Trà chiều

Hãy để tôi kể em nghe một câu chuyện tình

Tôi đã có một người ở đây rồi, một người xây nhà cư ngụ trong trái tim tôi với diện tích chiếm đến ba phần tư cơ thể tôi, tâm hồn tôi. Người đó là chính em.

Published

on

Em yêu của tôi,

Tôi luôn muốn gọi em như thế. Dù rằng em đã nói, không biết ngày mai sẽ như thế nào, liệu ngày mai em có còn ý thức để nói chuyện với tôi được hay không, nhưng tôi biết ngày mai với tôi chỉ có một: em sẽ mãi hiện diện trong trái tim tôi dù có ở bất kì không gian địa lí nào, hữu hình hay vô hình, tỉnh thức trong hiện tại hay vô thức trong những giấc mơ; dù là ở đâu, trong trạng thái nào, em vẫn sẽ tồn tại trong tôi, không phải là một phần, không phải là một nửa, mà là đến những ba phần tư của tôi, em có nhớ không? Vậy nên, chuyện ta tạm thời xa cách về mặt địa lí lúc này nào có quan trọng khi em luôn cư ngụ ở địa chỉ nhà gần trái tim tôi, chẳng đâu xa xôi cả.

Khi nghe em nói về việc em đã cực khổ như thế nào để chuẩn bị quà sinh nhật cho tôi, rằng em đã háo hức khi làm quà như thế nào khi mường tượng khuôn mặt tươi cười của tôi, rằng em đã đặt chuông báo thức lúc ba giờ mỗi đêm để cặm cụi làm quà cho tôi lúc gia đình đang ngủ say, tôi thực sự rất xúc động và cảm thấy ấm áp – hơi ấm ấy như lan đến từng ngóc ngách, từng tế bào trong cơ thể tôi – có lẽ cũng giống như cách người ta quảng cáo về công nghệ nano hướng đích, nếu công nghệ ấy thực sự hữu nghiệm như thế trong chuyện chữa bệnh, với tôi, nó cũng chưa chắc hữu nghiệm bằng việc được nghe giọng nói dịu dàng của em, được nhìn khuôn mặt em trìu mến nhìn tôi mỗi ngày. Tôi xúc động và tôi cũng lo lắng cho sức khỏe của em khi em đã phải làm việc nhà rất nhiều, lại còn mỗi ngày thức đêm như thế để làm quà cho tôi, tôi chỉ muốn em có những giấc ngủ thật ngon, thật say để mỗi sáng sớm thức dậy, em sẽ thấy mình như một đóa hoa mới vừa vươn mình khỏi mặt đất và đang hé nụ thôi, đóa hoa đó hãy còn nhiều sức sống lắm, và cứ mỗi ngày trôi qua, vào đêm tối, đóa hoa đó sẽ lặn sâu xuống mặt đất, để rồi khi ngày mai nữa lại đến, hoa một lần nữa vươn mình khỏi mặt đất và vẫn chỉ đang hé nụ thôi, hoa hãy còn nhiều sức sống lắm, rồi chu kì ấy cứ tiếp diễn, tiếp diễn, em sẽ mãi là một đóa hoa vừa mới vươn mình khỏi mặt đất và đang hé nụ, một đóa hoa mãi còn nhiều nhựa sống căng tràn bên trong, không bao giờ héo tàn. Em là một đóa hoa diệu kì như thế. Chỉ cần mỗi tối em ngủ sớm và ngủ một giấc thật sâu, như đóa hoa lặn vào trong lòng đất để đón lấy chất dinh dưỡng, được không em yêu của tôi? Em biết không, với tôi, em đã là một món quà rất quí giá mà cuộc đời ban tặng cho tôi rồi, nếu đòi hỏi hơn nữa, tôi sẽ là người tham lam nhất thiên hạ mất, à không, nhất vũ trụ này, nhất dải ngân hà luôn. Thế có nghĩa là em đã dư sức cân cả một thế giới trong lòng tôi rồi.

Bây giờ, tôi sẽ viết đôi điều tôi muốn kể em nghe. Trong đó, có lẽ tôi sẽ phải “spoil” một tác phẩm, em không phiền lòng chứ? Tôi biết mình không nên tiết lộ khi em chưa đọc, nhưng em cho phép tôi được làm như thế một lần nhé em? Tôi hứa sẽ không tiết lộ quá nhiều để ảnh hưởng đến trải nghiệm của em. Mọi người thường khen tôi viết văn hay – nhưng với tôi, việc viết văn có hay hay không, không quan trọng ở thời điểm này – điều quan trọng với tôi bây giờ hơn là những dòng tôi viết có làm em mỉm cười không, có làm em cảm thấy hạnh phúc và ấm áp khi đọc không – tôi chỉ cần như thế mà thôi; tôi tha thiết, mong mỏi điều đó; dù có được mọi người công nhận là viết hay nhưng cái hay đó không thể khiến em vui cười, khiến em hạnh phúc, khiến em tạm quên đi những muộn phiền, thì cái hay đó chỉ là sự vô nghĩa nằm trên bề mặt câu từ mà thôi. Chưa bao giờ hơn lúc này, tôi lại nỗ lực hết mình để làm việc mọi người vẫn thường công nhận là kĩ năng tôi có thể làm tốt nhất: viết. Và tôi đang cố gắng tận sức để làm, để viết những dòng này chỉ là vì em thôi, vì muốn em vui khi đọc được, muốn tâm trạng của em tốt hơn, muốn tinh thần của em được phấn chấn hơn, em có cảm nhận được không? Tôi yêu em. Yêu em nhiều lắm.

Xin lỗi em vì tôi đã lại vòng vo ở trên, không đi thẳng vào câu chuyện tôi định kể cho em nghe. Thôi, tôi chẳng dông dài nữa. Đó là về câu chuyện trong Nhà Golden. Tôi chỉ xin phép em được spoil một chút thôi để em hiểu lí do tại sao tôi lại thích tiểu thuyết này đến vậy – đây là một trong số hai tiểu thuyết tôi thích nhất khi đọc vào năm 2019 (tiểu thuyết còn lại là Quả chuông ác mộng), 2019 là năm tôi còn đọc sách khá nhiều so với bây giờ, tổng cộng năm đó tôi đọc ba mươi mấy quyển – nói ra để em thấy tỉ lệ chọi của hai quyển này trong danh sách của tôi cũng khá cao đúng không. Hầu như tất cả bạn hữu đọc sách xung quanh tôi đều biết năm 2019, tôi thích nhất là Quả chuông ác mộng. Nhưng thực ra, không ai biết có một quyển tôi cũng thích không kém chính là Nhà Golden – và tôi chưa nói ra điều này với ai cả, tôi cũng chưa viết bài review nào dành cho tiểu thuyết này nên việc mọi người không biết đến là điều dễ hiểu. Tôi chỉ nói cho một mình em biết thôi. Có gì trong Nhà Golden khiến tôi thích đến thế?

