Trà chiều

Con người cần làm gì trong thời đại của khủng hoảng khí hậu?

Bàn về cách học lại Lịch sử Trái Đất bên Bờ vực

Published

on

Ảnh: Một chú gấu Bắc Cực đang dần đói lả, được phát hiện trên một mảng băng trôi nhỏ. Hình ảnh do Kerstin Langenberger chụp vào tháng Tám ở Svalbard, phía bắc lục địa Na Uy.

Sức nặng của cuộc khủng hoảng sinh thái không khiến tôi bận tâm cho đến khi đứa con thứ hai của tôi chào đời. Tôi cảm nhận điều đó một cách rõ ràng hơn bao giờ hết khi hai vợ chồng tôi đang chuẩn bị sơ tán trước lúc trận siêu bão thứ ba càn quét bờ biển Đông Nam. Giữ chặt đứa con bé bỏng, đỏ hỏn trong vòng tay, đột nhiên, tôi nhận ra, cái thế giới tôi hằng vẽ ra cho những đứa con của mình đã không còn tồn tại nữa. Chúng ta đang sống ở một nơi nào đó khác – một nơi hoàn toàn mới, đang thay đổi, và dễ dàng bị thay đổi. Và tôi khiếp sợ trước sự thật này.

Có một thuật ngữ y khoa tên là “nỗi lo âu về khí hậu”, một trạng thái “cực kỳ hoảng hốt về sự diệt vong đã được khoa học tiên đoán của loài người”. Bạn bè và gia đình tôi nghi ngờ đó chỉ là hội chứng trầm cảm sau sinh, và một phần trong tôi hi vọng rằng họ đúng. Nhưng trong khi tôi chắc chắn các hoocmon chẳng giúp được gì, tôi biết những nỗi sợ của mình không hề vô lý. Trong tâm trí tôi, sẽ là vô lý nếu không khóc thương trước cái tương lai con cái chúng ta phải đối mặt, khi biết về những gì các nhà khoa học đã biết ngày nay.

Nhưng việc khóc lóc ảnh hưởng đến đứa bé mới sinh nhà tôi. Tôi đã thử tự khiến mình xao lãng trong một lúc, nhưng lại cảm thấy mất phương hướng, giống như cố gắng vào lại giấc mơ khi bạn không còn ngủ nữa.

Vì vậy, tôi đã thử tiếp cận theo hướng ngược lại. Giống như Bruce Wayne đến hang dơi, tôi đắm mình trong những tài liệu về điều mà tôi sợ nhất: cuộc khủng hoảng khí hậu của chúng ta.

Tôi bắt đầu với các bài báo, click vào từng cái tiêu đề khủng khiếp tôi thấy được, từ những con gấu Bắc Cực đang chết đói, những chỏm băng vỡ, đến những hòn đảo nhựa ở Vịnh Mexico. Các bạn độc giả thân mến, tôi không khuyên các bạn làm theo phương pháp này. Hãy chuyển tiếp những thông tin trên cho ông bác không-quan-tâm-đến-khí-hậu của các bạn, gọi cho các thượng nghị sĩ, rồi tiếp tục với cuộc sống thường ngày. Một vài cú nhấp chuột để lại trong tôi nỗi bất an hơn bao giờ hết và không có bất kỳ sự chắc chắn nào về những gì đang thực sự xảy ra với hành tinh.

Cây Joshua bốc cháy trong trận cháy rừng hủy diệt càn quét qua Hồ Hughes (California, Mỹ) vào tháng Sáu năm 2013.
Ảnh: David McNew

Tôi cần một cách tiếp cận chậm hơn — các tác phẩm được viết bởi những người sẵn sàng nghiên cứu và thấu đạt những kiến thức khoa học trong nhiều năm, thậm chí nhiều thập kỷ, để cùng nhau viết ra lời hồi đáp của con người với cuộc khủng hoảng do chính con người gây ra.

Nói một cách khác, tôi cần sách. Những quyển sách tốt thật sự.

