KOMOaudio

Chương 1 “Quốc gia tái thiết” – Jonathan Tepperman

Trong tác phẩm Quốc gia tái thiết, trưởng ban biên tập của Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ Jonathan Tepperman đã nêu ra mười vấn đề khó khăn, tưởng như vô vọng, mà các quốc gia phải đối mặt, đồng thời giới thiệu mười giải pháp tiềm năng dựa trên những câu chuyện thành công từ các nhà lãnh đạo và chính phủ khác nhau trên thế giới.

Published

on

Chi tiết tác phẩm

Trích từ: Quốc gia tái thiết

Tác giả: Jonathan Tepperman

Đơn vị giữ bản quyền: Phương Nam Book

Xuất bản: Tháng 12.2019

Giới thiệu sách:

Con người hiện đang sở hữu nhiều công nghệ tối tân và có khả năng sống lâu hơn bao giờ hết. Chúng ta đã thừa kế di sản của hàng triệu năm tiến hóa, và đó là một phước lành vượt xa khả năng hiểu biết của chính chúng ta. Song, không ít nhà nghiên cứu cho rằng xã hội loài người đang bước vào thời kỳ suy giảm đáng báo động. Tình trạng dân nhập cư, người tị nạn, sự nghèo đói và bệnh tật gia tăng đã gây nên nỗi kinh hoàng khắp thế giới. Các chính phủ đã đối mặt với những vấn đề nan giải đó ra sao?

Trong tác phẩm Quốc gia tái thiết, trưởng ban biên tập của Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ Jonathan Tepperman đã nêu ra mười vấn đề khó khăn, tưởng như vô vọng, mà các quốc gia phải đối mặt, đồng thời giới thiệu mười giải pháp tiềm năng dựa trên những câu chuyện thành công từ các nhà lãnh đạo và chính phủ khác nhau trên thế giới.

1

LỢI ÍCH CHO MỌI NGƯỜI

Brazil đã san sẻ sự giàu có của nó như thế nào

“NGHE NÀY.” LULA TỰA THÂN HÌNH CHẮC NỊCH trên tay vịn ghế ngồi và ghé mặt lại gần tôi, trừng mắt. “Đôi khi tôi làm cho những người bạn học thức của tôi phiền lòng khi nói ra. Nhưng người thầy số một trong đời tôi chính là người đàn bà đã sinh ra và chết đi trong mù chữ: mẹ tôi,” ông nói. “Với tất cả sự kính trọng dành cho các chuyên gia và học giả, họ chẳng biết gì về người nghèo cả. Họ biết nhiều về những con số thống kê, nhưng điều đó khác hẳn, anh hiểu không? Với người trí thức, việc dúi vào tay người nghèo 50 đô la là việc từ thiện; một học sĩ không có ý niệm gì về việc người nghèo có thể làm gì với nó. Nhưng đó là vì tại trường đại học, họ không dạy bạn phải quan tâm tới người nghèo như thế nào. Và đó là vì hầu hết các chuyên gia không bao giờ trải qua những gì mà người nghèo chịu đựng mỗi ngày. Họ không bao giờ phải đi làm với cái bụng đói. Họ không bao giờ sống trong ngôi nhà ngập nước, hoặc phải chờ xe buýt ba tiếng đồng hồ. Với các chuyên gia, một vấn đề xã hội như bất bình đẳng chỉ là những con số. Nhưng tôi tiếp lấy vấn đề xã hội đó và biến nó thành một vấn đề chính trị, vấn đề thực tế. Và rồi tôi cố gắng giải quyết nó.”

Đó là vào tháng 12 – mùa hè ở Brazil – Lula và tôi ngồi trong văn phòng riêng bề bộn của ông ở Ipiranga, một khu trung lưu hơi nhếch nhác của São Paulo. Tôi đến để hỏi ngài cựu Tổng thống Brazil – tên chính thức là Luiz Inácio Lula da Silva, mặc dù không ai gọi ông như vậy – rằng ông đã làm điều đó như thế nào. Làm cách nào Lula đã biến bất bình đẳng thành điều mà ông vừa mô tả như là vấn đề có thể xử lý về mặt chính trị – và rồi giải quyết nó thành công một cách đáng ngạc nhiên như vậy?

Cảm giác muốn tìm kiếm câu trả lời thật cấp bách. Suy cho cùng, sự bất bình đẳng thu nhập đã bùng nổ trên khắp thế giới trong những năm gần đây, trở thành nguồn cơn bất an vô cùng trên thế giới. Vực thẳm ngăn cách giữa giới siêu giàu và phần còn lại có vẻ mở rộng không vãn hồi ở hầu khắp mọi nơi. Và không ai biết phải làm gì với nó.

Một lý do cho sự bất lực này là tăng trưởng kinh tế – từ lâu được coi như chìa khóa để cải thiện sự thịnh vượng nói chung – đã không còn có tác dụng như mong đợi. Mặc dù các chính khách thường đổ lỗi cuộc khủng hoảng bất bình đẳng hiện nay cho Đại suy thoái và những dư chấn của nó, giả thuyết này không đứng vững được. Vì nếu bạn nhìn vào nhiều quốc gia với khoảng cách thu nhập đã mở rộng khủng khiếp trong vài năm qua, bạn sẽ đi đến phát hiện lạ thường: danh sách này bao gồm một vài nền kinh tế đang tăng trưởng nhanh nhất thế giới, như Trung Quốc.

Điều này có nghĩa là việc đưa các nền kinh tế đang chệch choạng của thế giới trở lại đúng đường hướng không thôi sẽ không giúp ích nhiều để thu hẹp các hố sâu thu nhập. Nó có thể chỉ càng tạo ra thêm nhiều Trung Quốc mà thôi. Để thật sự giải quyết vấn đề bất bình đẳng đòi hỏi cách tiếp cận sáng tạo và thông minh hơn nhiều.

Cuộc săn lùng chiến lược đã được tiến hành tốt, với các chuyên gia và các nhà lãnh đạo quốc gia ngày càng tuyệt vọng đang nặn óc tìm câu trả lời. Trong số những giải pháp được đề xuất đến nay, nổi tiếng nhất có lẽ là của Thomas Piketty, nhà kinh tế học siêu sao người Pháp đã kêu gọi áp đặt một loại thuế tài sản toàn cầu trong tác phẩm best-seller năm 2014 của mình.

Không khó để hiểu vì sao có nhiều người say mê ý tưởng này đến vậy. Nó đơn giản một cách cảm động, một tuyệt chiêu lấy của người giàu chia cho kẻ nghèo. Nhưng có hai vấn đề lớn với kế hoạch của Piketty, cũng như những phương pháp cực đoan tương tự đối với sự bất bình đẳng. Thứ nhất, chúng sẽ không bao giờ có tác dụng, vì những lý do chính trị lẫn chuyên môn; giới tinh hoa toàn cầu quá giỏi trong việc bảo vệ lợi ích của mình và né tránh những khoản thuế được cho là phải đóng.

Và thứ hai, những chiến lược gây tranh cãi như vậy là quá mức cần thiết.

Trong khoảng chục năm qua, Brazil đã chứng tỏ có một cách tốt hơn, ít cực đoan hơn, và thân thiện với thị trường hơn nhiều để chống lại sự bất bình đẳng. Phương pháp này đã được thử thách, và nó có hiệu quả.

Người đàn ông ngồi đối diện tôi trong ngày nóng nực ấy ở Ipiranga là người đã làm cho điều đó xảy ra, đã chủ trì một trong những cuộc cải biến xã hội thành công nhất, ít gây xáo trộn nhất mà thế giới từng chứng kiến.

TRONG ĐỜI THỰC, thậm chí còn hơn cả tiểu thuyết, mọi chuyện thường diễn ra theo những kịch bản có thể dự báo trước. Người đẹp lấy được chồng giàu. Chính trị gia gây quỹ được nhiều hơn với mái tóc dầy hơn thắng cuộc. Người giàu càng giàu thêm, và số còn lại bị chơi xỏ. Những chiến thắng khó khăn và bất ngờ thì cực hiếm hoi.

Song họa hoằn chúng vẫn xảy ra, và đây là một trong những trường hợp như vậy. Vì thế trước khi giải thích điều này diễn ra như thế nào – Brazil đã thành công ra làm sao – thật đáng để xem xét điều gì khiến cho cái kết có hậu này có vẻ khó tin, và do đó, truyền cảm hứng đến vậy.

Trước hết là bối cảnh của câu chuyện. Thật khó để hình dung Brazil ngày nay có thể là hình mẫu cho bất cứ cái gì. Quốc gia này là một mớ hỗn độn, tan tác bởi cuộc khủng hoảng này đến cuộc khủng hoảng khác. Khi mọi chuyện bung bét, quốc hội bị tê liệt và các lực lượng chính trị lao đao bởi các vụ bê bối tham nhũng cấp thượng tầng. Bản thân Lula đã bị nghi ngờ khi trở thành đối tượng của một cuộc điều tra mở rộng.

Hơn nữa, mãi cho đến rất gần đây, ý tưởng rằng Brazil có thể có điều gì đó để dạy thế giới về sự bất bình đẳng ắt hẳn nghe như một chuyện đùa. Trong nhiều thập kỷ, đất nước này không chỉ có vấn đề với sự bất bình đẳng mà thôi – bản thân nó vấn đề. Quốc gia lớn nhất Mỹ Latin này nằm trong số những nơi chốn bất bình đẳng nhất hành tinh, tình trạng đồng nghĩa với sự bất công xã hội tàn tệ. Hẳn nhiên rồi, nó được phú cho một nền dân số lớn, trẻ trung và dồi dào tài nguyên thiên nhiên (bao gồm vị trí thứ tám thế giới về dự trữ nước ngọt và nằm trong số các quốc gia có trữ lượng lớn nhất về dầu và khí đốt xa bờ). Nhưng khi nói tới việc phân phối của cải, Brazil làm tệ hơn mức mà bạn có thể tưởng tượng; ngay cả một Haiti bé nhỏ, chìm trong tăm tối còn công bằng hơn. Xuyên suốt những năm 1980 và 1990, mặc dù Brazil đã chuyển từ chế độ độc tài sang dân chủ và những cải cách táo bạo của Tổng thống Fernando Henrique cuối cùng đã đưa mức lạm phát phi mã xuống tầm kiểm soát, đại bộ phận dân chúng cùng khổ của nó vẫn kẹt cứng trong cảnh cơ hàn ở nông thôn và các khu ổ chuột ở thành thị trong khi một thiểu số may mắn vút bay trên những siêu đô thị không thể quản lý của quốc gia bằng trực thăng riêng. Khi thế kỷ mới bắt đầu ló dạng, khoảng một phần ba dân số Brazil sống lay lắt dưới lằn ranh đói nghèo của thế giới (thường được định nghĩa bằng mức sống dưới 2 đô la một ngày), và khoảng 15% dân chúng sống cảnh bần cùng (dưới 1,25 đô la mỗi ngày).

Nhưng đó là thời khắc mà Brazil rốt cuộc bắt đầu thay đổi, thoạt đầu chậm chạp và sau đó với tốc độ khủng khiếp kể từ năm 2003. Đến năm 2011 nền kinh tế của nó, nhờ có những cải cách của Cardoso và sự khích lệ sau đó của Lula, đã tăng trưởng với tốc độ đáng kể 4% một năm và tỉ lệ thất nghiệp xuống thấp kỷ lục. Và lần này, phúc lợi đã thật sự được sẻ chia rộng rãi. Trong cùng giai đoạn này, gần bốn mươi triệu người Brazil đã thoát khỏi đói nghèo để gia nhập tầng lớp trung lưu. Thu nhập bình quân hộ gia đình tăng vọt lên 27%. Và, có lẽ ấn tượng nhất, mức độ bất bình đẳng hạ thấp đột ngột – trong khi nó đang tăng lên ở hầu khắp mọi nơi.

ĐIỀU GÂY KINH NGẠC không kém tốc độ của cuộc chuyển biến này là nhân dạng của người đàn ông chịu trách nhiệm nhiều nhất về nó.

