Phía sau trang sách

Kẻ ly hương: Mã vạch H4

“Nhà nước đã có từ trước khi ta sinh ra, ta hoàn toàn bất lực không thể tiêu hủy Nhà nước. Kẻ nào tự chọn đặt mình ra ngoài Nhà nước là kẻ phi pháp”.
– J.M. Coetzee, Diary of A Bad Year, 2007.

Published

on

Sự thành công của Viet Thanh Nguyen với Người tị nạn, The Sympathizer hay Nothing Ever Dies đã chứng tỏ một điều: vấn đề tị nạn vẫn đang và sẽ luôn là một trong những nhân tố khắc họa nên lịch sử một cách rõ ràng nhất. Ở đó, những nạn dân lặng lẽ gom góp bóng hình mình vào văn chương, hồn ma của họ khuấy động thượng – nghị viện, dấu chân của họ làm nặng nề thêm hậu Brexit. Những nạn dân nói riêng hay kẻ ly hương nói chung vẫn luôn còn đó, họ đứng đấy phơi thân như những bù nhìn canh giữ cánh đồng lịch sử, nhưng tiếc thay, sẽ mãi mãi còn xác không hồn như những vật chất bất di bất dịch ấy, hoặc là biến mất mãi mãi. Và với Kẻ ly hương, thêm một lần nữa ta được bắt gặp từng mặt người một được vẽ nên bởi lớp da thiên di – cánh chim bay hoài mải miết hướng đến địa ngục khôn cùng.

Họ là những ai?

Nếu Người tị nạn của Viet Thanh Nguyen là phát súng đầu tiên cho ta thấy rõ những người tị nạn thật sự là ai, họ trốn chạy điều gì và thứ gì đang chờ đón họ; thì với riêng Kẻ ly hương, tập tiểu luận này là một góc nhìn đa chiều, xoáy sâu hơn bằng câu chuyện của những chứng nhân lịch sử mà những diễn biến hằn sâu trong đôi mắt họ, ký ức lưu lại mãi mãi như những sang chấn tâm lý không thể khôi phục. Người tị nan được viết như một tuyển tập truyện ngắn mà trong đó những sự thật lịch sử phần nào được thi vị hóa trong lớp nền văn chương, hơn thế nữa, dù đã cố gắng xoay chuyển góc nhìn ở nhiều nhân vật khác nhau: khi là nạn nhân, khi là người dang tay che chở; thì nó cũng không thoát khỏi gót chân Asin – sự độc diễn của riêng tác giả. Thiên di có năm bảy loại, và tình cảnh ly hương còn nhiều hơn thế. Dễ hiểu ly hương bao hàm tị nạn, và với sự đa dạng của nhiều góc nhìn, nhiều câu chuyện; Kẻ ly hương thật sự là một tác phẩm khá toàn diện về những con người lạc loài tìm miền đất mới.

Tị nạn đơn thuần là sự chạy trốn chiến tranh, chạy trốn mâu thuẫn lên cao giữa những thể chế chính trị cả trong hay ngoài đất nước; nhưng ly hương còn nhiều hơn thế. Nó có thể là sự chạy trốn về mặt kinh tế, tôn giáo, xã hội; hay cả gần đây, về mặt giáo dục. Những câu chuyện ly hương không chỉ đơn thuần là những cảnh ngộ vượt quá sức chịu đựng, mà hơn thế nữa, nó còn là câu chuyện đằng sau quá trình thiên di địa lý, là sự chấp nhận hay kháng cự, là cách họ bị đối xử, đứng lên, làm lại chính mình; là cách người bản xứ đối diện với họ, hoặc như con người hoặc những bóng ma,… Nhiều góc nhìn, nhiều chủ đề được đưa ra bàn luận như một hội nghị bàn tròn, mà ở đó cuốn sách như biên bản cuối cùng được kể lại để mãi mãi lưu vào lịch sử. Và hãy tin rằng, một khi dũng cảm để đọc hết nó, bạn cũng đồng thời góp phần mình vào chính những trang sử ấy.

Họ đã làm gì?

Lev Golinkin trong câu chuyện của mình đã viết những dòng sau đây: “Trở thành người tị nạn là một quá trình phai màu, chuyển tiếp từ từ sang dạng thức tồn tại như một bóng ma […] Trở thành một người tị nạn là bất lực đứng nhìn những mỏ neo bị dứt đứt, từng cái một, cho đến khi bạn lửng lơ bồng bềnh trên bề mặt xã hội, một bóng ma vất vưởng cần lắm một đời sống mới”. Ở đó, sau hậu chấn rời bỏ quê nhà, lênh đênh trên những con thuyền hoặc thót tim trên những chuyến tàu nối dài đông đúc; họ phải đối mặt với nỗi luyến nhớ những gì bỏ đi, hoặc thương tiếc, hoặc cam chịu quay đi. Có thể nói, nỗi đau trên những hành trình thiên di chỉ như cái đau thể xác: họ có thể đói, khát, bị cướp bóc, hãm hiếp, hoặc thậm chí bị giết chết; nhưng tất cả những thử đó chỉ như bên ngoài; sâu xa hơn, ở chính đằng sau, cái gậm nhấm tinh thần họ từng ngày như bầy chuột lang nhung nhúc trên da thịt người chính là quê hương, nguồn cội, là bản lai diện mục, là những đứa con người cháu, ông bố bà mẹ,… tất cả những quần thể xa xôi, những bóng ma quá vãng, là thứ khiến họ cắn rứt, dù lực bất tòng tâm hay có một phương cách nào, dù ít dù nhiều, đều là những vết khoét sâu mãi mãi không hàn gắn được.

