Phía sau trang sách

Đẹp là một nỗi đau: Khi “vùng trũng” đắp bồi

“Đám đàn bà tội nghiệp. Chống lại những nỗi đau không thể tránh khỏi là điều tồi tệ hơn bất cứ cái gì khác.”

Published

on

“Một buổi chiều cuối tuần tháng Ba, Dewi Ayu bước ra khỏi ngôi mộ của bà sau khi đã chết hai mươi mốt năm.

Trên là câu văn mở đầu của Đẹp là một nỗi đau: Ngờ ngợ một điều thân quen, lần ngược mở lại Juan Rulfo và câu mở đầu của nó cũng thế này: “Tôi tới làng Comala vì người ta bảo rằng cha tôi, một Pedro Páramo nào đó, đã từng sống ở đó.” Hai thế giới quan gặp nhau, hai cá tính gặp nhau; kẻ đi ra người đi vào nhưng cả hai đều bắt đầu bằng cái chết; và cũng như nhau, tử khí bắt đầu tỏa ra không gian của hai tiểu thuyết một màu hiện thực kỳ ảo.

*

Văn chương châu Á từ trước đến nay dường như vẫn là đứa con ngoài giá thú của dòng chảy văn chương đương đại. Lật lại những bài điểm cuối năm 2019 về 10 hay 100 cuốn sách hay nhất thập niên vừa qua, thì văn chương từ lục địa này vẫn luôn chiếm thiểu số (kể cả khi đã bao hàm các tác gia gốc Á). Tổng thể là thế, khi nhắc đến văn chương Đông Nam Á, bức màn chỉ càng trở nên mờ nhạt hơn khi luôn gắn với hai từ “vùng trũng”. Thế nhưng với Han Kang hay Eka Kurniawan, việc góp mặt hay chiến thẳng giải Man Booker International vừa qua đã cho thấy dấu hiệu của những khởi sắc tích cực. Và với Đẹp là một nỗi đau, Eka Kurniawan đã phần nào phơi bày được lịch sử Indonesia trải dài hơn 100 năm, mà trong đó chính những ngang trái tình yêu, phụ nữ, đàn bà, nhan sắc… làm nên thời loạn trong một phông nền mới lạ của hiện thực kỳ ảo.

Nhân vật chính của Đẹp là một nỗi đau là Dewi Ayu – cô gái hậu duệ cuối cùng của dòng họ Stampler – thực dân người Hà Lan. Khi Nhật tràn vào trước ngưỡng Đệ nhị thế chiến, cô bị bắt trở thành tù nhân và sau đó thành trò tiêu khiển cho bọn lính Nhật. Lịch sử qua đi và cô chứng kiến từ khi chiến tranh cho đến giải phóng. Dewi Ayu lớn lên trong lòng lịch sử; và đến lượt mình, lịch sử cũng đồng thời cựa dậy trong cô ở nơi âm đạo thiêng liêng. Cũng từ nơi đó, bốn người con gái ra đời, mỗi người đại diện cho một thời đoạn khác nhau khi được tạo tác từ những người cha khác nhau, đại diện cho những giai đoạn thống trị liên tiếp. Đến lượt mình, những cô gái ấy lần lượt kế thừa những khoái lạc ngổn ngang riêng mình và từ trong đó, lịch sử Indonesia hiện lên qua tầng tầng lớp lớp những rẽ nhánh chánh trị âm ỉ, sục sôi, bùng phát và rồi nổ tung.

Điều đầu tiên Eka Kurniawan đã làm rất tốt trong cuốn sách này có thể kể đến là đã tái hiện một cách hoàn hảo lịch sử theo hướng văn chương. Cốt truyện của Đẹp là một nỗi đau dường như không mới. Ta từng bắt gặp Mạc Ngôn trong Phong nhũ phì đồn cũng dùng câu chuyện về người phụ nữ sinh ra đến bảy người con, đến lượt mỗi một người họ tự hiến thân cho người đàn ông cũng là thủ lĩnh một phe chính trị, từ đó dựng lên bối cảnh của vùng Cao Mật chịu xâu xé từ Đức đến Nhật, từ Quốc dân Đảng đến Đảng Cộng Sản.