Nhà Golden là tác phẩm mà Salman Rushdie có tham vọng xây dựng như một đại tiểu thuyết phản ánh toàn bộ xã hội Mĩ dưới góc nhìn của những người nhập cư – thông qua đó, ông muốn bàn đến một chủ đề lớn hơn là căn tính. Căn tính của mỗi chúng ta ở đâu, hay điều gì làm nên căn tính của ta trong thời buổi toàn cầu hóa hiện nay, khi mà mọi ranh giới địa lí dường như xóa nhòa, khi ai cũng có thể dễ dàng tiếp cận thông tin và giao lưu với những nền văn hóa khác? Chủ đề này nghe có vẻ đao to búa lớn quá phải không em? Đương nhiên, để phản ánh một chủ đề to lớn như thế, Salman Rushdie không thể chỉ đơn giản là tìm một hòn đá to rồi mô tả lại nó. Ông cũng làm một công việc tương tự như bao bậc đại văn hào khác khi tiếp cận một chủ đề lớn là chẻ nhỏ nó ra, đập vỡ hòn đá to ấy để nó thành những mảnh nhỏ li ti hơn, để biết bên trong nó có gì, phân tích và mô tả lại nhiều khía cạnh khác nhau của những mảnh nhỏ ấy để thông qua đó, giúp ta hình dung được hòn đá to khởi thủy đã bị vỡ nát. Và trong rất nhiều hòn đá ông miêu tả để tạo nên khối đá kiến trúc xã hội cho Nhà Golden, tôi chỉ thích một mẩu đá nhỏ duy nhất: câu chuyện về tình yêu giữa D. và Riya. Đó cũng chính là câu chuyện tôi muốn kể cho em trong lá thư này. Câu chuyện này chiếm một dung lượng rất nhỏ trong nhiều câu chuyện của Nhà Golden – vì vậy, tôi hi vọng những gì sắp kể sẽ không ảnh hưởng đến trải nghiệm đọc của em trong tương lai, một lúc nào đó khi em có nhiều thời gian và tinh thần thư thái hơn bây giờ. Tôi sẽ chỉ kể rất ít tình tiết – vì tôi cũng không còn nhớ nhiều nữa, đã đúng hai năm kể từ khi đọc rồi nên tôi quên rất nhiều – tôi sẽ chủ yếu nói về cảm xúc liên đới của mình thôi.