Ở đó có câu chuyện của người cha để lại con mình vì sự an toàn để rồi sau đó tình cảm gắn kết giữa họ rạn nứt mãi mãi (Reyna Grande), có người ông dù đã men bờ vực thẳm vẫn gắng sức vượt Afganistan sang Ấn Độ vì con gái (Joseph Azam), có người mẹ vì muốn gia đình đoàn tụ phải chịu cô độc giữa nước Đức giá rét không một ai (Meron Hadero) hay vì nội chiến mà người đàn bà nản lòng bỏ hết những niềm vui sống (Rosa Tshuma),… và còn nhiều nữa. Họ như cùng chung số mệnh – số mệnh của cách xa, chia ly, đổ vỡ; của lầy lội trong vũng bùn liệu có được là người. Không đơn thuần thế, trong chính nỗi đau thân thể hay tinh thần ấy, họ đồng thời phải chịu đựng chính sự khinh bỉ, dò xét của người bản xứ. Nó như nhát dao càng khoét sâu hơn vào trong tâm khảm họ, như thể, họ tự cảm nhận, bản thân là một cơ quan nội tạng bị chính cơ thể rộng lớn – nhân đạo – đào thải. Không nhà, không cửa, không quê hương, thân thích,… tất cả như những mũi neo đứt lìa bản thân họ ra khỏi bến bờ thân quen, vươn ra đại dương của những bất an cùng những bảo tố đang chờ phía trước.

Họ thấy thế nào?

Bằng nhiều giọng văn khi hài hước, oán hận; khi điềm tĩnh, nản lòng; những mảnh ghép trong cuốn sách này dần dần định hình thế giới mà chúng ta sống. Trở thành một kẻ ly hương là chấp nhận mất tất cả làm lại từ đầu, nhưng cũng đồng thời, là những dè bỉu, khinh khi: “Chúng tôi bị phán xét như một giống loài suy đồi, những tên đạo tặc, sát nhân, hãm hiếp, và bán ma túy đang làm nhiễm độc linh hồn Nam Phi”. Họ luôn trong trạng thái cúi mặt nhìn xuống tìm từng đồng xu lẻ vì có lý gì đâu mà ngẩng đầu nhìn lên như Viet Thanh Nguyen viết, hay luôn phải hàm chứa trong mình một sự biết ơn khó tả – biết ơn vì căn nhà, lẽ sống, vì lòng nhân đạo dang tay giúp đỡ. Họ biết ơn nhưng sẽ không bao giờ trả lại được loại tình nghĩa đó. Như loài bất tử cộng sinh vào người tị nạn, nó chiếm lấy lòng tự tôn của họ, dang tay lấy trọn những cố gắng của họ; dù có thành công đến đâu, nên người thế nào, nhưng với tư cách của một nhà văn, dấu gạch nối giữa hai quốc tịch vẫn không thể nào xóa bỏ. “Là những người tị nạn, chúng tôi mắc nợ họ căn cước trước kia của mình. Chúng tôi phải đặt nó trước cửa nhà họ như một tặng phẩm, và hân hoan từ bỏ nó để có được vị trí của chúng tôi trong xứ sở mới này. Không chân trong chân ngoài. Không có nền văn hóa thứ ba ở đây”.

Trong cuốn tiểu luận này, Marina Lewycka – tác giả của Lược sử máy kéo bằng tiếng Ukraina đã đóng góp một bài viết vô cùng sâu sắc về người tị nạn, trong một giọng văn vô cùng bất ngờ. Thay vì phong cách trào phúng châm biếm như cuộc tình 27 72 trong những tác phẩm trước đây, bà thay vào đó một sự nản lòng sâu sắc vì sự thay đổi của nhân tính, của đói nghèo và lòng tham. Bà đi từ nước Anh của những chiếc bánh ngọt hay lời mời ăn tối, sang một nước Anh của khủng hoảng hậu Brexit và sự xoay trục của tư tưởng Trump. Bài xích tị nạn, bài xích di dân hay chủ nghĩa bản địa bài ngoại,… tất cả len lỏi vào đời sống người dân Anh hiện đại như một phương cách đến gần hơn với cuộc rời bỏ EU.

