Chuyện người cầm bút

‘Đừng gọi tôi là dân nhập cư, hãy gọi tôi là người tị nạn’: Một cuộc phỏng vấn với Viet Thanh Nguyen

Tiểu thuyết gia gốc Việt bàn về văn học tị nạn và khái niệm “thiên tài.”

Published

on

‘CALL ME A REFUGEE, NOT AN IMMIGRANT’: VIET THANH NGUYEN
Jon Wiener

Viet Thanh Nguyen là tác giả tiểu thuyết The Sympathizer nhận giải Pulitzer năm 2016, đồng thời cũng là người nhận danh hiệu “Thiên tài” từ Quỹ MacArthur. Viet Thanh Nguyen là chủ biên cuốn sách mới Kẻ ly hương, tác phẩm tập hợp 17 bài tiểu luận của 17 tác giả vốn xuất thân là người tị nạn từ khắp nơi trên thế giới.

Nội dung cuộc phỏng vấn đã có sự chỉnh lược.

Jon Wiener (JW): Anh khăng khăng mong muốn người khác gọi mình là người tị nạn chứ không phải là dân nhập cư. Vì sao?

Viet Thanh Nguyen (VTN): Khái niệm “nhập cư” ở Hoa Kỳ rất kiên cố. Chúng ta tự gọi mình là “quốc gia của dân nhập cư”; một phần huyền thoại lập quốc cho rằng dân nhập cư đã đến đây và hiện thực hóa giấc mơ Mỹ. Thậm chí trong khoảnh khắc này của lịch sử, khi thái độ bài ngoại vốn luôn hiện hữu đã dâng đến cao trào, thậm chí những người không ưa dân nhập cư cũng tin vào cái khái niệm “nhập cư” ở trên. Nhưng người tị nạn thì khác. Ở nơi đâu họ cũng là những kẻ không mời mà đến. Họ thuộc về một phạm trù pháp lý tách biệt. Họ thuộc về một phạm trù cảm xúc khác hẳn khi bàn về cách họ trải qua cảnh sống tị nạn – một phạm trù bị khinh thường, thậm chí bị chính những người tị nạn khác coi thường. Sẽ dễ dàng hơn nếu ai đó, như tôi chẳng hạn, quyết định tự cho mình là dân nhập cư hoặc giả vờ là dân nhập cư. Nhưng nếu tôi làm thế, tôi cảm thấy mình đang che giấu sự thật. Tôi cảm thấy những người như tôi, những người nhận được lợi ích từ việc tị nạn, cần phải công nhận sự tồn tại của mình với địa vị tị nạn và cổ vũ cho những người tị nạn mới ngày nay.

“Nhưng người tị nạn thì khác. Ở nơi đâu họ cũng là những kẻ không mời mà đến.”

JW: Anh trở thành người tị nạn năm 1975, khi chỉ mới 4 tuổi. Câu chuyện lúc đó như thế nào?

VTN: Cha mẹ tôi đang trốn chạy khỏi Chiến tranh Việt Nam. Họ ở phe thua cuộc. Họ nằm trong số những người may mắn đã xoay sở trốn thoát được; CIA ước tính có khoảng một triệu người Nam Việt Nam có mối quan hệ với chính phủ Mỹ muốn rời bỏ nhưng không thể. 130.000 người đã đến được Mỹ. Họ được phân bổ về bốn trại tị nạn, và gia đình tôi dừng chân tại trại Fort Indiantown Gap tại Pennsylvania. Đó là nơi ký ức tôi bắt đầu, trong một trại tị nạn – bị chia tách khỏi cha mẹ. Để rời khỏi những trại này, bạn phải có người bảo trợ. Một người bảo trợ nhận cha mẹ tôi, một người khác nhận anh trai 10 tuổi của tôi, và một người khác nữa nhận tôi khi đó 4 tuổi. Khi bạn 4 tuổi, bị chia cắt khỏi cha mẹ là một trải nghiệm khủng khiếp. Ngay lúc này, tôi đang phát ngôn với tư cách là cha của một cậu bé 4 tuổi. Nhìn cậu bé, tôi thấy được chính mình. Tôi tưởng tượng hoàn cảnh ấy hẳn rất đau đớn với tôi – và với cha mẹ tôi cũng thế. Đó là khoảnh khắc ký ức tôi bắt đầu. Tôi chưa bao giờ quên việc mình là người tị nạn – vì chính cảm giác thương đau ấy.

JW: Anh viết trong phần giới thiệu của Kẻ ly hương, rằng “Tôi không nhớ rất nhiều chuyện, và tôi lấy làm biết ơn vì điều ấy.” Vì sao lại thế?

VTN: Nếu bạn từng đọc về trải nghiệm của bất kỳ người tị nạn nào, bạn sẽ hiểu được những con người ấy đã chịu đựng rất nhiều để thoát khỏi cố hương và đặt chân lên quốc gia mới. Trong trường hợp của tôi, của những người Nam Việt Nam, trải nghiệm tị nạn rất kinh khủng. Rất, rất nhiều người đã thiệt mạng. Rất nhiều điều tồi tệ đã diễn ra với những người cố gắng trốn chạy. Vì thời điểm ấy tôi chỉ mới 4 tuổi nên không nhớ được gì. Anh trai của tôi, khi đó 10 tuổi, nhớ rằng có những xác lính treo lủng lẳng trên cây, trên con đường núi mà chúng tôi chạy khỏi thành phố quê nhà, đi bộ 180 cây số đến thành phố cảng để lên thuyền tới được Sài Gòn. Lớn lên, tôi đã nghiên cứu về con đường núi ấy. Nó tắc nghẽn mười nghìn người lính Nam Việt trốn chạy. Đó là một cơn ác mộng. Những người đã chứng kiến chuyện này sẽ không bao giờ có thể quên được. Đó là lý do tôi lấy làm biết ơn vì bản thân tôi không thực sự nhớ những điều ấy, và tôi có cái sự xa xỉ là tái hiện trải nghiệm này từ ký ức của những người khác.