Trước khi dính phải các vụ bê bối gần đây, Lula đã trở thành hình tượng nổi bật – trong năm 2012 ông rời nhiệm sở với tỉ lệ ủng hộ 87%, không lâu sau khi Tổng thống Obama gọi ông là “nhà chính trị được yêu mến nhất hành tinh” – đến nỗi thật khó để nhớ việc ông từng là nhân vật gây phân cực ra sao vào năm 2002, khi chiến dịch đưa ông vào chức vụ tổng thống bắt đầu khởi động. Râu ria tua tủa và ánh mắt dữ dội, với thân thể của một công nhân bốc vác thấp bè, ứng viên này gây hoang mang cho giới tinh anh Brazil, các tập đoàn, các nhà đầu tư, và nhiều đối tác ngoại quốc của nó – nhất là Mỹ.

Vấn đề nằm ở cá nhân con người. Trong khi vị tiền nhiệm của Lula, Cardoso, là người chủ trương ôn hòa và một học sĩ lịch thiệp, Lula lại xù xì và thô ráp đến mức người ta có thể tưởng tượng được nơi ông có một điều gì đó mà ông không hề cố gắng che giấu. Thực vậy, ông là người con kiêu hãnh của miền đông bắc cơ cực của đất nước. Sinh năm 1945 tại bang Pernambuco khô cằn sỏi đá, Lula là con thứ bảy trong tám anh chị em. Gia đình ông lay lắt cơ hàn và càng khốn đốn hơn nữa khi mà, không lâu sau khi Lula chào đời, cha ông bỏ nhà ra đi và chết trong cảnh nát rượu. Điều này đã đẩy cả gia đình lâm vào bế tắc đến nỗi vị tổng thống tương lai đã buộc phải bỏ học sau khi xong lớp hai để đi đánh giày. Năm mười tuổi ông tự học đọc, và năm mười bốn tuổi Lula bằng cách nào đó đã tìm được việc làm trong một nhà máy, nơi ông mất ngón tay út trái sau vụ tai nạn lao động. Không lâu sau đó, ông đã để hết tâm trí vào phong trào lao động mạnh mẽ ở Brazil và tìm thấy thiên hướng của mình. Thăng tiến nhanh chóng qua các cấp bậc của Công đoàn Luyện kim São Bernardo, Lula đã trở thành nhà lãnh đạo của tổ chức này vào tuổi ba mươi. Và vào năm 1980 – thời điểm Brazil vẫn còn bị thống trị bởi tập đoàn quân sự – ông đã giúp sáng lập Đảng Công nhân cánh tả (được biết đến là đảng PT, viết tắt tiếng Bồ Đào Nha) trong niềm hy vọng trao cho tầng lớp bị áp bức tiếng nói mạnh mẽ hơn trên vũ đài chính trị quốc gia.

Đến thời điểm cuộc bầu cử năm 2002, Lula đã ra tranh cử tổng thống – và thất bại – những ba lần. Dù không bao giờ là một nhà Marxist (khác với nhiều đồng chí trong đảng PT), các chiến dịch trước đó của ông nổi bật lên bởi lời kêu gọi quốc hữu hóa ngành công nghiệp và cho vỡ nợ quốc gia. Với luận điệu như vậy cộng với gốc gác cần lao và chiến dịch vận động cùng lời hứa xóa bỏ đói nghèo, Lula đã hoàn toàn làm kinh hãi giai cấp giàu có ở Brazil và các nhà tư bản nước ngoài khi ông rốt cuộc nổi bật lên trong các cuộc thăm dò ý kiến. Như Mac Margolis, nhà báo kỳ cựu ở Rio, nhớ lại, sự trỗi dậy của Lula khiến cho nhiều người Brazil – vốn lo sợ “người đàn ông râu ria bù xù của liên minh cánh tả sẽ giành được ghế tổng thống và biến Brazil thành một Cuba ngoại cỡ” – toát mồ hôi hột.

Bất chấp việc bản thân Lula quả quyết rằng “Brazil đã thay đổi, đảng Công nhân đã thay đổi, và tôi đã thay đổi,” ít người tin vào điều đó. Ở Hoa Kỳ, đảng viên Cộng hòa Henry Hyde, chủ tịch Ủy ban Quan hệ Quốc tế Hạ viện, đã cáo buộc ông là một “người cực đoan thân Castro.” Còn Goldman Sachs bắt đầu công bố một “Lula thử biểu” với mục đích theo dõi rủi ro cho các nhà đầu tư nếu đảng PT giành thắng lợi. Ngay cả George Soros cũng đã cảnh báo rằng chiến thắng của Lula sẽ mang đến sự hỗn loạn. Các ngân hàng ngoại quốc dễ hoảng sợ bắt đầu cắt giảm tín dụng. Và nền kinh tế yếu ớt của Brazil, vốn vừa bắt đầu hồi phục, đã quay đầu lặn sâu. Các chỉ số chứng khoán chính lao dốc 30%. Các nhà đầu tư cũng bắt đầu bán tháo cổ phần, khiến cho dòng vốn 12 tỉ đô la chảy ồ ạt ra khỏi quốc gia chỉ trong vài tháng. Và đồng real của Brazil giảm giá trị 40% so với đồng đô la Mỹ, chạm mức thấp chưa từng có vào thời điểm sắp khép lại năm 2002.

Song người Brazil đã đủ mệt mỏi với kết cấu xã hội phong kiến ở quốc gia này và nỗi đau đớn gây ra bởi các cải cách cấu trúc và những biện pháp khắc khổ cần thiết nhưng không được lòng người của Cardoso khiến cho Lula rốt cuộc vẫn giành chiến thắng. Khi người đàn ông xù xì của liên minh chuẩn bị nhậm chức và nền kinh tế tiếp tục oằn mình dưới phong ba bão táp, quốc gia này đã chuẩn bị tinh thần cho một cuộc đương đầu bi tráng tất phải đến.

NHƯNG MỘT SỰ THỂ KHÔI HÀI đã xảy ra: cơn đại chấn đó không bao giờ đến.

Lula quả thực đã nhậm chức với cuộc cách mạng nung nấu trong đầu. Nhưng nó hóa ra là một kiểu chuyển biến rất khác so với điều mà những người bảo thủ chỉ trích ông lo sợ. Cả những thất bại trước đó lẫn những phản ứng xấu xí dành cho chiến thắng sau cùng của ông đều không làm suy yếu cam kết của Lula đối với việc thay đổi xã hội. Nhưng – và xem ra đây là chữ nhưng then chốt của toàn bộ câu chuyện – chúng đã thay đổi sâu sắc cách thức ông hoạch định để làm cho sự thay đổi ấy diễn ra. Tất cả những sự thất bại và tranh cãi bủa vây đã thúc đẩy Lula nghiêm túc tiến hành tự vấn lương tâm. Giữa những năm 1993 và 2001, ông và José Graziano da Silva, một nhà nông học hói đầu đậm râu gốc Mỹ vốn là một trong những cố vấn thân cận nhất của ông (dù cùng họ Silva, hai người này không phải họ hàng), đã đi khoảng 90.000 kilômét khắp Brazil trong những chuyến vi hành mà họ gọi là caravanas da cidadania. Và vị chính khách đã xuất hiện như một người ôn hòa, đầy tinh thần hòa giải, và lọc lõi về chính trị hơn nhiều khiến hầu hết mọi người không kịp nhận ra.

Trong tất cả những bài học mà thất bại đã dạy cho vị tổng thống mới, bài học quan trọng nhất là ông sẽ không bao giờ tiến xa nếu cố cai trị vì lợi ích của chỉ một phần Brazil mà thôi. Nếu muốn sử dụng quyền hành mới được trao để thật sự thay đổi tình hình, trước hết ông phải lôi kéo về mình nhiều người hoài nghi có thế lực. Và điều này có nghĩa là phải tìm một phương án để đảm bảo sao cho công cuộc thay đổi làm lợi cho mọi người.

Và thế là kẻ kích động quần chúng đã hóa thân thành Người hòa giải vĩ đại. Lula gạt bỏ tất cả những diễn ngôn về vỡ nợ và tái phân phối của cải ra khỏi từ vựng của mình. Ông cắt tóc và bắt đầu mặc com lê. Và ông chấn chỉnh bản thân thành hình tượng mà Margolis gọi là “CEO-whisperer, người bạn của tầng lớp trung lưu, [và] người bênh vực nền dân chủ thị trường trọng pháp.” Dù bước dịch chuyển về phía tầng lớp trung lưu này đã gây ra nhiều tiếng lầm bầm trong nội bộ đảng PT – “nhiều thành viên trong đảng, và người trong các hiệp hội thương mại, hoàn toàn không thích ý tưởng này,” Lula nhớ lại – ông vẫn giữ vững niềm tin. Vào ngày nhậm chức, Lula đã cam kết bảo lưu các chính sách tài chính và tiền tệ chặt chẽ của Cardoso. Và không lâu sau lễ nhậm chức vào tháng 1 năm 2003, ông bắt đầu hành động, chỉ định Henrique Meirelles – cựu ủy viên quản trị được trọng vọng của BankBoston và thành viên trong đảng của Cardoso, đảng PSDB – điều hành ngân hàng trung ương Brazil. Ông cũng bổ nhiệm Antonio Palocci, một người ôn hòa khác, làm bộ trưởng tài chính. Đoạn Lula bắt đầu chĩa mũi dùi vào ngân sách quốc gia trương phình của Brazil, cắt giảm chi tiêu khoảng 4 tỉ đô la trong năm đầu và áp đặt một mục tiêu thặng dư ngân sách thậm chí khắt khe hơn mức Quỹ Tiền tệ Quốc tế đề nghị.

Kết quả nhìn thấy ngay lập tức. Nhiều địch thủ từng công kích ông xuyên suốt chiến dịch năm ngoái đã im hơi lặng tiếng. Vào tháng 3 năm 2003, Mohamed El-Erian, giám đốc điều hành của quỹ đầu tư trái phiếu khổng lồ PIMCO, tuyên bố rằng những nước đi đầu tiên của ngài tổng thống – “từ công bố chính sách, đến bổ nhiệm, và thi hành” – là “rất tốt.” Các thị trường tán thành điều đó; trong vòng sáu tháng sau lễ nhậm chức của Lula, giá trị trái phiếu Brazil đã tăng lên 20%. Ngay cả Goldman Sachs cũng ngượng ngùng thừa nhận rằng những cảnh báo trước đó của nó là sai lầm.

Tuy nhiên, cùng lúc ve vãn những gã lắm tiền nhiều của, Lula còn dốc sức trên một mặt trận khác, chuẩn bị sử dụng vốn liếng chính trị đang lên của mình để tiến hành một chiến dịch phúc lợi xã hội mới vô cùng tham vọng. Triển khai vài tháng sau khi đắc cử, chiến dịch Fome Zero (Không còn đói nghèo) bao gồm hơn bốn mươi chương trình khác nhau được điều hành bởi gần hai mươi bộ của chính phủ. Nhưng sáng kiến đứng ở vị trí nòng cốt của chiến dịch là Bolsa Família (Trợ cấp gia đình), một nỗ lực chống đói nghèo vốn mang tính đột phá với quy mô, sự tham vọng, và thiết kế của nó.

BOLSA FAMÍLIA KẾT HỢP vài sáng kiến tỏ ra có tính quyết định đối với thành công cuối cùng của chương trình – cả trên phương diện chính sách cũng như chính trị.

Trước hết, thay vì cấp cho người nghèo hàng hóa hay dịch vụ, như hầu hết chương trình phát triển khác lúc bấy giờ, Bolsa Família thử làm một điều gì đó táo bạo hơn nhiều: chỉ đưa tiền mà thôi. Brazil thật sự đã bắt đầu thử nghiệm phương pháp này vài năm trước đó. Năm 1995, hai thành phố Campinas và Brasília đã thực thi các chương trình phát-tiền-mặt trên cơ sở thử nghiệm. Chúng tỏ ra có hiệu quả trong việc cải thiện đói nghèo đến mức sớm được mô phỏng bởi hơn một trăm chính quyền địa phương khác. Và Tổng thống Cardoso đã cho thử nghiệm kế hoạch tương tự trên quy mô toàn quốc vào năm 2001, dù số tiền phát ra rất nhỏ và việc thực hiện có sai sót. Tuy vậy, kết quả vẫn đầy hứa hẹn khiến cho Lula, nghe theo lời khuyên của Graziano, quyết định gộp tất cả chương trình khác nhau này vào một sáng kiến quốc gia mới được tổ chức hợp lý – và mở rộng ra trên quy mô lớn hơn nhiều so với hình dung của hầu hết chuyên gia.