Những người phương Tây hiện đại nhìn người tị nạn bằng con mắt căm thù – hờn căm không phải vì họ làm nhơ bẩn phông nền văn hóa vĩ đại từ lâu, cũng không hẳn vì họ giành lấy cơm ăn áo mặc, chỗ ở, việc làm của cộng đồng mình; mà dễ thấy, vì nỗi tị hiềm. Vì một khao khát đổi thay cuộc đời, người tị nạn hay kẻ ly hương luôn mang trong mình thứ gene chiến thắng thời cuộc, họ học và làm việc gần hết tốc lực. Và chỉ khi câu châm ngôn nước Mỹ bị băng hoại vì sự thờ ơ biếng nhác, thì Donald Trump và “Make American Great Again” mới đủ sức lật ngửa bàn cờ chính trị. Kết lại bằng tiếng thở dài của những tự do dân chủ đã mất; bà viết trong cơn nản lòng: “Có lẽ với tất cả những người như chúng tôi cái gọi là quê hương chân chính chỉ là một khung cảnh điền viên đượm sắc hồng tuổi hoa niên, nơi từ đó chúng tôi đã chia ly biền biệt vào cõi lưu đày”.

Những tín hiệu mới

Khi Donald Trump bước một bước thần kỳ lên cầm quyền và hoạch định kế hoạch xây bức tường ngăn cách với Mexico, và cũng trước khi Barbra Streisand làm một đĩa nhạc đậm tính chính trị mỏng để “diss” vị tân tổng thống này; thì từ sâu xa trước đó có một thực tế là những nhen nhóm đoàn kết văn hóa đã bắt rễ vào sâu trong lòng nước Mỹ. Trump có thể làm mọi thứ: ông ta có tiền, quyền lực, điều hành; và nếu Thượng viện thông qua chính sách này (dù trường hợp ấy chỉ có thể xuất hiện trong những tiểu thuyết viễn tưởng của H.G. Wells, Belyaev hay Čapek), thì có lẽ ông ta cũng không thể ngờ chính sự gắn kết văn hóa đã là một ngáng trở khó thể vượt qua, mà biểu hiện hùng hồn và đơn giản nhất, là trong một siêu thị nước Mỹ. Ariel Dorfman một cách hài hước đã viết nên chính những gắn kết yếu tố Mỹ Latin này. Ông dùng sự đa dạng của một siêu thị, nơi những mặt hàng Mỹ Latin bày bán còn phong phú hơn cả nơi quê nhà, nơi bạn có thể mua đến 18 loại ớt Chile chỉ trong không gian siêu thị. Cũng chính trong không gian nhỏ này, sự luyến nhớ cố hương của họ cộng hưởng cùng nhau làm nên một sức mạnh bất di bất dịch mặc cho quyền lực hay của cải. Dorfman khẳng định: “Lục địa của Juárez và García Márquez và Eva Perón không còn có thể được hiểu là chấm dứt tại Rio Grande mà trải dài mãi tận xứ Mỹ xa xôi phương Bắc”.

Nhưng cũng gần đó, trong bài viết “Quê hương thứ hai”, Joself Kertes đã cho ta thấy một Canada hào sảng mở rộng vòng tay, một đất nước linh hoạt và dễ thích nghi. Cũng như Mỹ thuở ban đầu, Canada không có một lịch sử dân cư rõ ràng, và cũng vì thế, nó dễ chấp nhận một nền văn hóa đa bản sắc. Và những nạn dân hay kẻ trôi dạt chính lại là một trong những mảng màu làm phong phú thêm: họ góp màu da mình vào màu da chung, tiếng nói mình vào tiếng nói chung, và hơn hết, san sẻ ký ức mình thành ký ức chung. Những tín hiệu này đồng thời cho ta thấy vẫn còn đấy những bầu trời tươi sáng, chủ nghĩa bài xích dẫu sao vẫn chưa lan đến những nền dân chủ văn minh.

Kết

Ngô là loài C4, nghĩa là, chúng hấp thụ và khóa nhiều cacbon vào trong phân tử của mình hơn hẳn những loài thực vật C3 khác. Chính đặc điểm này làm nên vai trò chính yếu của nó trong nền công nghiệp thực phẩm hay trong những di chỉ tàn tích hóa thạch, khi đồng vị C13 chiếm một tỉ lệ chính yếu rất dễ nhận thấy; thì song song đó, người tị nạn hay kẻ ly hương cũng là giống loài kì lạ như thế. Nếu người Mexico được gọi là “người ngô” vì sự tôn sùng của họ vào loài cây này; thì mở rộng ra hơn, người Mexico tị nạn nói riêng hay những kẻ ly hương nói chung, họ cũng đồng thời mang trong mình những tính chất rất “ngô”: họ là những con người duy nhất mang trong mình cảm thức đau thương hay nỗi mặc cảm như những đồng vị đặc biệt. Họ hấp thụ nỗi đau nhiều hơn ai hết và làm nên con người mình độc lập như thế. Như Alexandar Hemon viết trong Mệnh trời:“Giản lược họ thành một đám đông vô diện mạo, xóa bỏ những câu chuyện của họ chính là tội ác chống lại loài người và lịch sử”, thì với cuốn sách này, câu chuyện của họ lại một lần nữa tập hợp tại đây như lời gói gọn gửi ra thế giới. Một võ đài của những nỗi niềm tị nạn.

Hết.

Ngô Thuận Phát


Xem tất cả những bài viết của Ngô Thuật Phát tại đây.


