KOMOaudio

Chương 1 “Quốc gia tái thiết” – Jonathan Tepperman

Trong tác phẩm Quốc gia tái thiết, trưởng ban biên tập của Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ Jonathan Tepperman đã nêu ra mười vấn đề khó khăn, tưởng như vô vọng, mà các quốc gia phải đối mặt, đồng thời giới thiệu mười giải pháp tiềm năng dựa trên những câu chuyện thành công từ các nhà lãnh đạo và chính phủ khác nhau trên thế giới.

Published

on

Chi tiết tác phẩm

Trích từ: Quốc gia tái thiết

Tác giả: Jonathan Tepperman

Đơn vị giữ bản quyền: Phương Nam Book

Xuất bản: Tháng 12.2019

Giới thiệu sách:

Con người hiện đang sở hữu nhiều công nghệ tối tân và có khả năng sống lâu hơn bao giờ hết. Chúng ta đã thừa kế di sản của hàng triệu năm tiến hóa, và đó là một phước lành vượt xa khả năng hiểu biết của chính chúng ta. Song, không ít nhà nghiên cứu cho rằng xã hội loài người đang bước vào thời kỳ suy giảm đáng báo động. Tình trạng dân nhập cư, người tị nạn, sự nghèo đói và bệnh tật gia tăng đã gây nên nỗi kinh hoàng khắp thế giới. Các chính phủ đã đối mặt với những vấn đề nan giải đó ra sao?

Trong tác phẩm Quốc gia tái thiết, trưởng ban biên tập của Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ Jonathan Tepperman đã nêu ra mười vấn đề khó khăn, tưởng như vô vọng, mà các quốc gia phải đối mặt, đồng thời giới thiệu mười giải pháp tiềm năng dựa trên những câu chuyện thành công từ các nhà lãnh đạo và chính phủ khác nhau trên thế giới.

1

LỢI ÍCH CHO MỌI NGƯỜI

Brazil đã san sẻ sự giàu có của nó như thế nào

“NGHE NÀY.” LULA TỰA THÂN HÌNH CHẮC NỊCH trên tay vịn ghế ngồi và ghé mặt lại gần tôi, trừng mắt. “Đôi khi tôi làm cho những người bạn học thức của tôi phiền lòng khi nói ra. Nhưng người thầy số một trong đời tôi chính là người đàn bà đã sinh ra và chết đi trong mù chữ: mẹ tôi,” ông nói. “Với tất cả sự kính trọng dành cho các chuyên gia và học giả, họ chẳng biết gì về người nghèo cả. Họ biết nhiều về những con số thống kê, nhưng điều đó khác hẳn, anh hiểu không? Với người trí thức, việc dúi vào tay người nghèo 50 đô la là việc từ thiện; một học sĩ không có ý niệm gì về việc người nghèo có thể làm gì với nó. Nhưng đó là vì tại trường đại học, họ không dạy bạn phải quan tâm tới người nghèo như thế nào. Và đó là vì hầu hết các chuyên gia không bao giờ trải qua những gì mà người nghèo chịu đựng mỗi ngày. Họ không bao giờ phải đi làm với cái bụng đói. Họ không bao giờ sống trong ngôi nhà ngập nước, hoặc phải chờ xe buýt ba tiếng đồng hồ. Với các chuyên gia, một vấn đề xã hội như bất bình đẳng chỉ là những con số. Nhưng tôi tiếp lấy vấn đề xã hội đó và biến nó thành một vấn đề chính trị, vấn đề thực tế. Và rồi tôi cố gắng giải quyết nó.”

Đó là vào tháng 12 – mùa hè ở Brazil – Lula và tôi ngồi trong văn phòng riêng bề bộn của ông ở Ipiranga, một khu trung lưu hơi nhếch nhác của São Paulo. Tôi đến để hỏi ngài cựu Tổng thống Brazil – tên chính thức là Luiz Inácio Lula da Silva, mặc dù không ai gọi ông như vậy – rằng ông đã làm điều đó như thế nào. Làm cách nào Lula đã biến bất bình đẳng thành điều mà ông vừa mô tả như là vấn đề có thể xử lý về mặt chính trị – và rồi giải quyết nó thành công một cách đáng ngạc nhiên như vậy?

Cảm giác muốn tìm kiếm câu trả lời thật cấp bách. Suy cho cùng, sự bất bình đẳng thu nhập đã bùng nổ trên khắp thế giới trong những năm gần đây, trở thành nguồn cơn bất an vô cùng trên thế giới. Vực thẳm ngăn cách giữa giới siêu giàu và phần còn lại có vẻ mở rộng không vãn hồi ở hầu khắp mọi nơi. Và không ai biết phải làm gì với nó.

Một lý do cho sự bất lực này là tăng trưởng kinh tế – từ lâu được coi như chìa khóa để cải thiện sự thịnh vượng nói chung – đã không còn có tác dụng như mong đợi. Mặc dù các chính khách thường đổ lỗi cuộc khủng hoảng bất bình đẳng hiện nay cho Đại suy thoái và những dư chấn của nó, giả thuyết này không đứng vững được. Vì nếu bạn nhìn vào nhiều quốc gia với khoảng cách thu nhập đã mở rộng khủng khiếp trong vài năm qua, bạn sẽ đi đến phát hiện lạ thường: danh sách này bao gồm một vài nền kinh tế đang tăng trưởng nhanh nhất thế giới, như Trung Quốc.

Điều này có nghĩa là việc đưa các nền kinh tế đang chệch choạng của thế giới trở lại đúng đường hướng không thôi sẽ không giúp ích nhiều để thu hẹp các hố sâu thu nhập. Nó có thể chỉ càng tạo ra thêm nhiều Trung Quốc mà thôi. Để thật sự giải quyết vấn đề bất bình đẳng đòi hỏi cách tiếp cận sáng tạo và thông minh hơn nhiều.

Cuộc săn lùng chiến lược đã được tiến hành tốt, với các chuyên gia và các nhà lãnh đạo quốc gia ngày càng tuyệt vọng đang nặn óc tìm câu trả lời. Trong số những giải pháp được đề xuất đến nay, nổi tiếng nhất có lẽ là của Thomas Piketty, nhà kinh tế học siêu sao người Pháp đã kêu gọi áp đặt một loại thuế tài sản toàn cầu trong tác phẩm best-seller năm 2014 của mình.

Không khó để hiểu vì sao có nhiều người say mê ý tưởng này đến vậy. Nó đơn giản một cách cảm động, một tuyệt chiêu lấy của người giàu chia cho kẻ nghèo. Nhưng có hai vấn đề lớn với kế hoạch của Piketty, cũng như những phương pháp cực đoan tương tự đối với sự bất bình đẳng. Thứ nhất, chúng sẽ không bao giờ có tác dụng, vì những lý do chính trị lẫn chuyên môn; giới tinh hoa toàn cầu quá giỏi trong việc bảo vệ lợi ích của mình và né tránh những khoản thuế được cho là phải đóng.

Và thứ hai, những chiến lược gây tranh cãi như vậy là quá mức cần thiết.

Trong khoảng chục năm qua, Brazil đã chứng tỏ có một cách tốt hơn, ít cực đoan hơn, và thân thiện với thị trường hơn nhiều để chống lại sự bất bình đẳng. Phương pháp này đã được thử thách, và nó có hiệu quả.

Người đàn ông ngồi đối diện tôi trong ngày nóng nực ấy ở Ipiranga là người đã làm cho điều đó xảy ra, đã chủ trì một trong những cuộc cải biến xã hội thành công nhất, ít gây xáo trộn nhất mà thế giới từng chứng kiến.

TRONG ĐỜI THỰC, thậm chí còn hơn cả tiểu thuyết, mọi chuyện thường diễn ra theo những kịch bản có thể dự báo trước. Người đẹp lấy được chồng giàu. Chính trị gia gây quỹ được nhiều hơn với mái tóc dầy hơn thắng cuộc. Người giàu càng giàu thêm, và số còn lại bị chơi xỏ. Những chiến thắng khó khăn và bất ngờ thì cực hiếm hoi.

Song họa hoằn chúng vẫn xảy ra, và đây là một trong những trường hợp như vậy. Vì thế trước khi giải thích điều này diễn ra như thế nào – Brazil đã thành công ra làm sao – thật đáng để xem xét điều gì khiến cho cái kết có hậu này có vẻ khó tin, và do đó, truyền cảm hứng đến vậy.

Trước hết là bối cảnh của câu chuyện. Thật khó để hình dung Brazil ngày nay có thể là hình mẫu cho bất cứ cái gì. Quốc gia này là một mớ hỗn độn, tan tác bởi cuộc khủng hoảng này đến cuộc khủng hoảng khác. Khi mọi chuyện bung bét, quốc hội bị tê liệt và các lực lượng chính trị lao đao bởi các vụ bê bối tham nhũng cấp thượng tầng. Bản thân Lula đã bị nghi ngờ khi trở thành đối tượng của một cuộc điều tra mở rộng.

Hơn nữa, mãi cho đến rất gần đây, ý tưởng rằng Brazil có thể có điều gì đó để dạy thế giới về sự bất bình đẳng ắt hẳn nghe như một chuyện đùa. Trong nhiều thập kỷ, đất nước này không chỉ có vấn đề với sự bất bình đẳng mà thôi – bản thân nó vấn đề. Quốc gia lớn nhất Mỹ Latin này nằm trong số những nơi chốn bất bình đẳng nhất hành tinh, tình trạng đồng nghĩa với sự bất công xã hội tàn tệ. Hẳn nhiên rồi, nó được phú cho một nền dân số lớn, trẻ trung và dồi dào tài nguyên thiên nhiên (bao gồm vị trí thứ tám thế giới về dự trữ nước ngọt và nằm trong số các quốc gia có trữ lượng lớn nhất về dầu và khí đốt xa bờ). Nhưng khi nói tới việc phân phối của cải, Brazil làm tệ hơn mức mà bạn có thể tưởng tượng; ngay cả một Haiti bé nhỏ, chìm trong tăm tối còn công bằng hơn. Xuyên suốt những năm 1980 và 1990, mặc dù Brazil đã chuyển từ chế độ độc tài sang dân chủ và những cải cách táo bạo của Tổng thống Fernando Henrique cuối cùng đã đưa mức lạm phát phi mã xuống tầm kiểm soát, đại bộ phận dân chúng cùng khổ của nó vẫn kẹt cứng trong cảnh cơ hàn ở nông thôn và các khu ổ chuột ở thành thị trong khi một thiểu số may mắn vút bay trên những siêu đô thị không thể quản lý của quốc gia bằng trực thăng riêng. Khi thế kỷ mới bắt đầu ló dạng, khoảng một phần ba dân số Brazil sống lay lắt dưới lằn ranh đói nghèo của thế giới (thường được định nghĩa bằng mức sống dưới 2 đô la một ngày), và khoảng 15% dân chúng sống cảnh bần cùng (dưới 1,25 đô la mỗi ngày).

Nhưng đó là thời khắc mà Brazil rốt cuộc bắt đầu thay đổi, thoạt đầu chậm chạp và sau đó với tốc độ khủng khiếp kể từ năm 2003. Đến năm 2011 nền kinh tế của nó, nhờ có những cải cách của Cardoso và sự khích lệ sau đó của Lula, đã tăng trưởng với tốc độ đáng kể 4% một năm và tỉ lệ thất nghiệp xuống thấp kỷ lục. Và lần này, phúc lợi đã thật sự được sẻ chia rộng rãi. Trong cùng giai đoạn này, gần bốn mươi triệu người Brazil đã thoát khỏi đói nghèo để gia nhập tầng lớp trung lưu. Thu nhập bình quân hộ gia đình tăng vọt lên 27%. Và, có lẽ ấn tượng nhất, mức độ bất bình đẳng hạ thấp đột ngột – trong khi nó đang tăng lên ở hầu khắp mọi nơi.

ĐIỀU GÂY KINH NGẠC không kém tốc độ của cuộc chuyển biến này là nhân dạng của người đàn ông chịu trách nhiệm nhiều nhất về nó.

Trước khi dính phải các vụ bê bối gần đây, Lula đã trở thành hình tượng nổi bật – trong năm 2012 ông rời nhiệm sở với tỉ lệ ủng hộ 87%, không lâu sau khi Tổng thống Obama gọi ông là “nhà chính trị được yêu mến nhất hành tinh” – đến nỗi thật khó để nhớ việc ông từng là nhân vật gây phân cực ra sao vào năm 2002, khi chiến dịch đưa ông vào chức vụ tổng thống bắt đầu khởi động. Râu ria tua tủa và ánh mắt dữ dội, với thân thể của một công nhân bốc vác thấp bè, ứng viên này gây hoang mang cho giới tinh anh Brazil, các tập đoàn, các nhà đầu tư, và nhiều đối tác ngoại quốc của nó – nhất là Mỹ.