Bất chấp sự thành công của những thử nghiệm Campinas và Brasília, Bolsa Família gây tranh cãi kịch liệt khi Lula lần đầu thực hiện vào tháng 10 năm 2003. Lúc bấy giờ, hầu hết các chuyên gia và tổ chức quốc tế vẫn coi ý tưởng đưa tiền cho người nghèo là một sai lầm nguy hiểm. Đơn giản là theo trực giác, nó có vẻ gì đó kỳ khôi. Nó cũng ra mặt thách thức nhiều thập kỷ nghiên cứu khoa học xã hội và những gì mà Ngân hàng Thế giới từ lâu coi là cách làm tốt nhất. “Các chuyên gia không chấp nhận ý tưởng này,” Lula nhớ lại. “Họ thích cho người nghèo nhu yếu phẩm hàng ngày, hoặc làm cái gì đó cho họ hơn.” Như Lena Lavinas, nhà kinh tế học tại Đại học liên bang Rio de Janeiro, nói với tôi, đó là vì lý lẽ cho rằng “người nghèo không biết dùng nguồn lực một cách đúng đắn.” Dịch ra: người ta cho rằng người nghèo sẽ tiêu hoang số tiền vào rượu chè, thuốc lá, hoặc những món đồ lòe loẹt vô giá trị. Các nhà làm chính sách, không phải người dân, biết rõ nhất, vì vậy họ nên là người ra quyết định.

Thế nhưng ba cái nhìn sáng suốt đã thuyết phục Lula và các cố vấn của ông bác bỏ ý niệm này. Thứ nhất, kinh nghiệm của chính Brazil đã chứng tỏ rằng các nỗ lực trên quy mô lớn nhằm giảm đói nghèo thông qua phân phối hàng hóa, như chương trình lương thực đồ sộ mà Cardoso đã thực hiện vào cuối những năm 1990, thường rơi tõm vào các khuôn mẫu rắc rối và đắt đỏ. Việc cấp nhu yếu phẩm cho người nghèo là cực kỳ phức tạp, tốn kém, và không hiệu quả. Nó cũng đòi hỏi một bộ máy quan liêu cồng kềnh, vốn tạo ra vô số cơ hội cho sự tham nhũng – vấn nạn kinh niên ở Brazil.

Thứ hai, một vài cuộc nghiên cứu học thuật có tính bước ngoặt (mà về sau được xác nhận bởi hàng loạt nghiên cứu tiếp theo) bắt đầu củng cố điều mà Lula đã biết rất rõ: rằng người hiểu rõ nhất người nghèo thật sự cần gì là những người như mẹ ông – ấy là, bản thân người nghèo. Nghiên cứu mới cũng chứng tỏ rằng, khi được trao cơ hội, các gia đình cơ cực thường không chi tiêu hoang phí. Hầu hết chi tiêu khá hợp lý – nhất là khi số tiền ấy rơi vào tay người mẹ, không phải những người cha, như trong chương trình Bolsa Família.

Cuối cùng, Lula nhận thức rằng làn sóng tư hữu hóa đã quét qua Mỹ Latin trong những năm tám mươi và chín mươi – khi các chính phủ bán tháo hầu hết mọi thứ từ sân bay và nhà máy năng lượng cho đến các nhà cung ứng dịch vụ – đã bỏ mặc hàng trăm triệu dân thường tụt lại phía sau, vì quá nghèo để tham gia vào nền kinh tế thị trường đang rộng mở. Lula và đội ngũ cố vấn của ông cho rằng thay vì trải qua cơn ác mộng tái quốc hữu hóa các doanh nghiệp lớn, cách tốt nhất và đơn giản nhất để đảo ngược quá trình chặn cửa người nghèo này là cho một ít tiền mặt vào túi họ.

Vậy đó là điều mà họ quyết tâm làm.

NHƯ NGÀI TỔNG THỐNG và những phụ tá đã đặt định, tư cách để được hỗ trợ theo chương trình Bolsa Família rất đơn giản. Bất kỳ gia đình nào có thể chứng minh đang sống trong cảnh nghèo cùng cực – bấy giờ được định nghĩa là dưới 50 real (khoảng 42 đô la) một người mỗi tháng – sẽ đủ tư cách nhận tiền, cũng như những gia đình nghèo vừa phải vốn kiếm ít hơn 100 real mỗi đầu người.

Nhưng Lula cũng quyết định rằng Bolsa Família không đơn giản là phát tiền khơi khơi như thế. Tham gia vào chương trình là điều dễ dàng, nhưng để lưu lại với nó đòi hỏi phải làm việc. Những người tham gia sẽ phải đáp ứng vài điều kiện, hay contrapartidas (trách nhiệm bên tương ứng): đảm bảo rằng tất cả các con từ 6 đến 15 tuổi phải có mặt ở trường ít nhất 85% thời gian; đảm bảo mọi đứa con dưới 7 tuổi được chủng ngừa; và cam đoan rằng cả mẹ lẫn con đều đi kiểm tra y tế đều đặn. (Thai phụ cũng được yêu cầu đi khám thai và nuôi con bằng sữa mẹ.)

Lula có hai lý do rất thông minh để áp đặt những quy tắc ấy. Thứ nhất, trong khi bản thân ông có thể đào ra con đường thoát khỏi đói nghèo bằng chín đầu ngón tay của mình, ông biết rằng ông là một cá biệt may mắn khi làm được điều đó. Với hầu hết người Brazil, nhân khẩu học là định số: nếu bạn sinh ra trong nghèo đói, bạn cũng sẽ chết trong nghèo đói. Thực vậy, các nghiên cứu học thuật đương thời chứng tỏ rằng mối tương quan giữa số tiền cha mẹ kiếm được so với mức thu nhập sau này của con cái họ cao hơn ở Brazil so với hầu hết các quốc gia khác. Lý do cho sự thiếu cơ hội vươn lên này là nhiều người Brazil cảm thấy buộc phải để cho các con đi làm thay vì đến trường, ngay cho dù làm như vậy là tước đoạt của chúng những công cụ có thể giúp chúng cải thiện cuộc sống sau này. Lula quyết tâm phá tan cái bẫy nhiều thế hệ này bằng cách chống lại sự nghèo đói hôm nay ngày mai. Nói bằng ngôn ngữ thực tế, điều đó có nghĩa là tạo điều kiện – và đòi hỏi – các bậc cha mẹ trao cho con cái những lợi thế lớn lao, dưới dạng giáo dục, chăm sóc y tế, và dinh dưỡng, hơn là chính họ từng được hưởng.

Nhưng động cơ của Lula trong việc thiết kế Bolsa Família theo cách ông đã làm chỉ phần nào liên quan tới chính sách. Người hòa giải vĩ đại vừa tìm thấy nhiệt huyết với con đường trung dung này cũng đang ấp ủ một tư duy chiến lược: ông biết rằng điều kiện chặt chẽ đi kèm chương trình viện trợ của ông sẽ khiến nó dễ thuyết phục phần còn lại của xã hội hơn. Và ông biết mình cần mọi sự giúp đỡ có thể tìm được. Trước Lula, hầu hết các chương trình cứu trợ xã hội ở Brazil mang hình thức kế hoạch bảo hiểm vốn làm lợi một cách bất xứng cho các tầng lớp trung và thượng lưu (khó lòng đủ tư cách được hưởng trợ cấp chính phủ nếu bạn không làm việc trong nền kinh tế chính quy). Với Bolsa Família, đây là lần đầu tiên một Tổng thống Brazil thật sự đưa việc chống đói nghèo và bất bình đẳng vào trung tâm nghị trình (dù các chính trị gia trước đây từng làm điệu bộ với nó.) Điều này gần như đảm bảo một trận chiến khó tránh.

Quả nhiên, sự phản đối bắt đầu nổi lên ngay khi chương trình được giới thiệu vào đầu tháng 10 năm 2003. Bolsa Família chẳng những công khai thách thức thông lệ lâu nay, vả chăng một vài nhà kinh tế học còn biện luận rằng chính phủ nên đầu tư vào cơ sở hạ tầng như trường học thay vì chăm lo người nghèo bằng cách đưa tiền cho họ. Số khác nói rằng không nên chỉ bảo các bậc cha mẹ phải làm gì với con cái họ. Và các ngài học giả bảo thủ thì cảnh báo rằng việc trao tiền mặt sẽ tạo ra một tầng lớp sống bám vào phúc lợi, mà tiếng Bồ Đào Nha gọi là assistencialismo. (Đừng bao giờ quên sự kiện rằng ý tưởng trao tiền mặt đã được ấp ủ đầu tiên bởi thần tượng của cánh hữu, nhà kinh tế học người Mỹ Milton Friedman.) Như Tereza Campello, Bộ trưởng Phát triển Xã hội, nhớ lại, trong ngày đầu của chương trình Bolsa Família, những người chỉ trích liên tục công kích bà bằng một châm ngôn lạc hậu rằng dạy người ta cách câu thì hơn cho cá. “Phe đối lập cáo buộc chúng tôi sắp sửa tạo ra một đám người lười biếng,” Lula nói với tôi.

Hiến pháp Brazil cho tổng thống khả năng thực hiện Bolsa Família bằng chính thẩm quyền hành pháp của mình. Nhưng luật cũng quy định rằng ông cần sự phê chuẩn của quốc hội để thay mới chương trình trong vòng 1 năm. Điều đó có nghĩa Lula phải đảm bảo có được sự ủng hộ rộng rãi nếu muốn chương trình mang chữ ký của ông sống sót – và contrapartidas là chìa khóa để ông đạt được nó. “Ý tưởng ở đây là chứng minh rằng chúng tôi không trao tiền khơi khơi,” Lula giải thích với tôi. “Chúng tôi phải xây dựng lòng tin, ngay cả trong số những người hoài nghi về chương trình này.” Như Ariel Fiszbein và Norbert Schady, hai nhà kinh tế học của Ngân hàng Thế giới, ghi lại, điều kiện giúp Lula thực hiện điều đó chính là tạo ấn tượng phổ biến rằng Bolsa Família không phải là chiêu dỗ dành người nghèo, nhưng đúng ra là một kiểu giao ước xã hội mới theo đó những người thụ nhận phải làm phần việc của mình. Việc bắt người thụ hưởng thể hiện “bằng chứng rõ ràng của sự cam kết” với “những hành vi tích cực” mà chương trình yêu cầu khiến họ cảm thấy xứng đáng hơn, tạo cho công chúng cảm tưởng rằng họ đã kiếm được số tiền đó.

Tất nhiên, việc đơn giản công bố những điều kiện chính thức là chưa đủ; phải có cả hình phạt cho người không tuân thủ. Với mục đích đó, các kiến trúc sư của Bolsa Família đã thiết kế một hệ thống các mức phạt tăng dần cho những người không làm tròn phần việc của mình. Những người phá luật sẽ nhận được lời cảnh cáo; nếu họ vẫn không tuân thủ, phúc lợi sẽ bị đình chỉ, và nếu vấn đề tiếp diễn, họ rốt cuộc sẽ bị gạt khỏi chương trình.

Trong khi sắc lệnh như vậy trông có vẻ tốt trên giấy, Lula sớm phát hiện ra rằng để mọi người thật sự coi trọng chúng đòi hỏi liều thuốc mạnh hơn: bằng cớ không thể chối cãi là ban hành luật. Năm 2004, chính quyền Lula trở nên bận tâm tới việc mở rộng phạm vi chương trình (số người thụ hưởng tăng từ 3,8 triệu gia đình, hay gần 16 triệu người, vào cuối năm 2003 lên gần gấp ba năm 2006) đến nỗi nó đã thôi chú ý nhiều tới việc liệu những người thụ hưởng mới này có giữ vững cam kết của mình. Khi mà, một phần năm trôi qua, chính phủ phát hiện ra rằng chỉ có 55% số trường công lập Brazil báo cáo việc những người thụ hưởng Bolsa Família có đáp ứng được chỉ tiêu cho con đến trường, bèn quyết định tạm thời đình chỉ những nỗ lực giám sát hoàn toàn.