JW: Anh từng phát biểu rằng, những người tị nạn như gia đình anh vừa “vô hình” mà vừa “hiển hiện quá sức rõ ràng”. Anh có thể giải thích ý anh là gì không?

VTN: Tình trạng của chúng tôi rất thường gặp trong những cộng đồng thiểu số hoặc nằm bên lề nước Mỹ (và bất cứ quốc gia nào khác). Chúng tôi vô hình, vì đa số người Mỹ không hề biết hoặc không hề quan tâm đến sự tồn tại của chúng tôi. Vì vậy, khi cuốn sách của tôi vừa ra mắt, nhiều người phản hồi với tôi rằng bản thân họ đã sống trong những năm 1975 và những năm tiếp theo khi người tị nạn Việt Nam bắt đầu xuất hiện tại Mỹ, nhưng “chúng tôi chẳng biết gì về họ, chúng tôi cũng chẳng buồn hỏi han.” Người tị nạn vô hình. Nhưng chúng tôi hiển hiện quá mức rõ ràng khi chúng tôi trở thành một vấn đề, khi gia nhập băng đảng tội phạm hoặc khi hưởng chính sách phúc lợi. Chúng tôi bập bềnh giữa trạng thái vô hình và chướng mắt. Nhưng không hề có khoảng giữa. Chúng tôi không có được sự xa xỉ của sự bình thường như bao người khác.

“Chúng tôi bập bềnh giữa trạng thái vô hình và chướng mắt. Nhưng không hề có khoảng giữa.”

JW: Anh từng có một câu văn tuyệt vời, miêu tả việc vừa là nhà văn vừa là người tị nạn: “tôi vẫn khắc sâu trong lòng mình những ký ức vỡ vụn của việc chính mình là một nạn dân.” Vì sao lại thế?

VTN: Tôi nghĩ rằng sẽ dễ dàng hơn nếu những người từng gánh chịu mất mát nghiêm trọng hoặc trải qua ký ức kinh khủng có thể quên được những việc đó. Đó là điều họ muốn. Tôi đã gặp rất nhiều người tị nạn phủ nhận thân thế của mình – họ muốn được gọi là dân nhập cư. Nếu bạn tự nhận mình là dân nhập cư, bạn hòa nhập. Mọi người sẽ căng tai lắng nghe câu chuyện xúc động về cách bạn đặt chân đến quốc gia này. Còn nếu bạn nói mình là người tị nạn, đó là cách nhanh nhất để cắt đứt một cuộc chuyện trò, bởi vì người ta không hiểu được trải nghiệm ấy. Vì thế, tôi vẫn khắc sâu trong lòng mình những ký ức vỡ vụn của việc chính mình là một nạn dân để nhắc nhở những người tị nạn và những người Mỹ khác rằng chúng tôi có tồn tại. Bên cạnh đó, nó khiến tôi cảm thông với người khác hơn. Nó khiến tôi cảm thông với những nạn dân và những gì mà họ đang trải qua, với tư cách là nhà văn và là một con người. Một số người từng là dân tị nạn nào đó sẽ nói, “Chúng tôi là những người tị nạn tốt. Chúng tôi xứng đáng ở đây. Tất cả những người mới từ Trung Đông, hay ví dụ Syria, họ là những người tị nạn tồi. Họ khác biệt. Chúng ta cần phải đóng sầm cửa vào mặt họ.” Tôi nghĩ điều này căn bản là sai trái.

JW: Mục đích của những cuốn sách như Kẻ ly hương là giúp chúng ta tưởng tượng cuộc đời của người tị nạn, nhưng anh nói trong phần dẫn sách rằng sự tưởng tượng này có thể khiến chúng ta tự lừa phỉnh chính mình. Ý của anh là gì?

VTN: Đây là một phần vấn đề của văn học. Sức mạnh của văn học được xây dựng trên sự đồng cảm: cả sự đồng cảm của tác giả và sự đồng cảm của độc giả – những người khao khát muốn hiểu được những tính cách khác, những con người khác từ những mảnh đất khác. Đây là một điều rất mạnh mẽ, nhưng nó cũng lừa dối vì nó là một sự xa xỉ. Chúng ta muốn biết về tình huống kinh hoàng X và con người đáng thương Y, và khi chúng ta đã đọc câu chuyện của họ, trái tim của chúng ta trở nên ấm áp và trái tim được đánh động. Nhưng chuyện gì sẽ xảy ra nếu chúng ta chẳng làm gì cả? Chuyện gì sẽ xảy ra nếu chúng ta đặt cuốn sách này xuống và nhặt cuốn sách khác lên? Chuyện gì sẽ xảy ra nếu chúng ta không tham gia vào các tổ chức cứu trợ và quyên góp tiền? Chuyện gì sẽ xảy ra nếu chúng ta không quyết định chính quyền bằng việc bầu cử? Chuyện gì sẽ xảy ra nếu chúng ta không biểu tình trên đường phố? Chuyện gì sẽ xảy ra nếu chúng ta không hành động? Tôi nghĩ đó là hiểm họa của văn chương. Dẫu văn chương đánh thức cảm xúc trong ta, nó cũng dụ dỗ ta rơi vào trạng thái tự mãn rằng mình đã làm được một cái gì đó, đơn giản chỉ bằng việc đọc về trải nghiệm kinh khủng của ai đó.