Tôi chưa bao giờ xuất sắc trong môn khoa học và cũng chưa từng tìm hiểu gì thêm từ sau khi tốt nghiệp trung học. Vì vậy tôi hiểu rất ít về biến đổi khí hậu. Tôi đã ném mình vào lịch sử đau thương, về nơi chúng ta đang sống và làm thế nào mà chúng ta đến được đây. Tôi bắt đầu với tác phẩm mang tính bước ngoặt của Al Gore, An Inconvenient Truth (tạm dịch Một sự thật phiền toái) – tác phẩm cho tôi những biểu đồ và số liệu để bám víu khi tôi thu thập những nhận thức về hành tinh mới này. Tôi trải qua tám ngày tàn khốc, đi qua Đợt tuyệt chủng thứ sáu của Elizabeth Kolbert và theo sau đó là Sapiens: Lược sử loài người của Yuval Noah Harari. Hóa ra, sự tuyệt chủng và xóa sổ môi trường đã theo dấu vết di cư của con người kể từ buổi bình minh của giống loài chúng ta, mặc dù điều này đã tăng nhanh theo cấp số nhân trong những năm gần đây. Những thông tin này vẫn không làm tôi cảm thấy an ủi.

Tôi đã quay lại và đọc Mùa xuân vắng lặng của Rachel Carson. Mặc dù không trực tiếp đề cập đến sự ấm lên của khí hậu, cuốn sách đã minh họa xu hướng khủng khiếp của chúng ta trong thế kỷ qua. Đó là thay đổi đặc điểm hóa học của hành tinh theo những cách hung ác nhất, từ phân bón hóa học đến thuốc diệt côn trùng.

Mùa xuân vắng lặng, cuốn sách có sức ảnh hưởng lên thế giới khoa học kỹ thuật tương đương với tác phẩm Nguồn gốc các loài (The Origin of Species) của Charles Darwin.
Ảnh: Nhà Sách Phương Nam

Đó là những cuốn sách kinh hoàng; cùng nhau, chúng đã khiến tôi bắt đầu xây dựng một khu vườn cho bướm và ong, chuyển sang sử dụng sản phẩm hữu cơ và ăn chay tại nhà. Quan trọng hơn, trong khi giải thích tình trạng đen tối của chúng ta hiện tại, những cuốn sách này đã tiết lộ cho tôi một sự thật: chúng ta thực sự đã không đi trên con đường này lâu đến thế. Và nếu chúng ta đã thay đổi cấu trúc của xã hội loài người quá nhanh trong vài thế kỷ qua, chúng ta hoàn toàn có thể làm như vậy một lần nữa.

Vậy nên, tôi chuyển sang các giải pháp. Một cuộc tìm kiếm nhanh chóng trong thư viện đã hé lộ toàn bộ những góc nhìn lạc quan về cách chúng ta có thể làm để giảm thiểu tác động tồi tệ nhất của khủng hoảng khí hậu. Tôi đã xem qua phần tiếp theo cuốn sách của Gore, Truth to Power (tạm dịch Từ Sự thật đến Sức mạnh), cũng như cuốn sách A World of Three Zeros (tạm dịch Một thế giới của ba con số không) của Paul Yunus – người từng đoạt giải Nobel Hòa bình. Tôi đã lướt qua bảng xếp hạng của Paul Hawken về mọi giải pháp thu giữ carbon chúng ta đã biết trong Drawdown – 99 giải pháp ngăn chặn thảm họa từ biến đổi khí hậu. Mỗi cuốn sách vang lên với một niềm hy vọng kiên định vào chuỗi những ý tưởng không ăn khớp này – nhiều ý tưởng trong số đó kêu gọi góp phần xóa đói giảm nghèo và tái phân bổ của cải, điều nghe có vẻ rành rành là không tưởng trên trang giấy.

Nhưng chúng cũng lặp đi lặp lại một điệp khúc chung: chúng ta có giải pháp, chúng ta chỉ cần quyết tâm chính trị. “Chính trị” thực sự đã làm giảm thước đo hy vọng của tôi. Tôi trở lại những kệ sách trong thư viện một lần nữa.