Vấn đề nằm ở cá nhân con người. Trong khi vị tiền nhiệm của Lula, Cardoso, là người chủ trương ôn hòa và một học sĩ lịch thiệp, Lula lại xù xì và thô ráp đến mức người ta có thể tưởng tượng được nơi ông có một điều gì đó mà ông không hề cố gắng che giấu. Thực vậy, ông là người con kiêu hãnh của miền đông bắc cơ cực của đất nước. Sinh năm 1945 tại bang Pernambuco khô cằn sỏi đá, Lula là con thứ bảy trong tám anh chị em. Gia đình ông lay lắt cơ hàn và càng khốn đốn hơn nữa khi mà, không lâu sau khi Lula chào đời, cha ông bỏ nhà ra đi và chết trong cảnh nát rượu. Điều này đã đẩy cả gia đình lâm vào bế tắc đến nỗi vị tổng thống tương lai đã buộc phải bỏ học sau khi xong lớp hai để đi đánh giày. Năm mười tuổi ông tự học đọc, và năm mười bốn tuổi Lula bằng cách nào đó đã tìm được việc làm trong một nhà máy, nơi ông mất ngón tay út trái sau vụ tai nạn lao động. Không lâu sau đó, ông đã để hết tâm trí vào phong trào lao động mạnh mẽ ở Brazil và tìm thấy thiên hướng của mình. Thăng tiến nhanh chóng qua các cấp bậc của Công đoàn Luyện kim São Bernardo, Lula đã trở thành nhà lãnh đạo của tổ chức này vào tuổi ba mươi. Và vào năm 1980 – thời điểm Brazil vẫn còn bị thống trị bởi tập đoàn quân sự – ông đã giúp sáng lập Đảng Công nhân cánh tả (được biết đến là đảng PT, viết tắt tiếng Bồ Đào Nha) trong niềm hy vọng trao cho tầng lớp bị áp bức tiếng nói mạnh mẽ hơn trên vũ đài chính trị quốc gia.

Đến thời điểm cuộc bầu cử năm 2002, Lula đã ra tranh cử tổng thống – và thất bại – những ba lần. Dù không bao giờ là một nhà Marxist (khác với nhiều đồng chí trong đảng PT), các chiến dịch trước đó của ông nổi bật lên bởi lời kêu gọi quốc hữu hóa ngành công nghiệp và cho vỡ nợ quốc gia. Với luận điệu như vậy cộng với gốc gác cần lao và chiến dịch vận động cùng lời hứa xóa bỏ đói nghèo, Lula đã hoàn toàn làm kinh hãi giai cấp giàu có ở Brazil và các nhà tư bản nước ngoài khi ông rốt cuộc nổi bật lên trong các cuộc thăm dò ý kiến. Như Mac Margolis, nhà báo kỳ cựu ở Rio, nhớ lại, sự trỗi dậy của Lula khiến cho nhiều người Brazil – vốn lo sợ “người đàn ông râu ria bù xù của liên minh cánh tả sẽ giành được ghế tổng thống và biến Brazil thành một Cuba ngoại cỡ” – toát mồ hôi hột.

Bất chấp việc bản thân Lula quả quyết rằng “Brazil đã thay đổi, đảng Công nhân đã thay đổi, và tôi đã thay đổi,” ít người tin vào điều đó. Ở Hoa Kỳ, đảng viên Cộng hòa Henry Hyde, chủ tịch Ủy ban Quan hệ Quốc tế Hạ viện, đã cáo buộc ông là một “người cực đoan thân Castro.” Còn Goldman Sachs bắt đầu công bố một “Lula thử biểu” với mục đích theo dõi rủi ro cho các nhà đầu tư nếu đảng PT giành thắng lợi. Ngay cả George Soros cũng đã cảnh báo rằng chiến thắng của Lula sẽ mang đến sự hỗn loạn. Các ngân hàng ngoại quốc dễ hoảng sợ bắt đầu cắt giảm tín dụng. Và nền kinh tế yếu ớt của Brazil, vốn vừa bắt đầu hồi phục, đã quay đầu lặn sâu. Các chỉ số chứng khoán chính lao dốc 30%. Các nhà đầu tư cũng bắt đầu bán tháo cổ phần, khiến cho dòng vốn 12 tỉ đô la chảy ồ ạt ra khỏi quốc gia chỉ trong vài tháng. Và đồng real của Brazil giảm giá trị 40% so với đồng đô la Mỹ, chạm mức thấp chưa từng có vào thời điểm sắp khép lại năm 2002.

Song người Brazil đã đủ mệt mỏi với kết cấu xã hội phong kiến ở quốc gia này và nỗi đau đớn gây ra bởi các cải cách cấu trúc và những biện pháp khắc khổ cần thiết nhưng không được lòng người của Cardoso khiến cho Lula rốt cuộc vẫn giành chiến thắng. Khi người đàn ông xù xì của liên minh chuẩn bị nhậm chức và nền kinh tế tiếp tục oằn mình dưới phong ba bão táp, quốc gia này đã chuẩn bị tinh thần cho một cuộc đương đầu bi tráng tất phải đến.

NHƯNG MỘT SỰ THỂ KHÔI HÀI đã xảy ra: cơn đại chấn đó không bao giờ đến.

Lula quả thực đã nhậm chức với cuộc cách mạng nung nấu trong đầu. Nhưng nó hóa ra là một kiểu chuyển biến rất khác so với điều mà những người bảo thủ chỉ trích ông lo sợ. Cả những thất bại trước đó lẫn những phản ứng xấu xí dành cho chiến thắng sau cùng của ông đều không làm suy yếu cam kết của Lula đối với việc thay đổi xã hội. Nhưng – và xem ra đây là chữ nhưng then chốt của toàn bộ câu chuyện – chúng đã thay đổi sâu sắc cách thức ông hoạch định để làm cho sự thay đổi ấy diễn ra. Tất cả những sự thất bại và tranh cãi bủa vây đã thúc đẩy Lula nghiêm túc tiến hành tự vấn lương tâm. Giữa những năm 1993 và 2001, ông và José Graziano da Silva, một nhà nông học hói đầu đậm râu gốc Mỹ vốn là một trong những cố vấn thân cận nhất của ông (dù cùng họ Silva, hai người này không phải họ hàng), đã đi khoảng 90.000 kilômét khắp Brazil trong những chuyến vi hành mà họ gọi là caravanas da cidadania. Và vị chính khách đã xuất hiện như một người ôn hòa, đầy tinh thần hòa giải, và lọc lõi về chính trị hơn nhiều khiến hầu hết mọi người không kịp nhận ra.

Trong tất cả những bài học mà thất bại đã dạy cho vị tổng thống mới, bài học quan trọng nhất là ông sẽ không bao giờ tiến xa nếu cố cai trị vì lợi ích của chỉ một phần Brazil mà thôi. Nếu muốn sử dụng quyền hành mới được trao để thật sự thay đổi tình hình, trước hết ông phải lôi kéo về mình nhiều người hoài nghi có thế lực. Và điều này có nghĩa là phải tìm một phương án để đảm bảo sao cho công cuộc thay đổi làm lợi cho mọi người.

Và thế là kẻ kích động quần chúng đã hóa thân thành Người hòa giải vĩ đại. Lula gạt bỏ tất cả những diễn ngôn về vỡ nợ và tái phân phối của cải ra khỏi từ vựng của mình. Ông cắt tóc và bắt đầu mặc com lê. Và ông chấn chỉnh bản thân thành hình tượng mà Margolis gọi là “CEO-whisperer, người bạn của tầng lớp trung lưu, [và] người bênh vực nền dân chủ thị trường trọng pháp.” Dù bước dịch chuyển về phía tầng lớp trung lưu này đã gây ra nhiều tiếng lầm bầm trong nội bộ đảng PT – “nhiều thành viên trong đảng, và người trong các hiệp hội thương mại, hoàn toàn không thích ý tưởng này,” Lula nhớ lại – ông vẫn giữ vững niềm tin. Vào ngày nhậm chức, Lula đã cam kết bảo lưu các chính sách tài chính và tiền tệ chặt chẽ của Cardoso. Và không lâu sau lễ nhậm chức vào tháng 1 năm 2003, ông bắt đầu hành động, chỉ định Henrique Meirelles – cựu ủy viên quản trị được trọng vọng của BankBoston và thành viên trong đảng của Cardoso, đảng PSDB – điều hành ngân hàng trung ương Brazil. Ông cũng bổ nhiệm Antonio Palocci, một người ôn hòa khác, làm bộ trưởng tài chính. Đoạn Lula bắt đầu chĩa mũi dùi vào ngân sách quốc gia trương phình của Brazil, cắt giảm chi tiêu khoảng 4 tỉ đô la trong năm đầu và áp đặt một mục tiêu thặng dư ngân sách thậm chí khắt khe hơn mức Quỹ Tiền tệ Quốc tế đề nghị.

Kết quả nhìn thấy ngay lập tức. Nhiều địch thủ từng công kích ông xuyên suốt chiến dịch năm ngoái đã im hơi lặng tiếng. Vào tháng 3 năm 2003, Mohamed El-Erian, giám đốc điều hành của quỹ đầu tư trái phiếu khổng lồ PIMCO, tuyên bố rằng những nước đi đầu tiên của ngài tổng thống – “từ công bố chính sách, đến bổ nhiệm, và thi hành” – là “rất tốt.” Các thị trường tán thành điều đó; trong vòng sáu tháng sau lễ nhậm chức của Lula, giá trị trái phiếu Brazil đã tăng lên 20%. Ngay cả Goldman Sachs cũng ngượng ngùng thừa nhận rằng những cảnh báo trước đó của nó là sai lầm.

Tuy nhiên, cùng lúc ve vãn những gã lắm tiền nhiều của, Lula còn dốc sức trên một mặt trận khác, chuẩn bị sử dụng vốn liếng chính trị đang lên của mình để tiến hành một chiến dịch phúc lợi xã hội mới vô cùng tham vọng. Triển khai vài tháng sau khi đắc cử, chiến dịch Fome Zero (Không còn đói nghèo) bao gồm hơn bốn mươi chương trình khác nhau được điều hành bởi gần hai mươi bộ của chính phủ. Nhưng sáng kiến đứng ở vị trí nòng cốt của chiến dịch là Bolsa Família (Trợ cấp gia đình), một nỗ lực chống đói nghèo vốn mang tính đột phá với quy mô, sự tham vọng, và thiết kế của nó.

BOLSA FAMÍLIA KẾT HỢP vài sáng kiến tỏ ra có tính quyết định đối với thành công cuối cùng của chương trình – cả trên phương diện chính sách cũng như chính trị.

Trước hết, thay vì cấp cho người nghèo hàng hóa hay dịch vụ, như hầu hết chương trình phát triển khác lúc bấy giờ, Bolsa Família thử làm một điều gì đó táo bạo hơn nhiều: chỉ đưa tiền mà thôi. Brazil thật sự đã bắt đầu thử nghiệm phương pháp này vài năm trước đó. Năm 1995, hai thành phố Campinas và Brasília đã thực thi các chương trình phát-tiền-mặt trên cơ sở thử nghiệm. Chúng tỏ ra có hiệu quả trong việc cải thiện đói nghèo đến mức sớm được mô phỏng bởi hơn một trăm chính quyền địa phương khác. Và Tổng thống Cardoso đã cho thử nghiệm kế hoạch tương tự trên quy mô toàn quốc vào năm 2001, dù số tiền phát ra rất nhỏ và việc thực hiện có sai sót. Tuy vậy, kết quả vẫn đầy hứa hẹn khiến cho Lula, nghe theo lời khuyên của Graziano, quyết định gộp tất cả chương trình khác nhau này vào một sáng kiến quốc gia mới được tổ chức hợp lý – và mở rộng ra trên quy mô lớn hơn nhiều so với hình dung của hầu hết chuyên gia.