JW: Gần đây, anh đã viết một bài báo trên tờ The New York Times với tựa đề “Đừng gọi tôi là thiên tài.” Dĩ nhiên, anh là người nhận giải “Thiên tài MacArthur.” Vì sao anh không muốn người khác dùng từ này để miêu tả mình?

VTN: Đầu tiên, hãy để tôi khẳng định rằng mình không viết tiêu đề đó. Cả bài viết thật ra là những vấn đề liên quan đến “thiên tài,” chứ không phải là về chuyện tại làm sao mà tôi không muốn được gọi là thiên tài. Ngày nay, khi chúng ta sử dụng từ “thiên tài,” thường thì ta đang bàn đến một cá nhân nào đó sở hữu một tài năng hay thành tựu đáng kể, và chúng ta hoan hô và nâng tầm người này. Trong trường hợp của tôi, nó liên quan đến cái nhãn dán mà người ta đính lên một người như tôi: một nhà văn đến từ một cộng đồng thiểu số bên lề. Tôi đã được gọi là “giọng nói đại diện cho những người vô thanh.” Rất nhiều nhà văn như tôi đã được gọi như thế. “Giọng nói đại diện cho những người vô thanh” là những gì chúng ta nghĩ đến khi có ai đó viết về những trải nghiệm mà chúng ta chưa từng bắt gặp. Nó đáng nhẽ là một lời khen tặng. Nhưng nó nguy hiểm, bởi vì khi chúng ta gọi ai đó là giọng nói đại diện cho những người vô thanh, những gì ta thực sự đang ám chỉ là ta không muốn nghe tất cả những giọng ấy, những giọng đang tồn tại ngoài kia. Dễ dàng hơn khi chỉ cần nghe từ một người.

Tôi nghĩ điều tương tự cũng đúng với “thiên tài.” Những thành tựu tôi đạt được với tư cách nhà văn một phần xuất phát từ những nỗ lực chăm chỉ từ phía tôi, nhưng cũng một phần bởi vì lịch sử của những người đã hi sinh trước tôi, những nhà văn đã đi trước tôi, những giọng nói đã bị quên lãng. Các tác phẩm của tôi ra đời nhờ vào những tranh đấu xã hội và chính trị của người Mỹ gốc Á, người Mỹ gốc Phi, và những người khác đã tạo ra không gian để người như tôi không bị xét xử và phân biệt đối xử vì sự tồn tại đơn thuần của chính tôi. Tôi không nghĩ mình là giọng nói cho những người “vô thanh,” bởi vì họ thực sự, thực sự rất lớn tiếng. Tác phẩm của tôi thuộc diện văn học, nhưng cũng nằm trong những phong trào xã hội và chính trị có mục đích để đưa ra nhiều tiếng nói, nhưng cũng đồng thời thay đổi thời thế, để không còn ai “vô thanh” ngoài kia nữa.

Hết.

Mèo Heo dịch.

Bài viết gốc được thực hiện bởi Jon Wiener, đăng tại The Nation.


Tìm hiểu thêm về tác phẩm Kẻ ly hương


Chuyện người cầm bút

Hải Âu: Dịch Siêu Nhân Loại là khóa học tôi trân trọng về hiện thực

Tôi không coi hành trình dịch sách Siêu Nhân Loại là một công việc, mà là một khóa học bổ ích và hết sức đáng trân trọng. Tôi thấy mình thật may mắn.

Published

on

By

Siêu Nhân Loại – tác phẩm mới nhất do Phương Nam Book tổ chức xuất bản và phát hành – là sự kết hợp hoàn hảo giữa thể loại sách tâm linh và sách khoa học tâm lí, đem đến cho bạn đọc nhiều kiến thức thú vị về tâm lí con người nói chung, khái niệm Siêu Nhân Loại nói riêng. Deepak Chopra – tác giả của quyển sách – từng được tạp chí Time vinh danh là “1 trong 100 anh hùng và biểu tượng hàng đầu thế kỷ”.

Xoay quanh tác phẩm này, Bookish đã có cuộc trò chuyện với Hải Âu – dịch giả chuyển ngữ sang tiếng Việt của Siêu Nhân Loại để bạn đọc có thể biết được câu chuyện hậu trường về quá trình dịch tác phẩm, đồng thời tiếp cận Siêu Nhân Loại từ góc nhìn của người dịch.

Siêu Nhân Loại là một tác phẩm có hàm lượng kiến thức khổng lồ từ nhiều lĩnh vực khác nhau, chủ yếu là các lĩnh vực nằm trong khoa học tự nhiên. Khi dịch sách, bạn có gặp khó khăn về vấn đề này không và bạn đã vượt qua bằng cách nào?

Hàm lượng thông tin khoa học khá dày và đa dạng trong sách đúng là một thử thách với tôi xuyên suốt quá trình dịch thuật. Song tôi không thấy mệt mỏi chút nào, ngược lại còn rất phấn khích. Có lẽ vì tôi vốn đã luôn dành nhiều thiện cảm và thời gian cho các đầu sách/bài nghiên cứu khoa học từ trước. Hơn nữa, đồng hành cùng tôi trên con đường này còn có Bác sĩ – Tiến sĩ Vũ Phi Yên, một nhà khoa học và tâm lý học kỳ cựu. Chị cũng chính là người đã giới thiệu cho tôi đọc sách Siêu Nhân Loại bản gốc tiếng Anh. Những thông tin khoa học mà tôi chưa nắm rõ, đặc biệt là ở lĩnh vực y tế và sinh học, đều được chị Vũ Phi Yên cố vấn tỉ mỉ.