Đến thời điểm này, tôi đã hơi kiệt sức với những cuốn sách phi hư cấu. Vì vậy tôi quyết định nuông chiều bản thân trong những quyển tiểu thuyết. Tôi tìm thấy cli-fi (climate fiction), một thể loại viễn tưởng, suy đoán về xã hội loài người vài thập kỷ trong tương lai rất gần mà các nhà khoa học từng dự đoán. Tôi đi bộ dọc theo bờ biển California hoang tàn cùng với nữ chính của Octavia E. Butler trong Parable of the Sower (tạm dịch Ngụ ngôn Người gieo giống), bão sét, hỏa hoạn thường xuyên và những kẻ cuồng phóng hỏa đáng sợ bị ảnh hưởng bởi ma túy, những kẻ đang “phê pha” trên sự diệt vong của thế giới. Tôi đã cổ vũ những người sống sót sau trận dịch hoành hành trong The Year of the Flood (tạm dịch Năm của trận Đại hồng thủy) của Margaret Atwood.

Bất chấp những điều khủng khiếp trong những cuốn sách này, nhìn chung, tôi cảm thấy gần hơn với những gì tôi muốn: một bức tranh tinh thần về cách làm-một-con-người trong thời đại biến đổi khí hậu. Đáng sợ quá, phải không? Nhưng tôi đã nhảy quá xa vào tương lai. Thực tế là chúng ta đã thay đổi cả hành tinh. Tôi cần học cách sống ấy ngay bây giờ, trước khi những viễn cảnh tồi tệ kịp trở thành sự thật.

Tôi tìm thấy những chỉ dẫn đó ở một nơi chốn không ngờ: những câu chuyện kể địa phương được viết bởi các cây bút về môi trường. Thời còn là một sinh viên cao học, tôi từng gọi chúng là “lời-của-thiên-nhiên”, “chậm”, “chán” và “eww”. Nhưng càng đọc, tôi càng nhận ra rằng “lời-của-thiên-nhiên” là, và có lẽ luôn luôn là, những gì nguyên sơ nhất.

Những cây bút này quan tâm sâu sắc đến những nơi chốn cụ thể, đủ sâu để biết tên của từng bông hoa, từng cái cây và từng con ốc. Trước sự tàn phá sắp xảy ra, họ từ chối ngoảnh mặt làm ngơ. Từ một Rick Bass nài xin “hãy bảo vệ một thung lũng Montana chưa phát triển” trong The Book of Yaak (tạm dịch Sách về thung lũng Yaak), đến một Lauren Groff vật lộn với nỗi lo về tình trạng dễ bị tổn thương của quê nhà ở bang Florida, đến Elizabeth Rush ghi lại quá trình xóa sổ bờ biển nước Mỹ với những tiếng nấc đau lòng. Mỗi ấn bản đã cho tôi những gì tôi cần biết. Chúng đã cho tôi một chỗ đứng trong thực tại mới này, nơi, như Rush mô tả, “Niềm tin của tôi vào các quá trình tự nhiên, vào hệ thống tương hỗ phức tạp mà tôi được nuôi dạy để tin rằng phải giữ gìn cho thiên nhiên không bị mất cân bằng, đã mất đi.” Đó không phải là một nơi thoải mái hay lạc quan gì. Nhưng đó là nơi để trở thành con người, để dễ bị tổn thương, để sợ hãi, để than khóc, đồng thời để thích nghi.

Tôi cần không gian này, và tôi nghĩ tôi cần một hành trình dài để vào trong đó. Tôi cần học lại lịch sử của trái đất, đọc qua sự khủng khiếp của cuộc khủng hoảng mà chúng ta đang phải đối mặt và xem xét những điều chúng ta có thể làm để đối diện với những gì đang tới.

Đặc biệt, với tư cách là một bà mẹ làm việc tại nhà, với hai khuôn mặt ngây thơ luôn tươi cười với tôi mỗi ngày, tôi cần phải can đảm đọc những biên niên sử trung thực của những người đang sống qua thời khắc này. Tôi cần ngồi cùng thuyền với họ, với hy vọng rằng chúng ta có thể tự cứu lấy mình, và rằng chúng ta vẫn đáng được cứu.

Tôi không thể nói rằng nỗi lo âu của tôi đã được xoa dịu. Tôi vẫn lo lắng cho các cô con gái của mình. Tôi sợ rằng một ngày nào đó chúng sẽ trách móc tôi vì đã không làm nhiều hơn để ngăn chặn cuộc khủng hoảng mà tôi biết là đang đến. Nhưng khi tôi muốn ngoảnh mặt đi, tôi nhớ rằng đã không còn nơi nào để nhìn sang nữa. Tôi gieo thêm một vài hạt giống trong vườn, thứ tốt cho lũ bọ và thu giữ carbon nhiều hơn bất kì điều gì khác.

