Phía sau trang sách

The Fix – Quốc gia tái thiết: Hy vọng vẫn còn

“The Fix” gồm 10 bài viết như những case study về cách mà các quốc gia đã vượt qua khủng hoảng của mình.

Published

on

Chi tiết tác phẩm

Trong cuốn The Fix – Quốc gia tái thiết, tác giả Jonathan Tepperman đôi lần lặp đi lặp lại trạng thái “Thế giới đang bước đi trên một lưỡi dao cạo”, và vô hình chung, đây không hẳn là sự trùng hợp. Một cách vui vẻ để nhìn nhận, đứng trước mạng lưới thông tin dày đặc được cập nhật 24/7 về tình hình thế giới hiện nay, đôi khi hình tượng hạt dẻ mà chú lười Sid trong Kỷ băng hà (Ice Age) vô ý cắm vào tảng băng để từ đó vũ trụ thành ra nứt nẻ lại hiện ra. Cho đến ngày nay, khi cuộc khủng hoảng tài chính châu Á hay Mùa xuân Ả Rập vừa tạm nguôi đi; thì ngay lập tức mùa hạ kinh hoàng năm 2014 khi Trung Quốc mở rộng ảnh hưởng ra Biển Đông lại đến. Không những thế, sự lớn mạnh của Nhà nước Hồi giáo cực đoan IS, đại dịch chết chóc Ebola, sự thiếu hụt tài nguyên khí đốt, Hy Lạp phá sản hay Chủ nghĩa bản địa bài ngoại ở những nơi di dân chạy trốn chiến tranh Vùng Vịnh… cũng giáng những nỗi kinh hoàng lên đời sống con người. Ở ngay những thời khắc này, chính các sự kiện ấy là thứ hạt dẻ làm nứt vũ trụ, chỉ khác lần này không còn nằm trên màn ảnh 2D và được Disney tạo ra (sự thật rằng nó vừa mua đứt 21st Century Fox); mà đó đã dần thành hình trong thế giới thực – một thế giới của con người, vì con người; và dĩ nhiên, do con người.

The Fix tuy nhiên là một tập hợp những điều tươi sáng hơn thế. Cuốn sách gồm 10 bài viết như những case study về cách mà các quốc gia đã vượt qua khủng hoảng của mình. Lấy 10 chủ để nổi bật nhất nền địa – chính trị những năm vừa qua, Jonathan Tepperman một cách tài tình dẵn dắt người đọc qua những câu chuyện tái thiết của các quốc gia thuộc 4 châu lục; băng qua tình cảnh bất bình đẳng của Brazil, nạn tham nhũng ở Singapore, chủ nghĩa Hồi giáo Cực đoan ở Indonesia, những vết thương nội chiến của Rwanda hay lời nguyền tài nguyên của Bostwana. Bên cạnh đó, ông cũng lần mò đi tìm nguyên nhân lý giải vì sao Canada mở rộng cánh tay với người tị nạn, cách Hàn Quốc tăng trưởng – tăng trưởng nữa – tăng trưởng mãi để thoát khỏi bẫy thu nhập trung bình, cách Mexico khởi động lại guồng máy chính phủ, cách Mỹ bùng nổ cách mạng Đá phiến hay phương pháp tháo gỡ nút thắt của New York sau vụ khủng bố 11/9. Nhìn nhận một cách khách quan, The Fix cắt ngang sự ảm đạm như một tia nắng (Adam Grant), và mang một chút hy vọng cho những ai vẫn đang mong muốn những điều tốt đẹp hơn – dĩ nhiên là thực tế hơn.

Trong vai trò Trưởng ban biên tập của Văn phòng Bộ ngoại giao, Jonathan Tepperman tiếp cận đọc giả dưới góc nhìn của một chuyên gia lành nghề. Như một bác sỹ giải phẫu tận tụy từng vấn đề, bằng kinh nghiệm và các mối quan hệ cá nhân, The Fix cung cấp cho người đọc những thông tin đúng đắn, thức thời, đôi khi ngay cả tuyệt mật từ chính những người trong cuộc; và chính yếu tố này làm nên tính thực tế và sinh động cho cuốn sách. Lấy ví dụ như trường hợp cách Mexico tháo gỡ guồng máy chính phủ ngay giữa những cuộc chống đối bè phái, mà theo Jonathan viết, đó đều là những “hoàn cảnh vụn trộm” hay những “cuộc dàn xếp bí mật” giữa 3 đảng phái nhà nước; và nếu không dùng bất cứ một mối quan hệ nào để tiếp cận những cá nhân chủ chốt từng tham gia các hội nghị trên, khó lòng để hiểu được cách chúng vận hành gỡ rối ra sao. Do đó, cá nhân người viết ở góc độ nào và đóng góp ra sao ít nhiều tạo sự thức thời cho cuốn sách này.