Ngoài ra, tôi cũng chủ động tham vấn ý kiến chuyên gia trong những lĩnh vực khác mà Siêu Nhân Loại đề cập. Từ thầy giáo vật lý, kỹ sư công nghệ cao, cho tới người làm vườn, đầu bếp và nhà ngôn ngữ học... chỉ cần có cơ hội tôi đều cắp sách tới học hỏi. Đây là lý do tôi không coi hành trình dịch sách Siêu Nhân Loại là một công việc, mà là một khóa học bổ ích và hết sức đáng trân trọng. Tôi thấy mình thật may mắn.

Hải Âu

Deepak Chopra thậm chí còn trích dẫn một số bài thơ để phục vụ cho luận điểm của mình trong sách. Thơ là một mạch nguồn cảm xúc khác hẳn với văn phân tích; những lúc đó, bạn chuyển đổi mạch nguồn tư duy thế nào để dịch thơ?

Xuất phát điểm của tôi là ngành khoa học xã hội, cụ thể là ngôn ngữ học. Vậy nên tôi vốn đã quen thuộc với việc dịch các bản thảo văn chương và thi ca từ thời còn đi học. Cuốn sách dịch đầu tay của tôi cũng thuộc thể loại tiểu thuyết chứ không phải phi hư cấu. Tôi chuyển mình từ văn phân tích sang thơ hay các trích đoạn kịch cổ điển cũng tự nhiên, giống như đổi từ bút bi sang bút mực nước vậy thôi.

Cái khó của quá trình này thực ra nằm ở việc tái hiện phong cách của từng tác giả được trích dẫn. Thơ William Blake chắc chắn phải khác thơ Rumi hay Kabir; kịch Shakespeare từ nước Anh thế kỷ 16 không thể dịch cùng một lối với lời kinh cổ về thần Shiva của Ấn Độ được. Mong muốn chuyển ngữ sao cho trung thành với văn phong của tác giả nhất, tôi cố gắng tham khảo từ các tác phẩm cùng chủ bút và các bản dịch kinh điển khác. Ngoài ra, tôi cũng có một típ dịch văn chương yêu thích là tìm nghe âm nhạc cùng thời đại, cùng xuất xứ với tác giả để khám phá không gian cảm xúc đã nuôi dưỡng tâm hồn họ. Trải nghiệm này luôn thú vị và khơi dậy cảm hứng.

Điều gì khiến bạn thích thú nhất về miền đất của Siêu Nhân Loại mà tác giả đã vẽ ra?

Điều tôi thích thú nhất về miền đất Siêu Nhân Loại có lẽ là ý tưởng “con người thật của bạn vượt khỏi cả thời gian và không gian”. Tiềm năng của con người là vô hạn – nghe như kịch bản của một bộ phim viễn tưởng nhưng lại được tác giả chứng minh bằng rất nhiều lập luận đáng suy ngẫm. Khao khát được tự do và vượt thoát là điểm chung của con người ở mọi thời đại, mọi nền văn hóa. Cảm giác bản thân mênh mang như vũ trụ, tràn đầy tiềm năng và sự tự chủ có sức mạnh động viên to lớn với cá nhân tôi.

Hải Âu

Trong Siêu Nhân Loại, tác giả thường nhấn mạnh ý mỗi chúng ta thường chỉ tập trung lao vào vòng xoáy của vật chất – thứ vốn là ảo ảnh giữa đời thường, mà không bận tâm cải tạo hiện thực của riêng mình. Mỗi người lại có một định nghĩa về hiện thực khác nhau. Định nghĩa về hiện thực của bạn là gì và định nghĩa đó thay đổi như thế nào sau khi bạn dịch Siêu Nhân Loại?

Nhiều năm trước, tôi từng chắc mẩm mình có tư duy “thực tế”, sát với hiện thực cuộc sống. Và “hiện thực cuộc sống” là hiện thực tôi nhìn – nghe – chạm – ngửi thấy. Sau đó, tôi có cú chuyển nhận thức lần một vào ngày hiểu ra rằng: hiện thực khác nhau trong ý thức của từng người. Trước khi biết đến Siêu Nhân Loại, có nhiều tác phẩm điện ảnh và học thuyết khoa học khác đã khiến tôi phải đặt câu hỏi về hiện thực. Nổi bật trong số đó, tất nhiên là series phim kinh điển The Matrix. Tiên đề của hành trình Siêu Nhân Loại cũng như The Matrix, mô tả một hiện thực ảo đã được lập trình mà con người ra sức bám chắc lấy, tự làm cùi mòn đi tiềm năng vô hạn sẵn có trong mình. Đứng trước sự phát triển như vũ bão của công nghệ AI, đôi khi tôi cũng trộm nghĩ, liệu có khả năng nào con người trên Trái đất là AI bậc cao đang được người ngoài hành tinh thí nghiệm không? Và chúng ta chỉ đang sống trong một ma trận giả lập mà thôi? (cười).

Có một khoảng thời gian dài tôi không còn dám chắc hiện thực là gì và bây giờ là bao giờ. Đến nay, tôi vẫn chưa thể đưa ra lời khẳng định rành rọt nào cho bạn. Song ít nhất tôi đã phát hiện được ở mức này: hiện thực khó định nghĩa còn siêu hiện thực với đa số chúng ta, là chưa thể định nghĩa. Vậy thì chúng ta cứ tạm sống cùng hiện thực mình đang tri nhận, nhưng đồng thời cũng sẵn lòng mở trí để tin rằng, hiện thực ấy có thể là đồ giả. Mọi sướng vui buồn khổ có thể đều chỉ là mơ. Một giấc mơ sáng suốt.