Bất chấp sự thành công của những thử nghiệm Campinas và Brasília, Bolsa Família gây tranh cãi kịch liệt khi Lula lần đầu thực hiện vào tháng 10 năm 2003. Lúc bấy giờ, hầu hết các chuyên gia và tổ chức quốc tế vẫn coi ý tưởng đưa tiền cho người nghèo là một sai lầm nguy hiểm. Đơn giản là theo trực giác, nó có vẻ gì đó kỳ khôi. Nó cũng ra mặt thách thức nhiều thập kỷ nghiên cứu khoa học xã hội và những gì mà Ngân hàng Thế giới từ lâu coi là cách làm tốt nhất. “Các chuyên gia không chấp nhận ý tưởng này,” Lula nhớ lại. “Họ thích cho người nghèo nhu yếu phẩm hàng ngày, hoặc làm cái gì đó cho họ hơn.” Như Lena Lavinas, nhà kinh tế học tại Đại học liên bang Rio de Janeiro, nói với tôi, đó là vì lý lẽ cho rằng “người nghèo không biết dùng nguồn lực một cách đúng đắn.” Dịch ra: người ta cho rằng người nghèo sẽ tiêu hoang số tiền vào rượu chè, thuốc lá, hoặc những món đồ lòe loẹt vô giá trị. Các nhà làm chính sách, không phải người dân, biết rõ nhất, vì vậy họ nên là người ra quyết định.

Thế nhưng ba cái nhìn sáng suốt đã thuyết phục Lula và các cố vấn của ông bác bỏ ý niệm này. Thứ nhất, kinh nghiệm của chính Brazil đã chứng tỏ rằng các nỗ lực trên quy mô lớn nhằm giảm đói nghèo thông qua phân phối hàng hóa, như chương trình lương thực đồ sộ mà Cardoso đã thực hiện vào cuối những năm 1990, thường rơi tõm vào các khuôn mẫu rắc rối và đắt đỏ. Việc cấp nhu yếu phẩm cho người nghèo là cực kỳ phức tạp, tốn kém, và không hiệu quả. Nó cũng đòi hỏi một bộ máy quan liêu cồng kềnh, vốn tạo ra vô số cơ hội cho sự tham nhũng – vấn nạn kinh niên ở Brazil.

Thứ hai, một vài cuộc nghiên cứu học thuật có tính bước ngoặt (mà về sau được xác nhận bởi hàng loạt nghiên cứu tiếp theo) bắt đầu củng cố điều mà Lula đã biết rất rõ: rằng người hiểu rõ nhất người nghèo thật sự cần gì là những người như mẹ ông – ấy là, bản thân người nghèo. Nghiên cứu mới cũng chứng tỏ rằng, khi được trao cơ hội, các gia đình cơ cực thường không chi tiêu hoang phí. Hầu hết chi tiêu khá hợp lý – nhất là khi số tiền ấy rơi vào tay người mẹ, không phải những người cha, như trong chương trình Bolsa Família.

Cuối cùng, Lula nhận thức rằng làn sóng tư hữu hóa đã quét qua Mỹ Latin trong những năm tám mươi và chín mươi – khi các chính phủ bán tháo hầu hết mọi thứ từ sân bay và nhà máy năng lượng cho đến các nhà cung ứng dịch vụ – đã bỏ mặc hàng trăm triệu dân thường tụt lại phía sau, vì quá nghèo để tham gia vào nền kinh tế thị trường đang rộng mở. Lula và đội ngũ cố vấn của ông cho rằng thay vì trải qua cơn ác mộng tái quốc hữu hóa các doanh nghiệp lớn, cách tốt nhất và đơn giản nhất để đảo ngược quá trình chặn cửa người nghèo này là cho một ít tiền mặt vào túi họ.

Vậy đó là điều mà họ quyết tâm làm.

NHƯ NGÀI TỔNG THỐNG và những phụ tá đã đặt định, tư cách để được hỗ trợ theo chương trình Bolsa Família rất đơn giản. Bất kỳ gia đình nào có thể chứng minh đang sống trong cảnh nghèo cùng cực – bấy giờ được định nghĩa là dưới 50 real (khoảng 42 đô la) một người mỗi tháng – sẽ đủ tư cách nhận tiền, cũng như những gia đình nghèo vừa phải vốn kiếm ít hơn 100 real mỗi đầu người.

Nhưng Lula cũng quyết định rằng Bolsa Família không đơn giản là phát tiền khơi khơi như thế. Tham gia vào chương trình là điều dễ dàng, nhưng để lưu lại với nó đòi hỏi phải làm việc. Những người tham gia sẽ phải đáp ứng vài điều kiện, hay contrapartidas (trách nhiệm bên tương ứng): đảm bảo rằng tất cả các con từ 6 đến 15 tuổi phải có mặt ở trường ít nhất 85% thời gian; đảm bảo mọi đứa con dưới 7 tuổi được chủng ngừa; và cam đoan rằng cả mẹ lẫn con đều đi kiểm tra y tế đều đặn. (Thai phụ cũng được yêu cầu đi khám thai và nuôi con bằng sữa mẹ.)

Lula có hai lý do rất thông minh để áp đặt những quy tắc ấy. Thứ nhất, trong khi bản thân ông có thể đào ra con đường thoát khỏi đói nghèo bằng chín đầu ngón tay của mình, ông biết rằng ông là một cá biệt may mắn khi làm được điều đó. Với hầu hết người Brazil, nhân khẩu học là định số: nếu bạn sinh ra trong nghèo đói, bạn cũng sẽ chết trong nghèo đói. Thực vậy, các nghiên cứu học thuật đương thời chứng tỏ rằng mối tương quan giữa số tiền cha mẹ kiếm được so với mức thu nhập sau này của con cái họ cao hơn ở Brazil so với hầu hết các quốc gia khác. Lý do cho sự thiếu cơ hội vươn lên này là nhiều người Brazil cảm thấy buộc phải để cho các con đi làm thay vì đến trường, ngay cho dù làm như vậy là tước đoạt của chúng những công cụ có thể giúp chúng cải thiện cuộc sống sau này. Lula quyết tâm phá tan cái bẫy nhiều thế hệ này bằng cách chống lại sự nghèo đói hôm nay ngày mai. Nói bằng ngôn ngữ thực tế, điều đó có nghĩa là tạo điều kiện – và đòi hỏi – các bậc cha mẹ trao cho con cái những lợi thế lớn lao, dưới dạng giáo dục, chăm sóc y tế, và dinh dưỡng, hơn là chính họ từng được hưởng.

Nhưng động cơ của Lula trong việc thiết kế Bolsa Família theo cách ông đã làm chỉ phần nào liên quan tới chính sách. Người hòa giải vĩ đại vừa tìm thấy nhiệt huyết với con đường trung dung này cũng đang ấp ủ một tư duy chiến lược: ông biết rằng điều kiện chặt chẽ đi kèm chương trình viện trợ của ông sẽ khiến nó dễ thuyết phục phần còn lại của xã hội hơn. Và ông biết mình cần mọi sự giúp đỡ có thể tìm được. Trước Lula, hầu hết các chương trình cứu trợ xã hội ở Brazil mang hình thức kế hoạch bảo hiểm vốn làm lợi một cách bất xứng cho các tầng lớp trung và thượng lưu (khó lòng đủ tư cách được hưởng trợ cấp chính phủ nếu bạn không làm việc trong nền kinh tế chính quy). Với Bolsa Família, đây là lần đầu tiên một Tổng thống Brazil thật sự đưa việc chống đói nghèo và bất bình đẳng vào trung tâm nghị trình (dù các chính trị gia trước đây từng làm điệu bộ với nó.) Điều này gần như đảm bảo một trận chiến khó tránh.

Quả nhiên, sự phản đối bắt đầu nổi lên ngay khi chương trình được giới thiệu vào đầu tháng 10 năm 2003. Bolsa Família chẳng những công khai thách thức thông lệ lâu nay, vả chăng một vài nhà kinh tế học còn biện luận rằng chính phủ nên đầu tư vào cơ sở hạ tầng như trường học thay vì chăm lo người nghèo bằng cách đưa tiền cho họ. Số khác nói rằng không nên chỉ bảo các bậc cha mẹ phải làm gì với con cái họ. Và các ngài học giả bảo thủ thì cảnh báo rằng việc trao tiền mặt sẽ tạo ra một tầng lớp sống bám vào phúc lợi, mà tiếng Bồ Đào Nha gọi là assistencialismo. (Đừng bao giờ quên sự kiện rằng ý tưởng trao tiền mặt đã được ấp ủ đầu tiên bởi thần tượng của cánh hữu, nhà kinh tế học người Mỹ Milton Friedman.) Như Tereza Campello, Bộ trưởng Phát triển Xã hội, nhớ lại, trong ngày đầu của chương trình Bolsa Família, những người chỉ trích liên tục công kích bà bằng một châm ngôn lạc hậu rằng dạy người ta cách câu thì hơn cho cá. “Phe đối lập cáo buộc chúng tôi sắp sửa tạo ra một đám người lười biếng,” Lula nói với tôi.

Hiến pháp Brazil cho tổng thống khả năng thực hiện Bolsa Família bằng chính thẩm quyền hành pháp của mình. Nhưng luật cũng quy định rằng ông cần sự phê chuẩn của quốc hội để thay mới chương trình trong vòng 1 năm. Điều đó có nghĩa Lula phải đảm bảo có được sự ủng hộ rộng rãi nếu muốn chương trình mang chữ ký của ông sống sót – và contrapartidas là chìa khóa để ông đạt được nó. “Ý tưởng ở đây là chứng minh rằng chúng tôi không trao tiền khơi khơi,” Lula giải thích với tôi. “Chúng tôi phải xây dựng lòng tin, ngay cả trong số những người hoài nghi về chương trình này.” Như Ariel Fiszbein và Norbert Schady, hai nhà kinh tế học của Ngân hàng Thế giới, ghi lại, điều kiện giúp Lula thực hiện điều đó chính là tạo ấn tượng phổ biến rằng Bolsa Família không phải là chiêu dỗ dành người nghèo, nhưng đúng ra là một kiểu giao ước xã hội mới theo đó những người thụ nhận phải làm phần việc của mình. Việc bắt người thụ hưởng thể hiện “bằng chứng rõ ràng của sự cam kết” với “những hành vi tích cực” mà chương trình yêu cầu khiến họ cảm thấy xứng đáng hơn, tạo cho công chúng cảm tưởng rằng họ đã kiếm được số tiền đó.

Tất nhiên, việc đơn giản công bố những điều kiện chính thức là chưa đủ; phải có cả hình phạt cho người không tuân thủ. Với mục đích đó, các kiến trúc sư của Bolsa Família đã thiết kế một hệ thống các mức phạt tăng dần cho những người không làm tròn phần việc của mình. Những người phá luật sẽ nhận được lời cảnh cáo; nếu họ vẫn không tuân thủ, phúc lợi sẽ bị đình chỉ, và nếu vấn đề tiếp diễn, họ rốt cuộc sẽ bị gạt khỏi chương trình.

Trong khi sắc lệnh như vậy trông có vẻ tốt trên giấy, Lula sớm phát hiện ra rằng để mọi người thật sự coi trọng chúng đòi hỏi liều thuốc mạnh hơn: bằng cớ không thể chối cãi là ban hành luật. Năm 2004, chính quyền Lula trở nên bận tâm tới việc mở rộng phạm vi chương trình (số người thụ hưởng tăng từ 3,8 triệu gia đình, hay gần 16 triệu người, vào cuối năm 2003 lên gần gấp ba năm 2006) đến nỗi nó đã thôi chú ý nhiều tới việc liệu những người thụ hưởng mới này có giữ vững cam kết của mình. Khi mà, một phần năm trôi qua, chính phủ phát hiện ra rằng chỉ có 55% số trường công lập Brazil báo cáo việc những người thụ hưởng Bolsa Família có đáp ứng được chỉ tiêu cho con đến trường, bèn quyết định tạm thời đình chỉ những nỗ lực giám sát hoàn toàn.

Lựa chọn này có thể gây cảm tưởng về sự quan liêu; chính quyền chỉ đang cố mua thời gian để dọn nhà cho ngăn nắp. Và điều đó quả thật là một thảm họa. Ngày 17 tháng 10, chỉ vài ngày trước cuộc bầu cử thành phố toàn quốc, Fantástico, chương trình thời sự tối Chủ nhật nổi tiếng đã phát phóng sự điều tra về những người nhận không xứng đáng đã lạm dụng chương trình Bolsa Família. (Hãy nghĩ tới những lời ta thán thời Reagan về các nữ hoàng phúc lợi lái Cadillac và bạn sẽ hình dung ra giọng điệu của bài phóng sự.) Cả thế giới truyền thông Brazil nhao nhao nhảy vào câu chuyện, lên án chính phủ từ khắp mọi nơi. Công chúng đùng đùng nổi giận; chỉ trong một tuần sau bài phóng sự của Fantástico, chính phủ đã nhận được vài ngàn lời kêu ca giận dữ.