Lựa chọn này có thể gây cảm tưởng về sự quan liêu; chính quyền chỉ đang cố mua thời gian để dọn nhà cho ngăn nắp. Và điều đó quả thật là một thảm họa. Ngày 17 tháng 10, chỉ vài ngày trước cuộc bầu cử thành phố toàn quốc, Fantástico, chương trình thời sự tối Chủ nhật nổi tiếng đã phát phóng sự điều tra về những người nhận không xứng đáng đã lạm dụng chương trình Bolsa Família. (Hãy nghĩ tới những lời ta thán thời Reagan về các nữ hoàng phúc lợi lái Cadillac và bạn sẽ hình dung ra giọng điệu của bài phóng sự.) Cả thế giới truyền thông Brazil nhao nhao nhảy vào câu chuyện, lên án chính phủ từ khắp mọi nơi. Công chúng đùng đùng nổi giận; chỉ trong một tuần sau bài phóng sự của Fantástico, chính phủ đã nhận được vài ngàn lời kêu ca giận dữ.

Cảm nhận sự nguy hiểm, Lula quyết định đương đầu trực diện với những người chỉ trích. “Chúng tôi đã rút ra bài học nào từ thời khắc này? Sự khiêm tốn,” ông nói với tôi. “Bạn phải thừa nhận rằng một chương trình rất lớn sẽ có những sai sót. Bạn phải thú nhận chúng. Và sau đó bạn phải sửa chữa.” Với mục đích đó, Lula lập ra Bộ Phát triển Xã hội mới (được biết đến bởi từ viết tắt tiếng Bồ của nó, MDS) để tập trung giám sát Bolsa Família. Rời bỏ truyền thống chính trị bảo trợ bấy lâu của Brazil, ông bố trí nhân lực cho bộ mới với các nhà kỹ trị được đào tạo tới nơi tới chốn (bao gồm nhiều thành viên của đảng PSDB đối lập) thay vì những cánh hẩu cùng đảng phái. Vào tháng 1 năm 2005, ông đích thân chủ trì một chiến lược liên bộ hoàn toàn mới nhằm cải thiện việc thực thi Bolsa Família; trong số những biện pháp khác, ông thiết lập một cơ quan đăng kiểm thống nhất toàn quốc để theo dõi mọi người từng hưởng trợ cấp chính phủ dưới mọi hình thức, tập trung vào các tiêu chuẩn thích hợp của Bolsa Família, tiến hành các cuộc kiểm toán chính quy và kiểm tra đột xuất, lập ra các ủy ban giám sát công dân và những đường dây nóng, và yêu cầu người tham gia chương trình phải được chứng thực lại mỗi 2 năm.

Đến giữa năm 2006, việc giám sát và thực thi đã cải thiện mạnh mẽ: vào tháng 6 năm đó, MDS đã gạt khoảng nửa triệu người nhận không đủ tư cách ra khỏi danh sách. Người Brazil chú ý, và bị ấn tượng. Làn sóng chỉ trích Bolsa Família nhanh chóng lắng dịu, và sự ủng hộ của công luận dành cho chương trình bắt đầu tăng lên. Thật vậy, một phân tích năm 2010 về dữ liệu thăm dò và luận bàn của truyền thông đối với Bolsa Família của Kathy Lindert và Vanina Vincensini, hai chuyên gia từ Ngân hàng Thế giới, cho thấy rằng bằng việc áp đặt những điều kiện viện trợ nghiêm ngặt, chính quyền Lula đã hợp pháp hóa Bolsa Família với các cử tri Brazil, tạo ra sự nhiệt tình rộng khắp đối với nó từ cả hai đầu của phổ chính trị.

CŨNG HỮU DỤNG như là contrapartidas trong việc nâng cao tính phổ biến của Bolsa Família, có hai sự đổi mới khác tỏ ra quan trọng không kém.

Thứ nhất, với tất cả tham vọng của mình, Bolsa Família đã, và vẫn rẻ bèo so với hầu hết các chương trình phúc lợi xã hội ở Brazil và nhiều nơi khác. Hôm nay, hơn một thập niên sau thực hiện, Bolsa Família đã vươn ra với khoảng 14 triệu gia đình, chừng 55 triệu người Brazil – một con số khổng lồ. Song vì Lula và đội ngũ cố vấn của ông nhận ra rằng chỉ cần một số tiền rất nhỏ để tạo nên một khác biệt rất lớn trong cuộc sống một gia đình nghèo, các khoản thanh toán cá nhân (vốn khác nhau tùy theo thu nhập và số nhân khẩu trong gia đình) là rất nhỏ: mỗi người nhận bình quân chừng 65 đô la một tháng, và mức trợ cấp cao nhất là 200 đô la. Kết quả, “tổng số tiền chi cho Bolsa Família” – bất chấp quy mô của nó – “là con số không,” như lời của Yoshiaki Nakano, chủ nhiệm khoa kinh tế của Viện nghiên cứu Getúlio Vargas Foundation ở São Paulo. Đây tất nhiên là lối nói cường điệu, nhưng không nói quá. Sự thật là một trong các chương trình chống đói nghèo tham vọng nhất thế giới hiện tiêu tốn của người đóng thuế Brazil chưa tới phân nửa của một phần trăm tổng GDP 2,2 ngàn tỉ đô la của đất nước – ít hơn nhiều so với mức 12% mà chính phủ chi cho trợ cấp hưu trí, chẳng hạn (một cơ chế hỗ trợ kém tiến bộ hơn nhiều). Mặc dù khó có thể thực hiện những so sánh chính xác trên bình diện quốc tế, song có bằng chứng cho thấy rằng Bolsa Família là một trong những chương trình chống đói nghèo rẻ nhất so với bất kỳ đâu. Thực vậy, nghiên cứu năm 2011 của chính phủ Anh xác nhận rằng chương trình Bolsa Família tiêu tốn của quốc gia ít hơn 30% mỗi đầu người so với các chương trình viện trợ truyền thống, một phần nhờ chi phí hành chính tối thiểu của nó.

Một khía cạnh sau cùng trong thiết kế của Bolsa Família cũng giúp Lula giành được sự ủng hộ rộng khắp: chương trình có kết cấu sao cho rốt cuộc nó sẽ làm lợi cho tất cả người Brazil, chứ không chỉ tầng lớp dưới cùng. Như Lula giải thích khi ông lần đầu giới thiệu Bolsa Família, “Khi hàng triệu người có thể đến siêu thị để mua sữa, mua bánh mì, nền kinh tế sẽ hoạt động tốt hơn. Những người cùng khổ sẽ trở thành người tiêu dùng.” Bằng việc trao tiền để người nghèo chi tiêu theo cách họ muốn, Lula đã tạo ra điều mà Lavinas, nhà kinh tế học phúc lợi ở Rio, gọi là “một phương pháp chống đói nghèo thân thiện với thị trường.” Thực vậy, chính cây bút Joge Castaneda, cựu bộ trưởng ngoại giao bảo thủ của Mexico, người đã trở thành ký giả chuyên mục và tự nhận là nhà phê bình nghiêm khắc đối với lực lượng cánh tả Mỹ Latin, đã gọi Bolsa Família là một “chương trình phúc lợi sáng tạo” rất “tân tự do… như người ta có thể hiểu.”

Phương diện này của chiến dịch chống đói nghèo của Lula đã gây kinh ngạc cho những người chỉ trích ở cánh hữu, vốn vẫn hoài nghi ông. Nhưng nét thân thiện của Bolsa Família chỉ là một biểu hiện của đường lối phi chính thống tài tình mà Lula sẽ theo đuổi suốt nhiệm kỳ tổng thống của mình. Như Bernardo Sorj, nhà xã hội học tại Đại học São Paulo, đã diễn đạt với tôi vào một chiều nọ ở Rio, tài năng của Lula như một chính trị gia – và bí mật thành công của ông – là xem thường các tín điều truyền thống. Thiên khiếu lớn nhất của Lula, Sorj nói, là khả năng “không ở cánh tả lẫn cánh hữu, nhưng là một biến hóa sinh động, và một người hoàn toàn thực tế.” Né tránh ý thức hệ, cách tiếp cận cơ bản của Tổng thống Lula là “làm cho mọi người hạnh phúc.”

Là người nghiên cứu Lyndon Johnson (Tổng thống Hoa Kỳ thứ 36) kỹ lưỡng, Lula – người thậm chí đã thông tỏ thói quen của LBJ trong việc gây bối rối và dụ hoặc người đối thoại (trong suốt buổi phỏng vấn, ngài tổng thống nhiều lần chạm tay tôi để nhấn mạnh câu chuyện, sau đó bắt đầu siết chặt bắp tay, và rồi, về cuối buổi gặp mặt, nắm tay tôi liền mấy phút) – đồng thời còn là bậc thầy vận động lôi kéo, người thậm chí đã xoay sở để thu phục các nhân vật quốc tế đối lập như Tổng thống George W. Bush. Xuyên suốt nhiệm kỳ của mình, Lula đã tìm cách giữ vững các nguyên tắc nền tảng, mà ông phụng sự qua những chính sách xã hội tiến bộ, đồng thời (đặc biệt ở nhiệm kỳ đầu) chấp nhận thương đau để “tôn trọng các quy tắc căn bản của nền kinh tế tự do hiện đại,” như cách diễn đạt của Sorj. Trước tiên “thuần hóa” những kẻ cực đoan trong đảng, Lula sau đó cam đoan đi cam đoan lại với những thành phần kinh tế chủ chốt – các nhà đầu tư và các chính phủ nước ngoài – thông qua những chính sách kinh tế vĩ mô bảo thủ. Ông cũng ve vãn các doanh nghiệp lớn bằng cách, chẳng hạn, đưa ra những khoản vay lãi suất thấp cho các công ty lớn từ Ngân hàng phát triển quốc gia Brazil thuộc sở hữu nhà nước.

Kết quả là một danh hiệu độc đáo của cái mà El-Erian của PIMCO gọi là “chủ nghĩa dân túy theo nguyên tắc tài chính.” Lula không ngần ngại về điều mình làm. “Tôi không cảm thấy xấu hổ khi nói với bạn rằng dưới thời cầm quyền của tôi, mọi người đều thắng, từ người nghèo nhất cho đến người giàu nhất,” ông thổ lộ. Từ chối bị trói buộc bởi vấn đề đảng phái hay giai cấp, ngài tổng thống trước sau luôn tìm cách đạt được những thành quả lớn nhất cho số đông nhất. Ông biết mục tiêu này đôi khi có thể mất phương hướng. “Đôi khi những người bạn cũ tìm đến tôi và nói, ‘Coi nào, Lula! Ông từng là một công nhân ngành thép! Ông không khó chịu khi các chủ ngân hàng đang làm ra nhiều lợi nhuận đến thế ư?” ông kể lại. “Tôi sẽ nói, ‘Không – điều tôi lo lắng là liệu họ có đang thua lỗ hay không.’ Nếu có một điều mà tôi không lấy làm xấu hổ, đó là lợi nhuận. Nhưng tôi muốn mọi người biết rằng triết lý của tôi, từ thâm tâm, là của một người mẹ. Không ai công bằng hơn một người mẹ. Ngay cho dù có ba trăm đứa con, bà sẽ đối xử với tất cả như nhau. Đó là điều tôi thường nói với người dân: rằng tôi cai trị vì tất cả. Và tôi cảm thấy rất tự hào rằng tôi duy trì quan hệ tốt đẹp với mọi người: từ những điền chủ lớn nhất cho đến những người không ruộng đất; từ những chủ nhà băng lớn nhất cho đến nhân viên của họ.”

Chiến lược ấy thành công rực rỡ. Tính thực dụng không thương xót và cách tiếp cận mọi-người-cùng-thắng của Lula hẳn đã, trong vòng vài năm, biến ông thành “thần tượng của mọi người,” Sorj nói. “Ông đã xoay sở để trở thành người hùng tại Davos tại Diễn đàn Xã hội Thế giới” – một phiên bản dân túy của Diễn đàn kinh tế thế giới ở Thụy Sĩ. “Và đó là một kỳ công không dễ dàng.”

