Trà chiều

Dịch bệnh là một phần tất yếu của lịch sử

Thế kỷ XXI vẫn còn đó nỗi lo về HIV, dịch tả hay những dịch cúm theo chu kỳ. Vũ Hán hôm nay là món quà tất yếu của sự phát triển mà chúng ta không thể tránh được.

Published

on

Dịch bệnh, nạn đói và chiến tranh đã từng là những kẻ thù đáng sợ nhất đe dọa tới cuộc sống con người. Ngày nay, khi mà toàn cầu hóa không chừa bất cứ một lỗ hổng nào cho sự khác biệt thì ngay đến nỗi sợ cũng trở nên đa phương hóa. Thế kỷ XXI chứng kiến sự lên ngôi của cô đơn và tự do, của tôichúng ta, của những nỗi sợ hiện hữu trong thế giới tinh thần. Dịch bệnh cùng nỗi đau xác thịt dần trở thành dĩ vãng, mang theo những hoài niệm cất giữ nơi viện bảo tàng, chỉ nhìn và không được sờ vào hiện vật. Cho tới khi ai đó vô tình làm dây giọt mực, rót vào bức tranh rồng đôi mắt của sự sống. Vũ Hán là bảo tàng như thế và coronavirus là con rồng như thế. Đó là bước chuyển quan trọng, song không phải độc nhất.

Vũ Hán chỉ là pha bẻ lái cuối cùng trong một truyện trinh thám đa tầng của tạo hóa. Ngay từ đầu sự thật đã luôn hiện hữu. Ngay từ đầu dịch bệnh đã luôn ở bên ta.

1. Có thể nói dịch bệnh là bạn đồng hành của nền văn minh.

Trong suốt mấy triệu năm lịch sử, hầu như loài người không phải đối mặt với dịch bệnh. Mọi thứ bắt đầu thay đổi kể từ khoảng sáu vạn năm trước, khi nhân loại mở rộng phạm vi phân bố của mình. Từ những thị tộc nhỏ vùng Đông Phi, con người tiến về phía các đồng bằng châu thổ trù phú ven các dòng sông lớn. Từ đây, hình thành các xã hội nông nghiệp dẫn đến bùng nổ dân số. Và cũng từ đây, những dịch bệnh đầu tiên đã xảy ra. Dịch bệnh được biết đến từ rất sớm, trong các sử thi của người Sumer ở Lưỡng Hà, trong kinh Vệ Đà ở Ấn Độ và đặc biệt là trên các văn tự giáp cốt ở Trung Quốc cổ đại khi dân cư mở rộng từ Hoàng Hà phía bắc xuống lưu vực sông Dương Tử phía nam. Không còn săn bắt, hái lượm, không còn đời sống du mục, cả nhân loại và bệnh tật đều đã tìm thấy miền đất hứa của mình. Dân cư đông đúc làm tăng khả năng lây nhiễm.

Ngày nay, nhìn lại từ Vũ Hán, không cần cách ly nếu chúng ta chẳng có thành phố nào, dịch bệnh không thể xảy ra nếu chỉ có vài người. Bên cạnh đó thì dòng chảy chậm, lưu thông kém của nước và không khí cùng khí hậu nhiệt đới nóng ẩm tạo điều kiện thuận lợi cho bệnh dịch phát triển. Ngược lại, sự chia cắt địa lý cũng như khí hậu Địa Trung Hải giúp cho các thành bang Hy Lạp ít chịu nạn dịch tự nhiên. Như vậy, từ thuở ban sơ, dịch bệnh đã theo bước chúng ta khắp các ngả rẽ của nền văn minh.

2. Xã hội nông nghiệp không chỉ làm tăng dân số, mà còn làm tăng số lượng vật nuôi.

Trước khi làm bạn với cây lúa, chó đã là bạn của con người. Mười ngàn năm trước là heo, rồi trâu, bò, gà, cừu… Đàn vật nuôi tăng lên nhanh chóng và đến lúc này, chúng bắt đầu chịu chung số phận như loài người. Trước dịch bệnh, người và vật bình đẳng đến không ngờ, thậm chí loài vật còn ưu thế hơn khi bệnh tật có thể lây sang cả thượng đế của chúng, tức con người. Sán dây đã có từ thời Ai Cập cổ đại, và mặc cho sự linh thiêng của các vị thần, các pharaoh vẫn nhiễm như thường nếu ăn phải thịt bệnh.