Cảm nhận sự nguy hiểm, Lula quyết định đương đầu trực diện với những người chỉ trích. “Chúng tôi đã rút ra bài học nào từ thời khắc này? Sự khiêm tốn,” ông nói với tôi. “Bạn phải thừa nhận rằng một chương trình rất lớn sẽ có những sai sót. Bạn phải thú nhận chúng. Và sau đó bạn phải sửa chữa.” Với mục đích đó, Lula lập ra Bộ Phát triển Xã hội mới (được biết đến bởi từ viết tắt tiếng Bồ của nó, MDS) để tập trung giám sát Bolsa Família. Rời bỏ truyền thống chính trị bảo trợ bấy lâu của Brazil, ông bố trí nhân lực cho bộ mới với các nhà kỹ trị được đào tạo tới nơi tới chốn (bao gồm nhiều thành viên của đảng PSDB đối lập) thay vì những cánh hẩu cùng đảng phái. Vào tháng 1 năm 2005, ông đích thân chủ trì một chiến lược liên bộ hoàn toàn mới nhằm cải thiện việc thực thi Bolsa Família; trong số những biện pháp khác, ông thiết lập một cơ quan đăng kiểm thống nhất toàn quốc để theo dõi mọi người từng hưởng trợ cấp chính phủ dưới mọi hình thức, tập trung vào các tiêu chuẩn thích hợp của Bolsa Família, tiến hành các cuộc kiểm toán chính quy và kiểm tra đột xuất, lập ra các ủy ban giám sát công dân và những đường dây nóng, và yêu cầu người tham gia chương trình phải được chứng thực lại mỗi 2 năm.

Đến giữa năm 2006, việc giám sát và thực thi đã cải thiện mạnh mẽ: vào tháng 6 năm đó, MDS đã gạt khoảng nửa triệu người nhận không đủ tư cách ra khỏi danh sách. Người Brazil chú ý, và bị ấn tượng. Làn sóng chỉ trích Bolsa Família nhanh chóng lắng dịu, và sự ủng hộ của công luận dành cho chương trình bắt đầu tăng lên. Thật vậy, một phân tích năm 2010 về dữ liệu thăm dò và luận bàn của truyền thông đối với Bolsa Família của Kathy Lindert và Vanina Vincensini, hai chuyên gia từ Ngân hàng Thế giới, cho thấy rằng bằng việc áp đặt những điều kiện viện trợ nghiêm ngặt, chính quyền Lula đã hợp pháp hóa Bolsa Família với các cử tri Brazil, tạo ra sự nhiệt tình rộng khắp đối với nó từ cả hai đầu của phổ chính trị.

CŨNG HỮU DỤNG như là contrapartidas trong việc nâng cao tính phổ biến của Bolsa Família, có hai sự đổi mới khác tỏ ra quan trọng không kém.

Thứ nhất, với tất cả tham vọng của mình, Bolsa Família đã, và vẫn rẻ bèo so với hầu hết các chương trình phúc lợi xã hội ở Brazil và nhiều nơi khác. Hôm nay, hơn một thập niên sau thực hiện, Bolsa Família đã vươn ra với khoảng 14 triệu gia đình, chừng 55 triệu người Brazil – một con số khổng lồ. Song vì Lula và đội ngũ cố vấn của ông nhận ra rằng chỉ cần một số tiền rất nhỏ để tạo nên một khác biệt rất lớn trong cuộc sống một gia đình nghèo, các khoản thanh toán cá nhân (vốn khác nhau tùy theo thu nhập và số nhân khẩu trong gia đình) là rất nhỏ: mỗi người nhận bình quân chừng 65 đô la một tháng, và mức trợ cấp cao nhất là 200 đô la. Kết quả, “tổng số tiền chi cho Bolsa Família” – bất chấp quy mô của nó – “là con số không,” như lời của Yoshiaki Nakano, chủ nhiệm khoa kinh tế của Viện nghiên cứu Getúlio Vargas Foundation ở São Paulo. Đây tất nhiên là lối nói cường điệu, nhưng không nói quá. Sự thật là một trong các chương trình chống đói nghèo tham vọng nhất thế giới hiện tiêu tốn của người đóng thuế Brazil chưa tới phân nửa của một phần trăm tổng GDP 2,2 ngàn tỉ đô la của đất nước – ít hơn nhiều so với mức 12% mà chính phủ chi cho trợ cấp hưu trí, chẳng hạn (một cơ chế hỗ trợ kém tiến bộ hơn nhiều). Mặc dù khó có thể thực hiện những so sánh chính xác trên bình diện quốc tế, song có bằng chứng cho thấy rằng Bolsa Família là một trong những chương trình chống đói nghèo rẻ nhất so với bất kỳ đâu. Thực vậy, nghiên cứu năm 2011 của chính phủ Anh xác nhận rằng chương trình Bolsa Família tiêu tốn của quốc gia ít hơn 30% mỗi đầu người so với các chương trình viện trợ truyền thống, một phần nhờ chi phí hành chính tối thiểu của nó.

Một khía cạnh sau cùng trong thiết kế của Bolsa Família cũng giúp Lula giành được sự ủng hộ rộng khắp: chương trình có kết cấu sao cho rốt cuộc nó sẽ làm lợi cho tất cả người Brazil, chứ không chỉ tầng lớp dưới cùng. Như Lula giải thích khi ông lần đầu giới thiệu Bolsa Família, “Khi hàng triệu người có thể đến siêu thị để mua sữa, mua bánh mì, nền kinh tế sẽ hoạt động tốt hơn. Những người cùng khổ sẽ trở thành người tiêu dùng.” Bằng việc trao tiền để người nghèo chi tiêu theo cách họ muốn, Lula đã tạo ra điều mà Lavinas, nhà kinh tế học phúc lợi ở Rio, gọi là “một phương pháp chống đói nghèo thân thiện với thị trường.” Thực vậy, chính cây bút Joge Castaneda, cựu bộ trưởng ngoại giao bảo thủ của Mexico, người đã trở thành ký giả chuyên mục và tự nhận là nhà phê bình nghiêm khắc đối với lực lượng cánh tả Mỹ Latin, đã gọi Bolsa Família là một “chương trình phúc lợi sáng tạo” rất “tân tự do… như người ta có thể hiểu.”

Phương diện này của chiến dịch chống đói nghèo của Lula đã gây kinh ngạc cho những người chỉ trích ở cánh hữu, vốn vẫn hoài nghi ông. Nhưng nét thân thiện của Bolsa Família chỉ là một biểu hiện của đường lối phi chính thống tài tình mà Lula sẽ theo đuổi suốt nhiệm kỳ tổng thống của mình. Như Bernardo Sorj, nhà xã hội học tại Đại học São Paulo, đã diễn đạt với tôi vào một chiều nọ ở Rio, tài năng của Lula như một chính trị gia – và bí mật thành công của ông – là xem thường các tín điều truyền thống. Thiên khiếu lớn nhất của Lula, Sorj nói, là khả năng “không ở cánh tả lẫn cánh hữu, nhưng là một biến hóa sinh động, và một người hoàn toàn thực tế.” Né tránh ý thức hệ, cách tiếp cận cơ bản của Tổng thống Lula là “làm cho mọi người hạnh phúc.”

Là người nghiên cứu Lyndon Johnson (Tổng thống Hoa Kỳ thứ 36) kỹ lưỡng, Lula – người thậm chí đã thông tỏ thói quen của LBJ trong việc gây bối rối và dụ hoặc người đối thoại (trong suốt buổi phỏng vấn, ngài tổng thống nhiều lần chạm tay tôi để nhấn mạnh câu chuyện, sau đó bắt đầu siết chặt bắp tay, và rồi, về cuối buổi gặp mặt, nắm tay tôi liền mấy phút) – đồng thời còn là bậc thầy vận động lôi kéo, người thậm chí đã xoay sở để thu phục các nhân vật quốc tế đối lập như Tổng thống George W. Bush. Xuyên suốt nhiệm kỳ của mình, Lula đã tìm cách giữ vững các nguyên tắc nền tảng, mà ông phụng sự qua những chính sách xã hội tiến bộ, đồng thời (đặc biệt ở nhiệm kỳ đầu) chấp nhận thương đau để “tôn trọng các quy tắc căn bản của nền kinh tế tự do hiện đại,” như cách diễn đạt của Sorj. Trước tiên “thuần hóa” những kẻ cực đoan trong đảng, Lula sau đó cam đoan đi cam đoan lại với những thành phần kinh tế chủ chốt – các nhà đầu tư và các chính phủ nước ngoài – thông qua những chính sách kinh tế vĩ mô bảo thủ. Ông cũng ve vãn các doanh nghiệp lớn bằng cách, chẳng hạn, đưa ra những khoản vay lãi suất thấp cho các công ty lớn từ Ngân hàng phát triển quốc gia Brazil thuộc sở hữu nhà nước.

Kết quả là một danh hiệu độc đáo của cái mà El-Erian của PIMCO gọi là “chủ nghĩa dân túy theo nguyên tắc tài chính.” Lula không ngần ngại về điều mình làm. “Tôi không cảm thấy xấu hổ khi nói với bạn rằng dưới thời cầm quyền của tôi, mọi người đều thắng, từ người nghèo nhất cho đến người giàu nhất,” ông thổ lộ. Từ chối bị trói buộc bởi vấn đề đảng phái hay giai cấp, ngài tổng thống trước sau luôn tìm cách đạt được những thành quả lớn nhất cho số đông nhất. Ông biết mục tiêu này đôi khi có thể mất phương hướng. “Đôi khi những người bạn cũ tìm đến tôi và nói, ‘Coi nào, Lula! Ông từng là một công nhân ngành thép! Ông không khó chịu khi các chủ ngân hàng đang làm ra nhiều lợi nhuận đến thế ư?” ông kể lại. “Tôi sẽ nói, ‘Không – điều tôi lo lắng là liệu họ có đang thua lỗ hay không.’ Nếu có một điều mà tôi không lấy làm xấu hổ, đó là lợi nhuận. Nhưng tôi muốn mọi người biết rằng triết lý của tôi, từ thâm tâm, là của một người mẹ. Không ai công bằng hơn một người mẹ. Ngay cho dù có ba trăm đứa con, bà sẽ đối xử với tất cả như nhau. Đó là điều tôi thường nói với người dân: rằng tôi cai trị vì tất cả. Và tôi cảm thấy rất tự hào rằng tôi duy trì quan hệ tốt đẹp với mọi người: từ những điền chủ lớn nhất cho đến những người không ruộng đất; từ những chủ nhà băng lớn nhất cho đến nhân viên của họ.”

Chiến lược ấy thành công rực rỡ. Tính thực dụng không thương xót và cách tiếp cận mọi-người-cùng-thắng của Lula hẳn đã, trong vòng vài năm, biến ông thành “thần tượng của mọi người,” Sorj nói. “Ông đã xoay sở để trở thành người hùng tại Davos tại Diễn đàn Xã hội Thế giới” – một phiên bản dân túy của Diễn đàn kinh tế thế giới ở Thụy Sĩ. “Và đó là một kỳ công không dễ dàng.”

*

TRONG KHI CÁC MỸ TỪ bao dung trước sau như một của Lula hữu ích về mặt chính trị, người Brazil (như bao người dân khác) vẫn biết rằng nói thì dễ hơn làm. Chính việc tạo ra những thành quả mà rốt cuộc Lula đã thu phục được người dân. Với những thành quả đó – từ mức tăng trưởng GDP bình quân gần 4% xuyên suốt nhiệm kỳ đến thành công vang dội trong cuộc chiến chống đói nghèo và bất bình đẳng – là cực kỳ ấn tượng. Dù chi phí dành cho Bolsa Família có thể nhỏ bé, nhưng sức tác động của nó tỏ ra thật to lớn. Chẳng những nó sau cùng đã vươn ra tới hơn một phần tư tổng dân số (và 85% người nghèo), nhưng số tiền thanh toán, dù ít ỏi, đã làm tăng gấp đôi thu nhập của các gia đình cơ cực nhất. Trong 3 năm đầu tiên, Bolsa Família đã cắt giảm mức nghèo đói cùng cực xuống 15%, và đến năm 2014, tỉ lệ người Brazil sống trong cảnh bần cùng đã giảm từ 9% xuống dưới 3% – mức độ mà Ngân hàng Thế giới coi là tương đương với thành tích xóa đói giảm nghèo. Cùng lúc đó, Bolsa Família đã giúp đưa tổng cộng 36 triệu người thoát khỏi đói nghèo, tạo ra điều mà Matias Spektor, nhà khoa học chính trị và cây bút chuyên mục của tờ báo lớn nhất Brazil, Folha de São Paulo, mô tả với tôi là “cuộc chuyển biến mười năm lớn nhất đối với kết cấu giai cấp của một quốc gia kể từ trường hợp Nhật Bản sau Thế chiến II.”