D. là công tử út trong gia tộc Golden nhập cư quyền quý. Từ nhỏ, anh đã có chút băn khoăn về giới tính của mình. Anh không rõ mình là đàn ông hay phụ nữ dù giới tính sinh học của anh là nam. Không phải ai sinh ra cũng có được cảm giác chắc chắn và hài lòng về giới tính sinh học của mình, hay ở chiều ngược lại là không hài lòng và muốn thay đổi (người chuyển giới). Có những người chỉ đơn giản là lưng lửng ở giữa, không phải đồng nhất với giới tính sinh học và cũng không phải chuyển giới, không phải hài lòng mà cũng không hẳn là không hài lòng. D. là một trong số ít những trường hợp như vậy. Và rồi D. gặp được Riya – như một lẽ trớ trêu của số phận, cô lại làm việc ở Bảo tàng Căn cước. Riya là một người hoạt động mạnh mẽ về nữ quyền, hơn ai hết, cô cũng rất đồng cảm và tôn trọng cộng đồng LGBT – theo tôi nhớ là như thế. Riya vừa dịu dàng, vừa mạnh mẽ; thông minh, sắc sảo mà cũng tinh tế, giàu lòng trắc ẩn. D. đã yêu một Riya như thế. Và Riya cũng lập tức yêu anh khi cảm nhận được nỗi u uất trong lòng anh, vẻ đẹp nơi tâm hồn anh là thứ gì đó cô không dễ dàng bắt gặp được ở đàn ông thông thường. Tình yêu của họ thoạt đầu có vẻ như tình yêu của bao cặp đôi dị tính khác. Cho đến một ngày, D. nói với Riya rằng anh cảm thấy mình muốn là một phụ nữ, anh không rõ mình có thực sự là một người phụ nữ trong tâm hồn hay không nhưng anh cảm thấy mình muốn thử làm phụ nữ để biết được câu trả lời cho mối hồ nghi, cho làn sương mờ bao phủ quanh bản dạng giới vẫn luôn làm anh day dứt bấy lâu nay. Khoảnh khắc đó, Riya cứ tưởng mình đã đánh mất anh, đánh mất tình yêu của anh, cô sẽ không còn một người đàn ông yêu mình nữa (Riya là một phụ nữ dị tính), thay vào đó là tình chị em với người phụ nữ vừa xa lạ, vừa thân quen. Nhưng không, D. nói rằng chuyện này không hề ảnh hưởng đến tình yêu anh/cô dành cho Riya. Đó chỉ là vấn đề về bản dạng giới của anh và không liên quan đến tình yêu của hai người. Nhưng với Riya – một người ủng hộ nữ quyền và cộng đồng LGBT, chuyện này vẫn rất khó hiểu và khó chấp nhận dù cô đã trang bị đầy đủ kiến thức. Cô đã quen yêu D. trong hình dáng khi anh là một người đàn ông, yêu anh với tâm thế một người phụ nữ yêu một người đàn ông, cô không phải là người đồng tính để có thể yêu anh trong tâm thế một người phụ nữ yêu một người phụ nữ. D. đã đặt Riya vào một tình thế rất oái ăm và khó khăn. Nếu D. chuyển giới là phụ nữ và có xu hướng tính dục là dị tính, anh/cô không yêu Riya nữa mà chỉ yêu đàn ông thì mọi sự khi đó còn dễ dàng hơn cho Riya – dù thật đau đớn nhưng cô chỉ cần đau một lần rồi dứt khoát từ bỏ tình yêu ấy và cầu chúc cho D. hạnh phúc bên người đàn ông mới là được. Đó là một câu chuyện không hiếm. Nhưng ở đây, việc D. vẫn yêu Riya sau khi đã thú nhận với cô rằng D. muốn chuyển giới lại đặt Riya vào tình thế khó khăn và đau khổ hơn rất nhiều. Cô không phải là người thiếu hiểu biết về vấn đề này để sồn sồn lên trách móc anh, đay nghiến anh. Ngược lại, cô quá thấu hiểu để cảm thông cho anh và cũng chính vì thế, chuốc phần nhiều đau đớn về phía mình. Riya biết D. đã hoang mang như thế nào ở ngưỡng cửa chuyển giới và anh (tôi quyết định sẽ tạm gọi D. là anh để kể lại câu chuyện này khi đứng ở phía Riya) đã chọn không ai khác mà là chính cô để tâm sự đầu tiên, để mong được lắng nghe và được ủng hộ. Riya còn biết làm gì hơn ngoài chuyện gạt đi nỗi đau và vui vẻ chấp nhận anh – giờ đây đã trở thành bạn tình nữ của cô. Là một người luôn đứng ra để bảo vệ quyền lợi cho phụ nữ và cộng đồng LGBT – những người cô không quen biết, lẽ nào Riya lại có thể làm tổn thương chính người phụ nữ/người đàn ông của mình – dù sự tổn thương ở đây không phải là một câu nói ác ý, một hành động thù hằn, hay sự bội phản mà chỉ đơn thuần là sự trốn chạy những lúc cảm thấy mệt mỏi. Trốn chạy. Phải, chỉ đơn thuần là trốn chạy thôi. Có những lúc cô cảm thấy quá đau đớn khi đối diện với D., thậm chí cô còn chẳng biết cảm giác đau đớn của mình khi đó có đúng đắn không khi D. vẫn yêu thương cô tha thiết, cô không biết phải đối diện với con người có tên là D. ấy bằng cách nào. Cô cố gắng yêu thương D. như yêu thương một người phụ nữ. Trong những ngày đầu tập quen làm phụ nữ, có rất nhiều thứ D. còn bỡ ngỡ và phải hỏi Riya: làm sao để là một người phụ nữ thanh lịch, thời trang nhã nhặn; nên dùng loại nước hoa, son môi, trang sức, đồ lót nào; có những từ ngữ hay tác phong nào của nữ giới cần lưu ý… Và Riya đã cố nén đau thương vào bên trong, giữ vẻ ngoài tươi vui để tận tình chỉ D. tất cả những điều ấy. Quá trình này khiến cô đau đến xé lòng khi phải tận mắt chứng kiến chính mình đang hướng dẫn cho người đàn ông mình yêu từng bước không còn là người đàn ông mình yêu nữa, từng bước cũng trở thành một người phụ nữ giống như mình; không có ai khác hướng dẫn D. mà người làm điều đó lại chính là Riya. Vì vậy, không thể trách được Riya nếu như một lúc nào đó cô mệt mỏi rồi buông tay. Và quả thực, cô đã làm như thế. Nhưng chỉ được một thời gian ngắn. Cô không thể rời xa D. lâu được. Cuối cùng, tình yêu đã chiến thắng nỗi đau trong lòng. Cô chấp nhận sự tổn thương để tiếp tục được ở bên cạnh anh, được yêu anh, để lại được thi thoảng thấy đâu đó bóng dáng người đàn ông cô yêu ngày xưa trong người phụ nữ ngày càng nữ tính hơn. Dù cô đã chấp nhận yêu D. vì D. là chính D. nhưng có lẽ, nỗi đau đó sẽ còn mãi vì D. không đến với cô khi đã hoàn toàn là một người phụ nữ, D. đến với cô trong giai đoạn chuyển giao – mà người chứng kiến sự chuyển giao giữa cũ và mới bao giờ cũng là người đau lòng nhất, nếu so với người chỉ ở một giai đoạn nghiêng hẳn về quá khứ hoặc tương lai.

Đó chưa phải là hồi kết cho câu chuyện giữa D. và Riya nhưng tôi chỉ kể đến đó thôi, phần còn lại, trong tương lai, khi nào có thời gian, em hãy thử đọc một lần nhé. Có lẽ, kể đến đây, em đã hiểu vì sao tôi lại thích câu chuyện này đến thế và lại muốn kể cho em nghe vào dịp đặc biệt như thế này rồi đúng không em?