Ở phần cuối sách, Deepak Chopra đem đến cho người đọc một liệu trình để thức tỉnh tâm trí trong 31 ngày. Khi dịch xong sách, bạn có thử thực hiện liệu trình này?

Tôi không đợi kết thúc bản thảo dịch mới thực hành liệu trình Một Tháng Thức Tỉnh. Khi còn đang làm việc ở phần một cuốn sách, tôi đã in riêng liệu trình này ra giấy và đặt thường trực ở nơi dễ thấy nhất trong nhà để nhắc nhở mình thực hành. Có thể nói rằng phần mô tả của mỗi ngày trong liệu trình là tinh túy của cả cuốn sách được chắt lọc.

Tôi thích bài tập của toàn bộ 31 ngày; mỗi bài tập lại mang đến những trải nghiệm đặc biệt riêng. Thế nhưng nếu buộc phải chọn ra một ngày ấn tượng nhất, có lẽ tôi sẽ chọn ngày thứ 16 – ngày tác giả nói về giấc mơ sáng suốt và so sánh hiện thực hằng ngày là một giấc mơ sáng suốt. “Tưởng tượng xem, đây chỉ là một giấc mơ, và tôi chỉ là kẻ đang mơ”.

Deepak Chopra

Trong Siêu Nhân Loại, tác giả cung cấp rất nhiều câu chuyện, thông tin, những thí nghiệm khoa học thú vị. Đâu là phần khiến bạn thấy bất ngờ và thú vị nhất vì chưa được biết qua trước khi dịch tác phẩm này?

Rất khó để nêu một ví dụ duy nhất, vì có nhiều phần khiến tôi ngạc nhiên xen lẫn thích thú trong quá trình dịch. Tôi đành mượn vô thức bật thật nhanh ra câu trả lời đầu tiên trong tâm trí, nhưng lại có tới hai dữ kiện đồng thời xuất hiện. Thứ nhất là đoạn nói về loài chim hải âu pêtren tuyết – một loài chim hiếm, kiên cường sinh sống ở lục địa Nam Cực hoang lạnh. Trước đây tôi chưa từng biết đến loài chim này. Chúng xinh đẹp theo cách kỳ lạ lắm.

Dữ kiện thứ hai là chi tiết rất nhỏ thôi, nằm phần đầu sách: “Thông tin đến mắt chỉ cho thấy căn phòng bạn đang ngồi có những bức tường tụ vào nhau ở góc phòng, nhưng bạn biết căn phòng này hình vuông, vì vậy bạn nắn chỉnh dữ liệu cho khớp với hiểu biết đó”. Tôi vẫn nhớ như in cảm giác “a ha” khi hiểu được ẩn ý của ví dụ này. Một thông tin tưởng chừng hiển nhiên, các bức tường phòng thường tình sao có thể trông giống góc gì khác ngoài góc vuông được? Nhưng bạn thử làm bài tập này với tôi nhé. Bạn nhìn thật kĩ xem, thực tế ở điểm giao nhau của 3 mặt tường phòng, bạn thấy góc gì vậy? Hoặc bạn có thể phác thảo ra giấy chính xác hình ảnh mắt nhìn thấy để dễ hình dung hơn.

Bật mí với bạn, tôi đã ngỡ ngàng nhận ra hình ảnh thực tế mắt mình nhìn thấy là góc tù, nhưng ý thức lại tự động “điều chỉnh” thông tin ghi được thành vuông cho khớp với thực tế là tôi đang đứng trong một khối hộp lập phương. Thật thú vị phải không?

Deepak Chopra thường được xem là đứng giữa khoa học và tâm linh khi ông dùng nhiều kiến thức khoa học để lí giải vấn đề tâm linh. Những người theo khoa học thuần túy cho rằng sách của ông là ngụy khoa học; tuy nhiên, đứng từ góc nhìn khách quan, sách của ông tạo được ảnh hưởng rộng lớn đến công chúng phổ thông có lẽ cũng đến từ sự kết hợp hài hòa giữa khoa học và tâm linh. Là người dịch quyển sách, là người đã chậm rãi đi cùng quyển sách trong suốt một năm, bạn có thể chia sẻ một đoạn trích trong tác phẩm mà cá nhân bạn cho rằng đó là những dòng đẹp nhất, kết hợp những điều tinh túy nhất từ khoa học và tâm linh trong tác phẩm không?

Tiếp tục là một câu hỏi khó cho tôi vì hầu như ở chương nào của cuốn sách, độc giả cũng có thể tìm được bằng chứng thuyết phục về sự kết hợp khéo léo này. Tôi lại xin chọn một ví dụ ngẫu nhiên bật ra từ vô thức, nằm ở trang 156-157 (Chương 5 – Tâm trí, Cơ thể, Não bộ, và Vũ trụ đều là ý thức biến đổi):

“Thay vì thụ động chấp nhận thế giới thông thường, siêu hiện thực cho chúng ta một lựa chọn mới – coi vạn vật trong vũ trụ đều là những biểu hiện biến đổi của ý thức. Ví dụ, một cái cây thực ra đã được tùy chỉnh sao cho phù hợp với cách con người tiếp nhận nó. Bất kỳ đặc tính nào của cái cây cũng có thể tháo rời khỏi khung nhận thức xác định và gắn vào một khung nhận thức khác, không còn thuộc về con người. Với người mù, màu sắc của cái cây không tồn tại. Với neutrino – một hạt hạ nguyên tử có thể lao xuyên qua Trái đất dễ dàng như giữa khoảng không vũ trụ, độ rắn của cái cây không tồn tại. Nếu bạn bứng cái cây lên Trạm Vũ trụ Quốc tế, trọng lượng của nó biến mất. Nếu so sánh với thời gian hàng tỷ năm để phân rã proton trong hạt nhân phân tử, tuổi thọ của cái cây cũng không còn đáng là bao.