Về phần bất bình đẳng, các nghiên cứu gần đây đã quy công Bolsa Família cho việc giúp thu hẹp khoảng cách thu nhập tổng thể xuống một phần ba và xếp nó là nhân tố đóng góp quan trọng thứ hai cho sự chuyển biến này sau sự tăng trưởng kinh tế nói chung. Theo Tereza Campello, Bộ trưởng Phát triển Xã hội, thu nhập của 20% dân nghèo nhất Brazil đã tăng lên 6.2% giữa những năm 2002 và 2013; trong khi thu nhập của 5% dân giàu nhất Brazil chỉ tăng có 2.6%. (Điều này tương phản sâu sắc với tình hình ở Hoa Kỳ, nơi, trong cùng giai đoạn, thu nhập của 10% dân giàu nhất tăng 2.6% trong khi thu nhập của 10% dân nghèo nhất giảm 8.6%.) Bất chấp chính phủ Brazil đã tiến hành một số chương trình hỗ trợ xã hội quan trọng khác bao gồm các biện pháp tăng lương tối thiểu đột xuất, và bất chấp nền kinh tế tăng trưởng cũng giúp ích đáng kể, hầu hết chuyên gia đồng ý rằng Bolsa Família xứng đáng được ghi công lớn vì đã cải thiện toàn diện cuộc sống người nghèo trong nước. Bolsa Família cũng tỏ ra là tấm đệm đỡ quan trọng khi mức tăng trưởng của Brazil đã chững lại trong những năm gần đây. Nền kinh tế tổng thể của quốc gia có thể bị tổn thương hôm nay, nhưng nhờ có lớp giảm xóc do Bolsa Família mang lại, đại đa số dân chúng không – hay chí ít không khốn khổ nhiều như họ đã từng với nhiều cuộc khủng hoảng trong quá khứ của quốc gia.

Bolsa Família cũng đã tạo ra những bước tiến dài về phía mục tiêu của Lula là chấm dứt vòng luẩn quẩn đói nghèo giữa các thế hệ: bằng việc giúp gia tăng tỉ lệ tiêm chủng lên đến 99% dân số, bằng việc hạ thấp tỉ lệ suy dinh dưỡng trẻ em ở những vùng nghèo nhất Brazil xuống 16%, và bằng việc gia tăng 26% khả năng đạt được mức-cân-nặng-theo-độ-tuổi lành mạnh. Tỉ lệ tử vong trẻ em đã giảm xuống 40% trong thập kỷ qua, đặc biệt tỉ lệ tử vong vì suy dinh dưỡng đã giảm 58% – một trong những mức giảm ấn tượng nhất từng thấy ở bất cứ đâu. Trong khi đó, số trẻ em bị buộc phải đi làm thay vì đến trường đã giảm 14%. Những người thụ hưởng Bolsa Família giờ đây tự hào có tỉ lệ tốt nghiệp cao gấp đôi con em nghèo nằm ngoài chương trình, và sáng kiến này được ghi nhận đã cải thiện tỉ lệ đến trường ở những vùng nghèo khổ nhất nước lên 14%. Một hệ quả đáng vui mừng: tỉ lệ biết chữ toàn quốc cũng tăng lên.

Chương trình này cũng đã tạo ra những thay đổi ít hiển nhiên hơn và khó tiên đoán hơn – dù không kém phần quan trọng – trong cuộc sống và thái độ của những công dân nghèo nhất. Nghiên cứu chứng tỏ rằng Bolsa Família đã trao cho phụ nữ Brazil nhiều quyền hạn hơn bằng việc để họ làm chủ các trương mục ngân hàng của gia đình; chẳng hạn, phụ nữ tham gia Bolsa Família có thêm 10% cơ hội để khẳng định đặc quyền đối với vấn đề tránh thai trong hôn nhân. Và chương trình dường như đã tạo tác động mạnh mẽ đến cảm thức tự chủ của người nghèo. Một khảo sát gần đây tiến hành với 1400 người thụ hưởng Bolsa Família trong ba thành phố khác nhau cho thấy rằng thay vì cảm thấy xấu hổ bởi sự lệ thuộc vào chương trình của chính phủ, ba phần tư số người thụ hưởng nói rằng họ tự hào được tham gia chương trình và rằng, bằng việc tạo điều kiện để họ chăm lo cho gia đình một cách tử tế mà không phải ngửa tay xin xỏ, Bolsa Família đã giúp họ “sống cuộc sống tự quyết và có phẩm cách hơn.”

Những người Brazil ghi danh trong chương trình thậm chí đã biểu đạt niềm tin sâu sắc hơn vào nền dân chủ của đất nước. Đây có vẻ là một kết quả kỳ lạ đối với chương trình phúc lợi, nhưng Spektor giải thích rằng Bolsa Família – vốn, nhờ có sự giám sát chặt chẽ và dùng thẻ ngân hàng điện tử để chuyển tiền, đã đánh bay tham nhũng một cách đáng khâm phục1 – “phá vỡ các cơ chế chính trị giam hãm người nghèo quá lâu trong cảnh bần cùng. Bolsa đã tống cổ những ông trùm móc ngoặc với chính quyền xuống địa ngục vì bỗng nhiên bạn có một nhóm rất nhỏ những người ở Brasília xa tít mù – tất cả đều có học vị tiến sĩ từ các trường đại học phương Tây – trao tiền trực tiếp cho người nghèo.” Trong cuộc trò chuyện của chúng tôi, Lula diễn đạt thẳng thừng hơn: “Một phần lý do Bolsa Família thành công như vậy là vì tiền được trao trực tiếp, không qua trung gian. Người nhận chỉ cần cầm thẻ tới ngân hàng để rút tiền nên họ không nợ ân huệ từ bất kỳ ai, dù đó là tổng thống, thống đốc, đại biểu quốc hội, hay thị trưởng.” Cuối cùng, đúng như Lula đã hứa, Bolsa Família mang đến sự kích thích đáng kể cho toàn bộ nền kinh tế. Bằng việc trao người nghèo tiền để chi tiêu, chương trình đã làm gia tăng mức tiêu thụ nội địa, một động lực kinh tế đặc biệt quan trọng đối với quốc gia như Brazil, vốn lảng tránh hầu hết hoạt động nhập khẩu. Trong khi phần lớn tiền được chi cho thức ăn, Lula nói rằng “trong số những người nhận phúc lợi theo chương trình Bolsa, 80% mua ti vi, 79% mua tủ lạnh, và 50% mua máy giặt. Bởi vậy cái dường như là chương trình chỉ dành cho người sống trong điều kiện của thế kỷ 18 đã giúp đáp ứng nhu cầu của các nhà sản xuất hiện đại, tạo ra hàng triệu việc làm. Mọi người đều thắng.” Điều này nghe có vẻ khoa trương, nhưng những con số không biết nói dối: các nhà kinh tế học tính toán rằng, kể từ khi thực thi, Bolsa Família đã gia tăng mức tăng trưởng GDP 1,78 real với mỗi 1 real chi tiêu.

DANH SÁCH DÀI những thành tựu hợp lại đã làm cho Bolsa Família được ưa thích một cách khó tin ở Brazil; các cuộc thăm dò cho thấy tỉ lệ tán thành nó vào khoảng 75%. Mọi người đều hạnh phúc với nó, Lavinas nói với tôi. “Người nghèo vì họ bớt nghèo, và người giàu vì chương trình này quá rẻ nên họ chẳng để tâm.” Ngay cả tầng lớp trung lưu, theo truyền thống là bộ phận bảo thủ nhất trong số cử tri Brazil, cũng chấp nhận Bolsa Família. Như Spektor lý giải, nhóm này “lớn lên trong một đất nước vốn luôn trở nên tồi tệ hơn. Khi Brazil dân chủ hóa [vào giữa những năm 1980], bạo lực gia tăng, bất bình đẳng gia tăng, lạm phát gia tăng. Chúng tôi bị cuốn vào suy nghĩ rằng mọi chuyện thật khủng khiếp. Nếu bạn hy vọng về một tương lai, bạn cần học tiếng Anh và biến khỏi đây. Giờ thì, bỗng nhiên, tôi lại thích ở đây hơn bất kỳ nơi nào khác. Và đó là nhờ Bolsa.”

Sự hăng hái trên mọi lĩnh vực như thế lần đầu được biểu thị trong suốt chiến dịch tái tranh cử của Lula năm 2006. Bất chấp các số liệu tăng trưởng kinh tế mạnh mẽ và sự ân cần vươn tay về cả cánh hữu lẫn cánh tả, Lula đã phải đương đầu với trận gió ngược dữ dội nổi lên trong cuộc đua. Hàng loạt các vụ bê bối tham nhũng gây bẽ mặt đã nổ ra trong năm 2005 và 2006, dẫn đến sự từ chức bắt buộc của nhiều người trong đội ngũ cố vấn cấp cao của ông. (Không liên quan tới những luận điệu gần đây xung quanh công ty dầu khí nhà nước, Petrobras, vụ bê bối lớn nhất cũng được biết đến là mensalão, là những cáo buộc cho rằng chính phủ đã thanh toán lợi tức hàng tháng cho các đồng minh trong quốc hội để mua chuộc sự ủng hộ của họ.) Những cáo buộc đã giáng một đòn nặng nề vào số phiếu của Lula, và nhiều nhà phân tích bắt đầu tiên đoán rằng ông sẽ thua trong hiệp đầu tiên (Brazil tổ chức bầu cử chia làm hai giai đoạn). Vậy mà khi người Brazil sau cùng đi bỏ phiếu, Lula chẳng những sống sót qua vòng đầu; ông nghiền nát đối thủ của mình, Geraldo Alckmin của đảng PSDB, tới 22 điểm trong cuộc đua thêm.

Lý giải? Bất chấp tất cả nỗi tức giận và bối rối trước thái độ thờ ơ rõ ràng của Lula với nạn hối lộ (sự thờ ơ sau này sẽ khiến ông gặp rắc rối hơn nữa), sau cùng vẫn có nhiều người Brazil chọn bỏ phiếu cho ví tiền của họ. Đặc biệt là với những người nghèo và ít học, đối tượng hưởng lợi nhiều nhất từ Bolsa Família. Theo một cuộc phân tích bầu cử được thực hiện bởi hai học giả Mỹ, Wendy Hunter và Timothy J. Power, 60% những người kiếm ít hơn năm lần mức lương tối thiểu chọn người đương chức trong năm đó, và Lula giành được tới 85% số phiếu của vùng đông bắc kém phát triển.

Việc những người Brazil với cuộc sống được đổi thay nhờ chính sách của chính phủ muốn đền đáp nhà hảo tâm của mình xem ra không có gì đáng ngạc nhiên. Nhưng bất chấp gốc gác của mình, màn trình diễn mạnh mẽ của Lula giữa những người nghèo năm 2006 đã thật sự phá vỡ khuôn khổ bầu cử trước kia. Trước năm đó, hầu hết các cử tri nghèo lảng tránh ông và đảng PT, mà họ coi là một đảng phái của những trí thức. Trên thực tế, dù xuất thân từ cánh tả, hầu hết những người ủng hộ Lula trong bốn chiến dịch trước đều đến từ những tỉnh giàu hơn của đất nước. Người nghèo đã luôn nhìn ông, theo lời Spektor, như “một gã có hàm râu buồn cười, hứa hẹn cách mạng. Và vì họ đã bị chơi xỏ bởi hệ thống chính trị Brazil bấy lâu nay,” những lời hứa này “có vẻ điên rồ đối với họ.” Bởi vậy họ đã cự tuyệt Lula – cho đến năm 2006, đó là khi Bolsa Família vẽ lại bản đồ cử tri.

Sự đổi ý này không gây phương hại tới các chính khách khác ở Brazil, và trong những năm sau đó, gần như tất cả họ đã nhiệt thành kế tục sáng kiến của Lula. Tổng thống Dilma Rousseff, người kế nhiệm được chọn lựa cẩn thận của Lula, đã mở rộng phạm vi chương trình và gia tăng mức phúc lợi lên vài lần. Bà thậm chí khởi xướng chương trình Busca Ativa (Chủ động Tìm kiếm), đưa các nhân viên xã hội gan dạ đến các ngõ ngách xa xôi nhất đất nước – đôi khi bằng thuyền đi xuyên rừng – tìm kiếm thêm nhiều người nghèo để ghi vào danh sách. Và cả hai đối thủ của bà trong cuộc tranh cử năm 2014 đều hứa hẹn sẽ mở rộng Bolsa Família hơn nữa. Làm khác đi tức là “tự sát về chính trị,” nói như Thiago de Aragão, một cố vấn chính trị ở Brasília.