Ngày nay, không khó để bắt gặp người bị giun đũa từ chó hay thậm chí là kangaroo. Tuy nhiên, đó chỉ là những ca bệnh đơn lẻ trong khi dịch bệnh thực sự thường do những sinh vật nhỏ hơn gây ra, như vi khuẩn và đặc biệt là virus. Và không phải chó hay bò, gà mới là nhân vật chính ở đây. Cúm gà hay cúm gia cầm là một loại bệnh cúm do virus gây ra cho các loài gia cầm (hay chim), và có thể xâm nhiễm một số loài động vật có vú. Virus này được phát hiện lần đầu tiên là tại Ý vào đầu thập niên 1900 và giờ đây phát hiện ở hầu hết các nơi trên thế giới. Sự thay đổi kháng nguyên làm cho virus cúm trở nên khó đối phó hơn bao giờ hết ngay cả trong thế kỷ XXI. H5N1 và H1N1 trở thành các mối đe dọa toàn cầu khi khiến hàng trăm người tử vong trong thập niên đầu thế kỷ này. Và một khi gần 8 tỷ người vẫn sống nhờ vào ngành chăn nuôi và với hơn 25 tỷ con gà thì đại dịch là điều khó có thể tránh khỏi.

3. Hoạt động nông nghiệp không phải yếu tố duy nhất gây ra dịch bệnh.

Dù cho nguy hiểm, cúm gia cầm chỉ giết chết vài ngàn người, không nhiều hơn sét đánh hay rắn cắn. Trên thực tế, thương mại mới chính là nguồn cơn của các thảm họa. Quay trở lại Hy Lạp cổ đại, khí hậu và cách ly địa lý không giúp họ miễn nhiễm với dịch bệnh. Mối giao thương giữa các thành bang đưa đến nhiều mầm bệnh, và khi điều kiện thuận lợi xảy đến, dịch bệnh sẽ nở rộ mà chiến tranh Peloponnese là một sự kiện tiêu biểu. Theo nghĩa rộng, chiến tranh cũng là một quá trình thương mại nơi máu và sắt đổi lại vàng bạc châu báu kèm theo dịch bệnh như là thuế VAT. Khi những đội quân đồng minh mang theo mầm bệnh trên các chiến thuyền hội về Athens kết hợp với tình trạng thiếu thốn lương thực đã vô tình tạo cho Athens thêm một kẻ thù hùng mạnh: liên minh giữa nạn đói, chiến tranh và dịch bệnh. Không khó nhận ra chuyện này đã vượt khỏi thẩm quyền của Athena, để rồi cuối cùng nữ thần chiến thắng buộc phải đứng nhìn quân Sparta đánh bại đô thành của mình. Đây chỉ là một phần rất nhỏ trong bức tranh giao thương – dịch bệnh. Giao thương càng mở rộng thì dịch bệnh càng có cơ hội phô diễn bản tính khó lường. Gần hai ngàn năm sau chiến tranh Peloponnese, vào giữa thế kỷ XIV, châu Âu đã phải đón nhận một món hàng vô tiền khoáng hậu.

Khởi đầu từ việc lên đường tìm viện binh chống lại Hung Nô, những tuyến đường nhỏ nối Trung Quốc với phía Tây nhanh chóng được các thương nhân tận dụng tối đa và về sau trở thành tuyến giao thương huyết mạch của thế giới, với tên gọi con đường tơ lụa. Vào giữa thế kỷ 14, những con chuột bí ẩn theo dấu chân các nhà lữ hành vượt Địa Trung Hải, mang theo Cái chết Đen đến với châu Âu. Ngày nay chúng ta biết rằng đây là bệnh dịch hạch do vi khuẩn Yersinia pestis ký sinh trên bọ chét của các loài gặm nhấm gây ra.  Nhưng ở thế kỷ XIV, sự thiếu hiểu biết khoa học càng làm dịch bệnh trầm trọng. Và cũng phải thừa nhận rằng các điều kiện có sẵn như chiến tranh, nạn đói và thời tiết đã khiến đại dịch dịch hạch trở nên khủng khiếp hơn. Chỉ trong vòng vài năm, đại dịch lan ra khắp châu Âu và châu Á, giết chết hàng trăm triệu người và là một trong những lần hiếm hoi dân số thế giới sụt giảm. Thương mại không chỉ mang đến sự giàu có thịnh vượng cho con người, nó còn là kênh lây truyền dịch bệnh mạnh mẽ nhất. Ngày nay, không cần mất đến vài tháng trời băng qua sa mạc hay biển lớn như những con chuột đồng nghiệp xưa kia, chỉ cần một chuyến bay là quá đủ để virus xuất hiện tận bên kia bán cầu.

4. Dẫu sao Cái chết Đen cũng chỉ gói gọn trong các cựu lục địa, các loài động vật không đủ sức để mang bệnh dịch vượt đại dương.

Các loài động vật không đủ nguy hiểm bằng con người. Thế kỷ XVI chứng kiến sự bùng nổ của các phát kiến địa lý, và sau hàng ngàn năm cách biệt, các dân tộc bản địa đứng trước nguy cơ bị tuyệt diệt. Người da trắng bấy giờ như những con chuột vài thế kỷ trước và virus vài thế kỷ sau, đem theo mầm bệnh lan truyền khắp thế giới. Họ trở thành vật chủ trung gian lây truyền bệnh dịch từ châu Phi sang châu Mỹ, từ châu Âu sang châu Úc, đưa bệnh tật, cùng với nô dịch và bất công trở nên toàn cầu hóa. Nhờ đó, mà ngoài cần sa và ớt, tơ tằm và kim khí, giờ đây thế giới được hưởng chung ánh sáng chói lòa của giang mai và thổ tả.