Nếu Thượng Quan Lỗ Thị sinh bảy người con thông qua những cuộc vụng trộm, thì Dewi Ayu sinh bốn người con từ nơi nhà thổ của má Kulong. Cả hai người họ trở thành mấu chốt của hai cốt truyện. Nếu Lỗ Thị chịu ách phong kiến phải sinh con trai, của chồng vũ phu của mẹ bạc nhược; thì Dewi Ayu là cảnh trở thành tội phạm chiến tranh, tự mình chống cự và rồi buông xuôi thành thứ tiêu khiển cho bọn lính Nhật. Hai người phụ nữ tuy sống cách nhau hai đầu Nam Bắc, thế nhưng ở hai người họ là mối tương quan không thể chối từ của một hạt giống châu Á – nơi phụ nữ rất ít giá trị và phải gồng mình để được tồn tại.

Tiếp tục là khi các cô con gái trở mình lớn lên, và mỗi người họ lại chọn cho mình một con đường riêng. Nếu Thượng Quan Lỗ Thị đã nhìn thấy trước tương lai các con, đã cố thử thách những tên thổ phỉ muốn lấy con mình bằng cách bắt hết số thỏ tưởng như không thể; thì cũng tương tự ở Dewi Ayu, là khi bà biết chính bởi sắc đẹp của chúng rồi sẽ trở thành hiểm nguy. Và khi Lỗ Thị đánh chết mẹ chồng dở dở ương ương để đèo các con vòng tránh chiến tranh; thì cùng lúc đó Dewi Ayu đã quyết định số phận của các con mình. Dễ thấy bà chọn lùi lại không ở gần họ vì không muốn họ lại lầm bước, trở thành nữ nhân tửu quán nơi má Kulong hằng tối bà đến – nơi một trăm bảy mươi hai người đàn ông đã đi vào bà, người già nhất chín mươi, đứa nhỏ nhất mười hai, một tuần sau lễ cắt bao quy đầu của nó.

Thế nhưng cuộc đời không như là mơ. Gia đình tứ tán mặc cho Lỗ Thị ra tay ngăn trở, Dewi Ayu cũng không gì hơn trước sự hoang dại của các con mình. Đến nỗi một câu bà tự ngẫm nghĩ: Đàn ông săn lùng cái ấy của mình, còn mình đẻ ra những đứa con gái săn lùng cái ấy của đàn ông. Cũng chính trong những ngã rẽ cuộc đời ấy, lịch sử của một Trung Quốc hay Indonesia đã được dựng lên vô cùng đậm màu. Nhưng cũng từ đây, hai người tỏa ra hai hướng khác nhau. Nếu Mạc Ngôn tiếp cận lịch sử chỉ theo cái nghĩa trực quan, thì Eka Kurniawan gắn kết lịch sử theo câu chuyện tình một cách văn chương đậm đặc huê tình.

Dễ thấy Phong nhũ phì đồn nhìn chung là một câu chuyện phản ánh lịch sử thông qua số phận của người đàn bà; thế nhưng với Đẹp là một nỗi đau, Eka Kurniawan đã khai thác được nhiều hơn thế. Có lẽ là điều dễ hiểu bởi những đặc trưng nơi quê nhà họ: Mạc Ngôn vốn bản thân là thành viên của Hội nhà văn Trung Quốc; ngay cả Phong nhũ phì đồn đắp chăn lên bờ xuống ruộng rất lâu mới được xuất bản thì việc không chứa một tính cá nhân nào âu cũng dễ đoán. Trong khi với Eka Kurniawan và thời đại của anh, tự do là cốt tử. Ở đây ta thấy, Phong nhũ phì đồn ẩn chứa trong mình sức mạnh của một dòng nước, nhưng bởi kiểm duyệt cũng như ngưỡng cửa hẹp của yếu tố chính trị, nó như đang bị bóp chẹt ở ngay đầu ra.