Vạn vật có “tính thực” thông qua phương pháp biến đổi mà ý thức áp dụng. Khi bạn ngủ, toàn bộ thế giới vật chất mờ đi và biến mất. Thế giới ấy vẫn tồn tại nói chung, được duy trì bằng những quy luật của bầu thực tế ảo. Nhưng khi ngủ, bạn thoát khỏi thực tế ảo bằng cách mở rộng trải nghiệm tới một thế giới khác, nơi không phải miền vô thức trống rỗng như con người vẫn tưởng. Chúng ta có thể cảm nhận giấc ngủ sâu như một nhận thức thuần khiết mà không có các kích thích – thật vậy, đó chính là trải nghiệm của những bậc thầy tâm linh, yogi và nhiều dạng thức siêu nhân khác qua hàng thế kỷ. Khái niệm Niết Bàn của Phật giáo gần với trạng thái ngủ say hơn là tỉnh táo, bởi Niết Bàn tái kết nối con người với miền nhận thức thuần khiết”.

Cảm ơn bạn vì những chia sẻ về Siêu Nhân Loại. Chúc bạn sẽ luôn vững bước trên hành trình phát triển bản thân, mở khóa tiềm năng vô hạn trong bạn.

Đọc bài viết

Bookish Best

Nguyễn Hoàng Mai: Tôi muốn viết về những vấn đề gai góc nhất của tuổi trẻ

Published

on

By

Nguyễn Hoàng Mai là tác giả của hai tác phẩm đầy cảm xúc về tuổi trẻ: Đung đưa trên những đám mây (tiểu thuyết, 2018), Bây giờ mình đi đâu (tập truyện ngắn, 2019). Hiện nay, cô đang sinh sống và làm việc tại Tokyo. Tuy đã xa Việt Nam nhiều năm, Hoàng Mai vẫn đọc và thường xuyên theo dõi tình hình văn chương nước nhà. Trong khuôn khổ của giải thưởng Bookist Best 2022, Ban Tổ chức đã có cuộc trò chuyện với Hoàng Mai xoay quanh việc đọc và sáng tác văn chương.

Chào Nguyễn Hoàng Mai. Cảm ơn Mai vì đã nhận lời phỏng vấn của Bookish về những tác phẩm bạn đã đọc năm 2022 nhân dịp mùa giải Bookish Best lần II đang diễn ra. Bạn nghĩ gì về giải thưởng Bookish Best?

Được biết Bookish Best là một giải thưởng văn học mới được thành lập tròn một năm nhưng mang nhiều ý nghĩa đặc biệt đi cùng với cộng đồng – hầu hết là những bạn trẻ thực sự yêu, dành nhiều tâm huyết với sách vở. Bookish Squad có hơn 13.000 thành viên mà tôi cũng “nằm vùng” trong số đó. Ở giải thưởng này, độc giả những người trực tiếp thưởng thức văn học được cất lên tiếng nói, tự tay bình chọn cho những tác phẩm gần với trái tim của mình nhất.

Là một người viết trẻ, tôi mong sẽ có nhiều sân chơi hơn nữa, để thị trường sách Việt Nam thêm sắc màu, sôi động, gần hơn với độc giả trẻ tuổi, và dòng chảy xã hội.

Năm nay, Mai có theo dõi tình hình xuất bản trong nước không? Có cuốn sách của tác giả Việt Nam nào khiến bạn ấn tượng không?

Do sống học tập ở Nhật nhiều năm, tôi đã không có cơ hội đọc văn học trong nước trong một khoảng thời gian dài. Sau này khi có dịp tiếp xúc trò chuyện, với những cây bút trẻ có tiếng như chị Nguyễn Dương Quỳnh, Huỳnh Trọng Khang, Thái Cường, Phát Dương… Ở họ, tôi đều cảm nhận sự nghiêm túc, trăn trở với nghề. Những bạn văn tôi được tiếp xúc đều sáng tạo, nghị lực, khiến tôi học hỏi nhiều.

Về văn học trong nước đã đọc gần đây tôi ấn tượng với tập truyện Chuyến Bay Tháng Ba của tác giả Lê Khải Việt, Chopin biến mất của Hiền Trang. Và đặc biệt tôi quá yêu mến Đà Lạt bàng bạc, ẩn hiện trong cuốn Thành phố những lục địa bay của tác giả Nguyễn Vĩnh Nguyên.

Là một người viết, khi đọc tác phẩm Thành phố những lục địa bay, bạn có học hỏi được gì về kĩ năng viết không?

Như đã nói, tôi thích chất thơ man mác lạnh như sương mù trên đỉnh núi, phảng phất trong từng câu văn, nhịp điệu của cuốn sách này.

Từng câu chữ không hề nhắc đến danh từ Đà Lạt, nhưng thành phố ấy vẫn hiện ra trong từng lát cắt mỏng, rồi nhẹ nhàng len lỏi vào lòng người như những hơi thở nhẹ. Vì tôi luôn nghĩ cuốn sách đẹp nhất, ý nghĩa nhất không phải nằm im lìm trên những ngôn từ trang giấy, mà sẽ không ngừng sinh sôi nảy nở trong tâm trí người đọc theo trải nghiệm của cá nhân nên rất ấn tượng với tập truyện mỏng của anh Nguyễn Vĩnh Nguyên.