5. Nhưng không phải chỉ lịch sử mới tác động đến dịch bệnh mà ở chiều ngược lại, dịch bệnh cũng làm xoay chuyển bánh xe lịch sử.

Sự tàn phá khủng khiếp của Cái chết Đen làm lung lay cả thánh thần, là tiền đề cho những cải cách tôn giáo của phái Tin lành sau này. Dịch bệnh cũng làm thay đổi trong thiết kế nhà cửa, và những phần mái được thay thế bằng ngói tranh cho chuột trú ẩn vẫn tồn tại đến bây giờ. Dịch bệnh hủy hoại nặng nề kinh tế nông nghiệp và nâng cao vị thế công nhân trước khi Karl Marx tuyên bố điều đó hàng trăm năm. Đối với người Hán, dịch bệnh là cơ hội để đánh đuổi những kẻ xâm lăng Mông Cổ ra khỏi đất nước còn với người Do Thái, họ phải sống trong cơn ác mộng bài xích tệ hại nhất. Đầu thế kỷ 20, cúm Tây Ban Nha thậm chí còn làm kết thúc sớm Thế chiến thứ nhất mặc cho số người chết vì nó tương đương với Thế chiến thứ hai và Nạn đói lớn ở Trung Quốc.

Tuy nhiên, trong phần lớn trường hợp, dịch bệnh hóa ra lại là động lực mạnh nhất giúp cho y tế phát triển. Nhờ có đậu mùa, chủng ngừa và vắc-xin ra đời và nhờ có chủng ngừa và vắc-xin, bệnh đậu mùa đã biến mất vĩnh viễn. Thế kỷ XX đánh dấu bước ngoặc của y học khi lần đầu tổng hợp thành công kháng sinh. Từ đây, mở ra cuộc chạy đua trường kỳ của vi khuẩn và kháng sinh mà chúng ta có phần lép vế. Ngày nay, cùng với chiến tranh hạt nhân, tình trạng kháng kháng sinh là một trong những điều quyết định vận mệnh chúng ta.

6. Dịch bệnh vẫn sẽ luôn tồn tại cho đến khi nào con người còn tồn tại.

Thế kỷ XXI vẫn còn đó nỗi lo về HIV, dịch tả hay những dịch cúm theo chu kỳ. Vũ Hán hôm nay là món quà tất yếu của sự phát triển mà chúng ta không thể tránh được. Chúng ta học cách chấp nhận, chúng ta học cách chống lại. Tất cả những điều chúng ta làm đều trở thành lịch sử. Dịch bệnh là một phần tất yếu của lịch sử.

Hết.

3V

Ảnh đầu bài: Minh họa The Divine Comedy (Dante) của Gustave Dore.


Đọc tất cả những bài viết của 3V.


Bài viết có thể bạn sẽ thích



Trà chiều

Phía sau Ngày của Mẹ: Câu chuyện lịch sử bị lãng quên

Published

on

Ít ai biết rằng, Ngày của Mẹ khởi nguồn như một phong trào của những người phụ nữ mong muốn mang lại cuộc sống tốt đẹp hơn cho người dân Mỹ. Nguồn gốc bị lãng quên ấy xuất phát từ hai nhà hoạt động suốt đời cống hiến những nỗ lực cải thiện y tế, phúc lợi và hòa bình. Hiểu về lịch sử Ngày của Mẹ - để thêm trân trọng và tìm thấy cảm hứng từ đó.

Ai là người sáng lập ra Ngày của Mẹ?

Việc tạo ra một ngày lễ quốc gia dành riêng cho mẹ phần lớn là công lao của ba người phụ nữ: Julia Ward Howe, Ann Reeves Jarvis, và con gái của Ann - Anna M. Jarvis.

Ann Reeves Jarvis

Được nhiều người gọi trìu mến là “Mẹ Jarvis”, Ann Reeves Jarvis là một người nội trợ trẻ sống ở vùng núi Appalachian, từng giảng dạy trong lớp học Kinh Thánh mỗi Chủ nhật. Nhưng bên cạnh đó, bà còn là một nhà hoạt động xã hội suốt đời. Vào giữa thế kỷ 19, bà đã tổ chức các “Câu lạc bộ hành động của những người Mẹ” (“Mothers’ Day Work Clubs”) tại West Virginia nhằm chống lại điều kiện sống mất vệ sinh nghiêm trọng lúc bấy giờ. Mẹ Jarvis lo lắng trước tỷ lệ trẻ sơ sinh tử vong quá cao - thậm chí trở nên tràn lan tại khu vực này, đồng thời mong muốn hỗ trợ và giáo dục các bà mẹ đang gặp khó khăn nhất.