Và có một thực tế đa số những cuốn non-fiction ăn khách ngày nay được viết bởi những nhà báo lăn xả hơn những chuyên gia trong ngành. Có thể kể đến như Bad Blood của John Carreyrou, The Shock Doctrine của Naomi Klein, Secret Formula của Frederick L. Allen hay Seven Days in the Art Work của Sarah Thornton,… Đơn giản là vì, dưới góc độ của một nhà báo, nó đòi hỏi người viết cung cấp những thông tin giật gân, có thể gây bất ngờ hay chính những điều ngay cả người đọc không thể màng tới; và cũng chính lẽ đó, chưa chắc là những thông tin chính xác. Trong khi đó, Jonathan Tepperman giữ vững vai trò hai mang của mình – ông tìm tòi như một nhà báo, nhưng khẳng định như một chuyên gia. Cách xây dựng của ông đi từ những điều nhỏ nhặt nhất, như thể cách giải quyết bất bình đẳng ở Brazil bằng chính sách Bolsa Família, khi hỏi tổng thống Lula của nước này đâu là mấu chốt của vấn đề, ngài tổng thống đã không ngần ngại trả lời: “Người hiểu rõ nhất người nghèo thật sự cần gì là những người như mẹ ông – ấy là bản thân người nghèo”. Rõ ràng nhận thấy, Jonathan bằng cách tiếp cận trực tiếp và thức thời làm cho vấn đề một cách sáng tỏ, không đi vòng tránh né, đoán già đoán non hay tin tưởng vào những nhận định ở phía phủ định để phù hợp với con đường xây dựng cuốn sách như trường hợp của nhiều nhà báo khác.

Ảnh: Foreignpolicy.com

Cạnh đó, với các vấn đề trong cuốn sách này, Jonathan không chỉ nêu ra vấn đề, trình bày những cách giải quyết; ông cùng đó nêu bật điểm yếu hay cách áp dụng ra sao vào các nền chính trị khác. Do đó với The Fix, người đọc không mang cảm giác đây là cuốn sách tâng bốc giả tạo những sáng kiến cá nhân; khi một cách thẳng thắn, những điểm yếu của cai trị độc tài, của chủ nghĩa thực dụng, của lối từ bỏ cái hoàn hảo lấy cái có thể chấp nhận được vẫn tồn tại trong này. Jonathan không dè chừng, không sợ hãi và phơi bày chúng như những điểm yếu cần có của muôn mặt vấn đề. Đơn cử như chương về cách mạng Đá phiến của Mỹ, ông không ngần ngại chỉ ra đâu là lý do tuy nằm trên một mỏ đầy những trầm tích đá phiến với một hàm lượng gấp rất nhiều lần Mỹ nhưng lục địa già lại từ chối cơ hội khai thác này, để rồi vẫn bị Nga nắm chui khi phụ thuộc nhập khẩu hơn 1/3 khí đốt từ đất nước này. Hay bởi những đặc tính rất Trung Quốc: ngại mạo hiểm, ưa đi tắt đón đầu và thiếu nguồn khích lệ thị trường tự do đã khiến công cuộc khai thác đá phiến ở đây giậm chân tại chỗ cho đến ngày nay.

Ở một mặt khác, ông không tôn vinh quá đà hay cố lý tưởng hóa bất cứ một cá nhân hay đường lối, chính sách nào. Chẳng hạn như ngay khi vừa cho thấy một nước Mỹ sẵn sàng nghiên cứu những đường hướng mới trong cuộc cách mạng đá phiến, ông liền quay ngoắc phê phán lối thụ động đối mặt với khủng bố trong cơn ảo danh chống phá giữa các đảng phái làm tê liệt nghị trường Washington; để chính bộ máy địa phương như New York phải căng mình đứng ra lo liệu. Hay một mặt khác, ông không ngần ngại cho thấy lối cai trị độc tài của Lý Quang Diệu để đưa Singapore ra khỏi con đường tham nhũng; hay Park Chunghee tiếp tay những chaebol (tập đoàn gia đình) dần dần làm lũng đoạn kinh tế Hàn Quốc khi chỉ vừa khởi sắc. Đây đều không phải những điều đáng khen hay nên học tập trong một thế giới tiến gần đến dân chủ hóa, tự do hóa ngày nay; nhưng với những bước phát triển ngay từ bữa đầu, đây thực sự là cuộc tiểu phẫu đi sâu vào lòng vấn đề, không vòng tránh, không giảm nhẹ. Một lối viết dũng cảm, mạnh mẽ và phơi bày.

The Fix mang trong bản thân thế mạnh không chỉ của những chính sách cứu vớt khỏi cơn bĩ cực chính trị; mà còn chứa trong mình câu chuyện lịch sử của từng quốc gia dính líu ít nhiều trong này. Jonathan bằng cách nghiên cứu sâu rộng đi thẳng vào những mâu thuẫn, cách nó hình thành; đôi khi là những tập quán, phong tục tồn tại xa xưa ở những vùng đất ta chưa từng biết. Ông đi sâu vào nghiên cứu các gacaca (toà án hương thôn của Rwanda), kgotla (phiên giải quyết giữa các tù trưởng Bostwana), đặc điểm Hồi giáo cực đoan nửa vời của Indonesia hay khởi thủy một nền Canada trắng của Canada,… Do đó, nhìn chung, The Fix phù hợp người đọc ở nhiều góc nhìn. Nếu không quá chú trọng đến cách những quốc gia tái thiết – vì có lẽ đó là việc của những người chuyên trách hơn – thì cuốn sách này cho ta góc nhìn tuy chỉ một giai đoạn nhỏ, nhưng đều là những thời khắc chính trị quan trọng của những nơi chốn này. Quốc gia tái thiết đứng giữa hai bờ quá khứ – tương lai. Nếu thấy quá xa trước tương lai bất định, cứ nhảy ngược trở về quá khứ để xem cuộc nội chiến giữa 2 tộc người Tutsi và Hutu ở Rwanda tạo nên hơn 130.000 tội phạm diệt chủng và cần hơn 200 năm mới xử lý hết. Hay quay về thời khắc Singapore vừa được trao trả độc lập, với sự đồi bại và tội ác ngút trời: hội tam hoàng và những hội kín người Hoa công khai điều hành ổ hút và nhà thổ, tay chân chém giết tranh giành địa bàn khắp các đường phố,…