Thành phố những lục địa bay là một thực hành của nhà văn Nguyễn Vĩnh Nguyên về việc phá vỡ ranh giới những thể loại, bất phân giữa hư cấu và phi hư cấu. Mai nghĩ gì về thực hành này? Bạn có cảm hứng muốn thực hành thủ pháp này cho những truyện sắp tới của mình không? Nếu có thì đâu sẽ là địa danh được bạn chọn lựa?

Tôi cảm nhận Thành phố những lục địa bay là cuốn sách rất đặc biệt bởi lẽ nó đã phá vỡ ranh giới của các thể loại. Độc giả khi lần đầu bước vào thế giới trong sách sẽ đầy nghi hoặc: Truyện ngắn? Tất nhiên không rồi. Hư cấu? Không hẳn, cũng không phải tản văn hay phi hư cấu. Những nhà nghiên cứu sẽ không gọi đó là Haiku hay truyện cực ngắn dù rất gần trong bản chất.

Và đáp án dành cho mỗi người có lẽ là, thực ra không cần phải quá chú trọng vào ranh giới giữa các thể loại văn học. Giữ trí tưởng tượng của chúng ta vượt qua những khuôn khổ, vượt qua những giới hạn, biết đâu đó là vùng đất văn chương thực sự?

Tôi được tác giả tặng tập truyện này trong một chuyến về Việt Nam chơi, khi đang ấp ủ viết cuốn truyện mới về thành phố tôi đang sống – Tokyo. Đó là tuổi trẻ hoang hoải đầy rực rỡ và cũng nhiều vấp ngã tôi đã trải qua, và vẫn muốn khám phá thêm. Giống như một cái Duyên vậy, nên tôi cũng muốn học hỏi một chút thôi vào tập truyện mới của mình. Không, tôi sẽ không phân tích bút pháp cụ thể để cố “bắt chước” cho giống đâu, mà muốn mình học tập từ trong vô thức khi đã gấp sách lại, để thời gian lắng xuống. Tập truyện mới về Tokyo của tôi sẽ đi giữa vùng đất của những địa danh hiện thực và trí tưởng tượng.

Mai có thường xuyên theo dõi tình hình xuất bản ở Nhật không? Nếu có thì năm vừa qua, có cuốn sách nào mới xuất bản khiến bạn ấn tượng không? Bạn có nhận thấy thị trường sách ở Nhật có điểm nào hay mà thị trường Việt còn đang thiếu không?

Tôi rất thích không gian của những chuỗi nhà sách lớn, lâu đời của Nhật như Maruzen, Kinokuniya, Junkudo… Mỗi khi đến đó tôi đều cảm nhận được văn hóa đọc, niềm say mê với sách của người Nhật không thể diễn tả thành lời. Nhà sách là nơi những cuốn sách ấy thực sự sống, theo kịp với những thay đổi của xã hội theo đúng nghĩa đen.

Vì yêu sách nên mỗi năm tôi đều theo dõi hai giải thưởng văn học uy tín, lớn nhất của Nhật Bản cũng đồng thời tượng trưng cho hai trường phái văn học Nghệ Thuật và Đại Chúng là: Giải thưởng Akutagawa và Naoki.

Tôi thích hầu hết những tác phẩm bước ra từ giải thưởng này như: Hibana (2015, tác giả Naoki Matayoshi), Konbini ningen (2016, tác giả Sayaka Murata)… nhưng gần đây, đặc biệt ấn tượng cuốn tiểu thuyết tâm lý ngắn Oishigohan ga taberaremasu youni (tạm dịch: Để thưởng thức được thức ăn ngon) của nữ tác giả 34 tuổi Junko Takase, vừa mới đoạt giải Akutagawa năm 2022. Tôi nghĩ sự phức tạp của tính cách và mối quan hệ chân thành, vừa đối nghịch vừa gắn bó giữa bộ ba nhân vật, được miêu tả tinh tế thông qua những món ăn trong cuốn sách này sẽ chạm đến trái tim của nhiều độc giả trẻ tuổi.

Được biết bạn đang viết một tập truyện ngắn xoay quanh đời sống du học sinh ở Nhật và có dự định xuất bản thời gian sắp tới. Bạn có thể chia sẻ một chút điều mình tâm đắc về tác phẩm này không?

Như đã đề cập ở trên, tập truyện ngắn tôi đang viết mang tên Tokyo, khi những cánh hoa anh đào rơi. Tôi đã muốn khai thác sâu hơn những vùng đất mới mẻ, đầy thách thức chưa nhiều người tìm đến, những vấn đề gai góc nhất của tuổi trẻ như: tình một đêm, xăm mình…

Tập truyện này gồm 10 truyện ngắn nhỏ, về cuộc sống, tình yêu, tâm tình của những người trẻ ở Nhật Bản. Ở đó, tôi đã muốn khắc họa một thế giới nơi tuổi trẻ có những niềm đau, cô đơn nỗi sợ hãi, nhưng cũng sẽ tràn đầy tình yêu, sự tươi sáng, ấm áp trên nền thành phố nổi tiếng của Nhật Bản như: Tokyo, Fukuoka, Kyoto.

Cảm ơn Mai đã dành thời gian để tham gia cuộc trò chuyện với Bookish Best.