Trong thời kì nội chiến Hoa Kỳ, bà tiếp tục tổ chức các đoàn phụ nữ, khuyến khích họ cùng giúp đỡ, bất kể chồng con họ đang đứng về phe nào. Sau chiến tranh, bà đề xuất tổ chức một “Ngày tình thân của những người Mẹ” (Mothers’ Friendship Day) - với hy vọng hàn gắn những rạn nứt giữa các gia đình từng đứng ở hai chiến tuyến: Liên minh miền Nam và Liên bang miền Bắc.

Julia Ward Howe

Julia Ward Howe là một nhà thơ và nhà cải cách nổi tiếng. Trong thời kỳ Nội chiến, bà tình nguyện làm việc cho Ủy ban Vệ sinh Hoa Kỳ, góp phần mang lại môi trường sạch sẽ cho các bệnh viện và đảm bảo điều kiện vệ sinh trong việc chăm sóc thương binh, bệnh binh. Năm 1861, bà sáng tác bài thánh ca nổi tiếng của thời Nội chiến – “The Battle Hymn of the Republic”, lần đầu được phát rộng rãi vào tháng 2 năm 1862. 

Khoảng năm 1870, Julia đã kêu gọi tổ chức riêng một “Ngày của Mẹ vì hòa bình” (“Mother’s Day for Peace”) để tôn vinh hòa bình và chấm dứt chiến tranh. Trong bản “Tuyên ngôn Ngày của Mẹ” (“Mother’s Day Proclamation”) do bà viết, Julia cảm thấy rằng chính những người mẹ - những người phải gánh chịu và thấu hiểu cái giá phải trả của chiến tranh - cần phải cùng nhau lên tiếng chống lại sự tàn khốc và sự phí hoài cuộc sống vì súng gươm. 

“Ngày của Mẹ” theo góc nhìn của Julia từng được tổ chức tại Boston và một vài nơi khác trong khoảng 30 năm nhưng nhanh chóng biến mất vào những năm trước Thế chiến thứ nhất.

Không có gì mới mẻ diễn ra trong phong trào này cho đến năm 1907, khi cô Anna M. Jarvis ở Philadelphia tiếp tục giương cao ngọn cờ ấy. 

Anna M. Jarvis

Sau khi mẹ qua đời vào năm 1905, cô Anna M. Jarvis ở Philadelphia đã ấp ủ ước nguyện tưởng nhớ cuộc đời đầy cống hiến của mẹ mình. Cô bắt đầu vận động một ngày lễ toàn quốc nhằm tôn vinh tất cả những người mẹ. “Tôi hy vọng và cầu nguyện rằng rồi sẽ có ai đó, vào một lúc nào đó, lập nên một ngày tôn vinh mẹ - để ghi nhận những cống hiến vĩ đại mẹ dành cho nhân loại trong mọi khía cạnh của cuộc sống,” Anna từng khẳng định - “Mẹ xứng đáng với điều đó.” 

Ý tưởng của Anna không xoay quanh những công việc xã hội như mẹ cô từng theo đuổi, mà thiên về việc tôn vinh vai trò thiêng liêng của người mẹ và những hy sinh thầm lặng trong mái ấm gia đình. Cô không ngừng gửi điện tín, thư từ, và gặp gỡ trực tiếp các nhân vật có tầm ảnh hưởng cũng như các tổ chức xã hội để thuyết phục họ ủng hộ. Dù tổ chức lớn hay nhỏ, cô đều kiên trì gửi thư trình bày ý tưởng của mình. Bằng chính tiền túi, Anna viết, in và phát hành hàng loạt tập sách ca ngợi Ngày của Mẹ.

Vì sao Ngày của Mẹ ở Mỹ lại rơi vào tháng 5?

Tháng 5 năm 1907, Anna tổ chức buổi lễ tưởng niệm để tưởng nhớ hành trình hoạt động không ngơi nghỉ của mẹ tại nhà thờ Giám Lý ở Grafton, West Virginia – nơi bà từng giảng dạy. Một năm sau, vào ngày 10 tháng 5, một buổi lễ chính thức nhân Ngày của Mẹ được tổ chức tại chính nhà thờ đó, lần này để vinh danh tất cả những người mẹ. Từ đây, ý tưởng dành riêng Chủ nhật thứ hai của tháng 5 để tôn vinh mọi người mẹ - dù còn sống hay đã khuất - bắt đầu hình thành.

Nỗ lực của Anna dần gây được sự chú ý. Thị trưởng Philadelphia là người đầu tiên tuyên bố tổ chức Ngày của Mẹ tại địa phương. Từ đó, Anna tiếp tục hành trình vận động ở thủ đô Washington, D.C. Các chính trị gia ở đây nhanh chóng nhận thấy đây là một đề xuất đáng giá và bày tỏ sự ủng hộ công khai.

West Virginia là bang đầu tiên chính thức công nhận ngày này. Sau đó, nhiều bang khác cũng làm theo. Việc các bang liên tiếp đưa ra tuyên bố công nhận Ngày của Mẹ đã dẫn đến việc Hạ nghị sĩ J. Thomas Heflin (bang Alabama) và Thượng nghị sĩ Morris Sheppard (bang Texas) cùng đệ trình một nghị quyết lên Quốc hội nhằm công nhận Ngày của Mẹ là ngày lễ trên toàn quốc. Cả hai viện của Quốc hội đều thông qua nghị quyết.