Tìm hiểu thêm về tác phẩm Kẻ ly hương


Click to comment

Viết bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Phía sau trang sách

Sách tư liệu báo chí độc đáo từ di cảo của Thu Giang Nguyễn Duy Cần

Published

on

Thu Giang Nguyễn Duy Cần

Thu Giang Nguyễn Duy Cần: Những bài đăng báo và tiểu luận tổng hợp những tư liệu lần đầu tiên được sưu tầm và công bố bên cạnh những di cảo của Nguyễn Duy Cần đã được NXB Trẻ xuất bản những năm vừa qua.

Sách được chia làm hai phần. Phần 1 là những bài viết của học giả Nguyễn Duy Cần với bút danh Thu Giang đăng trên bán nguyệt san Nay năm 1937. 

Tạp chí Nay xuất bản nửa tháng/kỳ với bốn mục chính: Triết học, Khoa học, Y học và Văn chương. Đây là tạp chí đầu tiên do học giả Nguyễn Duy Cần làm giám đốc - tổng biên tập. Từ đây, bút danh Thu Giang gắn liền với cuộc đời nghiên cứu của học giả Nguyễn Duy Cần.

Cuốc sách về học giả Nguyễn Duy Cần vừa được giới thiệu. Ảnh: NXB Trẻ

Ở mục Triết học, Thu Giang trình bày các vấn đề trong"Toàn chân triết luận" (đã được xuất bản) dưới góc độ sâu rộng hơn. Ở mục Y học, ông viết về cách ăn uống đúng quy luật âm dương, khảo cứu về các loại rau củ mang dược tính trong y học cổ truyền.

Mục Khoa học trình bày sự liên quan mật thiết giữa cơ thể con người với sự vận hành của vũ trụ. Nổi trội nhất là mục Văn chương với các bản dịch từ trang văn của Trang tử, Lão Tử sang tiếng Việt. Ngoài ra, Thu Giang còn sáng tác tiểu thuyết đăng nhiều kỳ.

Bán nguyệt san Nay ngoài cây bút chủ lực bút danh Thu Giang còn thu hút được những học giả có uy tín thời đó gửi bài cộng tác như: Sư Thiện Chiếu, họa sĩ Nguyễn Phi Hoanh, Tùng Chi, Phương Thảo…

Nội dung bên trong quyển sách. Ảnh: NXB Trẻ

Phần 2 là tiểu luận "Văn hóa và giáo dục miền Nam Việt Nam đi về đâu?", được tác giả hoàn thành năm 1960. Do bản thảo có nội dung đụng chạm đến đường lối văn hóa và giáo dục của các nha, bộ thuộc chính quyền Ngô Đình Diệm thời điểm đó nên không được xuất bản. 

Mãi 10 năm sau, tập tiểu luận "Văn hóa giáo dục miền Nam Việt Nam đi về đâu?" mới được Nhà xuất bản Nam Hà - Sài Gòn in lần đầu năm 1970.

Trong bản thảo, một số từ ngữ theo lối chính tả xưa được giữ nguyên. Ngoài ra, những từ tác giả cố ý viết chệch đi cũng được giữ nguyên như di cảo.

Về tác giả

Nguyễn Duy Cần (1907-1998) hiệu là Thu Giang, là học giả, nhà văn, nhà biên khảo kỳ cựu giữa thế kỷ XX. Ông viết sách, dạy học, làm lương y, nghiên cứu Đạo học, Kinh dịch.. Ngoài ra, ông còn biết đến với các biệt hiệu như: Hoàng Hạc, Linh Chi, Bảo Quang Tử...

Nguyễn Duy Cần nổi bật không chỉ về lượng tác phẩm đồ sộ mà còn ở độ sâu của học thuật và sức ảnh hưởng về mặt tư tưởng đến các tầng lớp thanh niên trí thức thời bấy giờ.

Đọc bài viết

Phía sau trang sách

Danh ca Elvis Phương ra mắt hồi ký mới, trải lòng nhiều chuyện hậu trường thú vị

Published

on

Ai đó đã từng nói rằng mỗi một nghệ sĩ đối với bản “hit” của mình luôn có những mối lương duyên đặc biệt. Với Elvis Phương điều đó rất đúng, khi suốt đời mình ông đã sống như một "chú ngựa hoang" với những vết thù mà mình mang theo. Hồi ký Dòng đời vừa mới ra mắt không chỉ mang đến những câu chuyện riêng phía sau hậu trường, mà còn cho thấy cả một thời đoạn âm nhạc liên tục thay đổi.

Trải qua gần 60 năm cuộc đời, Elvis Phương là một tượng đài giúp đưa dòng Rock’n’Roll và nhiều cách tân độc đáo vào âm nhạc Việt. Lấy tựa Dòng đời theo tên bài jazz nổi tiếng My Way, nam danh ca đã có những giãi bày riêng qua lời kể chân thành, từ đó tiết lộ rất nhiều câu chuyện, hình ảnh, tư liệu sống động mà trên ánh đèn sân khấu ít người biết đến.

