi gắm một cách vừa vặn. Chúng không sến sẩm mà lại làm nền một cách hoàn hảo cho câu chuyện chung và nhân vật chính. Ali và mẹ mình, Dan và vợ Claire, Brian và vợ cũ Ruby hay con trai David… tất cả đều hướng đến một mục đích là bình thường hóa những cảnh sát này. Họ có những niềm đau riêng, có người thất bại trong hôn nhân, có người tin vào những điều tươi sáng… Nhưng khi đã là con người, họ cũng có hỉ nộ ái ố, và cho đến cuối công lý cũng được thực thi, nhưng không phải nhờ bộ máy quan liêu, mà là nỗ lực của từng người một. Nó như một tiếng thở dài cho thấy công lý là một trò đùa, còn sự bất công vẫn còn đầy khắp.

Từ những điều trên có thể thấy rằng bằng cách chọn lựa bối cảnh tương đối đặc biệt, cũng như phương pháp khai thác từ gần đến xa, từng xa đến gần rất nhiều chồng lớp… mà Caryl Férey đã làm nên cuốn tiểu thuyết hấp dẫn, cuốn hút, cũng như mang tính cảnh báo cho ngày hiện tại về một Nam Phi còn nhiều chia rẽ cũng như biến động. Một cuốn trinh thám – tội phạm không nên bỏ qua, mà thông qua đó, ta cũng hiểu thêm về một đất nước và những ẩn giấu nó mang theo mình. 

Đọc bài viết

Cafe sáng