*

TRONG KHI CÁC MỸ TỪ bao dung trước sau như một của Lula hữu ích về mặt chính trị, người Brazil (như bao người dân khác) vẫn biết rằng nói thì dễ hơn làm. Chính việc tạo ra những thành quả mà rốt cuộc Lula đã thu phục được người dân. Với những thành quả đó – từ mức tăng trưởng GDP bình quân gần 4% xuyên suốt nhiệm kỳ đến thành công vang dội trong cuộc chiến chống đói nghèo và bất bình đẳng – là cực kỳ ấn tượng. Dù chi phí dành cho Bolsa Família có thể nhỏ bé, nhưng sức tác động của nó tỏ ra thật to lớn. Chẳng những nó sau cùng đã vươn ra tới hơn một phần tư tổng dân số (và 85% người nghèo), nhưng số tiền thanh toán, dù ít ỏi, đã làm tăng gấp đôi thu nhập của các gia đình cơ cực nhất. Trong 3 năm đầu tiên, Bolsa Família đã cắt giảm mức nghèo đói cùng cực xuống 15%, và đến năm 2014, tỉ lệ người Brazil sống trong cảnh bần cùng đã giảm từ 9% xuống dưới 3% – mức độ mà Ngân hàng Thế giới coi là tương đương với thành tích xóa đói giảm nghèo. Cùng lúc đó, Bolsa Família đã giúp đưa tổng cộng 36 triệu người thoát khỏi đói nghèo, tạo ra điều mà Matias Spektor, nhà khoa học chính trị và cây bút chuyên mục của tờ báo lớn nhất Brazil, Folha de São Paulo, mô tả với tôi là “cuộc chuyển biến mười năm lớn nhất đối với kết cấu giai cấp của một quốc gia kể từ trường hợp Nhật Bản sau Thế chiến II.”

Về phần bất bình đẳng, các nghiên cứu gần đây đã quy công Bolsa Família cho việc giúp thu hẹp khoảng cách thu nhập tổng thể xuống một phần ba và xếp nó là nhân tố đóng góp quan trọng thứ hai cho sự chuyển biến này sau sự tăng trưởng kinh tế nói chung. Theo Tereza Campello, Bộ trưởng Phát triển Xã hội, thu nhập của 20% dân nghèo nhất Brazil đã tăng lên 6.2% giữa những năm 2002 và 2013; trong khi thu nhập của 5% dân giàu nhất Brazil chỉ tăng có 2.6%. (Điều này tương phản sâu sắc với tình hình ở Hoa Kỳ, nơi, trong cùng giai đoạn, thu nhập của 10% dân giàu nhất tăng 2.6% trong khi thu nhập của 10% dân nghèo nhất giảm 8.6%.) Bất chấp chính phủ Brazil đã tiến hành một số chương trình hỗ trợ xã hội quan trọng khác bao gồm các biện pháp tăng lương tối thiểu đột xuất, và bất chấp nền kinh tế tăng trưởng cũng giúp ích đáng kể, hầu hết chuyên gia đồng ý rằng Bolsa Família xứng đáng được ghi công lớn vì đã cải thiện toàn diện cuộc sống người nghèo trong nước. Bolsa Família cũng tỏ ra là tấm đệm đỡ quan trọng khi mức tăng trưởng của Brazil đã chững lại trong những năm gần đây. Nền kinh tế tổng thể của quốc gia có thể bị tổn thương hôm nay, nhưng nhờ có lớp giảm xóc do Bolsa Família mang lại, đại đa số dân chúng không – hay chí ít không khốn khổ nhiều như họ đã từng với nhiều cuộc khủng hoảng trong quá khứ của quốc gia.

Bolsa Família cũng đã tạo ra những bước tiến dài về phía mục tiêu của Lula là chấm dứt vòng luẩn quẩn đói nghèo giữa các thế hệ: bằng việc giúp gia tăng tỉ lệ tiêm chủng lên đến 99% dân số, bằng việc hạ thấp tỉ lệ suy dinh dưỡng trẻ em ở những vùng nghèo nhất Brazil xuống 16%, và bằng việc gia tăng 26% khả năng đạt được mức-cân-nặng-theo-độ-tuổi lành mạnh. Tỉ lệ tử vong trẻ em đã giảm xuống 40% trong thập kỷ qua, đặc biệt tỉ lệ tử vong vì suy dinh dưỡng đã giảm 58% – một trong những mức giảm ấn tượng nhất từng thấy ở bất cứ đâu. Trong khi đó, số trẻ em bị buộc phải đi làm thay vì đến trường đã giảm 14%. Những người thụ hưởng Bolsa Família giờ đây tự hào có tỉ lệ tốt nghiệp cao gấp đôi con em nghèo nằm ngoài chương trình, và sáng kiến này được ghi nhận đã cải thiện tỉ lệ đến trường ở những vùng nghèo khổ nhất nước lên 14%. Một hệ quả đáng vui mừng: tỉ lệ biết chữ toàn quốc cũng tăng lên.

Chương trình này cũng đã tạo ra những thay đổi ít hiển nhiên hơn và khó tiên đoán hơn – dù không kém phần quan trọng – trong cuộc sống và thái độ của những công dân nghèo nhất. Nghiên cứu chứng tỏ rằng Bolsa Família đã trao cho phụ nữ Brazil nhiều quyền hạn hơn bằng việc để họ làm chủ các trương mục ngân hàng của gia đình; chẳng hạn, phụ nữ tham gia Bolsa Família có thêm 10% cơ hội để khẳng định đặc quyền đối với vấn đề tránh thai trong hôn nhân. Và chương trình dường như đã tạo tác động mạnh mẽ đến cảm thức tự chủ của người nghèo. Một khảo sát gần đây tiến hành với 1400 người thụ hưởng Bolsa Família trong ba thành phố khác nhau cho thấy rằng thay vì cảm thấy xấu hổ bởi sự lệ thuộc vào chương trình của chính phủ, ba phần tư số người thụ hưởng nói rằng họ tự hào được tham gia chương trình và rằng, bằng việc tạo điều kiện để họ chăm lo cho gia đình một cách tử tế mà không phải ngửa tay xin xỏ, Bolsa Família đã giúp họ “sống cuộc sống tự quyết và có phẩm cách hơn.”

Những người Brazil ghi danh trong chương trình thậm chí đã biểu đạt niềm tin sâu sắc hơn vào nền dân chủ của đất nước. Đây có vẻ là một kết quả kỳ lạ đối với chương trình phúc lợi, nhưng Spektor giải thích rằng Bolsa Família – vốn, nhờ có sự giám sát chặt chẽ và dùng thẻ ngân hàng điện tử để chuyển tiền, đã đánh bay tham nhũng một cách đáng khâm phục1 – “phá vỡ các cơ chế chính trị giam hãm người nghèo quá lâu trong cảnh bần cùng. Bolsa đã tống cổ những ông trùm móc ngoặc với chính quyền xuống địa ngục vì bỗng nhiên bạn có một nhóm rất nhỏ những người ở Brasília xa tít mù – tất cả đều có học vị tiến sĩ từ các trường đại học phương Tây – trao tiền trực tiếp cho người nghèo.” Trong cuộc trò chuyện của chúng tôi, Lula diễn đạt thẳng thừng hơn: “Một phần lý do Bolsa Família thành công như vậy là vì tiền được trao trực tiếp, không qua trung gian. Người nhận chỉ cần cầm thẻ tới ngân hàng để rút tiền nên họ không nợ ân huệ từ bất kỳ ai, dù đó là tổng thống, thống đốc, đại biểu quốc hội, hay thị trưởng.” Cuối cùng, đúng như Lula đã hứa, Bolsa Família mang đến sự kích thích đáng kể cho toàn bộ nền kinh tế. Bằng việc trao người nghèo tiền để chi tiêu, chương trình đã làm gia tăng mức tiêu thụ nội địa, một động lực kinh tế đặc biệt quan trọng đối với quốc gia như Brazil, vốn lảng tránh hầu hết hoạt động nhập khẩu. Trong khi phần lớn tiền được chi cho thức ăn, Lula nói rằng “trong số những người nhận phúc lợi theo chương trình Bolsa, 80% mua ti vi, 79% mua tủ lạnh, và 50% mua máy giặt. Bởi vậy cái dường như là chương trình chỉ dành cho người sống trong điều kiện của thế kỷ 18 đã giúp đáp ứng nhu cầu của các nhà sản xuất hiện đại, tạo ra hàng triệu việc làm. Mọi người đều thắng.” Điều này nghe có vẻ khoa trương, nhưng những con số không biết nói dối: các nhà kinh tế học tính toán rằng, kể từ khi thực thi, Bolsa Família đã gia tăng mức tăng trưởng GDP 1,78 real với mỗi 1 real chi tiêu.

DANH SÁCH DÀI những thành tựu hợp lại đã làm cho Bolsa Família được ưa thích một cách khó tin ở Brazil; các cuộc thăm dò cho thấy tỉ lệ tán thành nó vào khoảng 75%. Mọi người đều hạnh phúc với nó, Lavinas nói với tôi. “Người nghèo vì họ bớt nghèo, và người giàu vì chương trình này quá rẻ nên họ chẳng để tâm.” Ngay cả tầng lớp trung lưu, theo truyền thống là bộ phận bảo thủ nhất trong số cử tri Brazil, cũng chấp nhận Bolsa Família. Như Spektor lý giải, nhóm này “lớn lên trong một đất nước vốn luôn trở nên tồi tệ hơn. Khi Brazil dân chủ hóa [vào giữa những năm 1980], bạo lực gia tăng, bất bình đẳng gia tăng, lạm phát gia tăng. Chúng tôi bị cuốn vào suy nghĩ rằng mọi chuyện thật khủng khiếp. Nếu bạn hy vọng về một tương lai, bạn cần học tiếng Anh và biến khỏi đây. Giờ thì, bỗng nhiên, tôi lại thích ở đây hơn bất kỳ nơi nào khác. Và đó là nhờ Bolsa.”

Sự hăng hái trên mọi lĩnh vực như thế lần đầu được biểu thị trong suốt chiến dịch tái tranh cử của Lula năm 2006. Bất chấp các số liệu tăng trưởng kinh tế mạnh mẽ và sự ân cần vươn tay về cả cánh hữu lẫn cánh tả, Lula đã phải đương đầu với trận gió ngược dữ dội nổi lên trong cuộc đua. Hàng loạt các vụ bê bối tham nhũng gây bẽ mặt đã nổ ra trong năm 2005 và 2006, dẫn đến sự từ chức bắt buộc của nhiều người trong đội ngũ cố vấn cấp cao của ông. (Không liên quan tới những luận điệu gần đây xung quanh công ty dầu khí nhà nước, Petrobras, vụ bê bối lớn nhất cũng được biết đến là mensalão, là những cáo buộc cho rằng chính phủ đã thanh toán lợi tức hàng tháng cho các đồng minh trong quốc hội để mua chuộc sự ủng hộ của họ.) Những cáo buộc đã giáng một đòn nặng nề vào số phiếu của Lula, và nhiều nhà phân tích bắt đầu tiên đoán rằng ông sẽ thua trong hiệp đầu tiên (Brazil tổ chức bầu cử chia làm hai giai đoạn). Vậy mà khi người Brazil sau cùng đi bỏ phiếu, Lula chẳng những sống sót qua vòng đầu; ông nghiền nát đối thủ của mình, Geraldo Alckmin của đảng PSDB, tới 22 điểm trong cuộc đua thêm.

Lý giải? Bất chấp tất cả nỗi tức giận và bối rối trước thái độ thờ ơ rõ ràng của Lula với nạn hối lộ (sự thờ ơ sau này sẽ khiến ông gặp rắc rối hơn nữa), sau cùng vẫn có nhiều người Brazil chọn bỏ phiếu cho ví tiền của họ. Đặc biệt là với những người nghèo và ít học, đối tượng hưởng lợi nhiều nhất từ Bolsa Família. Theo một cuộc phân tích bầu cử được thực hiện bởi hai học giả Mỹ, Wendy Hunter và Timothy J. Power, 60% những người kiếm ít hơn năm lần mức lương tối thiểu chọn người đương chức trong năm đó, và Lula giành được tới 85% số phiếu của vùng đông bắc kém phát triển.