Thời thơ ấu và tiếng gọi của âm nhạc

Được viết theo dòng thời gian từ khi sinh ra đến khi lớn lên, ở những chương đầu, Elvis Phương cho thấy được niềm đam mê âm nhạc ngay từ rất sớm. Như mối lương duyên đã được số phận sắp đặt, đó là việc ông thích phim ảnh và đã xem nhiều thể loại, thế nhưng tác phẩm để lại ấn tượng sâu nhất vẫn là bộ phim cao bồi O’Cangaceiro, nơi tiếng harmonica ở phần cuối phim vẫn luôn đọng lại. Từ chiếc harmonica ấy, ông dần sở hữu những “gia tài” khác, như chiếc radio, máy phát đĩa than, cây guitar bị hỏng dây… và cũng từ đó mà niềm khát khao đối với âm nhạc ngày càng đậm thêm.

Tại đây ông cũng tiết lộ một chuyện ít nhiều buồn thương, khi gia đình đã không ủng hộ ông theo con đường âm nhạc. Trong đó cha ông là người phản đối có phần quyết liệt, bởi tư tưởng cũ “xướng ca vô loài” cũng như mong muốn con mình nối nghiệp thầu khoán. Thế nhưng như một câu nói càng cấm càng làm, đam mê âm nhạc cứ thế lớn lên, cũng kèm theo đó là sự kình chống khó thể giảng hòa giữa ông và thân phụ mình.

Danh ca Elvis Phương hát cùng ban nhạc Vampires. Ảnh: NVCC.

Ông viết: “Tôi chắc chắn được một điều là mình rất mê âm nhạc, nghe tiếng nhạc tôi thấy yêu đời, thấy tâm hồn nhẹ nhõm lâng lâng. Lúc nào, giờ nào tôi cũng có thể nghe được, nhiều lúc còn mang cả radio vào trong toilet để nghe. Tiếng gọi của âm nhạc đến với tôi từ thời thơ ấu, nhìn lại những người thân trong họ hàng chung quanh, tôi nhận thấy mình chẳng hề chịu ảnh hưởng văn nghệ của bất kỳ ai, phải nói tôi nghĩ mình sinh ra đời để được ra phải được hát mà thôi”.

Dẫu vậy ông không hờn giận cha mình, mà khi ngày càng trưởng thành, ông nhận ra đó sẽ trở thành một “kim chỉ nam” để mặc cho sống giữa nhiều cám dỗ trong các vũ trường, những sân khấu ca nhạc… thì ông vẫn giữ được mình sao cho thuần chất. Có thể nói rằng những chia sẻ này là lời riêng tư và cảm xúc nhất mà Elvis Phương viết ra trong cuốn hồi ký, như lời tạ ơn cho vị thân sinh đã đưa "chú ngựa hoang dại" vào trong cánh đồng ca nhạc, dù bằng cách này hay cách khác.

Elvis Phương với Trung Lang Rockin' Star vào năm 1960. Ảnh: NVCC

"Ma lực" của Elvis Presley

Sau đó sẽ là quãng đời chạm ngõ bước vào trình diễn, khi ông gia nhập vào các ban nhạc nổi lên ở thời bấy giờ, từ Rockin’ Star, Les Vampire cho đến Phượng Hoàng cùng hai nhạc sĩ Nguyễn Trung Cang và Lê Hựu Hà. Ở mỗi thời kỳ ông luôn biết cách tạo ra được sự đặc biệt để thu hút khán giả, và cũng phần nào khẳng định “Âm nhạc là mùa Xuân trong tôi, đang nở hoa rực rỡ, không thể nào để cho mùa Đông của sách vở, của văn bằng tận diệt dưới lớp đá băng lạnh lẽo”.

Điểm hay của thể loại hồi ký đó là tuy phản ánh góc nhìn cá nhân, thế nhưng bối cảnh mà nó làm nên thường mang được tính phổ quát khi là ký ức của rất nhiều người. Ở Dòng đời, qua những mô tả của Elvis Phương, lịch sử về sự du nhập âm nhạc cũng được trở lại theo từng thời kỳ phát triển của bản thân ông. Đó là những năm 1959 – 1969 với phong trào nhạc ngoại bắt đầu manh nha và các ban nhạc “kích động” chuyên trình bày nhạc ngoại quốc bắt đầu ra mắt. Cũng vào lúc này mà ông tìm thấy Elvis Presley – một cá tính có “sức lôi cuốn kỳ lạ, như có ma lực ghê gớm lôi kéo tôi vào thế giới của âm thanh đầy huyền hoặc”.

Elvis Phương tại nhà của Elvis Presley. Ảnh: NVCC

Ông cũng kể lại một thời thanh xuân thích sưu tầm những bài ca nước ngoài, chép lại trong một quyển tập được trang trí cẩn thận, với những hình ảnh được cắt từ báo ngoại quốc lúc đó vẫn còn hiếm hoi tại Việt Nam. Elvis Phương tiết lộ để có những hình ảnh ấy thì người ta phải nhờ người nhà ở nước ngoài gửi về, vì phải đến năm 1963 thì mới có các tạp chí ca nhạc Mỹ xuất hiện, khi quân đội Mỹ vào Việt Nam. Thời điểm này cũng đã đánh dấu nhạc Pháp thoái trào và sự thay đổi thành phần khán giả.