Thế nhưng không thể nói The Fix không có điểm yếu. Thứ nhất, nhìn chung các vấn đề trong cuốn sách này đều là các case study, do đó chúng đều là những giải pháp chỉ trên bề mặt, không một hướng đi cụ thể. Tuy Jonathan đã rất cố gắng đúc kết rất nhiều điểm chung, rất nhiều phương hướng có thể soi rọi cho những nền chính trị khác; nhưng nó là điều bất khả cho nền chính trị của các đất nước quá khác xa nhau. Nhưng như một bài học cuối cùng ông đúc kết lại, đôi khi ta phải từ bỏ cái hoàn hảo để lấy cái có thể chấp nhận được; và ở riêng điều này, The Fix tỏ ra có tác dụng. Không hoàn toàn vô ích khi học hỏi Canada về cách dang tay hỗ trợ và giữ lại người tị nạn hay cách chính quyền thành phố New York tự cứu lấy mình khỏi những lo toan khủng bố đè nặng.

Thứ hai, điểm yếu ở tính địa phương. Ở đây, hầu như 10 bài viết đều gắn liền với 10 cá nhân tổng thống xuất sắc – những người đoán đầu và chịu thử thách. Cùng đi với đó là những hoàn cảnh chính trị mà như Jonathan đôi khi thừa nhận, là rất đặc biệt, có một không hai. Chính những điều này làm nên tích chất manh mún của mỗi vấn đề. Như thể ở trường hợp Indonesia: ta không thể nói lực lượng Hồi giáo ở những khu vực vùng vịnh như Iran, Iraq hay Syria không có đường lối cứng rắn như ở Indonesia để rồi áp dụng bài học ấy ở các nước này. Hay một Bắc Triều để vươn mình phát triển như Nam Triều của ngày hôm nay, thì đào đâu ra các chaebol – gia độc gia đình để được nhà nước dù cho độc tài rót vốn, miễn thuế hay thúc đẩy phát triển? Cho nên nhìn chung, với những case study rất nhỏ và cụ thể tỏ tường thế này, một góc nào đó cho thấy The Fix vẫn chỉ là câu trả lời cho những vấn đề thức thời. Nó không bao quát, không làm nên định lý chung, không thành quỹ tích cho những đường đi vì một thế giới sẽ đẹp đẽ hơn.

Và điều cuối cùng, phụ thuộc tâm lý hơn bất cứ vấn đề nào khác của cuốn sách này. Rằng, con người với một bản chất luôn thích khám phá, bóc trần những điều tăm tối hơn là hy vọng. Dẫu cho phần đầu Jonathan một cách tinh quái nêu bật lên những lần ranh hiểm nguy trước khi đi vào giải quyết, nhưng với thời lượng quá chông chênh nhau đâm ra thiếu đi tác dụng. Không thể trách ai, chỉ trách ông quá lạc quan viết nên cuốn sách e quá tươi sáng cho những con người ủ dột của ngày hôm nay.

Đồng hồ tận thế (Doomsday Clock) vừa nhích thêm 20 giây đến khoảng cách diệt vọng của xã hội loài người, làm giảm khoảng cách xuống còn 100 giây đến thời điểm nửa đêm của ngày cuối cùng. Theo đó, Nhóm nhà Khoa học Hạt Nhân Mỹ cho rằng, hai hiểm họa diệt vong là chiến tranh hạt nhân và biến đổi khí hậu thúc sẽ đẩy càng nhanh quá trình diễn tiến. Chúng còn tăng lên khi có hàng loạt các mối đe dọa khác, khi chiến tranh thông tin trên không gian mạng đang làm ảnh hưởng khả năng đối phó một cách hiệu quả của xã hội. Và The Fix, với nguồn thông tin đầy ắp của mình, lướt qua như một tia sáng cho thấy vẫn có thể phần nào kiểm soát tình hình chừng nào chúng ta vẫn còn cố gắng và xắn tay áo lên để rồi hành động. Như đoạn mở đầu của ông trong cuốn sách này, rằng:

“Từ bỏ hy vọng tất nhiên là nỗi cám dỗ – nhất là vào thời điểm dường như có quá nhiều điều bất ổn xảy ra với thế giới này. Tuy nhiên, vấn đề với nỗi tuyệt vọng là nó chẳng có ích gì. […]

May thay cho chúng ta, nó cũng dư thừa nữa. Không một thử thách nào (dù có vẻ nghiêm trọng đến mấy) là thật sự không thể vượt qua. Giải pháp cho sự bế tắc […] đã có sẵn ngoài kia.

Bạn chỉ cần phải biết nhìn vào đâu để sửa sai mà thôi.”

Hết.

Ngô Thuận Phát

Xem tất cả những bài viết của Ngô Thuật Phát tại đây.


Có thể bạn sẽ thích những bài viết sau:


Click to comment

Viết bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Phía sau trang sách

Danh ca Elvis Phương ra mắt hồi ký mới, trải lòng nhiều chuyện hậu trường thú vị

Published

on

Ai đó đã từng nói rằng mỗi một nghệ sĩ đối với bản “hit” của mình luôn có những mối lương duyên đặc biệt. Với Elvis Phương điều đó rất đúng, khi suốt đời mình ông đã sống như một "chú ngựa hoang" với những vết thù mà mình mang theo. Hồi ký Dòng đời vừa mới ra mắt không chỉ mang đến những câu chuyện riêng phía sau hậu trường, mà còn cho thấy cả một thời đoạn âm nhạc liên tục thay đổi.