Đến năm 1914, Tổng thống Woodrow Wilson đã ký ban hành đạo luật chính thức công nhận Chủ nhật thứ hai của tháng 5 là ngày lễ quốc gia với tên gọi “Ngày của Mẹ” - dành riêng cho “người mẹ tuyệt vời nhất trên đời: mẹ của bạn.”

Trong những năm đầu tiên, Ngày của Mẹ được tổ chức một cách mộc mạc và đầy thành kính - thường là qua các buổi lễ nhà thờ để tưởng nhớ và vinh danh các bà mẹ, dù còn sống hay đã qua đời.

Ngọt ngào xen lẫn đắng cay khi kế thừa Ngày của Mẹ

Theo nhiều tài liệu, điều duy nhất mà Anna mong muốn là tưởng nhớ mẹ mình - người mà cô tin là người khởi xướng thực sự của Ngày của Mẹ. Nhưng khi ngày lễ trở nên phổ biến, Anna dần cảm thấy thất vọng khi nó bị thương mại hóa: người ta gửi thiệp, tặng hoa một cách máy móc. Thậm chí cô không đồng tình khi các tổ chức phụ nữ hay hội từ thiện dùng Ngày của Mẹ để gây quỹ - điều khá mâu thuẫn nếu nhìn vào lý tưởng y tế cộng đồng mà mẹ cô từng theo đuổi.

Năm 1948, Anna Jarvis qua đời tại một viện dưỡng lão trong tình trạng sa sút trí tuệ.

Ngày của Mẹ hiện nay

Ngày của Mẹ vẫn bền bỉ tồn tại và không ngừng phát triển. Cũng giống như khởi nguồn ngày lễ bắt đầu từ sự sáng tạo của nhiều người phụ nữ, Ngày của Mẹ trong thời đại hiện nay tôn vinh sự đa dạng trong vai trò của người mẹ hiện đại. Chúng ta nhớ ơn những người mẹ đã đấu tranh để cải thiện cuộc sống của con cái bằng nhiều cách - từ phúc lợi xã hội đến lý tưởng phi bạo lực. Và hơn hết, chúng ta thấu hiểu, trân trọng tinh thần dũng cảm cùng đức hy sinh quý giá vô ngần dành cho con trẻ từ lúc chúng mới lọt lòng.

Hà Nhi dịch từ Almanac

Đọc bài viết

Trà chiều

Văn hóa đọc tại Việt Nam: Hành trình tỉnh thức trong thời đại mất tập trung

Khi cả thế giới đang quay cuồng trong cơn lốc của tốc độ, của công nghệ số và mạng xã hội, văn hóa đọc – vốn là một hoạt động tĩnh tại, cô độc và đòi hỏi sự kiên nhẫn – bỗng trở thành hiện tượng lạ giữa đời sống hiện đại.

Published

on

Một cú chạm màn hình có thể đưa bạn tới bất kỳ đâu: từ buổi hòa nhạc ở Vienna đến một bữa ăn đường phố ở Bangkok, từ những khoảnh khắc riêng tư của người xa lạ đến bản tin thời sự lúc rạng đông. Nhưng càng dễ dàng kết nối, chúng ta lại càng khó khăn trong việc lắng nghe chính mình. 

Và trong cuộc hành trình ấy, đọc sách - hành động tưởng như đã cũ kỹ, đang âm thầm trở lại như một nơi trú ẩn cuối cùng của tâm hồn hiện đại.

Văn hóa đọc không chỉ là việc “đọc sách”

Văn hóa đọc không nên được định nghĩa đơn giản chỉ là hành vi tiếp nhận văn bản in ấn, cần phải nhìn nó như là một cấu trúc hệ giá trị, nơi người đọc không chỉ tiêu thụ thông tin, mà còn tương tác với tri thức, phản tư, và từ đó tạo ra tầng sâu văn hóa cá nhân. Nên hiểu đọc là một hành vi văn hóa, không chỉ là kỹ năng.

Thế nhưng, tại Việt Nam, hành vi đọc nhiều khi bị giản lược thành “hoạt động học thuộc”. Cái gốc của việc đọc để hiểu mình và hiểu thế giới vẫn còn mờ nhạt trong đời sống học đường lẫn đời sống đô thị.

Chúng ta từng được dạy rằng đọc là để biết nhiều hơn. Nhưng biết không đồng nghĩa với hiểu. “Biết” là quá trình tiếp nhận và lưu trữ dữ liệu dưới dạng thông tin. “Hiểu” vượt lên trên điều đó - nó đòi hỏi sự tham gia của trải nghiệm cá nhân, khả năng phân tích, đồng cảm và cả những va chạm nội tâm. Một tác phẩm có giá trị không chỉ cung cấp tri thức ngoại tại, mà còn tạo điều kiện cho chủ thể tiếp nhận được soi chiếu, phản tỉnh từ đó nhận diện những lớp ẩn sâu của bản thể qua hình ảnh của người khác trong trang sách. 