Theo đó nếu những năm trước người tham dự đa số là học sinh trường Pháp, thì thời kỳ này là sự góp mặt của nhiều “dân chơi” Sài Gòn và sự bành trướng của nhạc Anh, nhạc Mỹ với sự có mặt của những quân nhân Hoa Kỳ. Đó là làn sóng British Invasion, và cũng đánh dấu bước chuyển của thời kỳ ca hát tài tử để bắt đầu có sự kỳ kèo về giá cả của những hợp đồng ký kết.

Elvis Phương kể mình từng khiến tài tử Lưu Đức Hoa bất ngờ với việc thay trang phục sau mỗi tiết mục trình diễn. Ảnh: NVCC

Ban Phượng Hoàng và những cá tính

Bên cạnh bối cảnh được tái hiện lại, Dòng đời cũng là những cuộc gặp gỡ của Elvis Phương với những bạn nhạc đóng vai trò quan trọng trong cuộc đời ông. Đó là huyền thoại cải lương Thanh Nga – người từng ngồi kề bên ông ở trường tiểu học Jean-Jacques Rousseau, là Khánh Ly – người đã thu âm cùng ông băng nhạc đầu tiên ở Mỹ, là cố nghệ sĩ Chí Tài – người đã sẵn lòng đầu tư cho ông dù chưa hề biết kết quả sẽ đi đến đâu… Ngoài ra còn là những gương mặt khác đã từng xuất hiện trong các ban nhạc kề cận quanh ông thuở mới vào nghề, cũng như trong nhiều tấm ảnh được đính kèm theo.

Trong đó hai người nổi bật không thể không nhắc là hai thành viên của ban Phượng Hoàng. Elvis Phương không chỉ kể lại những chuyện thân tình mà còn đánh giá ảnh hưởng của họ lên sự nghiệp và cuộc đời mình. Ông viết: “Hai tâm hồn, hai tư tưởng, hai nghệ sĩ, hai khuynh hướng sáng tác khác nhau, nhưng khi kết hợp lại đã mang đến sự quân bình tuyệt diệu của nhân sinh quan cũng như nghệ thuật. Tôi không coi họ là những thiên tài, mà tôi coi họ như những nạn nhân của tuổi trẻ, người nói lên được những cảm nghĩ sâu xa của một tuổi trẻ bị xâu xé vì chiến tranh, bị giằng co giữa cái đẹp và cái xấu trong bối cảnh xã hội lúc đó”.

Ban Phượng Hoàng (từ trái qua): Elvis Phương, Trung Vinh, Nguyễn Trung Cang, Châu và Lê Hựu Hà. Ảnh NVCC.

Ở đó có một Lê Hựu Hà lạc quan với lòng yêu thiên nhiên, yêu người, yêu đời, còn Nguyễn Trung Cang thì sống trong sự bi quan, dằn vặt, nhìn cuộc đời này bằng một màu đen tang tóc, ảm đạm. Và chính sự quân bình ấy đã tạo nên ban Phượng Hoàng như tên tuổi lớn của một giai đoạn nhạc trẻ Việt Nam bắt đầu thành hình. Và không chỉ có cơ may được hợp tác cùng và làm việc với những yếu nhân, mà bản thân ông cũng là một người hướng mình đến sự hoàn hảo, để đáp lại lòng thương yêu của khán giả dành cho mình.

Ông kể về những lần mua sắm rất nhiều trang phục ở các kinh đô thời trang khác nhau với những nhà thiết kế nổi tiếng, không chỉ vì thích mặc đẹp mà còn vì để tôn trọng khán giả. Ông cũng nói về nỗ lực của mình trong việc tìm ra một lối đi mới, trong việc tiên phong hát các liên khúc, phối trộn chất liệu dân gian cũng như cách hát bày tỏ cảm xúc khác biệt… Chính những điều đó làm nên một Elvis Phương của ngày hiện tại, rằng dẫu chìm nổi theo dòng thời gian ở nhiều bối cảnh khác nhau, thì ông vẫn luôn thích nghi và tìm thấy được lối riêng cho bản thân mình.

Bìa cuốn hồi ký Dòng đời. Ảnh: Phương Nam Books

Xuyên suốt tác phẩm ông đã ví mình như chú ngựa hoang “phóng vào đồng cỏ mênh mông, bát ngát để khám phá biết bao điều mới lạ, được nhìn thấy đủ muôn mặt của cuộc đời này, từ những khuôn mặt khả ố đến những khuôn mặt đẹp đẽ dễ thương, từ những khuôn mặt tính toán thâm hiểm cho đến những khuôn mặt đầy bao dung và nhân hậu…”

Và sau 60 năm vùng vẫy vẫn chưa thấm mệt, cho đến giờ đây, ông vẫn là một tượng đài trong âm nhạc Việt Nam không chỉ trong quá trình làm nghề, mà còn là thái độ sống và lòng bao dung với cuộc đời này. Dòng đời chính là những trải lòng ấy, để "ngựa hoang" giờ đã tìm thấy tình yêu cũng như chính mình.