Trải qua gần 60 năm cuộc đời, Elvis Phương là một tượng đài giúp đưa dòng Rock’n’Roll và nhiều cách tân độc đáo vào âm nhạc Việt. Lấy tựa Dòng đời theo tên bài jazz nổi tiếng My Way, nam danh ca đã có những giãi bày riêng qua lời kể chân thành, từ đó tiết lộ rất nhiều câu chuyện, hình ảnh, tư liệu sống động mà trên ánh đèn sân khấu ít người biết đến.

Thời thơ ấu và tiếng gọi của âm nhạc

Được viết theo dòng thời gian từ khi sinh ra đến khi lớn lên, ở những chương đầu, Elvis Phương cho thấy được niềm đam mê âm nhạc ngay từ rất sớm. Như mối lương duyên đã được số phận sắp đặt, đó là việc ông thích phim ảnh và đã xem nhiều thể loại, thế nhưng tác phẩm để lại ấn tượng sâu nhất vẫn là bộ phim cao bồi O’Cangaceiro, nơi tiếng harmonica ở phần cuối phim vẫn luôn đọng lại. Từ chiếc harmonica ấy, ông dần sở hữu những “gia tài” khác, như chiếc radio, máy phát đĩa than, cây guitar bị hỏng dây… và cũng từ đó mà niềm khát khao đối với âm nhạc ngày càng đậm thêm.

Tại đây ông cũng tiết lộ một chuyện ít nhiều buồn thương, khi gia đình đã không ủng hộ ông theo con đường âm nhạc. Trong đó cha ông là người phản đối có phần quyết liệt, bởi tư tưởng cũ “xướng ca vô loài” cũng như mong muốn con mình nối nghiệp thầu khoán. Thế nhưng như một câu nói càng cấm càng làm, đam mê âm nhạc cứ thế lớn lên, cũng kèm theo đó là sự kình chống khó thể giảng hòa giữa ông và thân phụ mình.

Danh ca Elvis Phương hát cùng ban nhạc Vampires. Ảnh: NVCC.

Ông viết: “Tôi chắc chắn được một điều là mình rất mê âm nhạc, nghe tiếng nhạc tôi thấy yêu đời, thấy tâm hồn nhẹ nhõm lâng lâng. Lúc nào, giờ nào tôi cũng có thể nghe được, nhiều lúc còn mang cả radio vào trong toilet để nghe. Tiếng gọi của âm nhạc đến với tôi từ thời thơ ấu, nhìn lại những người thân trong họ hàng chung quanh, tôi nhận thấy mình chẳng hề chịu ảnh hưởng văn nghệ của bất kỳ ai, phải nói tôi nghĩ mình sinh ra đời để được ra phải được hát mà thôi”.

Dẫu vậy ông không hờn giận cha mình, mà khi ngày càng trưởng thành, ông nhận ra đó sẽ trở thành một “kim chỉ nam” để mặc cho sống giữa nhiều cám dỗ trong các vũ trường, những sân khấu ca nhạc… thì ông vẫn giữ được mình sao cho thuần chất. Có thể nói rằng những chia sẻ này là lời riêng tư và cảm xúc nhất mà Elvis Phương viết ra trong cuốn hồi ký, như lời tạ ơn cho vị thân sinh đã đưa "chú ngựa hoang dại" vào trong cánh đồng ca nhạc, dù bằng cách này hay cách khác.

Elvis Phương với Trung Lang Rockin' Star vào năm 1960. Ảnh: NVCC

"Ma lực" của Elvis Presley

Sau đó sẽ là quãng đời chạm ngõ bước vào trình diễn, khi ông gia nhập vào các ban nhạc nổi lên ở thời bấy giờ, từ Rockin’ Star, Les Vampire cho đến Phượng Hoàng cùng hai nhạc sĩ Nguyễn Trung Cang và Lê Hựu Hà. Ở mỗi thời kỳ ông luôn biết cách tạo ra được sự đặc biệt để thu hút khán giả, và cũng phần nào khẳng định “Âm nhạc là mùa Xuân trong tôi, đang nở hoa rực rỡ, không thể nào để cho mùa Đông của sách vở, của văn bằng tận diệt dưới lớp đá băng lạnh lẽo”.

Điểm hay của thể loại hồi ký đó là tuy phản ánh góc nhìn cá nhân, thế nhưng bối cảnh mà nó làm nên thường mang được tính phổ quát khi là ký ức của rất nhiều người. Ở Dòng đời, qua những mô tả của Elvis Phương, lịch sử về sự du nhập âm nhạc cũng được trở lại theo từng thời kỳ phát triển của bản thân ông. Đó là những năm 1959 – 1969 với phong trào nhạc ngoại bắt đầu manh nha và các ban nhạc “kích động” chuyên trình bày nhạc ngoại quốc bắt đầu ra mắt. Cũng vào lúc này mà ông tìm thấy Elvis Presley – một cá tính có “sức lôi cuốn kỳ lạ, như có ma lực ghê gớm lôi kéo tôi vào thế giới của âm thanh đầy huyền hoặc”.