Sự hăng hái này không có nghĩa là Bolsa Família hoàn hảo. Trong khi chương trình giúp Brazil đạt được bước tiến lịch sử, quốc gia này vẫn còn có quá nhiều bất công. Dưới bàn tay vụng về của người được Lula che chở, mức tăng trưởng kinh tế đã chững lại và nợ quốc gia tăng lên vùn vụt. Và mặc cho tầm với rộng lớn của Bolsa Família, khoảng 28 triệu người Brazil vẫn đang sống trong đói nghèo. Một vài chuyên gia lo ngại rằng bằng việc tập trung thái quá vào nhu cầu của trẻ em, chương trình đã làm ngơ các bậc phụ huynh (những người bị cắt đứt hoàn toàn phúc lợi khi con họ đến tuổi mười bảy). Các học giả nữ quyền như Maxine Molyneux của Đại học College London cảnh báo rằng “bằng việc đặt điều kiện ‘về trách nhiệm làm mẹ tốt’ để trao tiền”, các sáng kiến như Bolsa Família đã củng cố hơn nữa vai trò giới tính truyền thống. Lavinas, trong số những điều khác, chỉ ra rằng trong khi chính phủ Brazil đã làm tốt việc đưa trẻ em đến trường, nó thật sự kém cỏi trong việc cải thiện chất lượng giáo dục – một trong nhiều lý do khiến đám đông người Brazil ồ ạt đổ xuống đường phản đối các dịch vụ kém cỏi của chính quyền vào năm 2013.

Tác động tích cực của Bolsa cũng bị giảm đáng kể bởi hệ thống thuế phản tiến bộ của Brazil, vốn dựa dẫm quá đáng vào thuế tiêu thụ; những mức phí này, vốn đánh vào hầu như mọi mặt hàng có thể tưởng tượng và nhiều loại dịch vụ, ngốn hết một phần lớn – lên đến 55%, theo một vài ước tính – vốn liếng của Bolsa Família. Cuối cùng, các nhà phân tích tài chính công kích Bolsa Família đã giảm bớt bất công với cái giá của sự tăng trưởng tổng thể, trong khi một số người Brazil vẫn khăng khăng cho rằng biện pháp trao tiền mặt chỉ khiến người ta lệ thuộc hơn vào nó mà thôi.

Bolsa Família, nói cách khác, tất nhiên có thể và nên được cải thiện. Ngoài ra đất nước này còn vô cùng cần đến những cải cách về thuế, chăm sóc y tế, và giáo dục, cũng như đầu tư thật nhiều vào cơ sở hạ tầng. Nhưng rất nhiều chứng cứ đã bác bỏ ít nhất là hai cáo buộc sau cùng được liệt kê ở trên. Những số liệu thống kê của chính phủ cho hay rằng 75% số người trưởng thành nhận trợ cấp Bolsa Família có làm việc, và với những người nói chung không làm – họ sống trong những khu vực có quá ít cơ hội việc làm. Phát hiện này không gây nhiều ngạc nhiên khi bạn xét đến sự kiện rằng, như Wendy Hunter chỉ ra, các khoản trợ cấp của Bolsa Família ít ỏi đến độ “không ai có đầu óc tỉnh táo sẽ chịu nhận chúng thay vì có một việc làm tử tế.”

Sau nữa cũng đừng ngạc nhiên khi mà, mặc cho sự bất toàn của mình, những người hâm mộ chương trình có số lượng áp đảo hơn những người chỉ trích nó. Nancy Birdsall, giám đốc Trung tâm Phát triển Toàn cầu (nhóm chuyên gia cố vấn của Washington), đã gọi Bolsa Família “gần như là viên đạn thần kỳ cho sự phát triển mà bạn có được.” Những người tán thưởng khác đi từ New York Times, vốn cho rằng Bolsa Família “có lẽ là chương trình chống đói nghèo của chính phủ quan trọng nhất mà thế giới từng thấy,” cho đến The Economist, quả quyết nó là “một thành công choáng váng.”

Tuy nhiên, có lẽ bằng chứng tốt nhất cho sự tài hoa của thiết kế Bolsa Família – cũng như cách tiếp cận phi chính thống, dành-cho-mọi-người mà Lula thường trình bày và sau đó phổ biến nó – là sự kiện rằng kể từ khi thực thi chương trình, hơn sáu mươi ba quốc gia đã cử chuyên gia tới Brazil để sao chép mô hình. Trên thực tế, chỉ trong vài năm khởi đầu Bolsa Família, Bộ Phát triển Xã hội bị dìm trong hàng đống thư xin lời khuyên từ nước ngoài đến nỗi nó đã tổ chức các hội nghị chuyên đề mỗi năm hai lần về cách thức tổ chức chương trình tương tự ở nơi khác. Từ thời điểm những dòng này được viết, ít nhất bốn mươi quốc gia khác đã đi theo bước ấy, bao gồm hầu hết các quốc gia Mỹ Latin cũng như Bangladesh, Indonesia, Ma Rốc, Nam Phi, và Thổ Nhĩ Kỳ (và còn nhiều nơi khác nữa).

Sức hấp dẫn của Bolsa Família thậm chí đã lan sang thế giới giàu có. Vào tháng 4 năm 2007, thị trưởng Michael Bloomberg – một chính trị gia khác nổi tiếng với thái độ phớt lờ những tín điều chính thống và thu tóm những ý tưởng tốt nhất từ bất kỳ đâu có thể tìm được – đã triển khai Cơ hội cho Thành phố New York (Opportunity NYC), chương trình trao tiền có điều kiện theo kiểu Bolsa Família đầu tiên của thế giới phát triển, trên cơ sở thử nghiệm. Những chương trình như Bolsa Família phức tạp và vận hành tốn kém hơn ở các nước giàu có, vì các lý do hiển nhiên, và chương trình thí điểm ở New York đúng như dự báo đã bị chỉ trích bởi những người bảo thủ (vốn cằn nhằn về chi phí và sự kiện rằng nó trả tiền để người ta làm điều mà đằng nào họ cũng làm) cũng như tự do (những người gọi nó là cử chỉ hạ cố). Thế nhưng một phân tích của Trung tâm nghiên cứu đói nghèo quốc gia (NPC) thuộc Đại học Michigan cho thấy rằng dù có vài khiếm khuyết, chương trình đã có sức tác động đặc biệt tốt với những gia đình tham dự. Đó là lý do mà cả New York lẫn Memphis gần đây đã triển khai một chương trình thử nghiệm nữa lấy cảm hứng từ Bolsa Família, gọi là Family Rewards 2.0, vốn dựa trên nỗ lực đầu tiên của Bloomberg, và của Lula trước đó – thêm một bằng chứng nữa, nếu cần, về sức hấp dẫn toàn cầu của cuộc thể nghiệm vĩ đại ở Brazil.

Chú thích:

  1. Một điều đáng ghi nhận là mặc dù thanh danh của Lula đã bị tổn hại bởi cuộc điều tra tham nhũng gần đây, không một ai đặt vấn đề về sự thành công hay tính chính trực của Bolsa Família.

-Còn tiếp-

Tác phẩm được trích đăng với sự đồng ý của Phương Nam Book.

Click to comment

Viết bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

KOMOaudio

Sách của tác giả đoạt giải Nobel: Đã hay lại còn rẻ

Published

on

By

Vài năm gần đây, giải Nobel Văn chương ngày càng gây tranh cãi nhưng đây vẫn là một trong những giải thưởng lớn bậc nhất, giữ được tiếng tăm và mức độ quan tâm của công chúng. Dù mức độ yêu thích khác nhau tùy thị hiếu mỗi người nhưng không thể phủ nhận rằng những tác giả được trao giải đều có cống hiến nhất định cho văn chương.  

Phương Nam Book xin giới thiệu đến bạn đọc danh sách các tác phẩm của những tác giả đoạt giải Nobel đang được giảm giá sâu trong chương trình Tháng Phương Nam khuyến đọc từ 23.9 – 20.10.

Tháng Phương Nam khuyến đọc là chương trình định kỳ của Nhà sách Phương Nam diễn ra vào tháng 9 hàng năm với mức giảm sâu từ 20 – 50% nhằm khuyến khích và lan tỏa văn hóa đọc đến nhiều người.

Vỡ Tổ

Rabindranath Tagore (Nobel 1913)

Vỡ Tổ là một bi kịch gia đình, nhưng hiện thực chính trị bao trùm lên toàn bộ câu chuyện. Ngay ở câu thứ hai, Tagore đã ám chỉ một cách hóm hỉnh thực tế này khi ông nhận xét rằng Bhupati không phải làm việc để kiếm sống vì anh có nhiều tiền và vì anh sống ở một xứ nóng. Có lẽ những người sống ở xứ nóng sống được vì dễ dàng nhặt quả chín từ những cái cây gần nhất, nhưng phía sau đó mỉa mai, nhắc nhở đến việc hành nghề báo chí của Bhupati có tham dự vào chính trị, cho thấy bầu không khí chính trị của Ấn Độ cũng nóng như khí hậu vậy.

Nắng Tháng Tám

William Faulkner (Nobel 1949)

Cái ánh sáng đầu thu ở Mississippi như ảo ảnh, như sương đọng, như huyền thoại. Cái ánh sáng tháng tám đó cũng là phưong ngữ chỉ trạng thái hoài thai.

Đó là ánh sáng của sinh nở, sáng tạo.

Bóng một người nữ mang thai đi trên con đường vô định.

Nắng Tháng Tám là vầng hào quang mang đầy những gương mặt người.

Xứ Tuyết

Yasunari Kawabata (Nobel 1968)

Dựa vào hình bóng một cô gái ở Niigata xứ tuyết mà Kawabata thời trẻ đã theo đuổi không thành, tác giả đã sáng tạo một thế giới lấp lánh hiện thực mà đẹp đến mê ảo.

Đó là tác phẩm mà cảm thức nắm bắt sự vật và những tia chớp nên thơ len vào từng dòng chữ, gây những dư vang và ám ảnh khôn nguôi.

Đó là câu chuyện về mối quan hệ vô vọng giữa một người đàn ông phong lưu ở Tokyo và một nàng geisha (nghệ giả) ở thị trấn suối nước nóng bên đồi núi Niigata, một xứ tuyết thanh bình, u tịch, nên thơ.

Đó cũng là câu chuyện của thiên nhiên qua các mùa, đẹp từng mùa, bi thiết từng mùa.

Kinh Cầu Nguyện Kaddis Dành Cho Đứa Trẻ Không Ra Đời

Imre Kertész (Nobel 2002)

Tác phẩm hấp dẫn này mở ra khi một nhà văn - người sống sót sau nạn diệt chủng người Do Thái thời Đức quốc xã - giải thích cho bạn rằng: ông không thể sinh ra một đứa trẻ trong một thế giới mà nạn diệt chủng đó đã xảy ra và có thể xảy ra lần nữa. Dõi theo câu chuyện phức tạp, chúng ta nhận thấy vô số thất vọng của người kể chuyện: sự nghiệp văn chương không thành công, hôn nhân thất bại, gia đình mới và con cái của người vợ cũ - những đứa trẻ có thể là con mình. Kinh Cầu Nguyện Kaddis Dành Cho Đứa Trẻ Không Ra Đời là một tác phẩm sâu sắc, thơ mộng và không dễ cảm nhận.

Những Cảnh Đời Tỉnh Lẻ

J. M. Coetzee (Nobel 2003)

Từ xưa đến nay không có nhiều nhà văn vừa được giới phê bình khen ngợi lại vừa chinh phục được đông đảo độc giả. J. M. Coetzee nằm trong số đó. Tuy nhiên, tác giả Nam Phi này hiếm khi nói về bản thân mình, cho đến khi Tuổi thơ được xuất bản vào năm 1997, hé mở những hồi ức chân thực về sự khởi đầu của nhà văn trẻ với lối tự thuật bậc thầy. Tiếp theo đó là những năm tháng dịu dàng và mãnh liệt của Tuổi trẻ và cách kể chuyện hài hước, khác thường ở Mùa hè.

Bộ ba tác phẩm hợp thành Những Cảnh Đời Tỉnh Lẻ như một bức chân dung buồn bã pha lẫn khôi hài về cuộc đời của một nghệ sĩ luôn phải xoay trở để tìm ra hướng đi của riêng mình giữa các mối quan hệ trong giới học thuật và chính trường Cape Town sục sôi dưới chế độ Apartheid.