Tôi đọc Nhà Golden vào đâu đó tầm tháng Năm, tháng Sáu 2019, cũng vào một mùa hè khi trời nắng nóng đến đỉnh điểm thì bắt đầu có những cơn mưa rào như bây giờ, mùa của những ngày dài hơn đêm và ánh hoàng hôn tắt khá muộn để buổi chiều với những vệt nắng vàng lưu luyến lâu hơn trong văn phòng nơi tôi làm việc và đọc quyển sách này. Tôi vẫn còn nhớ khi đọc đến bất cứ đoạn nào kể về chuyện tình của D. và Riya, tôi cũng đều có nhiều cảm xúc lẫn lộn vui buồn, ấm áp, cảm động hòa cùng thích thú, tò mò; và trong đó, nổi bật nhất là thứ cảm xúc ghen tị. Tôi ghen tị với D. vì dù số phận trớ trêu như thế nhưng sao D. quá may mắn khi gặp được Riya, khi có được một người yêu mình mãnh liệt như thế, một tình yêu đẹp như thế. Với tôi thì trong đời, chỉ cần gặp được một người yêu mình như thế, một lần cảm nhận được tình yêu như thế là quá đủ rồi. Nhưng vào mùa hè cách đây hai năm, điều đó dường như rất xa xỉ với tôi. Em biết đấy, thời điểm đó tôi vừa trải qua một cú sốc khiến tôi đóng Facebook và chỉ thỉnh thoảng cập nhật một chút tâm trạng qua Instagram; ngoài giờ đi làm và những lúc xem phim một mình ở rạp thì hầu hết thời gian tôi đều ở nhà, cũng lại chỉ xem phim hoặc đọc sách, không còn động tay gì nữa để viết những tiểu thuyết trong dự định. Tôi cứ lặng lẽ như thế ngày qua ngày trong chiếc vỏ của mình. Khi tìm lại được nhiệt huyết và động lực để theo đuổi ước mơ âm nhạc ngày xưa, tôi cũng không dám mơ mình vẫn còn cơ hội để đắm chìm trong kiểu tình yêu mãnh liệt giống như của D. và Riya. Tôi không dám mơ mình sẽ gặp được một người yêu mình giống như cách Riya đã yêu D. Tôi không dám… Có quá nhiều thứ tôi không dám mơ, không dám nghĩ cho đến khi tôi gặp em. Em yêu à, tôi chưa bao giờ nói với em điều này đúng không? Bây giờ, tôi sẽ nói. Tôi không còn ghen tị với họ nữa vì giờ đây, chính tôi đang được đắm chìm trong một tình yêu như thế cùng em. Tôi không còn phải ao ước có một người nào đó như Riya xuất hiện để ở bên cạnh tôi, yêu tôi nữa. Tôi đã có một người ở đây rồi, một người xây nhà cư ngụ trong trái tim tôi với diện tích chiếm đến ba phần tư cơ thể tôi, tâm hồn tôi. Người đó là chính em. Em là Riya của tôi. Hơn cả thế, em là chính em. Tôi yêu em vì em là chính em, em yêu của tôi. Cảm ơn em đã luôn cố gắng đi cùng tôi trong chặng đường đầy gian khổ nửa năm vừa qua, để rồi một lần nữa tôi lại cảm nhận được tình yêu, cảm thấy mình thật may mắn khi được em yêu thương, khi được gặp em. Dù cũng có những lúc giữa chúng mình tồn tại sự căng thẳng, mệt mỏi, những mâu thuẫn, nhưng tận sâu trong lòng, bây giờ nhìn lại hành trình mình đã đi qua, tôi cảm thấy biết ơn em lắm, và thực sự cảm thấy hạnh phúc. Còn em, em có như thế không? Tôi có khiến em cảm thấy được yêu thương, được trân trọng, được nâng niu không? Đã có lúc nào đó em thực sự cảm thấy hạnh phúc vì tình yêu tôi dành cho em không? Tôi biết rằng mình đã làm em đau buồn và tổn thương rất nhiều, dù có xin lỗi em bao nhiêu lần cũng là không đủ, nhưng tôi hi vọng, dù chỉ một lần thôi, ít nhất tôi đã khiến em cảm thấy thực sự hạnh phúc trong tình yêu này.

Bây giờ, em đã hiểu vì sao việc gặp được em, yêu em lại khiến tôi hạnh phúc đến như thế rồi đúng không. Tôi cũng thêm hiểu được hạnh phúc đôi khi là những điều nhỏ bé, em à. Là được gọi điện cho người mình yêu, nghe giọng nói dịu dàng và nhìn khuôn mặt trìu mến của người đó, là được nói những điều ngọt ngào khiến em vui rồi em chìm trong giấc ngủ hạnh phúc.

Tối nay là đêm trước ngày sinh nhật của tôi rồi. Tôi sinh ra vào lúc chín giờ sáng.            

Em yêu à, tối nay em hãy cố gắng vì tôi ngủ sớm và ngủ một giấc thật ngon nhé. Vì tôi mong được cùng em đón sinh nhật mình vào sáng mai. Cùng đón sinh nhật ở đây không có nghĩa là em phải gọi cho tôi vào buổi sáng, tôi chỉ cần biết rằng ngày mai em thức dậy trong sự tươi tỉnh hơn, tâm trạng phấn chấn hơn, tinh thần và sức khỏe cảm thấy dồi dào hơn – đó đã là món quà lớn nhất với tôi lúc này rồi, em biết không. Vì em là người phụ nữ của riêng tôi, vì em là người tôi yêu.

Concua

Click to comment

Viết bình luận

Your email address will not be published. Required fields are marked *

Trà chiều

Tết Đoan Ngọ ở Việt Nam có gì khác các nước đồng văn?

Published

on

Mỗi năm vào ngày mùng 5 tháng 5 âm lịch, Việt Nam và các nước đồng văn như Trung Quốc, Hàn Quốc và Nhật Bản lại cùng nhau chào đón một dịp lễ truyền thống mang đậm dấu ấn văn hóa phương Đông: Tết Đoan Ngọ. Dù tên gọi và nghi lễ có phần khác biệt, ngày lễ này đều gắn liền với ý nghĩa thanh lọc cơ thể, xua đuổi bệnh tật và bảo vệ sức khỏe trong thời khắc giao mùa quan trọng của năm. Từ bữa cơm "diệt sâu bọ" của người Việt, tục uống rượu hùng hoàng ở Trung Quốc, đến gội đầu và xông hơi bằng thảo dược ở Hàn Quốc; Tết Đoan Ngọ không chỉ phản ánh đời sống tâm linh mà còn cho thấy sự giao thoa và phát triển đa dạng của các nền văn hóa Á Đông.

Nguồn gốc và tục lệ Tết Đoan Ngọ ở Việt Nam

Ở nước ta, Tết Đoan Ngọ được dân gian gọi bằng một cái tên dân dã: Tết diệt sâu bọ vì người ta tin rằng khi ăn món đầu tiên trong ngày này thì sâu bọ, giun sán trong người sẽ bị chết hết. Theo nhà nghiên cứu văn hóa Trần Ngọc Thêm, ngày Tết này của Việt Nam có nguồn gốc chung với các dân tộc Bách Việt sinh sống ở khu vực Nam Trung Hoa và Bắc Đông Dương. Đây là vùng canh tác lúa nước lâu đời, nơi khí hậu mùa hè nóng bức ảnh hưởng xấu đến sức khỏe con người. Tuy nhiên, nhờ vào kinh nghiệm quan sát thời tiết để canh tác, người dân nơi đây đã hình thành nên Tết Đoan Ngọ như một nghi lễ nhằm thích ứng và tận dụng quy luật tự nhiên trong chu kỳ khí hậu hàng năm. 

Đặc biệt hơn, đây còn là ngày mang tính biểu tượng của ngày giỗ Quốc Mẫu Âu Cơ - ngày vô cùng quan trọng trong đời sống văn hóa tâm linh của mỗi người dân Việt. Ca dao ông cha ta có câu: Tháng Năm ngày tết Đoan Dương/ Là ngày giỗ Mẹ Việt Thường Văn Lang.  