Chỉ là một khu đất nhỏ, nhưng đủ để con thằn lằn đẻ trứng vào một cây đậu bắp.

Bốn con ong ghé vào mỗi buổi sớm mai, đánh chén no nê những bông hoa mướp vàng tươi; những bông hoa nở, héo và tàn đi chỉ trong một ngày. Tôi ghé mắt nhìn chúng gần hết mức có thể. Chúng mang theo một loại bình yên. Mặc dù tôi biết, hôm nay, những điều đó mong manh tới mức nào, tôi cứ bất chấp vay mượn những bình yên ấy, mang theo mình, cho đến khi tôi lại ra vườn tưới nước vào sáng hôm sau.

Hết.

ichigo lược dịch.

Bài viết gốc được thực hiện bởi Elizabeth Putfark, đăng tại Literary Hub.

*

Những bài viết có cùng chủ đề môi trường & thiên nhiên



Trà chiều

Thế giới viễn tưởng độc đáo trong bốn bộ phim mang đậm tính thể nghiệm

Published

on

Thế giới của phim khoa học viễn tưởng không phải lúc nào cũng chỉ có AI, robot, hay du hành không gian mà còn vô vàn những điều đặc biệt khác có thể bạn chưa biết.

Năm 2023 vừa qua đã ghi nhận sự phát triển ngày càng mạnh mẽ của AI. Điều đó khiến cho dòng phim khoa học viễn tưởng nhận được nhiều sự quan tâm trở lại. Nhắc đến dòng phim này, người ta vẫn thường đóng khung nó với vài yếu tố tiêu biểu thường gặp như: AI, robot, du hành vũ trụ, thế giới song song… Tuy nhiên, có rất nhiều tác phẩm sci-fi kinh điển đã chứng minh điều ngược lại.

Hãy cùng Bookish khám phá những bộ phim sci-fi không thuần túy là sci-fi vì ở đó, người xem được tận hưởng bữa tiệc điện ảnh đỉnh cao với những hương vị hòa quyện mĩ mãn từ nhiều thể loại khác nhau.

Back to The Future (1985)

Sci-fi x Road Trip Comedies

Cùng với The Terminator, Back To The Future ra đời năm 1985 đã trở thành biểu tượng kinh điển của dòng phim sci-fi lấy chủ đề du hành thời gian. Đó cũng là một trong những nguyên nhân mà bộ phim này được nhắc đến nhiều lần trong Avengers: Endgame lúc cả nhóm quyết định quay về quá khứ.

Tuy nhiên, không giống như The Terminator, Back To The Future mang màu sắc vui nhộn, hài hước của lứa tuổi học trò. Cậu học sinh tuổi teen Marty McFly ở thập niên 80 vô tình bị kéo về quá khứ trên chiếc xe cỗ máy thời gian của nhà khoa học Emmett Brown. Cậu quay trở về thập niên 50 – lúc này bố mẹ cậu cũng ở lứa tuổi học trò như cậu. Để có thể quay về hiện tại năm 80, cậu phải tìm cách hàn gắn mối quan hệ của bố mẹ, nếu không bản thân cậu cũng sẽ không tồn tại ở năm 80. Từ đó, câu chuyện nảy sinh nhiều tình huống dở khóc dở cuối. Nếu như The Terminator là sự phối trộn hoàn hảo giữa thể loại sci-fi và hành động thì Back To The Future lại là màn kết hợp ăn ý giữa thể loại sci-fi và hài hành trình. Bộ phim tốn kinh phí thực hiện là 19 triệu USD nhưng lại có doanh thu phòng vé lên đến 388 triệu USD. Chính vì thành công này mà đạo diễn Robert Zemeckis đã thực hiện hai phần tiếp theo cũng vui nhộn không kém.