Đọc bài viết

Chuyện người cầm bút

Nhật Chiêu: Truyện tuyệt ngắn không dễ viết

Published

on

By

Lời tiên tri của giọt sương (xuất bản năm 2011) do nhà văn Nhật Chiêu chấp bút là tập truyện tuyệt ngắn và truyện một câu đầu tiên được xuất bản ở Việt Nam. Qua đó, Nhật Chiêu cũng là một trong những nhà văn tiên phong cho thể loại này ở Việt Nam. Bookish đã có cuộc trao đổi với nhà văn về truyện tuyệt ngắn.

Tại sao ông lại viết truyện tuyệt ngắn?

Có người gọi truyện tuyệt ngắn và truyện một câu là Hint fiction, tức là truyện có số lượng trên dưới khoảng 25 từ, là loại truyện khơi gợi một cái gì lớn hơn và phức tạp hơn với số lượng chữ ít ỏi nhất. Trong văn chương, tôi thích những gì khơi gợi hơn là những gì thuyết lí, phô bày lộ liễu. Sự khơi gợi sẽ đưa ta đến chân trời khoáng đạt, còn sự phô bày lộ liễu chỉ là hủy diệt mà thôi.

Có nhiều ý kiến cho rằng khi chuyển sang viết truyện tuyệt ngắn là ông đang chọn hướng đi dễ dãi với mình hơn, ông viết truyện tuyệt ngắn vì ông không thể viết những truyện dài. Ông nghĩ sao về ý kiến này?

Truyện một câu không hề dễ như người ta tưởng tượng. Bởi vì ngay cả trên thế giới, dù thể loại này đã tồn tại trước Việt Nam thì số lượng tác giả thành công cũng như tác phẩm thành công là rất hiếm. Nếu hỏi truyện một câu trên thế giới mà được nhớ đến và thường được trích dẫn thì chỉ có một, hai trường hợp. Trong đó, có Augusto Monterroso - tác giả Guatemala với truyện một câu: Khủng long gồm 8 chữ chữ như sau: “Thức dậy, con khủng long vẫn còn đó.” Truyện này được nhiều nhà văn lớn, trong đó có Italo Calvino ca ngợi hết lời, là đề tài cho nhiều tiểu luận khác nhau. Nếu truyện một câu là dễ dàng thì thử hỏi vì sao ít truyện một câu đạt được thành tựu đến thế. Người ta vẫn nói thơ Haiku dễ làm nhưng thật ra có bao nhiêu bài thơ Haiku được nhớ đến như là tuyệt tác. Tại sao quanh đi quẩn lại cũng chỉ là Basho, Issa, Buson, Shiki? Cho nên hãy cứ tạm xem truyện một câu hoặc hai, ba câu cũng giống như trường hợp thơ Haiku. Dễ hay khó không chắc gì quyết được và cũng chẳng cần tranh luận. Ai cảm thấy nó dễ thì cứ thử viết chơi vài trăm truyện. Thế thôi, bao giờ cũng vậy, dễ nhất là nói. Làm lại là một chuyện khác.

Trong văn học của nhiều nước vẫn luôn luôn tồn tại những nhà văn chỉ viết truyện ngắn. Như vậy, ngắn hay dài không phải là thước đo và thật sự càng ngày càng có xu hướng nhiều nhà văn viết truyện tuyệt ngắn. Tôi có rất nhiều tập truyện tuyệt ngắn của nhiều nhà văn loại này như Augusto Monterroso hoặc như tập truyện Hint fiction do Robert Swartwood tuyển của nhà xuất bản lừng danh Norton, hoặc các tập sách mang tên Flash fiction, Micro fiction…Mỗi ngày tôi đều đọc một vài truyện tuyệt ngắn hoặc truyện một câu của các nhà văn trên thế giới mà tôi đã may mắn sưu tầm được và càng đọc tôi càng thấy khó viết. Đó là ý kiến của tôi.

Là người đi tiên phong ở thể loại truyện tuyệt ngắn, trong quá trình viết, điều gì khiến ông cảm thấy khó khăn nhất?

Do thói quen thường xuyên đọc thơ Haiku và công án Thiền tông, đôi khi chỉ có vài từ hoặc chỉ duy nhất một từ, tôi từng ao ước trong thể loại truyện này cũng có những hình thức tương tự. Nhưng vấn đề là làm sao để cho dài ngắn thế nào thì truyện cũng phải có cái gọi là diễn biến truyện, nghĩa là có tính chất tự sự. Muốn vậy, phải có phương pháp, có cách sử dụng ngôn từ đặc biệt. Nếu không thì mọi sự sẽ thành nhảm và ai cũng làm được dễ dàng. Ví dụ: truyện có chữ Đất sẽ chẳng có nghĩa lí gì nếu như nó không có một tiêu đề thích hợp để gợi lên một vận động của truyện. Tiêu đề ở đây là Sử thi nàng Sita và “toàn văn” của truyện nhờ cái tiêu đề đó mà phát tiết ý nghĩa.

Khó khăn lớn nhất theo tôi vẫn là làm sao để nó đến được với người đọc một cách thuyết phục. Điều này không một tác giả nào có thể nắm chắc. Có những cái thuộc về thói quen, thành kiến, tầm đón đợi, thiếu thông tin… sẽ là những chướng ngại cho việc người đọc bước vào văn bản mà không e dè. Còn trong khi sáng tác, tôi cảm thấy mình quen thuộc với thể truyện tuyệt ngắn như thể có “nhân duyên gắn kết” - theo cách nói của Hoàng Lương, người viết lời bạt cho Lời tiên tri của giọt sương.

Ảnh: Thiên Kim
Bài viết: Kodaki

Đọc bài viết

Cafe sáng