Theo truyền thống của dân tộc Việt, người dân ăn tết Đoan Ngọ bằng sự cúng lễ. Tại các làng xã có lễ thần tại đình, đền; ở thôn, xóm có cúng tại miếu còn trong mỗi gia đình, mâm cỗ được dâng lên tổ tiên. Vì đây là thời điểm tiết trời nắng gắt nhất trong năm (Cực Âm – tiết Hạ chí), nên các món ăn thường là đồ nguội, mát mang tính hàn. Những món không thể thiếu trong mâm cỗ cúng Tết Đoan Ngọ ở khắp 3 miền là rượu nếp (cơm rượu) và trái cây. Trái cây được chọn có hình tròn như vải, mận (miền Nam gọi là mận bắc), hạt sen (làm chè). 

Ngoài ra, ẩm thực Tết Đoan Ngọ cũng có nhiều điểm khác nhau ở 3 miền. Miền Bắc thường có bánh gio trên bàn cúng, từ Thanh Hóa vào đến Huế thường nấu xôi ăn với thịt vịt. Người dân từ Đà Nẵng đến Quảng Ngãi thường cho trẻ nhỏ vào vườn hái quả ăn, một số ít gia đình nấu xôi chè cúng lễ. Trong khi đó, người nông dân miền Nam thường đúc bánh lọt, nấu chè trôi nước và xôi gấc cúng tổ tiên rồi cả nhà quây quần cùng nhau ăn. Với tư duy tiếp biến làm mới cách chế biến, trang trí, phong vị các món chay truyền thống cùng mong muốn giao thoa ẩm thực 3 miền, bạn có thể tham khảo công thức món chè trôi nước tam sắc trong cuốn Thanh tịnh mâm cỗ Việt của hai tác giả Hồ Đắc Thiếu Anh Nguyễn Hồ Tiếu Anh.

Nguồn gốc và tục lệ Tết Đoan Ngọ ở Trung Quốc 

Khác với Việt Nam, ý nghĩa ngày tết Đoan Ngọ của người Trung Hoa gắn với tích về ông Khuất Nguyên nước Sở cuối thời chiến quốc. Là một nhà thơ và chính trị gia nước Sở, ông nổi tiếng vì lòng yêu nước và tài văn chương. Sau khi bị vu cáo và thất sủng, ông sống trong đau khổ và sáng tác thiên "Ly Tao" thể hiện nỗi lòng. Những ngày cuối đời, ông bị đày đến Giang Nam, rồi trong tuyệt vọng, đã tự vẫn bằng cách ôm đá nhảy xuống sông Mịch La. Theo truyền thuyết ấy, hàng năm người ta tổ chức ngày mồng 5 tháng 5 là ngày Tết Đoan Ngọ để tưởng nhớ ông. 

Cũng theo tích trên, sau khi Khuất Nguyên trầm mình xuống sông Mịch La, người dân Trung Quốc xưa đã tổ chức chèo thuyền ra cứu ông nhưng không thành. Từ đó, truyền thống đua thuyền rồng vào ngày Tết Đoan Ngọ ra đời để tưởng niệm ông. Ngoài ra, người Trung Quốc còn giữ nhiều phong tục đặc trưng trong dịp lễ này như đeo túi thơm để xua đuổi tà ma, hái thuốc, hái trà và tổ chức lễ hội rước rồng ở một số vùng dân tộc thiểu số như người Mèo.

Hoạt động đua thuyền rồng trong ngày Tết Đoan Ngọ

Về ẩm thực, người Trung Quốc ăn bánh ú (zongzi) với nhiều loại nhân tùy vùng như thịt, đậu xanh, long nhãn, trứng muối hay bột dẻ…và uống rượu hùng hoàng - một loại rượu có pha khoáng chất màu vàng, được tin là có thể xua đuổi sâu bọ và tà khí.

Nguồn gốc và tục lệ ở Hàn Quốc 

Còn tại xứ sở kim chi, ngày Tết Đoan Ngọ được biết đến với tên gọi Dano (단오) hay Surinal (수릿날). Ở đây, “Suri” có nghĩa là “Thần”, là “cao”, tức là vị thần tối cao, ám chỉ mặt trời. Tết Đoan Ngọ báo cho mọi người biết ánh nắng chói chang của mùa hè sắp lan tỏa khắp nơi, cây cối hoa màu cũng sắp tới thời điểm sinh trưởng tốt tươi nhất trong năm. Người ta tổ chức các hoạt động ăn chơi nhằm tượng trưng cho sức mạnh và sự cường tráng, cầu nguyện cho mùa màng bội thu không bị sâu bệnh phá hoại.

Phong tục tập quán truyền thống tiêu biểu nhất của Hàn Quốc trong ngày Tết Đoan Ngọ là đấu vật truyền thống Ssireum. Trước kia, người giành chiến thắng trên sân đấu vật thường được thưởng một con bê. Vào ngày Tết Đoan Ngọ xa xưa, phụ nữ thường kéo nhau ra suối gội đầu bằng nước lá cỏ Thạch Dương Bồ, rồi chơi đánh đu. Đến cả các cô gái đài các giới thượng lưu ngày thường chỉ quanh quẩn trong dinh thự, nhưng tới Tết Đoan Ngọ cũng được cha mẹ cho phép ra ngoài ngắm cảnh.

Bánh Suritteok và Yaktteok là hai loại bánh truyền thống làm từ gạo, các loại hạt và lá cây được người Hàn thưởng thức trong ngày 5/5 này. Nếu như bánh Suritteok chỉ đơn giản là chiếc bánh ngải cứu hình bánh xe thì những chiếc bánh Yaktteok đa dạng hơn khá nhiều. Cũng được làm từ gạo không dính nấu chín nhưng không phải với lá ngải cứu mà với các loại hạt khác nhau và tạo thành những hình dáng phong phú.

Như vậy, không chỉ là dịp đánh dấu bước chuyển quan trọng trong chu kỳ mùa vụ và thời tiết, Tết Đoan ngọ còn là tấm gương phản chiếu bản sắc văn hóa riêng của các quốc gia Á Đông. Dù cùng chung cội nguồn từ nền văn minh nông nghiệp lúa nước và chịu ảnh hưởng của triết lý phương Đông, mỗi dân tộc lại sáng tạo nên những phong tục, nghi lễ mang màu sắc riêng. Việc tiếp nối và gìn giữ các giá trị này không chỉ giúp mỗi dân tộc lưu giữ ký ức văn hóa truyền thống, mà còn góp phần tạo nên sự đa dạng và sâu sắc trong di sản tinh thần chung của khu vực.