Khi một đứa trẻ đọc Những tấm lòng cao cả, em sẽ không chỉ học đạo đức, mà bắt đầu cảm nhận được trái tim nhân loại. Khi một thiếu niên lần đầu đọc Người xa lạ của Camus, cậu ấy có thể không lý giải nổi thế giới, nhưng sẽ bắt đầu đặt câu hỏi về nó và về chính mình.

Vấn đề không nằm ở việc thiếu sách, mà thiếu “thái độ văn hóa” với sách

Mặc dù Việt Nam có hơn 30.000 đầu sách xuất bản mỗi năm (theo Cục Xuất bản), thế nhưng lượng sách bán ra tập trung chủ yếu ở thể loại giải trí, ngôn tình, self-help, còn các dòng sách triết học, văn hóa, nhân văn… chiếm tỷ lệ nhỏ hơn. Ta không thiếu sách, ta thiếu một nền tảng thẩm mỹ và nhân văn để lựa chọn sách một cách có chủ đích.

Nguyên nhân không chỉ nằm ở thời đại số làm thay đổi thói quen tiếp nhận thông tin, mà còn nằm ở cách giáo dục về đọc sách. Tại nhiều trường học, việc đọc vẫn gắn liền với hình thức kiểm tra, chấm điểm, làm bài văn nghị luận sách giáo khoa - điều khiến đọc sách trở thành một “nghĩa vụ” hơn là một hành trình khám phá. Gia đình, các bậc phụ huynh còn chưa thực sự nghiên cứu và đặt mối quan tâm lớn lao cho việc giáo dục con trẻ dẫn đến việc các em phụ thuộc quá nhiều vào các thiết bị công nghệ. 

Nhưng tín hiệu đáng mừng là trong những năm gần đây, chúng ta chứng kiến sự nở rộ của các phong trào đọc sách tự phát, không phải từ chỉ đạo hành chính, mà từ những con người đang đi tìm lại bản thân giữa cơn hỗn loạn của thông tin.

Đáng chú ý, sự phát triển của nền tảng số cũng không còn là lực cản, mà đang dần trở thành đòn bẩy cho việc tiếp cận sách: audio book, book podcast, nền tảng chia sẻ tóm tắt sách hay các cộng đồng đọc sách online đang lan tỏa mạnh mẽ. Sách không còn là một vật thể bất động mà trở thành dòng chảy đồng hành với sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ, âm thanh và cảm xúc.

Tất cả đang làm sống lại một giá trị xưa cũ: sự tĩnh lặng nội tâm. Đọc sách giờ đây không chỉ là tiếp nhận thông tin, mà là một hành động phản kháng với sự phân tán, ồn ào, và tiêu dùng giải trí mang tính chất "mì ăn liền".

Văn hóa đọc trong thời đại “siêu dữ liệu”

Thách thức lớn nhất với văn hóa đọc trong thời đại kỹ thuật số không phải là sự biến mất của sách giấy, mà là sự thoái hóa khả năng tập trung, năng lực phản tư và thái độ nghiêm túc của con người với tri thức. Chúng ta sống trong thời đại mà nội dung có thể bị tiêu thụ như thức ăn nhanh, nơi mọi người “đọc để phản ứng”, thay vì “đọc để cảm nghiệm”. Bởi vậy, chọn đọc - nhất là đọc sâu, đọc chậm giờ đây không chỉ là một lựa chọn mang tính trí tuệ, mà còn là một cách gìn giữ bản thân trước sự xao nhãng của thế giới hiện đại.

Đọc là kháng cự lại tốc độ. Là từ chối cái dễ. Là chọn cái sâu - dù biết nó chậm.

Văn hóa đọc giờ đây không chỉ là sách, mà còn là cách ta sống. Không chỉ là hành động cá nhân. Nó phản ánh cả một văn hóa. Một đất nước biết trân trọng sách là một đất nước không dễ bị lãng quên ký ức. Một thế hệ đọc sách là một thế hệ có nội lực.

Ở Việt Nam, từng có một thế kỷ mà sách được đọc bằng ánh đèn dầu, được chép tay, được truyền tay như những báu vật. Sách đi qua chiến tranh, qua đói nghèo, qua đạn bom, nhưng vẫn sống. Vấn đề của hôm nay không phải là thiếu sách, mà là quá nhiều thứ giành giật tâm trí ta khỏi sách.

Vấn đề sâu xa hơn: ta không còn coi đọc là một phần của việc sống đẹp. Thế giới đang dần lãng quên sự im lặng, sự chậm rãi, sự suy tư. Trong truyền thống tư tưởng phương Đông, đọc không phải là phương tiện để đạt được cái bên ngoài, mà là trở về với cái bên trong. Từ thời Lão - Trang, việc học, việc đọc vốn gắn liền với sự tĩnh tại của tâm. Đọc là tu thân. Đọc là dưỡng khí. Đọc là hành động đi ngược lại với sự xao động của đời sống, để khơi mở “minh tâm kiến tánh”, thấy lại chân diện mục của chính mình. 