Elvis Phương tại nhà của Elvis Presley. Ảnh: NVCC

Ông cũng kể lại một thời thanh xuân thích sưu tầm những bài ca nước ngoài, chép lại trong một quyển tập được trang trí cẩn thận, với những hình ảnh được cắt từ báo ngoại quốc lúc đó vẫn còn hiếm hoi tại Việt Nam. Elvis Phương tiết lộ để có những hình ảnh ấy thì người ta phải nhờ người nhà ở nước ngoài gửi về, vì phải đến năm 1963 thì mới có các tạp chí ca nhạc Mỹ xuất hiện, khi quân đội Mỹ vào Việt Nam. Thời điểm này cũng đã đánh dấu nhạc Pháp thoái trào và sự thay đổi thành phần khán giả.

Theo đó nếu những năm trước người tham dự đa số là học sinh trường Pháp, thì thời kỳ này là sự góp mặt của nhiều “dân chơi” Sài Gòn và sự bành trướng của nhạc Anh, nhạc Mỹ với sự có mặt của những quân nhân Hoa Kỳ. Đó là làn sóng British Invasion, và cũng đánh dấu bước chuyển của thời kỳ ca hát tài tử để bắt đầu có sự kỳ kèo về giá cả của những hợp đồng ký kết.

Elvis Phương kể mình từng khiến tài tử Lưu Đức Hoa bất ngờ với việc thay trang phục sau mỗi tiết mục trình diễn. Ảnh: NVCC

Ban Phượng Hoàng và những cá tính

Bên cạnh bối cảnh được tái hiện lại, Dòng đời cũng là những cuộc gặp gỡ của Elvis Phương với những bạn nhạc đóng vai trò quan trọng trong cuộc đời ông. Đó là huyền thoại cải lương Thanh Nga – người từng ngồi kề bên ông ở trường tiểu học Jean-Jacques Rousseau, là Khánh Ly – người đã thu âm cùng ông băng nhạc đầu tiên ở Mỹ, là cố nghệ sĩ Chí Tài – người đã sẵn lòng đầu tư cho ông dù chưa hề biết kết quả sẽ đi đến đâu… Ngoài ra còn là những gương mặt khác đã từng xuất hiện trong các ban nhạc kề cận quanh ông thuở mới vào nghề, cũng như trong nhiều tấm ảnh được đính kèm theo.

Trong đó hai người nổi bật không thể không nhắc là hai thành viên của ban Phượng Hoàng. Elvis Phương không chỉ kể lại những chuyện thân tình mà còn đánh giá ảnh hưởng của họ lên sự nghiệp và cuộc đời mình. Ông viết: “Hai tâm hồn, hai tư tưởng, hai nghệ sĩ, hai khuynh hướng sáng tác khác nhau, nhưng khi kết hợp lại đã mang đến sự quân bình tuyệt diệu của nhân sinh quan cũng như nghệ thuật. Tôi không coi họ là những thiên tài, mà tôi coi họ như những nạn nhân của tuổi trẻ, người nói lên được những cảm nghĩ sâu xa của một tuổi trẻ bị xâu xé vì chiến tranh, bị giằng co giữa cái đẹp và cái xấu trong bối cảnh xã hội lúc đó”.

Ban Phượng Hoàng (từ trái qua): Elvis Phương, Trung Vinh, Nguyễn Trung Cang, Châu và Lê Hựu Hà. Ảnh NVCC.

Ở đó có một Lê Hựu Hà lạc quan với lòng yêu thiên nhiên, yêu người, yêu đời, còn Nguyễn Trung Cang thì sống trong sự bi quan, dằn vặt, nhìn cuộc đời này bằng một màu đen tang tóc, ảm đạm. Và chính sự quân bình ấy đã tạo nên ban Phượng Hoàng như tên tuổi lớn của một giai đoạn nhạc trẻ Việt Nam bắt đầu thành hình. Và không chỉ có cơ may được hợp tác cùng và làm việc với những yếu nhân, mà bản thân ông cũng là một người hướng mình đến sự hoàn hảo, để đáp lại lòng thương yêu của khán giả dành cho mình.

Ông kể về những lần mua sắm rất nhiều trang phục ở các kinh đô thời trang khác nhau với những nhà thiết kế nổi tiếng, không chỉ vì thích mặc đẹp mà còn vì để tôn trọng khán giả. Ông cũng nói về nỗ lực của mình trong việc tìm ra một lối đi mới, trong việc tiên phong hát các liên khúc, phối trộn chất liệu dân gian cũng như cách hát bày tỏ cảm xúc khác biệt… Chính những điều đó làm nên một Elvis Phương của ngày hiện tại, rằng dẫu chìm nổi theo dòng thời gian ở nhiều bối cảnh khác nhau, thì ông vẫn luôn thích nghi và tìm thấy được lối riêng cho bản thân mình.

Bìa cuốn hồi ký Dòng đời. Ảnh: Phương Nam Books

Xuyên suốt tác phẩm ông đã ví mình như chú ngựa hoang “phóng vào đồng cỏ mênh mông, bát ngát để khám phá biết bao điều mới lạ, được nhìn thấy đủ muôn mặt của cuộc đời này, từ những khuôn mặt khả ố đến những khuôn mặt đẹp đẽ dễ thương, từ những khuôn mặt tính toán thâm hiểm cho đến những khuôn mặt đầy bao dung và nhân hậu…”

Và sau 60 năm vùng vẫy vẫn chưa thấm mệt, cho đến giờ đây, ông vẫn là một tượng đài trong âm nhạc Việt Nam không chỉ trong quá trình làm nghề, mà còn là thái độ sống và lòng bao dung với cuộc đời này. Dòng đời chính là những trải lòng ấy, để "ngựa hoang" giờ đã tìm thấy tình yêu cũng như chính mình.