Tình yêu, phụ nữ, nhan sắc, tính dục… những yếu tố đậm chất huê tình làm nên Đẹp là một nỗi đau vừa huy hoàng lịch sử như thế, nhưng cũng riêng tư một bờ một cõi. Kết quả của bốn mối tình không hơn gì khác hai chữ “sầu muộn” để rồi trở thành mấu chốt cho nền lịch sử. Alamanda vì những khờ dại phải cưới Sodancho – người cô không yêu, kẻ đã cưỡng hiếp vợ mình đến mức cô chỉ mang thai một khối khí rỗng: Mất một đứa con còn kinh khủng hơn gặp một con quỷ, nhưng dành tình yêu của tôi cho ông còn kinh khủng hơn mất hai mươi đứa con. Trong khi đó, Adinda – cô gái đến với Kliwon không có gì hơn một sự thương hại. Còn với Maya Dewi, cô con gái út được Dewi Ayu quyết định gả đi khi chỉ 12 để ngừa tai họa, với lí lẽ rằng Chó lấy nhau lúc hai tuổi còn gà lấy nhau lúc tám tháng.

Eka Kurniawan bằng những yếu tố vô cùng châu Á – quan hệ huyết thống, bối cảnh lịch sử, yếu tố dân gian – đã xây nên Đẹp là một nỗi đau như một tinh cầu ẩn chứa tình yêu. Ở đó có đủ mọi thứ, từ nhan sắc cho đến xấu xí, từ tự hiến dâng đến căm hờn, từ yêu mãnh liệt đến những bội phản… cả một vũ trụ sắc thái tình yêu được anh dệt nên trong cuốn sách này, để rồi qua đó, tình yêu – khoái lạc không hơn gì khác con dao hai lưỡi: nó đưa người ta đến những đê mê nhưng cũng đồng thời dìm những người họ xuống vũng đau khổ. Và đẹp, như ba đứa con đầu, sẽ luôn đi cùng là những nỗi đau. Nhưng còn xấu xí? – Cũng không khác mấy. Đến cuối rồi thì chẳng phải sắc đẹp, mà chính tình yêu làm nên nỗi đau, một niềm dai dẳng.

*

Tình yêu trong nền lịch sử là hai mắt xích vô cùng phổ biến trong văn châu Á, và với Eka Kurniawan anh không đơn thuần chỉ dừng ở đấy. Nếu điểm đặc biệt thứ nhất là bối cảnh lịch sử diễn ra nơi âm hộ của tình yêu, thì điểm thứ hai – sáng nhất (nếu được gọi thế) – nằm trong một phong cách viết vô cùng mới lạ. Hiện thực kỳ ảo rõ ràng không phải là mới trong văn chương thế giới, nhưng với Đẹp là một nỗi đau, anh đã căn chỉnh hài hòa giữa cái kỳ ảo và chuyện tâm linh phảng phất Á Đông, làm nên những nét cân đối cho cuốn sách này.

Từ việc Dewi Ayu trở về từ mộ của bà sau ngần ấy năm đến việc Alamanda mang thai một khối không khí, từ chuyện công chúa mang thai với chó đến chuyện gọi hồn những jailangkung; Eka Kurniawan đã cho ta thấy những nét sáng tạo trong từng tình tiết. Một chút Márquez, một chút Latin; dường như anh đã chuyển dời ngôi làng Macondo nơi ấy trở thành vương quốc bất khả xâm nhập Halimunda, nơi câu chuyện nghiệt ngã kéo dài đến bảy đời người. Nếu Mạc Ngôn từng dùng hình tượng mông – vú khái quát lên đỉnh tâm tưởng trong đầu Kim Đồng; thì bằng tình yêu, bội phản, cái chết và những niềm đau; Eka Kurniawan đã xây nên một câu chuyện vô cùng bảng lảng và kỳ lạ. Ở đó tình yêu, khoái lạc, niềm đau, cái chết cách nhau rất gần, gần hơn rất nhiều những gì ta tưởng.

Nói thế không có nghĩa Đẹp là một nỗi đau không có điểm yếu. Thứ nhất về việc xây dựng hình tượng. Dewi Ayu dường như vô cùng phổ quát theo một motif các nhân vật chính của văn châu Á – đẹp, mạnh mẽ, tận hưởng khoái lạc, đấu tranh một cách không ngừng… Cô có tất cả những gì Chúa có: hoàn hảo, siêu thực, văn chương đến vô nghĩa lý. Thứ hai, Eka Kurniawan dường như nhồi nhét quá nhiều trong một cốt truyện dày đặc nhân vật trong suốt khoảng dài của nền lịch sử. Dẫu cho câu chuyện của anh với những dường dây vô cùng logic, thế nhưng với một mật độ quá dày không hề cân xứng, Đẹp là một nỗi đau dường như phơi ra một sự cố sức trong việc cân chỉnh nội dung – ngôn từ. Thế nhưng nhìn chung, vượt lên trên hết những điều quen thuộc, Đẹp là một nỗi đau xứng đáng là một tiểu thuyết rất đáng thử qua, và nhất là khi đã được bảo chứng bởi nhãn giải thưởng vô cùng uy tín.