Việc những người Brazil với cuộc sống được đổi thay nhờ chính sách của chính phủ muốn đền đáp nhà hảo tâm của mình xem ra không có gì đáng ngạc nhiên. Nhưng bất chấp gốc gác của mình, màn trình diễn mạnh mẽ của Lula giữa những người nghèo năm 2006 đã thật sự phá vỡ khuôn khổ bầu cử trước kia. Trước năm đó, hầu hết các cử tri nghèo lảng tránh ông và đảng PT, mà họ coi là một đảng phái của những trí thức. Trên thực tế, dù xuất thân từ cánh tả, hầu hết những người ủng hộ Lula trong bốn chiến dịch trước đều đến từ những tỉnh giàu hơn của đất nước. Người nghèo đã luôn nhìn ông, theo lời Spektor, như “một gã có hàm râu buồn cười, hứa hẹn cách mạng. Và vì họ đã bị chơi xỏ bởi hệ thống chính trị Brazil bấy lâu nay,” những lời hứa này “có vẻ điên rồ đối với họ.” Bởi vậy họ đã cự tuyệt Lula – cho đến năm 2006, đó là khi Bolsa Família vẽ lại bản đồ cử tri.

Sự đổi ý này không gây phương hại tới các chính khách khác ở Brazil, và trong những năm sau đó, gần như tất cả họ đã nhiệt thành kế tục sáng kiến của Lula. Tổng thống Dilma Rousseff, người kế nhiệm được chọn lựa cẩn thận của Lula, đã mở rộng phạm vi chương trình và gia tăng mức phúc lợi lên vài lần. Bà thậm chí khởi xướng chương trình Busca Ativa (Chủ động Tìm kiếm), đưa các nhân viên xã hội gan dạ đến các ngõ ngách xa xôi nhất đất nước – đôi khi bằng thuyền đi xuyên rừng – tìm kiếm thêm nhiều người nghèo để ghi vào danh sách. Và cả hai đối thủ của bà trong cuộc tranh cử năm 2014 đều hứa hẹn sẽ mở rộng Bolsa Família hơn nữa. Làm khác đi tức là “tự sát về chính trị,” nói như Thiago de Aragão, một cố vấn chính trị ở Brasília.

Sự hăng hái này không có nghĩa là Bolsa Família hoàn hảo. Trong khi chương trình giúp Brazil đạt được bước tiến lịch sử, quốc gia này vẫn còn có quá nhiều bất công. Dưới bàn tay vụng về của người được Lula che chở, mức tăng trưởng kinh tế đã chững lại và nợ quốc gia tăng lên vùn vụt. Và mặc cho tầm với rộng lớn của Bolsa Família, khoảng 28 triệu người Brazil vẫn đang sống trong đói nghèo. Một vài chuyên gia lo ngại rằng bằng việc tập trung thái quá vào nhu cầu của trẻ em, chương trình đã làm ngơ các bậc phụ huynh (những người bị cắt đứt hoàn toàn phúc lợi khi con họ đến tuổi mười bảy). Các học giả nữ quyền như Maxine Molyneux của Đại học College London cảnh báo rằng “bằng việc đặt điều kiện ‘về trách nhiệm làm mẹ tốt’ để trao tiền”, các sáng kiến như Bolsa Família đã củng cố hơn nữa vai trò giới tính truyền thống. Lavinas, trong số những điều khác, chỉ ra rằng trong khi chính phủ Brazil đã làm tốt việc đưa trẻ em đến trường, nó thật sự kém cỏi trong việc cải thiện chất lượng giáo dục – một trong nhiều lý do khiến đám đông người Brazil ồ ạt đổ xuống đường phản đối các dịch vụ kém cỏi của chính quyền vào năm 2013.

Tác động tích cực của Bolsa cũng bị giảm đáng kể bởi hệ thống thuế phản tiến bộ của Brazil, vốn dựa dẫm quá đáng vào thuế tiêu thụ; những mức phí này, vốn đánh vào hầu như mọi mặt hàng có thể tưởng tượng và nhiều loại dịch vụ, ngốn hết một phần lớn – lên đến 55%, theo một vài ước tính – vốn liếng của Bolsa Família. Cuối cùng, các nhà phân tích tài chính công kích Bolsa Família đã giảm bớt bất công với cái giá của sự tăng trưởng tổng thể, trong khi một số người Brazil vẫn khăng khăng cho rằng biện pháp trao tiền mặt chỉ khiến người ta lệ thuộc hơn vào nó mà thôi.

Bolsa Família, nói cách khác, tất nhiên có thể và nên được cải thiện. Ngoài ra đất nước này còn vô cùng cần đến những cải cách về thuế, chăm sóc y tế, và giáo dục, cũng như đầu tư thật nhiều vào cơ sở hạ tầng. Nhưng rất nhiều chứng cứ đã bác bỏ ít nhất là hai cáo buộc sau cùng được liệt kê ở trên. Những số liệu thống kê của chính phủ cho hay rằng 75% số người trưởng thành nhận trợ cấp Bolsa Família có làm việc, và với những người nói chung không làm – họ sống trong những khu vực có quá ít cơ hội việc làm. Phát hiện này không gây nhiều ngạc nhiên khi bạn xét đến sự kiện rằng, như Wendy Hunter chỉ ra, các khoản trợ cấp của Bolsa Família ít ỏi đến độ “không ai có đầu óc tỉnh táo sẽ chịu nhận chúng thay vì có một việc làm tử tế.”

Sau nữa cũng đừng ngạc nhiên khi mà, mặc cho sự bất toàn của mình, những người hâm mộ chương trình có số lượng áp đảo hơn những người chỉ trích nó. Nancy Birdsall, giám đốc Trung tâm Phát triển Toàn cầu (nhóm chuyên gia cố vấn của Washington), đã gọi Bolsa Família “gần như là viên đạn thần kỳ cho sự phát triển mà bạn có được.” Những người tán thưởng khác đi từ New York Times, vốn cho rằng Bolsa Família “có lẽ là chương trình chống đói nghèo của chính phủ quan trọng nhất mà thế giới từng thấy,” cho đến The Economist, quả quyết nó là “một thành công choáng váng.”

Tuy nhiên, có lẽ bằng chứng tốt nhất cho sự tài hoa của thiết kế Bolsa Família – cũng như cách tiếp cận phi chính thống, dành-cho-mọi-người mà Lula thường trình bày và sau đó phổ biến nó – là sự kiện rằng kể từ khi thực thi chương trình, hơn sáu mươi ba quốc gia đã cử chuyên gia tới Brazil để sao chép mô hình. Trên thực tế, chỉ trong vài năm khởi đầu Bolsa Família, Bộ Phát triển Xã hội bị dìm trong hàng đống thư xin lời khuyên từ nước ngoài đến nỗi nó đã tổ chức các hội nghị chuyên đề mỗi năm hai lần về cách thức tổ chức chương trình tương tự ở nơi khác. Từ thời điểm những dòng này được viết, ít nhất bốn mươi quốc gia khác đã đi theo bước ấy, bao gồm hầu hết các quốc gia Mỹ Latin cũng như Bangladesh, Indonesia, Ma Rốc, Nam Phi, và Thổ Nhĩ Kỳ (và còn nhiều nơi khác nữa).

Sức hấp dẫn của Bolsa Família thậm chí đã lan sang thế giới giàu có. Vào tháng 4 năm 2007, thị trưởng Michael Bloomberg – một chính trị gia khác nổi tiếng với thái độ phớt lờ những tín điều chính thống và thu tóm những ý tưởng tốt nhất từ bất kỳ đâu có thể tìm được – đã triển khai Cơ hội cho Thành phố New York (Opportunity NYC), chương trình trao tiền có điều kiện theo kiểu Bolsa Família đầu tiên của thế giới phát triển, trên cơ sở thử nghiệm. Những chương trình như Bolsa Família phức tạp và vận hành tốn kém hơn ở các nước giàu có, vì các lý do hiển nhiên, và chương trình thí điểm ở New York đúng như dự báo đã bị chỉ trích bởi những người bảo thủ (vốn cằn nhằn về chi phí và sự kiện rằng nó trả tiền để người ta làm điều mà đằng nào họ cũng làm) cũng như tự do (những người gọi nó là cử chỉ hạ cố). Thế nhưng một phân tích của Trung tâm nghiên cứu đói nghèo quốc gia (NPC) thuộc Đại học Michigan cho thấy rằng dù có vài khiếm khuyết, chương trình đã có sức tác động đặc biệt tốt với những gia đình tham dự. Đó là lý do mà cả New York lẫn Memphis gần đây đã triển khai một chương trình thử nghiệm nữa lấy cảm hứng từ Bolsa Família, gọi là Family Rewards 2.0, vốn dựa trên nỗ lực đầu tiên của Bloomberg, và của Lula trước đó – thêm một bằng chứng nữa, nếu cần, về sức hấp dẫn toàn cầu của cuộc thể nghiệm vĩ đại ở Brazil.

Chú thích:

  1. Một điều đáng ghi nhận là mặc dù thanh danh của Lula đã bị tổn hại bởi cuộc điều tra tham nhũng gần đây, không một ai đặt vấn đề về sự thành công hay tính chính trực của Bolsa Família.

-Còn tiếp-

Tác phẩm được trích đăng với sự đồng ý của Phương Nam Book.

Click to comment

Viết bình luận

Your email address will not be published. Required fields are marked *

Cafe sáng

Nhà sách Phương Nam ra mắt nền tảng số tích điểm KOMO+ và ứng dụng sách nói bản quyền KOMOaudio

Published

on

nen-tang-so-KOMO

Trong tháng 10, Nhà Sách Phương Nam ra mắt nền tảng số KOMO với hai ứng dụng KOMO+ và KOMOaudio. Hiện tại, 2 ứng dụng đã có mặt trên Google Play và App Store, cung cấp cho người dùng nhiều chương trình ưu đãi hấp dẫn.

Chỉ với chiếc điện thoại smartphone, khách hàng dễ dàng tích điểm đổi quà thông qua ứng dụng KOMO Plus và trải nghiệm 7 ngày nghe miễn phí sách nói có bản quyền với KOMOaudio.

Ứng dụng KOMO+ đáp ứng thói quen tích điểm, mua sắm thông minh từ khách hàng

KOMO+ (đọc là KOMO Plus) là ứng dụng khách hàng thân thiết, thay thế thẻ tích điểm. Khi cài đặt ứng dụng KOMO Plus, tất cả khách hàng của hệ sinh thái Phương Nam có thể tích điểm, đổi điểm nhận nhiều ưu đãi, các khuyến mãi hấp dẫn chỉ dành riêng cho thành viên KOMO.

Điểm thưởng tích lũy càng cao kèm theo quyền lợi thiết thực theo từng hạng: Hạng tiêu chuẩn (Classic); Hạng bạc; Hạng Vàng; Platinum; Diamond.

Quét mã QR tải ngay KOMOPlus.

Cứ mỗi hóa đơn thanh toán, khách hàng sẽ có thể tích lũy điểm và sử dụng đổi điểm rộng rãi trên các nền tảng của hệ sinh thái Phương Nam, với nhiều quyền lợi hấp dẫn: Sử dụng điểm để đổi lấy ebook, mua hàng trên website thương mại điện tử nhasachphuongnam.com.

Việc ra mắt ứng dụng tích điểm, đổi quà qua ứng dụng KOMO Plus là một trong những nỗ lực của Nhà sách Phương Nam nhằm mang đến trải nghiệm mua sắm thông minh, giúp khách hàng có thể hưởng nhiều ưu đãi nhân dịp sinh nhật, KOMO Day hoặc các dịp lễ đặc biệt trong năm.

Trong thời gian sắp tới, khách hàng còn có thể trải nghiệm thêm tính năng mới trên KOMO Plus: đọc hàng ngàn ebook tiếng Việt và tiếng Anh có bản quyền, chơi game trúng thưởng 100%...

Ứng dụng sách nói bản quyền, giọng đọc giàu cảm xúc KOMOaudio

Song hành với KOMO Plus, Nhà sách Phương Nam đã nghiên cứu và cho ra mắt ứng dụng KOMOaudio với danh mục sách đa dạng, phong phú, đầy đủ bản quyền. Đặc biệt, nội dung sách được đội ngũ sản xuất thực hiện kỹ lưỡng với âm thanh chất lượng, giọng đọc giàu cảm xúc của nhiều voice talent khác nhau, phục vụ nhu cầu nghe sách nói của người dùng Việt Nam.

Khách hàng có thể nghe chương đầu hoàn toàn miễn phí để trải nghiệm ứng dụng và đánh giá phần nào về tác phẩm trước khi quyết định mua sách.

Khách hàng có thể nghe miễn phí sách nói có bản quyền trên KOMOaudio.