Nguồn: Người Đô Thị | Minh Anh

Đọc bài viết

Phía sau trang sách

Từ câu chuyện quạ và bình nước đến giải mã bí mật bộ não thiên tài của loài chim

Quyển sách Chim chóc chưa bao giờ ngốc, tác giả sách, nhà nghiên cứu Jennifer Ackerman giúp độc giả hiểu biết thêm vô vàn năng lực kỳ diệu, đời sống hoang dã đầy thú vị của loài chim. 

Published

on

Bạn có biết, loài chim đã tồn tại hơn 100 triệu năm? Chúng thường sử dụng tập quán xây tổ, sử dụng điệu múa… để thu hút bạn tình. Hay chim sáo, vẹt có khả năng bắt chước nói tiếng người, bồ câu đưa thư hoặc những loài chim di cư định vị được chúng đang ở đâu.

Trí thông minh của loài chim trở thành nguồn cảm hứng bất tận để các nhà khoa học thực hiện hàng loạt thí nghiệm. Và trong quyển sách Chim chóc chưa bao giờ ngốc, tác giả sách, nhà nghiên cứu Jennifer Ackerman giúp độc giả hiểu biết thêm vô vàn năng lực kỳ diệu, đời sống hoang dã đầy thú vị của loài chim. 

Vì sao loài chim có trí thông minh vượt bậc?

Trong Chim chóc chưa bao giờ ngốc (Phương Nam Book & NXB Thế giới), nhà nghiên cứu Jennifer Ackerman đã không ngần ngại gọi các đối tượng chim bằng cụm từ “thiên tài”. Vì sao ư? Khi đi sâu nghiên cứu, ghi chép, Jennifer Ackerman nhận định, chim chóc xứng đáng với cái tên đó.

Cũng theo Charles Darwin - nhà bác học, nhà tự nhiên học vĩ đại người Anh, “cha đẻ” của thuyết tiến hóa, từng nói: “Động vật và con người có sức mạnh trí tuệ chỉ khác nhau ở mức độ chứ không phải ở giống loài”. Trong thực tế, bạn từng nhìn thấy chú chim sẻ đang nhặt hạt thóc mang về tổ hay một con chim sáo lục túi rác tìm thực phẩm sót lại. Điều này giúp bạn nhận ra, loài chim học được cách tìm kiếm thức ăn mới. Dấu hiệu cho thấy sự thông minh vượt bậc của loài chim. 

Gần gũi hơn với tuổi thơ chúng ta, câu chuyện ngụ ngôn quạ và bình nước là tiền đề để các nhà khoa học thực hiện các thí nghiệm trên loài quạ. Năm 2014, nghiên cứu về quạ và bình nước tái hiện lại dưới góc nhìn các nhà khoa học ở ĐH Cambridge (Anh) và ĐH Auckland (New Zealand).

Ảnh minh họa

Với nhiều phương án, giống quạ New Caledonian được thí nghiệm ưu tiên chọn đá để thả vào bình thay vì cát, chọn vật rắn chìm dưới nước thay vì vật rỗng nổi trên mặt. Quạ thả vào bình có mực nước cao hơn thay vì bình có mực nước thấp hơn. Từ những hành vi đó, các nhà khoa học kết luận rằng, loài quạ cực kỳ thông minh, nó biết cách sử dụng công cụ lao động theo ý muốn. 

Cũng trong nghiên cứu trên Tạp chí Thần kinh học So sánh (Mỹ), tháng 1/2022, các nhà khoa học so sánh não bộ chim họ quạ với não của gà, chim bồ câu và đà điểu. Họ phát hiện rằng não họ quạ có các tế bào thần kinh dày đặc với hơn 200 đến 300 triệu tế bào thần kinh trên mỗi bán cầu. Điều này cho phép việc giao tiếp hiệu quả giữa các tế bào não của quạ. 

Trong khi đó, loài chim luôn bị nỗi oan ngu ngốc, con người mắng là lũ não ngắn, đồ... não chim. Theo một nghiên cứu năm 2020, tạp chí Science, công bố, não chim không hề ngắn một chút nào. Cụ thể, quạ và các loài chim khác “biết chúng muốn gì và có thể suy ngẫm các ý tưởng trong tâm trí”. Theo tạp chí Current Opinion in Behavioral Sciences, xuất bản năm 2017, nhận định, trí thông minh của quạ có thể ngang bằng với một số loài khỉ và gần với loài vượn lớn (khỉ đột).

Cũng theo nghiên cứu của Viện Khoa học Hàn lâm Quốc gia (Mỹ), các nhà khoa học phát hiện ra rằng, bộ não bé nhỏ của loài chim chứa nhiều tế bào não hơn đa số các loài thú hiện nay. Cụ thể, các chuyên gia đã xét nghiệm tế bào não của 32 loài chim khác nhau, gồm cả quạ, vẹt, đà điểu và cú. Họ sử dụng hệ thống đếm neuron thần kinh. Kết quả thu được, não chim có số lượng tế bào não lớn hơn hẳn các loài thú khác. Ví dụ, loài chim sẻ - trọng lượng bằng 1/9 loài chuột, nhưng tỷ lệ tế bào não nhiều gấp 2,3 lần.

Tuyệt chiêu ‘tỏ tình” sáng tạo của loài chim 

Từ việc quan sát hành vi sống của loài quạ có thể chế tạo công cụ để lấy thức ăn - những thứ chỉ từng nhìn thấy ở các loài vượn lớn. Hay nguyên nhân tuyệt diệt của chim dodo, tác giả sách, nhà nghiên cứu Jennifer Ackerman đi tìm lời giải đáp về thang đo chung trí tuệ của các loài chim. 