Ngày xưa, các nho sĩ khi đọc sách thường đặt một bát nước trong veo bên cạnh, để “nếu tâm xao động thì nước đục” như một cách tự phản tỉnh. Người đọc không chỉ là kẻ truy cầu tri thức, mà còn là người gìn giữ đạo lý, tiết tháo và sự lặng thầm bền bỉ của văn hóa.

Trong thời đại siêu kết nối hiện nay, nghịch lý lớn nhất là con người càng lúc càng rỗng hơn giữa vô số dữ liệu. Chúng ta “biết” rất nhiều thứ nhưng lại hiểu rất ít điều, và càng ít sống sâu. Văn hóa đọc nếu được xem là một hệ sinh thái văn hóa bền vững - chính là cơ chế tự phòng vệ của trí tuệ trước sự tha hóa của thị hiếu và tốc độ.

Bởi vì đọc không chỉ là để “biết”, mà để nghi ngờ cái mình biết. Không chỉ để “giỏi lên”, mà để hiểu mình và hiểu người hơn. Và không chỉ để có tri thức, mà để trở nên người hơn trong thế giới ngày càng thiếu vắng chất người. 

Đọc - tự bản thân nó là một hành động kháng cự lại sự lãng quên, sự cạn mỏng và cả sự dễ dãi. Nó khơi mở lại điều tưởng như đã mất: một chiều sâu văn hóa không thể số hóa, không thể sao chép, thứ văn hóa được chưng cất từ mỗi lần lật trang, từ mỗi khoảnh khắc im lặng tự đối diện chính mình. Để được sống với một trái tim có lớp lang. 

Và nếu phải chọn một hành động lặng lẽ nào đó để định nghĩa tinh thần của một dân tộc đang muốn trở mình từ bên trong, thì đó hẳn phải là: đọc sách.

Ngọc Trâm

Đọc bài viết

Trà chiều

Vẻ đẹp từ những cuộc đời bình thường

Không cần phải nổi bật, bạn vẫn có thể sống một đời ý nghĩa.

Published

on

Làm người bình thường giờ đây bị ngầm hiểu là một thất bại trong một thế giới say mê những con người xuất chúng. Từ những giải vàng trong các trường tiểu học đến danh hiệu “nhân viên xuất sắc của tháng”; từ những tấm hình, thước phim được chọn lựa kĩ càng để đăng trên Instagram đến cuộc đua trở thành “phiên bản rực rỡ nhất của chính mình”, văn hóa của chúng ta không ngừng nâng cao chuẩn mực cho những tính từ “thành công”, “xứng đáng” hoặc thậm chí là “đủ”. Nhưng liên tục chạy đua để trở thành người xuất chúng liệu có khiến chúng ta hạnh phúc hơn hay chỉ đang gieo thêm lo âu, mặc cảm và đứt gãy trong kết nối giữa người với người?

Ẩn giấu trong những cuộc đời không mấy nổi bật vẫn tồn tại sự bình yên sâu lắng, đích đến đáng quý, thậm chí là vẻ đẹp đáng tôn vinh. Có lẽ đã đến lúc ta nên giành lại chân lý ấy - rằng không cần rực rỡ để sống một đời đáng sống.

Những chuẩn mực ngày càng leo cao

Ngay cả trẻ con giờ đây cũng không thoát khỏi chuỗi dài những kì vọng từ gia đình và xã hội. Trước kia, thời chúng ta đi học, “trung bình” được coi là nền tảng để phấn đấu, không có gì đáng xấu hổ. Nhưng nhìn xem, lũ trẻ bây giờ đang bị áp lực phải trở thành những người có thành tựu từ khi còn chưa học được cách chơi đùa vô tư. Giành được điểm A vẫn bị coi là chưa đủ tốt nếu chúng không mang thêm giải thưởng, tham gia hoạt động ngoại khóa và trong vai những người dẫn dắt, lãnh đạo đội nhóm. Những rào chắn vô hình không ngừng cao lên, vì thế chẳng ngạc nhiên khi những sinh viên mới bước vào ngưỡng cửa đại học hay thị trường lao động đã kiệt sức thay vì hạnh phúc. 

Mạng xã hội chỉ đổ thêm dầu vào lửa, đốt cháy cuộc đua kì vọng ấy hơn. Không dừng lại ở việc lướt xem những khoảnh khắc rực rỡ của người khác, chúng ta bắt đầu so sánh với cuộc đời chưa được đánh bóng của bản thân. Đọc được câu chuyện về những bạn trẻ 22 tuổi khởi nghiệp, đi du lịch vòng quanh thế giới, tự sắm nhà riêng - ta cảm thấy mình tụt lại vì mỗi ngày chỉ dậy đi làm và thanh toán hóa đơn. Những điều ấy trước kia từng được coi là phi thường, nay bỗng hóa tiêu chuẩn tối thiểu.