Với một người yêu sách nhưng cuộc sống hiện đại bận rộn, KOMOaudio có thể đáp ứng nhu cầu giải trí, nghe sách nói không giới hạn, mọi lúc mọi nơi của bạn. Người dùng có thể nghe sách nói online hoặc offline vào bất kỳ thời gian nào và ở bất cứ đâu: lúc chờ và đi xe buýt, chạy bộ buổi sáng, nấu cơm, làm việc nhà, lái xe…

KOMOaudio còn có tính năng hẹn giờ, tự động tắt, đáp ứng nhu cầu người dùng có thói quen nghe sách trước khi ngủ. Ngoài ra, ứng dụng sẽ điều chỉnh chất lượng streaming dựa theo chất lượng mạng trong thời điểm nghe để đảm bảo không ngắt quãng do đường truyền.

Để thưởng thức những cuốn sách mới, được cộng đồng yêu thích nhất hiện nay trên ứng dụng KOMOaudio, khách hàng chỉ cần tải KOMOaudio trên Google Play/Appstore là đã có thể trải nghiệm nghe miễn phí tất cả các sách nói có bản quyền trong 7 ngày.

Ngay bây giờ, khách hàng có thể truy cập vào website: http://komo.vn/ để biết thêm thông tin về nền tảng số KOMO với hai ứng dụng KOMO Plus và KOMOaudio; hoặc tải trực tiếp ứng dụng trên Google Play/App Store theo link bên dưới:

- KOMO Plus: http://komo.vn/chuyen-de/komo+.html

- KOMOaudio: http://komo.vn/chuyen-de/komo_audio.html

Mọi thắc mắc, quý khách hàng vui lòng liên hệ qua số hotline: 1900 6656.

Hoặc inbox trực tiếp fanpage: Nhà Sách Phương Nam.

Đọc bài viết

KOMOaudio

Hành trình thay đổi đất nước của Sứ đoàn Iwakura

Published

on

By

Dựa trên chuyến đi của Đại đế Nga Peter đến các nước Tây Âu để học hỏi vào thế kỷ 19, Sứ mệnh Iwakura mở ra công cuộc Duy Tân Minh Trị đã làm thay đổi Nhật Bản một lần và mãi mãi với cuộc hành trình kéo dài 1 năm 10 tháng (1871 – 1873).

Được đánh giá là một trong những sự kiện lớn nhất của lịch sử châu Á cuối thế kỷ 19, sứ mệnh Iwakura chủ trương “Bunmei kaika” (văn minh khai sáng) đã chuyển sức mạnh của lưỡi gươm samurai sang năng lực của trí tuệ do công tước Iwakura Tomomi dẫn đầu, với khoảng 50 thành viên, gồm nhiều nhân vật chính phủ cao cấp. Ngoài số kể trên còn có các du học sinh phục vụ cho việc thông dịch, thông tin. Họ đã đi thăm Hoa Kỳ và hàng chục các quốc gia châu Âu khác nhau, như: Anh, Pháp, Đức, Áo, Ý, Bỉ, Hà Lan, Đan Mạch, Thụy Sĩ, Thụy Điển và Nga.

Có tầm quan trọng bởi đây là lần đầu tiên mà một quốc gia phương Đông tự mình tham gia vào hệ thống thương lượng quốc tế, trong khi ở thời điểm đó vấn đề ngoại giao chỉ được giới hạn trong mối liên hệ giữa một nhóm người có chung một nền văn hóa hoặc về ngôn ngữ như Mỹ với bất cứ cường quốc châu Âu nào; hoặc các quốc gia nói tiếng Pháp, tiếng Đức, tiếng Ý, hay tiếng Tây Ban Nha với nhau, nơi ngôn ngữ quốc tế không gây ra những sự bất tiện.

Iwakura Tomomi (người mặc trang phục truyền thống) cùng 4 phó sứ (từ trái sang) Kido Takayoshi, Yamaguchi Masuka, Ito Hirobumi và Okubo Toshimichi. Ảnh: Ishiguro Keisho sưu tầm

Một góc nhìn mới

Nói về chuyến Tây du khảo cứu quan trọng này, tư liệu từ phía Nhật Bản tương đối đầy đủ, chủ yếu nằm trong 5 tập Beto Kairan Jikki (Báo cáo về chuyến đi của đoàn đại sứ đặc biệt đến Mỹ và châu Âu) do sử gia Kume Kumitake và cũng đồng thời là người trải nghiệm thực địa viết nên.

Nó là một sự tổng hợp giữa nhật ký, thông tin nghe được từ các chuyến thăm, nhưng cũng có phần hạn chế bởi các quan điểm của người chắp bút. Vì vậy, Sứ đoàn Iwakura do Ian Nish chủ biên như một mảng khác để hoàn thiện thêm hành trình quan trọng này, đến từ góc nhìn của phía Tây phương.

Học giả, nhà nghiên cứu về Nhật Bản Ian Nish.
Nguồn: The Telegraph

Như Ian Nish chia sẻ, tác phẩm này được tổng hợp từ hội nghị ba năm họp một lần của Hiệp hội Nghiên cứu Nhật Bản ở châu Âu diễn ra vào năm 1997, trùng đúng kỷ niệm 125 năm chuyến đi diễn ra. Tại đó nhiều nhà nghiên cứu đã tìm về các tư liệu vẫn còn lưu trữ tại các quốc gia phương Tây, như nhật ký của các chính khách, báo chí địa phương, những lá thư trao gửi nội bộ giữa các đại sứ quán… có so sánh với tác phẩm của Kume Kumitake và báo chí Nhật Bản. Qua đó nhìn lại cuộc du khảo này trên phương diện lịch sử, chính trị và quan hệ quốc tế, cũng như làm rõ vai trò của sứ đoàn và phản ứng của phương Tây đối với sự kiện này.

Có thể thấy rằng thách thức đặt ra tương đối lớn, bởi lẽ nhiệm vụ của sứ đoàn Iwakura có tầm quan trọng đối với Nhật Bản hơn là các nước mà họ đến thăm, nên nguồn tư liệu có thể là không đầy đủ. Vì vậy trừ các quốc gia có tầm vóc lớn như: Mỹ, Anh, Pháp, Đức… thì những trải nghiệm tại các nước nhỏ hơn như: Hà Lan, Đan Mạch, Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha… gần như không được đề cập trong các văn kiện còn lại. Một điểm bất ngờ của cuốn sách này là bài nghiên cứu về cuộc viếng thăm Thụy Điển của đoàn thám hiểm, với những tiết lộ mới được bật mí, những tưởng đã không tồn tại trong suốt nhiều năm.

Qua đó các nhà nghiên cứu đã làm rõ được nhiều yếu tố, mà một trong số đó là các mục tiêu của phía Nhật Bản. Theo đó ngoài việc giới thiệu với phương Tây những gương mặt lãnh đạo mới, kết thân với giới lãnh đạo phương Tây, tìm hiểu và đánh giá sự phát triển, nhận thức, các bài học của họ trong mọi lĩnh vực để tìm ra mô hình khả thi chuyển đổi xã hội phong kiến lâu đời thành quốc gia hiện đại; thì mong muốn đàm phán lại những hiệp ước từng ký tương đối bất lợi cũng được coi là một trong những vai trò được đặt lên hàng đầu trong chuyến đi.

Bởi lẽ, trước khi lên đường, vào năm 1858, Nhật Bản đã phải ký các Hiệp ước hòa bình và hữu nghị với Mỹ để mở cửa và thúc đẩy thêm giao thương thương mại. Sau đó Anh, Pháp theo chân và cũng đòi hỏi những điều tương tự. Các nước phương Tây như Bỉ, Hà Lan, Đan Mạch… cũng ký một hiệp ước chung, dẫn đến một trong những mục đích lớn được các nhà nghiên cứu đặt ra là liệu có phải nó nhằm hướng đến việc xem lại các hiệp ước sao cho phù hợp hơn trước bối cảnh chế độ phong kiến đã bị phế truất, và chế độ mới của giai đoạn Minh Trị vừa mới bắt đầu.

Phái đoàn Iwakura (cánh trái) trong buổi tiếp kiến Tổng thống Pháp. Tranh minh họa của James E. Taylor

Do đó, có thể khẳng định động cơ của sứ đoàn thay đổi theo thời gian và theo suy nghĩ của những người có liên quan. Ngay từ ban đầu khi ở nước Mỹ, có thể thấy Iwakura có lần đề cập đến việc đàm phán một hiệp định mới với Tổng thống Grant bằng việc kêu gọi một sự xem xét của toàn liên minh bao gồm châu Âu cũng như Mỹ. Chính việc khước từ lời kêu gọi này mà nhiều khả năng nhiệm vụ đàm phán ở các quốc gia châu Âu lui lại, để việc thu thập thông tin được đưa lên một vị trí cao hơn.

Vì thế ở Anh, sứ đoàn có đôi lần nhắc đến yếu tố chỉnh sửa hiệp định, nhưng họ không muốn bản thân quyết định, mà chỉ chủ yếu muốn nghe quan điểm từ phía nước Anh hơn là thúc đẩy đi đến cuối cùng. Tại đây họ cũng gặp phải một yêu cầu kép là phải mở rộng cảng hơn nữa cho các tàu châu Âu và nhanh chóng khoan dung tôn giáo, chấm dứt diệt đạo. Điều này rồi sẽ liên tục trở lại ở các nước khác, như Hà Lan – nơi họ chịu sự chỉ trích mạnh mẽ trong việc dập tắt tôn giáo, hay các cuộc gặp với Liên minh Phúc Âm ở Đức, Thụy Điển.

Những người phụ nữ ăn mặc theo kiểu phương Tây đến Hoa Kỳ vào năm 1871 với sứ mệnh Iwakura.
Nguồn ảnh: Kameda Kinuko.

Dẫu vậy cũng theo các nhà nghiên cứu, góc nhìn hậu thế không nên khắt khe nếu những bước đầu trên trường ngoại giao quốc tế của sứ đoàn Iwakura có phần loạng choạng, bởi họ gần như không có điểm chung nào đối với phương Tây. Trong khi tiếng Nhật không phải là ngôn ngữ quốc tế, hệ thống tương tác văn hóa của Nhật cũng không gắn bó (mà còn kình chống) với thế giới quan Latin - Thiên chúa giáo… Vì vậy thất bại hay việc chưa đạt được những mục tiêu chính trị có phần dễ hiểu.

Điều này còn chưa kể đến tình hình rắc rối trong nội bộ nước Nhật khi sứ đoàn tiến hành các chuyến du khảo, cũng như những sự đối lập về nền tảng tư duy giữa các thành viên khi buổi chuyển giao giữa chế độ Phong kiến và Minh Trị Duy Tân vừa mới xảy ra trong thời gian ngắn.

Thay đổi ở Nhật Bản

Các bài viết lớn và được nghiên cứu nhiều nhất là ở ba cường quốc của thời bấy giờ gồm Hoa Kỳ, Anh và Pháp. Ở đó sứ đoàn nhìn thấy tinh thần tự do, phóng khoáng của Mỹ, sức mạnh từ cuộc cách mạng công nghiệp của Anh và sự phóng khoáng, tinh tế, thanh lịch tràn ngập nghệ thuật ở Pháp. Ở mỗi điểm dừng họ được chào đón một cách long trọng, được đón tiếp bởi những vị nguyên thủ hàng đầu đất nước, và quan trọng nhất là nhận ra được một thành công chung của các nước này dựa trên nền tảng khoa học, công nghệ, giáo dục, phát triển mạnh mẽ, và một thể chế chính trị dân chủ.

Phái đoàn Ngoại giao Nhật Bản trình tài liệu cho Tổng thống Mỹ Ulysses S. Grant. Tranh minh họa của James E. Taylor.