Khép lại Đẹp là một nỗi đau, những phông nền lịch sử được viết ra trong ảnh hưởng của một Márquez vẫn còn ngồn ngộn âm vang trong này. Không ngoa khi nói một ngày nào đó khi bừng tỉnh dậy từ dưới nắm mồ như Dewi Ayu, đại văn hào người Colombia chắc sẽ ngạc nhiên khi biết ngôi làng Macondo của mình cuối cùng cũng đã sinh con đẻ cái, và một trong những hậu duệ lại ở Halimunda – nơi đất nước vạn đảo mà nền văn học từ lâu được xem như là vùng trũng – giống nhau, na ná, nhan nhản và đôi khi là quá mỏi mệt.

Hết.

Ngô Thuận Phát

Xem tất cả những bài viết của Ngô Thuật Phát tại đây.


Bài viết có liên quan

Click to comment

Viết bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Phía sau trang sách

Nắng Tháng Tám: Màn trình diễn ấn tượng của William Faulkner

Published

on

By

Nắng tháng Tám diễn ra ở vùng Nam Mỹ vào những năm 1930 và trung tâm câu chuyện xoay quanh vụ án mưu sát một người phụ nữ tên Joanna Burden, người địa chủ bị hầu hết những người dân trong vùng khinh ghét vì quá khứ gia đình. Thông qua quá trình kể câu chuyện này, bí mật của những nhân vật khác cũng dần được tiết lộ. Truyện được viết với thời gian phi tuyến tính, gợi nhớ đến lối kể truyện truyền miệng, đường dây câu chuyện thường xuyên bị ngắt giữa chừng và những nhân vật khác thay phiên nhau tiếp nối mạch truyện. Các nhân vật đều là những con người bị gạt ra khỏi xã hội. Vì vậy, câu chuyện là cái nhìn về xã hội từ ngoài rìa của những con người không còn thuộc về nó nữa.

Tiểu thuyết chia làm ba đường dây câu chuyện riêng biệt, cuối cùng tất cả đều liên kết nhau bằng kết thúc bùng nổ với bạo lực. Một phong cách rất Faulkner. Nhưng khác với những tiểu thuyết khác viết theo phong cách này ở chỗ: cuối cùng nhân vật chính trong mỗi câu chuyện thường gặp nhau thì Faulkner lại không bao giờ tạo ra một cảnh chung có cả Christmas và Lena – hai trong số ba nhân vật chính. Mặc dù dường như họ được kết nối với nhau một cách vô hình: có thể Chirstmas vừa là hóa thân ẩn dụ cho người cha của đứa trẻ trong bụng Lena, đồng thời lại chính là đứa trẻ đó. Đứa trẻ là câu trả lời của Faulkner cho định mệnh tàn bạo không thể tránh khỏi đã nguyền rủa vùng đất phía Nam ấy. Chẳng có lối thoát nào cho những tổn thương quá khứ ngoài việc tự tạo nên những mầm hi vọng mới. Và Faulkner để cho chúng ta tìm ra điều ấy ở đứa trẻ của Lena.

Ở Nắng tháng Tám, Faulkner đã cho thấy một thế giới có chuẩn mực xã hội quá khắt khe, thiếu linh động, bảo thủ và con người phải chịu đựng bằng cách vờ như khuất phục khối bêtông hiện thực của ngoại giới, của những sự việc dường như chẳng liên quan đến họ. Đó là một thế giới chẳng có gì thích ứng với nhau, chẳng có điều gì kết nối, và Faulkner cũng không cố gắng tìm ra sự kết nối. Ông chỉ trộn lẫn chúng vào nhau trong hệ thống câu chuyện của mình để chúng ta cảm nhận những nghịch lí đó.