Nguồn: Người Đô Thị | Minh Anh

Đọc bài viết

Phía sau trang sách

Từ câu chuyện quạ và bình nước đến giải mã bí mật bộ não thiên tài của loài chim

Quyển sách Chim chóc chưa bao giờ ngốc, tác giả sách, nhà nghiên cứu Jennifer Ackerman giúp độc giả hiểu biết thêm vô vàn năng lực kỳ diệu, đời sống hoang dã đầy thú vị của loài chim. 

Published

on

Bạn có biết, loài chim đã tồn tại hơn 100 triệu năm? Chúng thường sử dụng tập quán xây tổ, sử dụng điệu múa… để thu hút bạn tình. Hay chim sáo, vẹt có khả năng bắt chước nói tiếng người, bồ câu đưa thư hoặc những loài chim di cư định vị được chúng đang ở đâu.

Trí thông minh của loài chim trở thành nguồn cảm hứng bất tận để các nhà khoa học thực hiện hàng loạt thí nghiệm. Và trong quyển sách Chim chóc chưa bao giờ ngốc, tác giả sách, nhà nghiên cứu Jennifer Ackerman giúp độc giả hiểu biết thêm vô vàn năng lực kỳ diệu, đời sống hoang dã đầy thú vị của loài chim. 

Vì sao loài chim có trí thông minh vượt bậc?

Trong Chim chóc chưa bao giờ ngốc (Phương Nam Book & NXB Thế giới), nhà nghiên cứu Jennifer Ackerman đã không ngần ngại gọi các đối tượng chim bằng cụm từ “thiên tài”. Vì sao ư? Khi đi sâu nghiên cứu, ghi chép, Jennifer Ackerman nhận định, chim chóc xứng đáng với cái tên đó.

Cũng theo Charles Darwin - nhà bác học, nhà tự nhiên học vĩ đại người Anh, “cha đẻ” của thuyết tiến hóa, từng nói: “Động vật và con người có sức mạnh trí tuệ chỉ khác nhau ở mức độ chứ không phải ở giống loài”. Trong thực tế, bạn từng nhìn thấy chú chim sẻ đang nhặt hạt thóc mang về tổ hay một con chim sáo lục túi rác tìm thực phẩm sót lại. Điều này giúp bạn nhận ra, loài chim học được cách tìm kiếm thức ăn mới. Dấu hiệu cho thấy sự thông minh vượt bậc của loài chim. 

Gần gũi hơn với tuổi thơ chúng ta, câu chuyện ngụ ngôn quạ và bình nước là tiền đề để các nhà khoa học thực hiện các thí nghiệm trên loài quạ. Năm 2014, nghiên cứu về quạ và bình nước tái hiện lại dưới góc nhìn các nhà khoa học ở ĐH Cambridge (Anh) và ĐH Auckland (New Zealand).

Ảnh minh họa

Với nhiều phương án, giống quạ New Caledonian được thí nghiệm ưu tiên chọn đá để thả vào bình thay vì cát, chọn vật rắn chìm dưới nước thay vì vật rỗng nổi trên mặt. Quạ thả vào bình có mực nước cao hơn thay vì bình có mực nước thấp hơn. Từ những hành vi đó, các nhà khoa học kết luận rằng, loài quạ cực kỳ thông minh, nó biết cách sử dụng công cụ lao động theo ý muốn. 

Cũng trong nghiên cứu trên Tạp chí Thần kinh học So sánh (Mỹ), tháng 1/2022, các nhà khoa học so sánh não bộ chim họ quạ với não của gà, chim bồ câu và đà điểu. Họ phát hiện rằng não họ quạ có các tế bào thần kinh dày đặc với hơn 200 đến 300 triệu tế bào thần kinh trên mỗi bán cầu. Điều này cho phép việc giao tiếp hiệu quả giữa các tế bào não của quạ. 

Trong khi đó, loài chim luôn bị nỗi oan ngu ngốc, con người mắng là lũ não ngắn, đồ... não chim. Theo một nghiên cứu năm 2020, tạp chí Science, công bố, não chim không hề ngắn một chút nào. Cụ thể, quạ và các loài chim khác “biết chúng muốn gì và có thể suy ngẫm các ý tưởng trong tâm trí”. Theo tạp chí Current Opinion in Behavioral Sciences, xuất bản năm 2017, nhận định, trí thông minh của quạ có thể ngang bằng với một số loài khỉ và gần với loài vượn lớn (khỉ đột).

Cũng theo nghiên cứu của Viện Khoa học Hàn lâm Quốc gia (Mỹ), các nhà khoa học phát hiện ra rằng, bộ não bé nhỏ của loài chim chứa nhiều tế bào não hơn đa số các loài thú hiện nay. Cụ thể, các chuyên gia đã xét nghiệm tế bào não của 32 loài chim khác nhau, gồm cả quạ, vẹt, đà điểu và cú. Họ sử dụng hệ thống đếm neuron thần kinh. Kết quả thu được, não chim có số lượng tế bào não lớn hơn hẳn các loài thú khác. Ví dụ, loài chim sẻ - trọng lượng bằng 1/9 loài chuột, nhưng tỷ lệ tế bào não nhiều gấp 2,3 lần.