Ngay cả trong đời sống riêng, áp lực vẫn len lỏi. Ta phải là những người yêu lý tưởng, cha mẹ dịu dàng, giỏi chăm sóc bản thân và công dân đầy chánh niệm - tốt nhất là xong hết trước 9 giờ sáng. Người ta truyền nhau một quan niệm hiện đại, rằng: bạn đang lãng phí tiềm năng nếu không tối ưu từng giây phút của cuộc đời mình.

Nhưng nếu tiềm năng không phải là một chiếc thang để leo, mà là một không gian để ta an trú thì sao?

Phẩm giá ẩn sau lựa chọn một đời an yên

Hãy đổi cách ta kể câu chuyện. Sẽ ra sao nếu một cuộc sống “tầm trung” lại chính là một công việc đủ nuôi sống bản thân, những mối quan hệ đầy yêu thương, và một mái nhà rộn tiếng cười xen lẫn tiếng bát đũa? Không phải thứ để ta trốn chạy khi nhắc đến, mà là điều đáng để gìn giữ và trân trọng đúng không?

Thật tuyệt khi bạn xuất hiện trên mạng xã hội với những khoảnh khắc như vậy, dù cho chẳng có lời tán dương nào. Chúng ta vẫn luôn cần một người bạn chân thành, một người lạ biết cảm thông, và một đồng nghiệp đáng tin cậy. Những vai trò ấy hiếm khi xuất hiện trên mạng xã hội, nhưng chúng là sợi chỉ âm thầm dệt nên kết cấu bền chặt của xã hội -  điều mà danh vọng và tiền bạc đôi khi không thể làm được.

Hãy nghĩ về những giáo viên, lao công, y tá, tài xế, đầu bếp, điều dưỡng - những con người mà công việc thầm lặng của họ vẫn đang giữ cho thế giới vận hành. Họ có thể không bao giờ được gọi tên rộng rãi, nhưng công sức của họ chạm đến cuộc sống của biết bao người. Những tên gọi nghề nghiệp nghe có vẻ “bình thường”, nhưng những gì họ làm được thì không hề nhỏ bé.

Bình thường không có nghĩa là tầm thường. Đó là sự biết đủ với những gì bạn có, thay vì liên tục đem so với những cuộc đời khác. Đó là việc bạn hiểu rằng mình không thất bại chỉ vì không xuất chúng - chỉ cần là một con người đã luôn là điều đặc biệt. 

Những đánh đổi phía sau niềm tin phải trở nên xuất chúng

Bị cuốn vào cuộc đua theo đuổi sự vĩ đại thường dẫn ta đến tình trạng kiệt sức, lo âu và cô đơn. Chủ nghĩa cầu toàn gây ra chứng tê liệt cảm xúc, còn việc so sánh khiến ta đánh mất niềm vui. Ai cũng có thể “trên mức trung bình” - rõ ràng về mặt thống kê quan niệm này sai. Ấy vậy mà xã hội vẫn tiếp tục bán giấc mơ ấy, và ta vẫn tiếp tục mua nó, rồi cảm thấy mình chưa bao giờ đủ.

Ở một góc độ khác, việc tôn vinh thành công thái quá cũng hình thành một tâm thức thiếu hoàn thiện: nếu chỉ có một vài người ở đỉnh cao, thì phần còn lại ắt phải là kẻ thua cuộc. Nhưng cuộc sống đâu phải là một bảng xếp hạng, nó là bức tranh khảm đầy những niềm vui nhỏ bé, những khoảnh khắc yên tĩnh, và những kết nối thành thật giữa con người với nhau.

Ta chỉ thực sự sống trong hiện tại khi ngừng đuổi theo những cột mốc tiếp theo. Ta có thể tìm thấy sự đủ đầy, không phải trong việc trở nên khác biệt, mà trong cảm giác được thuộc về gia đình, cộng đồng và chính bản thân mình.

Viết lại định nghĩa “cuộc đời ý nghĩa”

Định hình lại những gì là cốt lõi của cuộc sống đòi hỏi sự can đảm - nhất là trong nền văn hóa đầy rẫy phô trương. Nó đồng nghĩa với việc khước từ lối sống "cày cuốc", chọn thầm lặng thay vì tiếng tăm, chọn sống sâu thay vì sống gấp, chọn sống đúng với hệ giá trị riêng của bản thân thay vì đứng trên những tiếng vỗ tay hào nhoáng.

Một cuộc đời ý nghĩa không được xây nên từ giải thưởng hay thuật toán mà được dệt từ những cuộc trò chuyện chân thật, những thói quen bồi đắp nên chúng ta, những bữa cơm trong gian bếp, những bước đi chậm rãi, những cử chỉ tử tế nhỏ nhoi - và nghỉ ngơi mà không mang theo cảm giác tội lỗi.

Hà Nhi dịch từ Psychology Today

Đọc bài viết

Cafe sáng