Hà Nhi

Đọc bài viết

Trà chiều

Phía sau Ngày của Mẹ: Câu chuyện lịch sử bị lãng quên

Published

on

Ít ai biết rằng, Ngày của Mẹ khởi nguồn như một phong trào của những người phụ nữ mong muốn mang lại cuộc sống tốt đẹp hơn cho người dân Mỹ. Nguồn gốc bị lãng quên ấy xuất phát từ hai nhà hoạt động suốt đời cống hiến những nỗ lực cải thiện y tế, phúc lợi và hòa bình. Hiểu về lịch sử Ngày của Mẹ - để thêm trân trọng và tìm thấy cảm hứng từ đó.

Ai là người sáng lập ra Ngày của Mẹ?

Việc tạo ra một ngày lễ quốc gia dành riêng cho mẹ phần lớn là công lao của ba người phụ nữ: Julia Ward Howe, Ann Reeves Jarvis, và con gái của Ann - Anna M. Jarvis.

Ann Reeves Jarvis

Được nhiều người gọi trìu mến là “Mẹ Jarvis”, Ann Reeves Jarvis là một người nội trợ trẻ sống ở vùng núi Appalachian, từng giảng dạy trong lớp học Kinh Thánh mỗi Chủ nhật. Nhưng bên cạnh đó, bà còn là một nhà hoạt động xã hội suốt đời. Vào giữa thế kỷ 19, bà đã tổ chức các “Câu lạc bộ hành động của những người Mẹ” (“Mothers’ Day Work Clubs”) tại West Virginia nhằm chống lại điều kiện sống mất vệ sinh nghiêm trọng lúc bấy giờ. Mẹ Jarvis lo lắng trước tỷ lệ trẻ sơ sinh tử vong quá cao - thậm chí trở nên tràn lan tại khu vực này, đồng thời mong muốn hỗ trợ và giáo dục các bà mẹ đang gặp khó khăn nhất.

Trong thời kì nội chiến Hoa Kỳ, bà tiếp tục tổ chức các đoàn phụ nữ, khuyến khích họ cùng giúp đỡ, bất kể chồng con họ đang đứng về phe nào. Sau chiến tranh, bà đề xuất tổ chức một “Ngày tình thân của những người Mẹ” (Mothers’ Friendship Day) - với hy vọng hàn gắn những rạn nứt giữa các gia đình từng đứng ở hai chiến tuyến: Liên minh miền Nam và Liên bang miền Bắc.

Julia Ward Howe

Julia Ward Howe là một nhà thơ và nhà cải cách nổi tiếng. Trong thời kỳ Nội chiến, bà tình nguyện làm việc cho Ủy ban Vệ sinh Hoa Kỳ, góp phần mang lại môi trường sạch sẽ cho các bệnh viện và đảm bảo điều kiện vệ sinh trong việc chăm sóc thương binh, bệnh binh. Năm 1861, bà sáng tác bài thánh ca nổi tiếng của thời Nội chiến – “The Battle Hymn of the Republic”, lần đầu được phát rộng rãi vào tháng 2 năm 1862. 

Khoảng năm 1870, Julia đã kêu gọi tổ chức riêng một “Ngày của Mẹ vì hòa bình” (“Mother’s Day for Peace”) để tôn vinh hòa bình và chấm dứt chiến tranh. Trong bản “Tuyên ngôn Ngày của Mẹ” (“Mother’s Day Proclamation”) do bà viết, Julia cảm thấy rằng chính những người mẹ - những người phải gánh chịu và thấu hiểu cái giá phải trả của chiến tranh - cần phải cùng nhau lên tiếng chống lại sự tàn khốc và sự phí hoài cuộc sống vì súng gươm. 

“Ngày của Mẹ” theo góc nhìn của Julia từng được tổ chức tại Boston và một vài nơi khác trong khoảng 30 năm nhưng nhanh chóng biến mất vào những năm trước Thế chiến thứ nhất.

Không có gì mới mẻ diễn ra trong phong trào này cho đến năm 1907, khi cô Anna M. Jarvis ở Philadelphia tiếp tục giương cao ngọn cờ ấy. 

Anna M. Jarvis

Sau khi mẹ qua đời vào năm 1905, cô Anna M. Jarvis ở Philadelphia đã ấp ủ ước nguyện tưởng nhớ cuộc đời đầy cống hiến của mẹ mình. Cô bắt đầu vận động một ngày lễ toàn quốc nhằm tôn vinh tất cả những người mẹ. “Tôi hy vọng và cầu nguyện rằng rồi sẽ có ai đó, vào một lúc nào đó, lập nên một ngày tôn vinh mẹ - để ghi nhận những cống hiến vĩ đại mẹ dành cho nhân loại trong mọi khía cạnh của cuộc sống,” Anna từng khẳng định - “Mẹ xứng đáng với điều đó.” 

Ý tưởng của Anna không xoay quanh những công việc xã hội như mẹ cô từng theo đuổi, mà thiên về việc tôn vinh vai trò thiêng liêng của người mẹ và những hy sinh thầm lặng trong mái ấm gia đình. Cô không ngừng gửi điện tín, thư từ, và gặp gỡ trực tiếp các nhân vật có tầm ảnh hưởng cũng như các tổ chức xã hội để thuyết phục họ ủng hộ. Dù tổ chức lớn hay nhỏ, cô đều kiên trì gửi thư trình bày ý tưởng của mình. Bằng chính tiền túi, Anna viết, in và phát hành hàng loạt tập sách ca ngợi Ngày của Mẹ.

Vì sao Ngày của Mẹ ở Mỹ lại rơi vào tháng 5?

Tháng 5 năm 1907, Anna tổ chức buổi lễ tưởng niệm để tưởng nhớ hành trình hoạt động không ngơi nghỉ của mẹ tại nhà thờ Giám Lý ở Grafton, West Virginia – nơi bà từng giảng dạy. Một năm sau, vào ngày 10 tháng 5, một buổi lễ chính thức nhân Ngày của Mẹ được tổ chức tại chính nhà thờ đó, lần này để vinh danh tất cả những người mẹ. Từ đây, ý tưởng dành riêng Chủ nhật thứ hai của tháng 5 để tôn vinh mọi người mẹ - dù còn sống hay đã khuất - bắt đầu hình thành.