Nhận xét của báo chí thế giới

Nói rằng Nắng tháng Tám là một màn trình diễn ấn tượng thật chẳng phải là nói quá chút nào… Faulkner không chỉ tích hợp trong cuốn sách này thứ văn phong quyến rũ của sức mạnh và cái đẹp: ông còn cho phép một vài nhân vật của mình, nếu không phải là nhân vật chính, thỉnh thoảng được quyền hành động vô cớ, nằm ngoài những khuôn mẫu xã hội… Nghĩa là, Faulkner tự cho mình lí lẽ và sự thương cảm đối với hệ thống trong thế giới của ông.

J. Donald Adams | New York Times

Quyển sách như rực lửa với sự phẫn nộ dữ dội trước bạo lực, sự ngu ngốc và lòng kiêu hãnh – một quyển sách tuyệt vời.

Spectator

Faulkner có một sức sáng tạo không mệt mỏi, trí tưởng tượng phong phú, và ông thường viết như một thiên thần.

Arnold Bennett

Kodaki
dịch và tổng hợp từ nhiều nguồn

Đọc bài viết

Phía sau trang sách

Tình miệt thứ trong phù sa câu chữ

Published

on

By

Tập truyện ngắn này bao gồm những truyện mà tôi thích. Khi tập hợp để in thành sách, tôi ngồi lựa chọn lại thật kỹ càng, bởi tôi mong muốn trao gởi đi những điều trân quý nhất của mình dành cho độc giả, như một lời tri ân cho những người đã ưu ái đồng hành cùng văn chương của mình.

12 truyện ngắn này là những câu chuyện của miệt đồng bưng chín nhánh sông mà đâu đó trong cuộc đời chúng ta vẫn thường bắt gặp. Xoay quanh những câu chuyện là chữ “tình”. Tôi vẫn thường nghĩ, con người ta trong cuộc đời này chẳng ai thoát khỏi được chữ tình. Chữ tình quấn lấy chúng ta, dắt dìu chúng ta đi qua nỗi buồn, dẫn chúng ta chạm đến niềm vui. Chữ tình khiến chúng ta đắng đót với niềm đau nhưng cũng chính cái chữ tình đó lại là nỗi thương để chúng ta bám víu vào mà sống hết đoạn đời phù sinh thế thái này.

Người viết vì tình mà viết. Người đọc vì tình mà buồn vui theo từng con chữ, xa xót theo từng phận đời, và hả hê với điều thiện lành được hồi đáp sau bao đoạn trường trầm luân.

Có một lần ngồi trên chuyến phà đêm Châu Giang, tôi chợt nghĩ mình chỉ là một dòng phù sa của muôn triệu dòng phù sa đang chảy tràn khắp miệt đồng bưng châu thổ. Tôi đem đến những điều dung dị, chất phác và hào sảng như là bản tính vốn dĩ của người Cửu Long đã ăn sâu vào gốc rễ nội tâm và căn cơ chính mình.

Có bận tôi về Đồng Tháp, ghé cái chợ quê mà hồi nhỏ hay để dành năm trăm, một ngàn để mua dăm ba thứ bánh quê, tôi ngồi sụp xuống và lựa chục loại rồi hí hửng xách lên chạy về khoe với mấy cậu mấy dì. Tôi chẳng thể ăn hết được mớ bánh hôm đó, nhưng vui lạ lùng. Thể như tôi tìm thấy chính mình sau những đãi bôi thị thành. Tôi thấy niềm vui của mình sao giản đơn đến lạ! Hóa ra mỏi gót điêu linh nơi phố xá hào nhoáng thì cái gốc rạ chân quê vẫn là thứ mà tâm tưởng chính tôi luôn hoài vọng.

Có lẽ, dấu chân tôi chưa đi hết nổi dải đất bạt ngàn phù sa miền Tây, đôi tai chưa nghe hết chuyện hào sảng xứ này, đôi mắt chưa thể tận tường hết những thứ đẹp đẽ của sóng nước bưng biền, hay thâm tâm chưa thể trọn vẹn thấu hiểu hết vùng châu thổ, nhưng tôi vẫn luôn thích viết về xứ này. Cái xứ gì mà hổng hết chuyện để viết. Có lần tôi nói vậy với một bạn văn phía Bắc. Bạn nói, thì cứ viết đi, viết đến cạn cùng cuộc đời, chưa chắc viết hết trọn một vùng đất. Bởi đất ôm cả đời người. Người ta sống thác gì đó, gieo neo dâu bể thế nào thì cũng về với đất quê xứ mình mà thôi!