Tuyệt chiêu ‘tỏ tình” sáng tạo của loài chim 

Từ việc quan sát hành vi sống của loài quạ có thể chế tạo công cụ để lấy thức ăn - những thứ chỉ từng nhìn thấy ở các loài vượn lớn. Hay nguyên nhân tuyệt diệt của chim dodo, tác giả sách, nhà nghiên cứu Jennifer Ackerman đi tìm lời giải đáp về thang đo chung trí tuệ của các loài chim. 

Với Chim chóc chưa bao giờ ngốc, Jennifer Ackerman cung cấp kiến thức đời sống hoang dã lý thú đến người đọc. Tác giả trình bày chi tiết những phát hiện, minh chứng, nghiên cứu cũng như kết quả về trí thông minh của loài chim. Việc bộ não loài chim có kích thước nhỏ không tương đồng một cách hoàn toàn với trí thông minh của chúng.

Hơn hết, Jennifer Ackerman dùng các học thuyết riêng biệt để giúp chúng ta hiểu thêm về trí thông minh của loài chim. 8 chương sách là 8 mảnh ghép làm nên những điều mới mẻ về các loài chim. Trong đó, hai chương sách bàn luận về học thuyết tâm trí giao phối. Tác giả đưa ra những lý giải thú vị về các hành vi một vài loài chim mái tìm bạn tình dựa trên cách xây dựng tổ cũng như điệu múa đẹp từ chim trống. 

Vào mùa giao phối, chim trống lượm nhặt, thậm chí giành giật nhiều đồ vật bỏ rơi đủ màu sắc để trang trí nơi ở của mình để thu hút chim mái. Khi đối tượng đến, chim trống nhảy nhót, hót mừng mời vào tổ tham quan. Tổ càng đẹp con mái sẽ càng dễ xiêu lòng hơn. Hoặc có những loài chim khác lại chọn sự đồng điệu thông qua tiếng hót… Hành vi kết đôi thú vị này diễn ra trong thế giới tự nhiên giúp chúng ta thấu hiểu, loài chim cũng rất sáng tạo trong việc tán tỉnh nhau.

Điều đặc biệt của Chim chóc chưa bao giờ ngốc còn nằm ở sự pha trộn tài tình giữa những kiến thức thú vị về cuộc sống của loài chim. Óc quan sát tinh tế, sự ghi chép tỉ mẩn, dày công nghiên cứu về loài chim của tác giả Jennifer Ackerman gói gọn trong hơn 400 trang viết.

Thông điệp từ tình yêu thiên nhiên

Chim chóc chưa bao giờ ngốc còn góp phần giúp độc giả nhí lẫn người lớn hiểu thêm thực tế môi trường sống đang dần biến đổi. Nó ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống con người và sự tiến hóa của loài chim. 

Jennifer Ackerman diễn giải cho chúng ta thấy, các chú chim di cư giờ đây phải đối mặt với việc thức ăn trên biển của mình không đúng mùa. Nhiệt độ môi trường tăng lên, thời gian sinh trưởng của các trật tự sinh học khác đảo loạn. Dẫn đến nhiều loài chim phải chết giữa đường do không tìm được thức ăn. Trong rừng rậm sâu, những con chim mẹ cũng phải đẻ trứng ngược với chu trình ngàn đời tự nhiên, nhằm đảm bảo nguồn sâu phong phú để nuôi nấng thế hệ sau của mình… 

Thông qua Chim chóc chưa bao giờ ngốc, tác giả Jennifer Ackerman mong muốn gửi gắm thông điệp về tình yêu thiên nhiên, góp phần nâng cao nhận thức của cộng đồng về vấn đề bảo tồn sự đa dạng sinh học của loài chim nói riêng, cũng như đời sống loài động vật hoang dã khác trước thềm tuyệt chủng.

“Não chim có lẽ nhỏ, nhưng rõ ràng là có võ… Chim chóc đã tồn tại trong hơn 100 triệu năm. Chúng là một trong những câu chuyện thành công vĩ đại nhất của tự nhiên…”, Jennifer Ackerman viết.

Bà Trần Nhật Hoàng Phương - Giám đốc Marketing Phương Nam Books - cho biết, nếu như thời gian trước, các dòng sách đa dạng, phong phú theo chiều rộng, thì trong năm 2023, nhiều chủ đề sách sẽ mang tính chiều sâu hơn. Theo đó, Chim chóc chưa bao giờ ngốc - giải mã bộ não thiên tài của loài chim, được trình bày với giọng văn mạch lạc. Từ đó, độc giả sẽ bước vào cuộc phiêu lưu trên từng trang sách.

Tóm lại, Chim chóc chưa bao giờ ngốc - một cuốn sách tuyệt vời dành cho bạn đọc yêu động vật, tò mò khám phá về đời sống tự nhiên. Bởi có quá nhiều điều thú vị sẽ giữ chân bạn lại lâu hơn, để tìm hiểu, để khám phá và yêu hơn những loài chim - một trong những sinh vật có trí thông minh vượt bậc nhất thế giới. 

Đọc bài viết

Cafe sáng