Nỗ lực của Anna dần gây được sự chú ý. Thị trưởng Philadelphia là người đầu tiên tuyên bố tổ chức Ngày của Mẹ tại địa phương. Từ đó, Anna tiếp tục hành trình vận động ở thủ đô Washington, D.C. Các chính trị gia ở đây nhanh chóng nhận thấy đây là một đề xuất đáng giá và bày tỏ sự ủng hộ công khai.

West Virginia là bang đầu tiên chính thức công nhận ngày này. Sau đó, nhiều bang khác cũng làm theo. Việc các bang liên tiếp đưa ra tuyên bố công nhận Ngày của Mẹ đã dẫn đến việc Hạ nghị sĩ J. Thomas Heflin (bang Alabama) và Thượng nghị sĩ Morris Sheppard (bang Texas) cùng đệ trình một nghị quyết lên Quốc hội nhằm công nhận Ngày của Mẹ là ngày lễ trên toàn quốc. Cả hai viện của Quốc hội đều thông qua nghị quyết.

Đến năm 1914, Tổng thống Woodrow Wilson đã ký ban hành đạo luật chính thức công nhận Chủ nhật thứ hai của tháng 5 là ngày lễ quốc gia với tên gọi “Ngày của Mẹ” - dành riêng cho “người mẹ tuyệt vời nhất trên đời: mẹ của bạn.”

Trong những năm đầu tiên, Ngày của Mẹ được tổ chức một cách mộc mạc và đầy thành kính - thường là qua các buổi lễ nhà thờ để tưởng nhớ và vinh danh các bà mẹ, dù còn sống hay đã qua đời.

Ngọt ngào xen lẫn đắng cay khi kế thừa Ngày của Mẹ

Theo nhiều tài liệu, điều duy nhất mà Anna mong muốn là tưởng nhớ mẹ mình - người mà cô tin là người khởi xướng thực sự của Ngày của Mẹ. Nhưng khi ngày lễ trở nên phổ biến, Anna dần cảm thấy thất vọng khi nó bị thương mại hóa: người ta gửi thiệp, tặng hoa một cách máy móc. Thậm chí cô không đồng tình khi các tổ chức phụ nữ hay hội từ thiện dùng Ngày của Mẹ để gây quỹ - điều khá mâu thuẫn nếu nhìn vào lý tưởng y tế cộng đồng mà mẹ cô từng theo đuổi.

Năm 1948, Anna Jarvis qua đời tại một viện dưỡng lão trong tình trạng sa sút trí tuệ.

Ngày của Mẹ hiện nay

Ngày của Mẹ vẫn bền bỉ tồn tại và không ngừng phát triển. Cũng giống như khởi nguồn ngày lễ bắt đầu từ sự sáng tạo của nhiều người phụ nữ, Ngày của Mẹ trong thời đại hiện nay tôn vinh sự đa dạng trong vai trò của người mẹ hiện đại. Chúng ta nhớ ơn những người mẹ đã đấu tranh để cải thiện cuộc sống của con cái bằng nhiều cách - từ phúc lợi xã hội đến lý tưởng phi bạo lực. Và hơn hết, chúng ta thấu hiểu, trân trọng tinh thần dũng cảm cùng đức hy sinh quý giá vô ngần dành cho con trẻ từ lúc chúng mới lọt lòng.

Hà Nhi dịch từ Almanac

Đọc bài viết

Trà chiều

Văn hóa đọc tại Việt Nam: Hành trình tỉnh thức trong thời đại mất tập trung

Khi cả thế giới đang quay cuồng trong cơn lốc của tốc độ, của công nghệ số và mạng xã hội, văn hóa đọc – vốn là một hoạt động tĩnh tại, cô độc và đòi hỏi sự kiên nhẫn – bỗng trở thành hiện tượng lạ giữa đời sống hiện đại.

Published

on

Một cú chạm màn hình có thể đưa bạn tới bất kỳ đâu: từ buổi hòa nhạc ở Vienna đến một bữa ăn đường phố ở Bangkok, từ những khoảnh khắc riêng tư của người xa lạ đến bản tin thời sự lúc rạng đông. Nhưng càng dễ dàng kết nối, chúng ta lại càng khó khăn trong việc lắng nghe chính mình. 

Và trong cuộc hành trình ấy, đọc sách - hành động tưởng như đã cũ kỹ, đang âm thầm trở lại như một nơi trú ẩn cuối cùng của tâm hồn hiện đại.

Văn hóa đọc không chỉ là việc “đọc sách”

Văn hóa đọc không nên được định nghĩa đơn giản chỉ là hành vi tiếp nhận văn bản in ấn, cần phải nhìn nó như là một cấu trúc hệ giá trị, nơi người đọc không chỉ tiêu thụ thông tin, mà còn tương tác với tri thức, phản tư, và từ đó tạo ra tầng sâu văn hóa cá nhân. Nên hiểu đọc là một hành vi văn hóa, không chỉ là kỹ năng.

Thế nhưng, tại Việt Nam, hành vi đọc nhiều khi bị giản lược thành “hoạt động học thuộc”. Cái gốc của việc đọc để hiểu mình và hiểu thế giới vẫn còn mờ nhạt trong đời sống học đường lẫn đời sống đô thị.

Chúng ta từng được dạy rằng đọc là để biết nhiều hơn. Nhưng biết không đồng nghĩa với hiểu. “Biết” là quá trình tiếp nhận và lưu trữ dữ liệu dưới dạng thông tin. “Hiểu” vượt lên trên điều đó - nó đòi hỏi sự tham gia của trải nghiệm cá nhân, khả năng phân tích, đồng cảm và cả những va chạm nội tâm. Một tác phẩm có giá trị không chỉ cung cấp tri thức ngoại tại, mà còn tạo điều kiện cho chủ thể tiếp nhận được soi chiếu, phản tỉnh từ đó nhận diện những lớp ẩn sâu của bản thể qua hình ảnh của người khác trong trang sách. 

Khi một đứa trẻ đọc Những tấm lòng cao cả, em sẽ không chỉ học đạo đức, mà bắt đầu cảm nhận được trái tim nhân loại. Khi một thiếu niên lần đầu đọc Người xa lạ của Camus, cậu ấy có thể không lý giải nổi thế giới, nhưng sẽ bắt đầu đặt câu hỏi về nó và về chính mình.