Với Chim chóc chưa bao giờ ngốc, Jennifer Ackerman cung cấp kiến thức đời sống hoang dã lý thú đến người đọc. Tác giả trình bày chi tiết những phát hiện, minh chứng, nghiên cứu cũng như kết quả về trí thông minh của loài chim. Việc bộ não loài chim có kích thước nhỏ không tương đồng một cách hoàn toàn với trí thông minh của chúng.

Hơn hết, Jennifer Ackerman dùng các học thuyết riêng biệt để giúp chúng ta hiểu thêm về trí thông minh của loài chim. 8 chương sách là 8 mảnh ghép làm nên những điều mới mẻ về các loài chim. Trong đó, hai chương sách bàn luận về học thuyết tâm trí giao phối. Tác giả đưa ra những lý giải thú vị về các hành vi một vài loài chim mái tìm bạn tình dựa trên cách xây dựng tổ cũng như điệu múa đẹp từ chim trống. 

Vào mùa giao phối, chim trống lượm nhặt, thậm chí giành giật nhiều đồ vật bỏ rơi đủ màu sắc để trang trí nơi ở của mình để thu hút chim mái. Khi đối tượng đến, chim trống nhảy nhót, hót mừng mời vào tổ tham quan. Tổ càng đẹp con mái sẽ càng dễ xiêu lòng hơn. Hoặc có những loài chim khác lại chọn sự đồng điệu thông qua tiếng hót… Hành vi kết đôi thú vị này diễn ra trong thế giới tự nhiên giúp chúng ta thấu hiểu, loài chim cũng rất sáng tạo trong việc tán tỉnh nhau.

Điều đặc biệt của Chim chóc chưa bao giờ ngốc còn nằm ở sự pha trộn tài tình giữa những kiến thức thú vị về cuộc sống của loài chim. Óc quan sát tinh tế, sự ghi chép tỉ mẩn, dày công nghiên cứu về loài chim của tác giả Jennifer Ackerman gói gọn trong hơn 400 trang viết.

Thông điệp từ tình yêu thiên nhiên

Chim chóc chưa bao giờ ngốc còn góp phần giúp độc giả nhí lẫn người lớn hiểu thêm thực tế môi trường sống đang dần biến đổi. Nó ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống con người và sự tiến hóa của loài chim. 

Jennifer Ackerman diễn giải cho chúng ta thấy, các chú chim di cư giờ đây phải đối mặt với việc thức ăn trên biển của mình không đúng mùa. Nhiệt độ môi trường tăng lên, thời gian sinh trưởng của các trật tự sinh học khác đảo loạn. Dẫn đến nhiều loài chim phải chết giữa đường do không tìm được thức ăn. Trong rừng rậm sâu, những con chim mẹ cũng phải đẻ trứng ngược với chu trình ngàn đời tự nhiên, nhằm đảm bảo nguồn sâu phong phú để nuôi nấng thế hệ sau của mình… 

Thông qua Chim chóc chưa bao giờ ngốc, tác giả Jennifer Ackerman mong muốn gửi gắm thông điệp về tình yêu thiên nhiên, góp phần nâng cao nhận thức của cộng đồng về vấn đề bảo tồn sự đa dạng sinh học của loài chim nói riêng, cũng như đời sống loài động vật hoang dã khác trước thềm tuyệt chủng.

“Não chim có lẽ nhỏ, nhưng rõ ràng là có võ… Chim chóc đã tồn tại trong hơn 100 triệu năm. Chúng là một trong những câu chuyện thành công vĩ đại nhất của tự nhiên…”, Jennifer Ackerman viết.

Bà Trần Nhật Hoàng Phương - Giám đốc Marketing Phương Nam Books - cho biết, nếu như thời gian trước, các dòng sách đa dạng, phong phú theo chiều rộng, thì trong năm 2023, nhiều chủ đề sách sẽ mang tính chiều sâu hơn. Theo đó, Chim chóc chưa bao giờ ngốc - giải mã bộ não thiên tài của loài chim, được trình bày với giọng văn mạch lạc. Từ đó, độc giả sẽ bước vào cuộc phiêu lưu trên từng trang sách.

Tóm lại, Chim chóc chưa bao giờ ngốc - một cuốn sách tuyệt vời dành cho bạn đọc yêu động vật, tò mò khám phá về đời sống tự nhiên. Bởi có quá nhiều điều thú vị sẽ giữ chân bạn lại lâu hơn, để tìm hiểu, để khám phá và yêu hơn những loài chim - một trong những sinh vật có trí thông minh vượt bậc nhất thế giới. 

Đọc bài viết

Phía sau trang sách

Sự hoàn hảo và hạnh phúc: Điều gì quan trọng hơn?

Bạn và tôi cũng chỉ là những cô gái nhỏ trên hành trình tự chữa lành tâm hồn, yêu thương chính mình.

Published

on

phu-nu-dung-kiet-suc-vi-su-hoan-hao

Gửi cậu - cô gái luôn nghĩ mình chưa đủ tốt. 

Dạo gần đây, mình lướt mạng xã hội thấy được rất nhiều những cô gái xinh đẹp, giỏi giang và tràn đầy năng lượng tích cực, mình ngưỡng mộ lắm! Nhưng mình bỗng lặng đi một chút, hàng vạn câu hỏi xuất hiện trong đầu mình: Tại sao bản thân lại không được xinh đẹp, sao bản thân mình toàn chất chứa những tiêu cực, sao mình lại không đủ tốt cơ chứ! Bạn đã từng bị những suy nghĩ ấy bủa vây chưa? Nếu câu trả lời là có, hãy để mình dành cho bạn một cái ôm thật dịu dàng nhé! 