Vậy nên, tôi cứ viết hoài về miền đất này, ngõ hầu đem đến cho độc giả của mình cái “tình” miệt thứ, cái “thương” đồng bưng. Càng viết tôi lại càng thấy mình như mắc nợ vào sóng nước phù sa câu chữ. Viết hoài hổng hết. Viết hoài vẫn cứ muốn viết.

Viết và gởi đến độc giả đã thương yêu câu chữ của mình, cũng như nếu một ai đó hữu duyên cầm trên tay cuốn sách nhỏ này, thì mời bạn một lần lắng lòng lại, lật từng trang sách, nghe tôi kể chuyện buồn miệt thứ. Nhưng mà, người miệt thứ buồn đó rồi lại vui đó, như sóng nước xứ này vơi rồi lại đầy, như phù sa châu thổ muôn đời vẫn dâng người những mùa màng tốt tươi.

Tống Phước Bảo

Đọc bài viết

Phía sau trang sách

Hồ: Một nỗi buồn điềm tĩnh và dịu dàng

Published

on

By

Tiểu thuyết Hồ của Banana Yoshimoto viết về những nỗi đau, những mất mát của con người và cách họ vượt qua nó. Các nhân vật trong Hồ như Chihiro, Nakajima, Mino, Chii… đều có những thương tổn sâu sắc trong quá khứ. Với đề tài như thế, câu chuyện sẽ dễ sa đà vào nhiều trường đoạn cảm xúc nặng nề nhưng Banana vẫn luôn giữ được sự điềm tĩnh, dịu dàng trong văn phong giống như ở những tác phẩm trước đây đã quen thuộc với bạn đọc Việt Nam như: Kitchen, Vĩnh biệt Tugumi, N.P…

Hồ được Banana lấy cảm hứng từ câu chuyện của giáo phái Aum Shinrikyo. Độc giả có thể nhận thấy mô hình công xã mà Nakajima sống ngày còn nhỏ phần nào tương tự với mô hình của giáo phái này. Aum Shinrikyo cũng xuất hiện trong tác phẩm 1Q84 của Murakami Haruki dưới hình thức hư cấu. Qua đó, người đọc thấy được sự khác biệt trong cách khai thác cùng một chủ đề của hai nhà văn. Nếu như trong 1Q84, Haruki đề cập nhiều đến những tác động chính trị – xã hội xoay quanh mô hình phi nhân của Aum thì ở Hồ, Banana chọn một góc nhỏ để viết về hậu chấn tinh thần của những đứa trẻ khi phải chịu sự giáo dục tẩy não trong một cộng đồng không đề cao cái tôi cá nhân. Và chi tiết mà Banana chọn để khắc họa nỗi đau của những đứa trẻ ấy khi lớn lên vừa đơn giản, vừa ám ảnh: Nakajima kẹp vỉ nướng bánh dày vào nách khi ngủ mỗi lần “cảm thấy sắp mơ phải cái gì đáng sợ” bởi đó là vật mà mẹ cậu rất quí; Chii mãi chìm đắm trong những giấc ngủ; Mino sống lặng lẽ từng ngày và đôi khi truyền hộ thông điệp mà người em gái say ngủ muốn nói cho người khác…

Nỗi buồn của các nhân vật dù được Banana viết ra thật nhẹ nhàng nhưng không vì thế mà người đọc có cảm giác hời hợt. Bởi vì, cái đau của họ không phải là cái đau của một người vừa qua cơn khủng hoảng tâm lí, vẫn chưa hết bàng hoàng và không thể chấp nhận hiện thực. Ngược lại, họ tự tách mình ra khỏi chính bản thân mình, đứng ở một nơi xa để ngắm nhìn nỗi đau của mình, chịu đựng nó, chấp nhận nó. Đó là cách để họ vừa giữ lại những kỉ niệm tươi đẹp trong quá khứ, vừa giữ lại nỗi buồn đã tiềm ẩn trong kí ức ấm áp ấy.

Đọc bài viết

Cafe sáng