Hết.

Đọc bài viết

Cafe sáng

Tháng Phương Nam khuyến đọc: Hàng ngàn tựa sách hay giảm đến 50% tại Nhà sách Phương Nam

Published

on

By

Để khuyến khích và lan tỏa văn hóa đọc đến nhiều người, từ ngày 23.9 – 20.10, Nhà Sách Phương Nam tổ chức chương trình Tháng Phương Nam khuyến đọc với hàng ngàn tựa sách hay, đa thể loại, giảm giá sâu ở mức từ 20 – 50%.  

Tháng Phương Nam khuyến đọc là chương trình định kỳ của Nhà sách Phương Nam diễn ra vào tháng 9 hàng năm. Với tôn chỉ “Đến Phương Nam, ai cũng có sách hay để đọc”, Nhà sách Phương Nam không chỉ khuyến mãi sách do Phương Nam liên kết xuất bản mà còn giảm giá nhiều đầu sách với thể loại đa dạng, phong phú đến từ những đơn vị uy tín trong ngành sách như: First News, Alphabooks, NXB Phụ nữ, Đinh Tị, Bách Việt…

Dưới đây, Nhà sách Phương Nam giới thiệu đến bạn đọc một số đầu sách nổi bật xếp theo thể loại, được giảm giá với mức ưu đãi hấp dẫn từ 23.09 đến 20.10 như sau:

Giảm giá sách phi hư cấu

Sách phi hư cấu ở những lĩnh vực như giáo dục, tâm lý, kinh tế, khoa học thường thức, văn hóa – du lịch, sức khỏe, ẩm thực… đang ngày càng được ưa chuộng ở Việt Nam vì cung cấp nhiều kiến thức hữu ích, sát sao với thực tế và có thể vận dụng vào cuộc sống. Nhà Sách Phương Nam hiện đang giảm giá từ 10 – 50% đầu sách này với những tác phẩm đến từ các đơn vị uy tín.

Một số tựa sách tiêu biểu có thể liệt kê ra như: Đời sống bí ẩn của cây (giảm 20%), Thinsulin – Giảm cân & Đẹp dáng suốt đời (giảm 30%), Phi lý một cách hợp lý (giảm 15%), 25 năm theo dòng kinh tế Việt Nam (giảm 40%)…

Giảm giá sách thiếu nhi – sách nuôi dạy con

Nếu như dòng sách tranh, sách văn học thiếu nhi là những người bạn đồng hành trong suốt tuổi thơ đối với trẻ nhỏ; thì sách nuôi dạy con lại là trợ thủ đắc lực không thể thiếu với những bậc cha mẹ. Song hành cùng nhau, hai dòng sách này sẽ giúp cho trẻ phát huy được tiềm năng ở mức tối đa nên ngày càng được nhiều bậc phụ huynh chọn lựa khi mua sách.

Đây cũng là thể loại có nhiều tựa sách nổi bật đến từ các đơn vị xuất bản lớn, đang được Phương Nam khuyến mãi như: bộ sách Em làm họa sĩ (Phương Nam Books – giảm 40%), bộ sách Lập trình viên nhí (Alphabooks – giảm 15%), bộ sách Bách khoa tri thức về khám phá thế giới cho trẻ em (Đinh Tị – giảm 10%), bộ sách Mẹ kể con nghe (NXB Phụ nữ – giảm 10%)…

Giảm giá sách giáo khoa, sách tham khảo

Sách giáo khoa là công cụ không thể thiếu để người đọc nâng cao kĩ năng ở những mảng chuyên ngành riêng biệt. Đây cũng là đầu sách được Phương Nam giảm giá từ 10 – 50% do các đơn vị xuất bản uy tín phát hành: bộ sách Chinh phục tiếng Nhật (Bách Việt – giảm 20%), bộ sách Very Easy Toeic (First News – giảm 10%), những tác phẩm về âm nhạc của nhạc sĩ Phạm Duy (Đặc khảo về dân nhạc ở Việt Nam, Âm nhạc học và hành, Tân nhạc Việt Nam thuở ban đầu) do Phương Nam Books phát hành được giảm sâu 40%.

Ngoài ra, Lực Lượng Mãnh Hổ – sách tư liệu lịch sử được giải Pulitzer của hai tác giả là Michael Sallah và Mitch Weiss, về tội ác chiến tranh năm 1967 ở miền Trung Việt Nam mới vừa ra mắt của Phương Nam Books cũng được giảm giá 10% trong dịp này cùng nhiều tựa sách mới khác.

Giảm giá sách hư cấu, phi hư cấu của tác giả Việt

Những tác phẩm Việt Nam đặc sắc của các tác giả lớn như thiền sư Thích Nhất Hạnh, Tô Hoài, Phạm Công Luận, Nguyễn Tường Bách, Đỗ Hồng Ngọc, Đoàn Thạch Biền… chắc chắn là những đầu sách không thể thiếu trong chương trình Tháng Phương Nam khuyến đọc. Bên cạnh đó, sách của những tác giả trẻ, những cây bút Việt ở khắp nơi trên thế giới cũng được giảm ở mức giá hấp dẫn để nhiều người đọc có cơ hội tiếp cận hơn.  

Một số sách tiêu biểu có thể kể đến như: Nẻo về của Ý – thiền sư Thích Nhất Hạnh (giảm 30%), Thư Cho Bé Sơ Sinh & Những Bài Thơ Khác – Đỗ Hồng Ngọc (giảm 40%), Người Tị Nạn – Nguyễn Thanh Việt (giảm 30%)…

Giảm giá sách văn học nước ngoài

Sách dịch văn học nước ngoài đã trở thành món ăn tinh thần không thể thiếu đối với những độc giả Việt Nam. Những góc nhìn độc đáo về văn hóa, tâm tư của con người ở các đất nước xa lạ bỗng chốc hóa gần gũi khi được chuyển ngữ sang tiếng Việt mượt mà chính là điểm thu hút người đọc ở dòng sách này.

Các tựa sách văn học nước ngoài tiêu biểu đang được giảm giá trong Tháng Phương Nam khuyến đọc gồm có: Xứ Tuyết – Yasunari Kawabata (giảm 30%), Những Cảnh Đời Tỉnh Lẻ – J. M. Coetzee (giảm 20%), Nắng Tháng Tám – William Faulkner (giảm 40%)…

Giảm giá CD – DVD

Văn hóa nghe nhìn có tầm quan trọng không kém gì văn hóa đọc. Chính vì vậy, bên cạnh những đầu sách hấp dẫn, có giá trị, Phương Nam còn chọn lọc để gửi đến người tiêu dùng các sản phẩm âm nhạc, điện ảnh đặc sắc với mức giá thật ưu đãi.

Một số sản phẩm nghe nhìn tiêu biểu đang giảm giá dịp khuyến mãi này gồm có: đồng giá DVD Làn sóng xanh (10.000đ), đồng giá đĩa phim Kính Vạn Hoa (15.000đ), giảm giá 30% những CD của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn, nhạc sĩ Ngô Thụy Miên…

Thời gian & địa điểm áp dụng

Thời gian: Từ ngày 23.09 đến 20.10.2022

Địa điểm:

Hệ thống Nhà Sách Phương Nam trên toàn quốc
Website thương mại điện tử Nhà Sách Phương Nam

Đọc bài viết

KOMOaudio

10 cuốn sách giúp bạn hiểu thêm về sử Việt ở góc độ ít ai chú ý

Published

on

By

Muốn phát triển tương lai, việc thấu hiểu quá khứ là một điều vô cùng quan trọng. Lịch sử Việt Nam không chỉ có chiến tranh mà còn có nhiều mặt khác về đời sống quá khứ cần được ghi nhận. Chẳng hạn như: người Việt ngày xưa chụp hình như thế nào, có gì trong những tờ báo Nga viết về Việt Nam giai đoạn ấy, người Sài Gòn xưa đón xuân ra sao…

Để trả lời những câu hỏi đó, đồng thời tìm hiểu thêm về sử Việt ở nhiều góc độ mới mẻ khác, bạn hãy thử tìm đọc những tác phẩm theo danh sách Bookish gợi ý nhé.

1. Những Người Nga Đầu Tiên Đến Việt Nam

Tại nước Nga, sự thức tỉnh mối quan tâm đối với Đông Dương là vào những năm 80 – 90 của thế kỷ XIX, khi vị trí của nước Pháp trên thực tế đã được củng cố tại khu vực này. Sang những năm đầu thế kỷ XX, ở Nga bắt đầu xuất hiện nhiều hơn những bài báo và sách riêng biệt chứa đựng thông tin về các nước Đông Nam Á, trong đó có Việt Nam. Các ấn phẩm này đã in khá định kỳ những trích đoạn từ nhật ký của các nhà du lịch, ghi chép của các sĩ quan hải quân và những bài báo của các nhà bác học về Việt Nam.

Trong số bút ký, mẩu tin, báo cáo ấy, nhà Việt Nam học người Nga Anatoli Socolov đã sưu tầm, tuyển chọn những bài đặc sắc nhất, tập hợp thành cuốn sách Những người Nga đầu tiên đến Việt Nam (Phóng sự và bút ký thế kỷ XIX – đầu thế kỷ XX). Ấn phẩm là một công trình độc đáo về nguồn cội mối quan hệ hữu nghị Nga – Việt.

Tham gia chuyển ngữ cuốn sách là đội ngũ dịch giả tiếng Nga hàng đầu Việt Nam: Dịch giả, nhà văn Hoàng Thúy Toàn, NGƯT. Vũ Thế Khôi, Chu Nga, Vũ Đình Phòng, Hồ Bất Khuất, Nguyễn Văn Thảo, Nguyễn Hào.

Có thể nói, cơ sở nội dung của cuốn sách được viết rất sống động và hấp dẫn. Dù phần lớn bài viết được các tác giả viết theo thể ký sự thượng lưu, nhưng độc giả vẫn có thể cảm thấy hoàn toàn rõ ràng rằng, ngoài mục đích nhận thức và giải trí đơn thuần, chủ nhân của các bài viết này còn theo đuổi một mục đích khá cụ thể, đó là xác định địa vị của Nga tại phương Đông trong tình hình thế cục đổi thay nhanh chóng.

Vì thế, trong văn bản có không ít các ngoại đề gắn với lịch sử của vấn đề này hoặc vấn đề khác, cũng như những luận chứng và ấn tượng cụ thể về chính trị, nghệ thuật, tín ngưỡng và phong tục dân tộc.

Nhìn chung, tuy các tác giả mang địa vị xã hội, nghề nghiệp khác nhau, nhưng các bài viết trong cuốn sách đều mang một đặc điểm chung nổi bật, đó là sự đồng cảm chân thành của người Nga đối với tình cảnh nặng nề của người Việt Nam dưới chính quyền thực dân Pháp, sự kính trọng đối với nền văn hóa và các truyền thống của một dân tộc khác – những nét bao giờ cũng có sẵn ở những đại diện tiến bộ ưu tú nhất của xã hội Nga.

2. Buổi Đầu Nhiếp Ảnh Việt Nam

Đây là quyển sách đầu tiên về lịch sử nhiếp ảnh Việt Nam thời kỳ đầu viết bằng Anh ngữ. Từ khối tư liệu khổng lồ nhưng phân tán trong các kho lưu trữ, bảo tàng, bộ sưu tập tư nhân, trong đó có bộ sưu tập của riêng mình, Terry Bennett đã dựng lại con đường ra đời và phát triển của nhiếp ảnh tại Việt Nam kể từ khi những bức ảnh đầu tiên được chụp vào giữa thế kỷ XIX cho đến giữa những năm 1950. Mặc dù phần lớn nội dung nói về sự nghiệp của các nhiếp ảnh gia người Pháp và các nước khác, những hình chụp và tiệm ảnh của họ tại Việt Nam, nhưng cũng liệt kê rất nhiều hình chụp cùng danh tính của các nhiếp ảnh gia người Việt và tiệm ảnh của họ.

Dựa trên kinh nghiệm tích lũy từ những quyển viết về nhiếp ảnh Nhật Bản và Trung Quốc thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX, Buổi Đầu Nhiếp Ảnh Việt Nam của Bennett sẽ là cẩm nang hỗ trợ quý báu cho những ai quan tâm đến lịch sử nhiếp ảnh hoặc những nhà sưu tầm tư liệu.

3. Những Bức Di Thư Thành Cổ

Nhận thấy tình hình chiến trường đang có những bước chuyển vô cùng thuận lợi, Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương quyết định mở cuộc tấn công chiến lược trên toàn miền Nam trong năm 1972. Chiến trường Trị - Thiên (Quảng Trị - Thừa Thiên-Huế) được chọn là mũi tấn công chiến lược.