Vấn đề không nằm ở việc thiếu sách, mà thiếu “thái độ văn hóa” với sách

Mặc dù Việt Nam có hơn 30.000 đầu sách xuất bản mỗi năm (theo Cục Xuất bản), thế nhưng lượng sách bán ra tập trung chủ yếu ở thể loại giải trí, ngôn tình, self-help, còn các dòng sách triết học, văn hóa, nhân văn… chiếm tỷ lệ nhỏ hơn. Ta không thiếu sách, ta thiếu một nền tảng thẩm mỹ và nhân văn để lựa chọn sách một cách có chủ đích.

Nguyên nhân không chỉ nằm ở thời đại số làm thay đổi thói quen tiếp nhận thông tin, mà còn nằm ở cách giáo dục về đọc sách. Tại nhiều trường học, việc đọc vẫn gắn liền với hình thức kiểm tra, chấm điểm, làm bài văn nghị luận sách giáo khoa - điều khiến đọc sách trở thành một “nghĩa vụ” hơn là một hành trình khám phá. Gia đình, các bậc phụ huynh còn chưa thực sự nghiên cứu và đặt mối quan tâm lớn lao cho việc giáo dục con trẻ dẫn đến việc các em phụ thuộc quá nhiều vào các thiết bị công nghệ. 

Nhưng tín hiệu đáng mừng là trong những năm gần đây, chúng ta chứng kiến sự nở rộ của các phong trào đọc sách tự phát, không phải từ chỉ đạo hành chính, mà từ những con người đang đi tìm lại bản thân giữa cơn hỗn loạn của thông tin.

Đáng chú ý, sự phát triển của nền tảng số cũng không còn là lực cản, mà đang dần trở thành đòn bẩy cho việc tiếp cận sách: audio book, book podcast, nền tảng chia sẻ tóm tắt sách hay các cộng đồng đọc sách online đang lan tỏa mạnh mẽ. Sách không còn là một vật thể bất động mà trở thành dòng chảy đồng hành với sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ, âm thanh và cảm xúc.

Tất cả đang làm sống lại một giá trị xưa cũ: sự tĩnh lặng nội tâm. Đọc sách giờ đây không chỉ là tiếp nhận thông tin, mà là một hành động phản kháng với sự phân tán, ồn ào, và tiêu dùng giải trí mang tính chất "mì ăn liền".

Văn hóa đọc trong thời đại “siêu dữ liệu”

Thách thức lớn nhất với văn hóa đọc trong thời đại kỹ thuật số không phải là sự biến mất của sách giấy, mà là sự thoái hóa khả năng tập trung, năng lực phản tư và thái độ nghiêm túc của con người với tri thức. Chúng ta sống trong thời đại mà nội dung có thể bị tiêu thụ như thức ăn nhanh, nơi mọi người “đọc để phản ứng”, thay vì “đọc để cảm nghiệm”. Bởi vậy, chọn đọc - nhất là đọc sâu, đọc chậm giờ đây không chỉ là một lựa chọn mang tính trí tuệ, mà còn là một cách gìn giữ bản thân trước sự xao nhãng của thế giới hiện đại.

Đọc là kháng cự lại tốc độ. Là từ chối cái dễ. Là chọn cái sâu - dù biết nó chậm.

Văn hóa đọc giờ đây không chỉ là sách, mà còn là cách ta sống. Không chỉ là hành động cá nhân. Nó phản ánh cả một văn hóa. Một đất nước biết trân trọng sách là một đất nước không dễ bị lãng quên ký ức. Một thế hệ đọc sách là một thế hệ có nội lực.

Ở Việt Nam, từng có một thế kỷ mà sách được đọc bằng ánh đèn dầu, được chép tay, được truyền tay như những báu vật. Sách đi qua chiến tranh, qua đói nghèo, qua đạn bom, nhưng vẫn sống. Vấn đề của hôm nay không phải là thiếu sách, mà là quá nhiều thứ giành giật tâm trí ta khỏi sách.

Vấn đề sâu xa hơn: ta không còn coi đọc là một phần của việc sống đẹp. Thế giới đang dần lãng quên sự im lặng, sự chậm rãi, sự suy tư. Trong truyền thống tư tưởng phương Đông, đọc không phải là phương tiện để đạt được cái bên ngoài, mà là trở về với cái bên trong. Từ thời Lão - Trang, việc học, việc đọc vốn gắn liền với sự tĩnh tại của tâm. Đọc là tu thân. Đọc là dưỡng khí. Đọc là hành động đi ngược lại với sự xao động của đời sống, để khơi mở “minh tâm kiến tánh”, thấy lại chân diện mục của chính mình. 

Ngày xưa, các nho sĩ khi đọc sách thường đặt một bát nước trong veo bên cạnh, để “nếu tâm xao động thì nước đục” như một cách tự phản tỉnh. Người đọc không chỉ là kẻ truy cầu tri thức, mà còn là người gìn giữ đạo lý, tiết tháo và sự lặng thầm bền bỉ của văn hóa.

Trong thời đại siêu kết nối hiện nay, nghịch lý lớn nhất là con người càng lúc càng rỗng hơn giữa vô số dữ liệu. Chúng ta “biết” rất nhiều thứ nhưng lại hiểu rất ít điều, và càng ít sống sâu. Văn hóa đọc nếu được xem là một hệ sinh thái văn hóa bền vững - chính là cơ chế tự phòng vệ của trí tuệ trước sự tha hóa của thị hiếu và tốc độ.

Bởi vì đọc không chỉ là để “biết”, mà để nghi ngờ cái mình biết. Không chỉ để “giỏi lên”, mà để hiểu mình và hiểu người hơn. Và không chỉ để có tri thức, mà để trở nên người hơn trong thế giới ngày càng thiếu vắng chất người. 

Đọc - tự bản thân nó là một hành động kháng cự lại sự lãng quên, sự cạn mỏng và cả sự dễ dãi. Nó khơi mở lại điều tưởng như đã mất: một chiều sâu văn hóa không thể số hóa, không thể sao chép, thứ văn hóa được chưng cất từ mỗi lần lật trang, từ mỗi khoảnh khắc im lặng tự đối diện chính mình. Để được sống với một trái tim có lớp lang. 

Và nếu phải chọn một hành động lặng lẽ nào đó để định nghĩa tinh thần của một dân tộc đang muốn trở mình từ bên trong, thì đó hẳn phải là: đọc sách.

Ngọc Trâm

Đọc bài viết

Cafe sáng