Ở các nước khác họ có những mối quan tâm riêng biệt hơn. Chẳng hạn ở Đức và Bỉ, sứ đoàn Iwakura quan tâm nhiều hơn đến sức mạnh quân sự cũng như cơ sở hạ tầng giao thông. Trong khi ở Ý, nghệ thuật và các nghệ nhân lại khiến cho họ mê mẩn hơn cả. Đây là tương quan có tính hai chiều, khi Bỉ cũng muốn Nhật Bản trở thành đối tác về mặt quân sự, để xuất khẩu vốn và làm giảm xuống ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế 1867. Cùng trong lúc đó, Ý muốn Nhật Bản mở rộng đường hơn cho những thương nhân ngành lụa, vì ý thức được vai trò quan trọng của vấn đề này…

Từ đó sau khi trở về phương Tây từ năm 1868, Nhật Bản đã có những bước tiến lớn mang tính nhảy vọt. Một trong số đó là việc coi trọng giáo dục kỹ thuật. Theo các thống kê, từ năm 1868 đến năm 1902, Nhật Bản đã cấp hơn 11.000 visa du học, biến đây trở thành “đợt thủy triều du học” đầu tiên đến từ châu Á.

Không ngừng ở đó, họ cũng thuê thêm hai vị chuyên gia xây dựng kế hoạch giáo dục tổng quát, từ đó hình thành đại học kỹ thuật. Vào giai đoạn này, chính quyền Minh Trị cũng thuê từ 500 cho đến 600 những người từ nước ngoài về làm việc cho chính phủ mình. Tính đến năm 1890, Nhật để thuê khoảng 3.000 chuyên viên tư vấn thường xuyên làm việc tại Nhật ở mọi lĩnh vực cũng như ngành nghề.

Hình minh họa châm biếm một samurai chui đầu vào nòng súng tại buổi đến thăm nhà máy sản xuất súng của Krupp. Hình ảnh Peter Pantzer cung cấp.

Những gì có được từ cuộc du khảo cũng có ảnh hưởng đến các quan điểm về mặt chính trị một cách sâu sắc. Theo đó, sau chuyến viếng thăm nước Nga, họ sớm nhận ra nếu Nhật Bản phải liên quan tới một quốc gia khác thì đó không phải là Triều Tiên mà chính là Nga. Vì vậy khi việc tranh cãi ác liệt về việc có nên tấn công nhắm vào Triều Tiên, phái chủ hòa gồm những thành viên đã từng tham dự chuyến du khảo này đã kịch liệt phản đối, từ đó thay đổi quan điểm của riêng chính phủ trong việc can dự vào các vấn đề mang tính bành trướng.

Điều này không chỉ đến từ nước Nga và các dự cảm bị xâm lược của những người Nhật, mà còn đến từ nước Pháp trước đó, khi họ nhận ra đế quốc lớn này thu được nhiều nguồn nguyên liệu lớn đến từ thuộc địa, nhưng còn quá sớm để đánh giá được tính hiệu quả của bước đi này. Chuyến thăm viếng này cũng làm thay đổi nhận thức về tự do tôn giáo, từ đó tạo những điều kiện thuận lợi để mở cửa Nhật Bản.

Bởi lẽ một trong những lý do ban đầu cho việc bức hại Kitô giáo ở Nhật là các nhà lãnh đạo lo sợ nó sẽ cho phép các nước phương Tây xâm chiếm Nhật Bản để bảo vệ những người đồng đạo. Thế nhưng bằng việc sứ đoàn không bị tổn hại khi mạo hiểm đi vào đất nước có tôn giáo đối nghịch, thì chính phủ Nhật Bản đã yên tâm rằng Kitô giáo không phải là đoàn quân tiên phong xảo quyệt của một cường quốc phương Tây. Từ đó tháo gỡ nút thắt của cả hai bên vốn đã tồn tại từ lâu.

Quãng đường đã đi của Sứ đoàn Iwakura. Nguồn Digital Museum of the History of Japanese in New York.

Qua cuốn sách này, thêm một lần nữa có thể khẳng định về tầm nhìn xa của riêng nước Nhật trong các chính sách canh tân thời Minh Trị, từ đó mở ra một chương sử mới trong lịch sử Nhật Bản. Không chỉ nhìn nhận từ phía chủ quan, Sứ đoàn Iwakura còn là góc nhìn đến từ khách quan để thêm lần nữa xóa tan huyền thoại về những vấn đề xoay quanh chuyến đi lịch sử, góp phần giải mã cho sự thành công cũng như tiến bộ một cách nhanh chóng của đất nước này đối với thế giới. 

Nguồn: Người Đô Thị | Minh Anh

Đọc bài viết

Book trailer

Hồi ức Phú Nhuận: Trải nghiệm hành trình đa chiều qua lịch sử của một quận đô thị độc đáo

Published

on

By

Hồi ức Phú Nhuận – tác phẩm mới nhất của nhà báo Phạm Công Luận – không dừng lại trong phạm vi ghi chép dáng dấp cơ bản của một vùng đất, mà còn phần nào đó giúp người đọc nhận diện đời sống đô thị đất Sài Gòn, trong trăm năm qua.

Trong Hồi ức Phú Nhuận, Phạm Công Luận cố gắng ghi nhận dòng chảy thời gian đi qua một vùng đất bằng việc sưu tầm và viết lại những hồi ức tản mạn không chỉ của riêng tác giả – một người sinh ra và lớn lên gắn bó với vùng đất này, mà còn từ lời kể của nhiều cư dân Phú Nhuận qua các thế hệ.

Tinh thần Phú Nhuận xưa được tái hiện sống động

Phú Nhuận là một trong những quận nội thành quan trọng áp sát trung tâm Thành phố Hồ Chí Minh. Sau hơn 300 năm hình thành và phát triển, từ xuất thân nhỏ bé là một vùng đất cằn cỗi, một gò đất hoang với vài hộ gia đình lưu dân tới khẩn hoang lập ấp, Phú Nhuận đã vươn mình trở thành một quận hoàn toàn đô thị hóa. Nơi đây có một cuộc sống đa dạng với nhiều sắc thái, có lịch sử ngang bằng với đô thị Sài Gòn, có một số nhân vật được trọng nể vì những đóng góp cho xã hội trên nhiều mặt và có những địa chỉ khiến người từ các nơi khác phải tìm đến…

Trong những bài viết của Hồi ức Phú Nhuận, tinh thần Phú Nhuận xưa hiện lên rõ nét qua những câu chuyện hoài niệm về các con đường ngày xưa, có con đường từng trải qua bảy lần thay tên (đường Nguyễn Văn Trỗi), có con đường từng đi ngang quán xá và trại lính (đường Võ Tánh ngày xưa, nay là Hoàng Văn Thụ); là những quán ăn, tiệm cà phê mà tác giả luôn mong “lớn nhanh để đĩnh đạc bước vào” nhưng “không bao giờ có cơ hội đó nữa vì tất cả đều đã đóng cửa qua thời gian”...

Chính vì những lẽ đó, Hồi ức Phú Nhuận tuy là kí ức riêng của tác giả nhưng lại bắt được dòng hơi thở chung của đời sống đô thị Sài Gòn xưa và nay.

Những trang viết giàu cảm xúc, đầy ắp tư liệu

Hồi ức Phú Nhuận gồm 60 bài viết về Phú Nhuận theo trục thời gian trải dài từ xưa đến nay, bao quát đủ mọi mặt trong đời sống của quận đô thị này, được tác giả chia thành chín phần: Mấy nẻo đường quen, Nơi chốn đi về, Dưới mái trường xưa, La cà quán xá, Giải trí và rèn luyện thân thể, Cơ sở làm ăn, Dập dìu tài tử giai nhân, Ôn chuyện xưa; và phần Phụ lục điểm qua sáu giai đoạn hình thành và phát triển của Phú Nhuận.

Với giọng văn trầm tĩnh, giàu cảm xúc và tư liệu đầy đặn, 60 bài viết như những thước phim ngắn được bật lên, lần lượt đưa người đọc tìm về những tinh túy đã từng hiện diện ở Phú Nhuận: có một số thứ dù còn tồn tại nhưng ít nhiều thay đổi qua thời gian, có một số thứ tuy đã biến mất nhưng vẫn ẩn tàng trong kí ức của người Phú Nhuận và trong những góc khuất của đời sống.

Tùy bút vốn là thể loại để người viết có thể tự do tung hứng theo cảm xúc. Nhưng ở Hồi ức Phú Nhuận, Phạm Công Luận đã viết không chỉ dựa vào cảm xúc đơn thuần mà còn có sự nghiên cứu, phóng chiếu với những tư liệu thực tế đúng như thao tác thường thấy ở nhà báo chuyên nghiệp.

Bộ sưu tập công phu về đời sống Phú Nhuận

Phạm Công Luận khảo sát về Phú Nhuận ở đủ mọi khía cạnh: lịch sử, văn hóa, tâm lý, lối sống, giải trí, kinh doanh… Qua đó, những giá trị Phú Nhuận đã từng tồn tại, nay trở lại trong ký ức và niềm thương cảm về thân phận một vùng đất mà mỗi người, mỗi thế hệ người dân đã gắn bó bằng những cách khác nhau.

Trong Hồi ức Phú Nhuận, tác giả còn cung cấp những thông tin thú vị mà nhiều khi chính người Phú Nhuận chưa hẳn đã biết: Nhà văn Hồ Biểu Chánh đã sống ở Phú Nhuận những năm cuối đời, sau khi ông mất, con đường có ngôi nhà ông ở (trước đây vốn là con hẻm), đã được đặt lại theo tên ông, trở thành đường Hồ Biểu Chánh như ngày nay; tiệm phở Bắc Huỳnh thuộc hàng cao cấp, dù chỉ tồn tại ngắn ngủi nhưng rất tiếng tăm, khi đột nhiên đóng cửa năm 1982 đã khiến nhiều người vô cùng tiếc nuối; đầu thế kỉ 20, nhà thuốc Ông Tiên ở Phú Nhuận là “nhà bào chế và kinh doanh thuốc Đông dược có tiếng trên toàn cõi Đông Dương”…    

Khi nhắc đến một vùng đất, không thể không đề cập đến những con người đã và đang gắn bó ở đó. Chính vì vậy, trong Hồi ức Phú Nhuận, Phạm Công Luận dành hẳn hai phần để viết về những người đã chọn Phú Nhuận làm nơi an cư: phần Dập dìu tài tử giai nhân dành cho giới nghệ sĩ, phần Ôn chuyện xưa dành cho những người Phú Nhuận trong kí ức tác giả.

Bên cạnh đó, cuốn sách còn có phần tranh của họa sĩ Phạm Công Tâm, Trương Ánh Mai cùng ảnh tư liệu phong phú từ nhiều nguồn khác nhau. Sự kết hợp hài hòa giữa những trang viết đa chiều, giàu cảm xúc và phần hình ảnh được đầu tư chăm chút khiến Hồi ức Phú Nhuận thực sự là món quà quý để người đọc tìm về di sản văn hóa của Phú Nhuận, để hòa điệu, tri ân những độc giả luôn nặng lòng với quận đô thị này.

Trích đoạn

Các nghệ sĩ của Sài Gòn một thuở, những bóng sắc huyền thoại, những danh ca một thời, những nhà văn nhà báo của nửa thế kỷ trước từng sống ở đây hầu như không còn ai ở lại cư xá này, trừ căn nhà 215D/16 năm xưa của nghệ sĩ Năm Châu, nay đã ngăn thành hai căn cho gia đình hai người con và đổi thành địa chỉ mới.

(Trích Cư xá của các nghệ sĩ)

Trong hơn 20 năm trước 1975, nhà hàng bò bảy món Ánh Hồng tuy tọa lạc trên con đường nhỏ ở Phú Nhuận nhưng tiếng tăm vang ra khắp Sài Gòn – Gia Định. Nhiều người, nhất là giới văn nghệ sĩ biết tiếng nhà hàng này, đã từng đến thưởng thức bảy món bò của bà Tư Lái, bếp chính. Tuy vậy, không mấy ai biết gốc gác của nó.

(Trích Nhà hàng bò bảy món Ánh Hồng danh tiếng Sài thành)

Về tác giả

Nhà báo Phạm Công Luận là tác giả của những tựa sách gây tiếng vang và được tái bản nhiều lần như Nếu biết trăm năm là hữu hạn, Những lối về ấu thơ, Chú bé Thất Sơn. Không chỉ nổi bật trong thể loại tản văn, ông còn là một cây bút gạo cội sở hữu lượng tác phẩm dồi dào, mang đến cho độc giả nhiều tập sách chuyên khảo, hồi ký về Sài Gòn giàu giá trị như Sài Gòn – Chuyện đời của phố (5 tập), Phong vị báo xuân xưa, Sài Gòn – Ngoảnh lại trăm năm…

Đọc bài viết

Cafe sáng