Sau khi ta giành được ưu thế bước đầu, giải phóng Quảng Trị, quân lực Việt Nam Cộng hòa, với sự yểm trợ hỏa lực pháo binh và không quân của quân đội Mỹ, ra sức giành lại ưu thế trên chiến trường. Thành cổ Quảng Trị trở thành chiến trường ác liệt nhất, nơi bộ đội ta kiên cường bám trụ giữ đất trước sự tấn công hùng hổ của kẻ thù trong 81 ngày đêm.

Trong những ngày đỏ lửa ấy, biết bao xương máu đã gửi lại nơi thành cổ Quảng Trị. Trước khi hy sinh, những chiến sĩ giải phóng, những người chiến đấu vì đất nước ấy, đã lấy gì làm động lực vượt qua những hiểm nguy, gian khổ tưởng chừng không thể vượt qua? Họ nghĩ gì và mơ ước gì?

Quyển sách tập hợp 10 bức di thư được viết hoặc được đọc trong khói lửa chiến trường của 81 ngày đêm ấy, đặc biệt có những bức thư được khai quật mấy chục năm sau cùng với thi hài liệt sĩ.

Những bức thư thấm đẫm tình yêu và sự oai hùng, thấm cả máu và mồ hôi những người lính, nước mắt những người vợ sẽ đưa chúng ta trở về những ngày ấy…

4. Tùy Bút - Hồi Ký - Giai Thoại Trên Báo Xuân Sài Gòn Xưa

Tuyển tập Tùy Bút - Hồi Ký - Giai Thoại Trên Báo Xuân Sài Gòn Xưa tập hợp gần năm mươi bài viết đặc sắc được tuyển chọn từ các giai phẩm xuân xuất bản tại sài Gòn từ thập niên 1950 đến giữa thập niên 1970. Tất cả được viết lại từ những câu chuyện có thực, có thể được thêm chút chi tiết ngẫu hứng tùy theo trí nhớ người kể nhưng không phải là những sáng tác mang tính hư cấu.

Đó là chuyện nhà cách mạng Tôn Văn nghe hát cô đầu tao nhã ở tiệm bà Đốc Sao nổi tiếng Hà Nội. Chuyện hai phụ nữ quý tộc Mỹ lẻn vào sân triều đình Huế để xem lễ mùng Một Tết ở điện Thái Hòa vốn chỉ chấp nhận sự hiện diện của nam giới.

Đó là những câu chuyện của giới báo chí một thời đình đám ở Sài Gòn. Câu chuyện cảm động lỉên quan đến nhà văn, nhà phóng sự yểu mệnh Vũ Trọng Phụng. Hay cảnh Tết trong tù thời chống Pháp hấp dẫn lạ lùng.

Đó còn là chuyện sân khấu thời thạnh trị với lời kể của người trong cuộc như nghệ sĩ Bảy Nhiêu, nghệ sĩ Năm Châu, soạn giả Duy Lân, nghệ sĩ Kim Cương, hoặc nghệ sĩ Phùng Há.

Thưởng thức các bài viết trong tuyển tập, không chỉ giúp độc giả hưởng lợi như được đọc lại gần bốn mươi tờ báo xuân trải dài qua gần ba mươi cái Tết trên đất Sài Gòn xưa, mà còn có cơ hội chiêu niệm về con người, xă hội, phong tục Việt Nam thời trước.

5. Sự Tiếp Xúc Của Văn Hóa Việt Nam Với Pháp

Tác giả Phan Ngọc chọn giai đoạn tiếp xúc với Pháp bởi ông là người được trực tiếp chứng kiến và tham gia công cuộc giao thoa này. Đây là công trình được ông thai nghén, thu thập tư liệu bản thảo từ những năm 1960.

Gói gọn trong 8 chương sách, tác giả nhìn nhận văn hóa và tiếp xúc văn hóa qua lăng kính mới, lăng kính của của những mặt ưu việt của các nền văn hóa Trung Hoa, Pháp, Anh, Mỹ, Đông Nam Á… Từ đó đưa ra những mở đề về sự tiếp thu thích hợp, nhất là cách tiếp cận của Bác Hồ trong việc tiếp thu ưu điểm của các nền văn hóa đó và có những đổi mới cần thiết, phù hợp với bối cảnh Việt Nam hiện nay.

6. Lực Lượng Mãnh Hổ

Một trong những quyển sách hay nhất năm 2006 do Washington Post Book World, San Francisco Chronicle, Pittsburgh Post-Gazette và St. Louis Post-Dispatch lựa chọn.

“Lực lượng Mãnh Hổ” là tên gọi của trung đội viễn thám thuộc Sư đoàn Dù 101 của Quân đội Mỹ. Được thành lập vào năm 1965 để đối phó với chiến tranh du kích, đơn vị được cho là tinh nhuệ này thường phải độc lập hành quân sâu trong rừng rậm nhiều tuần liền.

Lực lượng Mãnh Hổ đã gây ra những tội ác ghê gớm đối với dân thường ở vùng Quảng Ngãi – Quảng Tín trong suốt năm 1967. Lục quân Mỹ bắt đầu điều tra về tội ác chiến tranh của đơn vị này từ năm 1971. Cuộc điều tra kéo dài 4 năm sau đó và hồ sơ cho thấy lính Mãnh Hổ đã giết ít nhất 81 dân thường, vi phạm nhiều quy định quân đội. Cục điều tra của Lục quân Mỹ đã đề nghị kết án nhiều thành viên Mãnh Hổ. Nhưng tập hồ sơ bị lờ đi và rơi vào quên lãng suốt gần 30 năm.

Các phóng viên Michael Sallah, Mitch Weiss và John Mahr bắt đầu lần giở lại hồ sơ và tiến hành phỏng vấn các cựu thành viên của Lực lượng Mãnh Hổ. Nhiều sự thật ghê gớm đã được tiết lộ. Loạt bài “Buried Secrets, Brutal Truths” (“Bí mật chôn vùi, Sự thật tàn bạo”) trên tờ Toledo Blade đã nhận được giải thưởng Pulitzer hạng mục Báo chí năm 2004, cũng chính là nền tảng để Sallah và Weiss viết nên quyển sách tuyệt vời này.

7. Việt Sử Yếu

Được hoàn thiện bằng chữ Hán năm 1914, rồi được chính tác giả chuyển soạn sang chữ quốc ngữ và đăng trên Đông Dương tạp chí năm 1915, Việt Sử Yếu của Hoàng Cao Khải có thể xem là cuốn sách quốc ngữ đầu tiên mở ra lối viết hiện đại về lịch sử Việt Nam. Học tập cách viết sử từ phương Tây, sách tạo nên một bứt phá đáng kể trong cách tiếp cận và biên soạn lịch sử, khác hẳn lối chép sử biên niên truyền thống của các sử gia phong kiến.

Như một cuốn sử yếu, tác phẩm khái quát ngắn gọn nhưng tương đối đầy đủ về toàn bộ lịch sử Việt Nam, từ sự khởi đầu của nhà nước Văn Lang cho đến thời điểm cuốn sách được hoàn thiện năm Duy Tân thứ tám, 1914. Thay vì lần lượt ghi chép các sự kiện theo trình tự năm tháng và các đời vua chúa, Hoàng Cao Khải đưa ra cách phân kỳ lịch sử mới, hệ thống hóa và bố cục thành các chương, tiết rành mạch, chặt chẽ, đồng thời có những ý kiến phê bình, nhận xét tinh tế, sắc bén. Đó là điều mang lại cảm hứng cùng những gợi dẫn vô cùng quan trọng để các công trình sau đó kế thừa, phát huy, trong đó trực tiếp và đáng kể nhất là Việt Nam sử lược của Trần Trọng Kim. Cho đến nay, Việt Sử Yếu vẫn là một công trình mang nhiều điểm độc đáo để chúng ta cùng suy ngẫm và đối thoại.

8. Đường 20 Quyết Thắng: Lịch Sử, Địa Danh, Sự Tích Và Tri Ân

Đường Trường Sơn – đường Hồ Chí Minh nói chung, Đường 20 Quyết Thắng nói riêng là những trang sử vẻ vang, là niềm tự hào của dân tộc ta, là tài sản vô giá về nghệ thuật quân sự Việt Nam.

Mỗi cây số đường, mét ngầm trên Đường 20 đều thấm đẫm mồ hôi, nước mắt và cả máu của những người xây dựng, bảo vệ và vận hành tuyến đường. Chống chọi với một kẻ địch hùng mạnh trong tay có đầy đủ các phương tiện tối tân cùng những thủ đoạn kinh khủng nhất, hàng ngàn người đã ngã xuống, mãi mãi để lại tuổi 20 trên núi rừng Trường Sơn.

Cuốn sách không chỉ là ấn phẩm thỏa mãn nhu cầu “một thời để nhớ” của các cựu chiến binh Trường Sơn mà còn là tài liệu quý để giúp người đọc hiểu hơn về lịch sử hào hùng của Trường Sơn – Đường 20 Quyết Thắng. Đây cũng là ấn phẩm cầm tay không thể thiếu cho du khách trong các chuyến về nguồn tại Quảng Bình nói riêng và cung đường Trường Sơn nói chung.

9. Việt Nam Sử Lược

Đầu thế kỷ XX, giữa lúc nền học thuật nước nhà chỉ có các bộ đại tác như Đại Việt sử ký toàn thư hay Khâm định Việt sử thông giám cương mục là nguồn sử liệu chính thống nhưng chưa đáp ứng nhu cầu tìm hiểu lịch sử của phần đông dân chúng, thì Việt Nam Sử Lược, với tư cách là bộ thông sử chi tiết đầu tiên được viết bằng chữ quốc ngữ, đã xuất hiện và nhanh chóng thu hút sự quan tâm của độc giả lẫn giới nghiên cứu cả nước. Từ đó đến nay đã 100 năm trôi qua, tác phẩm vẫn giữ nguyên giá trị và là quyển sách vỡ lòng quen thuộc cho những ai bắt đầu tìm hiểu lịch sử Việt Nam.

Để góp phần hoàn thiện và phổ biến “tấm Nam sử” mà học giả Trần Trọng Kim đã dệt những sợi đầu tiên cách nay đúng một thế kỷ, Đông A tiến hành tái bản tác phẩm Việt Nam Sử Lược, dựa theo bản in của nhà Tân Việt năm 1954, có bổ sung một số chi tiết từ các bản in năm 1920, 1928 và 1971. Đồng thời, chúng tôi tuyển lựa và thêm vào một số hình ảnh minh họa từ nguồn tranh dân gian, bảo tàng và một số tư liệu sách báo xưa, với mong muốn gửi tới bạn đọc một ấn bản không chỉ chỉn chu về mặt nội dung mà còn trang nhã về mặt hình thức, nhân kỷ niệm 100 năm ngày tác phẩm ra đời 1920 - 2020.

10. Việt Nam Văn Hóa Sử Cương

Việt Nam văn hoá sử cương là một nỗ lực của học giả Đào Duy Anh nhằm giải quyết cuộc va chạm giữa văn hóa Việt Nam truyền thừa từ bao đời và văn hóa Âu tây mới lan tràn. Đào Duy Anh nhìn nhận cuộc va chạm ấy chính là “bi kịch hiện thời” của dân tộc, một bi kịch đến từ “sự xung đột của những giá trị cổ truyền của văn hóa cũ ấy với những điều mới lạ của văn hóa Tây phương”. Và để giải quyết sự xung đột này, Đào Duy Anh đề nghị “một mặt phải xét lại cho biết nội dung của văn hóa xưa là thế nào, một mặt phải nghiên cứu cho biết chân giá trị của văn hóa mới”. Tác phẩm Việt-nam văn-hóa sử-cương chính là lời giải cho nan đề đầu tiên của tác giả: văn hóa xưa là thế nào?

Ấn bản Việt Nam văn hoá sử cương của Đông A dựa theo bản in lần đầu năm 1938 của Quan-hải tùng-thư, có tham khảo một số chi tiết trong bản in năm 1951 của Xuất bản Bốn phương, Viện Giáo khoa – Hiên Tân Biên. Trong lần in này, ban biên tập Đông A sử dụng một số minh họa trong các bản sách tiếng Pháp về Đông Dương và các nguồn tư liệu ở bảo tàng, tranh dân gian, sách báo xưa...

Với diện mạo mới này, người làm sách kỳ vọng sẽ đem đến cho bạn đọc một ấn bản trang nhã, tương xứng với giá trị lâu dài của tác phẩm.

Hết.

Đọc bài viết

Cafe sáng