Chỉ cần quan tâm cảm xúc bản thân một chút, bạn sẽ thấy tinh thần tốt hơn. Nguồn ảnh: @Unsplash

Phải là một cô gái đoan trang, một người vợ tào khang, một người mẹ giỏi giang - những tiêu chuẩn hoàn hảo, những áp lực vô hình ấy đã gắn lên người phụ nữ qua bao thế hệ. Ở đây, mình không phủ nhận những tiêu chuẩn ấy là sai trái, mình chỉ nói đến việc phụ nữ chúng mình luôn trong tình trạng thấy quá tải và kiệt sức với mọi việc mình phải làm, nhưng vẫn cứ lo là mình làm chưa “đủ” và luôn trong trạng thái "sức cùng lực kiệt". 

Mình cũng chỉ là cô gái nhỏ trên hành trình tự chữa lành tâm hồn, yêu thương chính mình để thoát khỏi "peer pressure" (Áp lực đồng trang lứa) hay "burn out" (luôn cảm thấy bản thân mình mệt mỏi và vô cùng áp lực). Người bạn đồng hành cùng mình ở hành trình này chính là quyển sách Phụ nữ đừng kiệt sức vì sự hoàn hảo (Emily Nagoski, PhD và Amelia Nagoski Peterson, DMA)

Quyển sách Phụ nữ đừng kiệt sức vì sự hoàn hảo - tác giả Emily Nagoski, PhD và Amelia Nagoski Peterson, DMA

Quyển sách cung cấp độc giả những thông tin khoa học về sức khỏe tâm lý, vừa là người bạn cùng san sẻ những vấn đề xung quanh "cuộc sống phải hoàn hảo" của người phụ nữ. Và chắc chắn bạn sẽ như mình khi bắt gặp chính mình trong quyển sách qua những câu chuyện về cuộc đời, những nỗi đau tâm lý và những lần ngã gục của những người phụ nữ. 

Ba phần của quyển sách Phụ nữ đừng kiệt sức vì sự hoàn hảo tương ứng với ba giai đoạn của sự chữa lành: 

  • Phần 1 - Những điều bạn mang theo: Với mình, đây là chương sách mình phải chạnh lòng và nghiền ngẫm lâu nhất, khi mình phải tự đối mặt với những đám mây tiêu cực - những vấn đề vẫn hằng đeo bám tâm trí người phụ nữ: sự căng thẳng, cạn kiệt cảm xúc, nhìn nhận sai về "ý nghĩa cuộc sống"... qua góc nhìn tâm lý học và khoa học xã hội. Nhưng mình chắc chắn rằng chúng sẽ không hề khô khan mà lại dễ hiểu và gần gũi qua cách dẫn chuyện lôi cuốn của tác giả. 
  • Phần 2 - Kẻ thù thật sự: Phần hai của quyển sách đào sâu vào "chế độ phụ quyền", “hội-chứng-người-biết-cho-đi” và "vẻ đẹp lý tưởng" - vạch trần những kẻ thù đã gây ra những thương tổn trong tâm lý người phụ nữ. Mình cũng rất thích cách tác giả lồng ghép bộ phim Gaslight một cách đầy tinh tế để dẫn chuyện. Cùng với đó, tư tưởng của tác giả không lý thuyết suông rằng kêu gọi phụ nữ hãy yêu thương và chấp nhận bản thân, mà là "kiên nhẫn với cơ thể cũng như cảm giác của bạn về cơ thể mình."
  • Phần 3 - Những điều cần làm: Phần này sẽ trang bị cho bạn những kiến thức để đánh bại "những kẻ thù thật sự", để bạn ngày một trở nên mạnh mẽ hơn và chiến thắng được chúng. Bạn sẽ bất ngờ nhận ra đó là những việc bạn có thể thực hiện hằng ngày, để bạn kết nối, tin tưởng, nghỉ ngơi và bao dung với bản thân mình hơn. 

Cuối mỗi chương, nhóm tác giả đều có tóm tắt ngắn gọn nội dung, giúp mình thống kê lại kiến thức và các "bài tập" thực hành. Khép lại quyển sách chưa đầy 400 trang, mình đã xóa đi được những góc nhìn đầy phiến diện về cuộc sống và cả về chính mình nữa.

Khi ta từ bỏ sự áp lực hoàn hảo là ta đang hạnh phúc. Nguồn ảnh: @Unsplash

Mình không dám nói rằng mình trưởng thành hơn hay hoàn thành chữa lành sau khi đọc xong quyển sách. Nhưng mình đã tự mở ra cho mình một lăng kính mới, một cánh cửa mới cho chiếc tủ eo hẹp nơi tâm trí. Lăng kính của sự tự do và cánh cửa của sự bao dung cho bản thân. Bất cứ sự trưởng thành nào cũng phải đánh đổi bằng tổn thương. Điều quan trọng, cách ta chiến đấu và chữa lành cho đứa trẻ bên trong sau cuộc chiến hay để những đớn đau ấy mãi tuần hoàn.

"Hãy tin tưởng cơ thể của bạn. 
Hãy tử tế với chính mình. 
Bạn như hiện tại là đủ. 
Niềm vui của bạn là quan trọng. 
Hãy nói cho mọi người mà bạn biết."
Mỗi cô gái đều là phiên bản độc nhất và xứng đáng được yêu thương!"

Đọc bài viết

Cafe sáng