Snowpiercer (2013)

Sci-fi x Dystopia

Bong Joon Ho không chỉ tạo ra những bộ phim sâu sắc về đề tài xã hội mà ông còn có khả năng làm phim khoa học viễn tưởng rất chặt chẽ, thuyết phục. Điều này thể hiện rõ nhất qua Snowpiercer. Phim dựa trên tiểu thuyết Pháp Le Transperceneige lấy đề tài hậu tận thế. Trong tương lai, sau một thí nghiệm thất bại, khí hậu toàn cầu biến đổi dẫn đến gần như toàn bộ sinh vật đều bị diệt vong, ngoại trừ một số người may mắn có mặt trên con tàu Snowpiercer chạy vòng quanh Trái đất với động cơ vĩnh cửu. Tại đây, một xã hội thu nhỏ mới lại được hình thành. Dưới bàn tay tài hoa của Bong Joon Ho, Snowpiercer cũng không đơn giản là tác phẩm sci-fi thuần túy mà ông còn lồng ghép vào nhiều thể loại khác nhau: có những phân đoạn hành động mãn nhãn, đồng thời cũng có những phân đoạn dí dỏm, và cách đặt vấn đề về giai tầng xã hội vẫn mang phong cách rất đặc trưng của Bong. 

Eternal Sunshine Of The Spotless Mind (2004)

Sci-fi x Romance

Sẽ như thế nào nếu kết hợp thể loại sci-fi với phim tình cảm? Khi đó, chúng ta sẽ có kiệt tác Eternal Sunshine Of The Spotless Mind của bộ đôi đạo diễn Michel Gondry và biên kịch Charlie Kaufman. Bộ phim sử dụng đề tài “can thiệp kí ức” để khám phá bản năng con người khi tình yêu tan vỡ. Sẽ ra sao nếu khi chia tay một ai đó, bạn có thể xóa toàn bộ những kí ức vui buồn liên quan đến họ ra khỏi tâm trí? Sau khi Joel biết được Clementine – người yêu cũ của anh đã xóa kí ức tình yêu, anh quyết định bản thân mình cũng sẽ thực hiện việc này. Nhưng khi anh khám phá được điều gì đã khiến họ gắn kết rồi lại chia xa, anh nhận ra mình vẫn còn tình cảm dành cho cô. Nếu như công nghệ trong phim là thứ hư cấu thì cảm xúc giữa hai nhân vật trong Eternal Sunshine hoàn toàn chân thực, lay động trái tim người xem, khiến ai cũng phải thổn thức.

Under The Skin (2013)

Sci-fi x Experimental film

Cuối cùng, không thể không nhắc đến bộ phim sci-fi mang tính thể nghiệm, tiên phong đáng nhớ: Under The Skin. Có rất nhiều phim lấy đề tài sinh vật ngoài hành tinh xâm nhập Trái đất, nhưng có lẽ chưa bộ phim nào kể câu chuyện thật đặc biệt nhưng lại với nhịp điệu từ tốn như Under The Skin. Scarlett Johansson trong vai sinh vật ngoài hành tinh vô danh chỉ làm đúng một công việc là đi lang thang trên một chiếc xe tải, lựa chọn những người đàn ông cô đơn làm con mồi. Bộ phim rất kiệm lời thoại, khiến người xem rợn người không chỉ bởi những hình ảnh thị giác lạ mắt mà còn bởi thứ âm nhạc cũng đầy tính thể nghiệm độc đáo của Mica Levi. Tuy nhiên, nếu chỉ tập trung vào thể nghiệm mà bỏ qua nội dung, Under The Skin đã không gây được tiếng vang lớn như thế trong cộng đồng điện ảnh. Sau tất cả, bộ phim của đạo diễn Jonathan Glazer lại khiến người xem trăn trở nhiều về thân phận làm người.

Hoàng Đức Nhiên

Đọc bài viết

Trà chiều

The Terminator & Blade Runner: Hai tượng đài điện ảnh độc đáo của thập niên 80

Published

on

Cùng ra mắt vào thập niên 80, The Terminator (1984) và Blade Runner (1982) đều là hai kiệt tác điện ảnh độc đáo, góp phần rất lớn trong việc tạo ra diện mạo mới cho thể loại sci-fi.

Bài viết này sẽ dẫn dắt bạn khám phá những vấn đề khác nhau được đặt ra trong hai phim: từ những dòng suy tư về mối liên hệ nhân quả giữa hành động và thời gian trong The Terminator đến không gian đô thị đậm chất noir và những truy vấn về bản chất con người trong Blade Runner.

The Terminator (1984)

The Terminator là bước đột phá ngoạn mục trong sự nghiệp điện ảnh của đạo diễn James Cameron. Vào thời điểm ra mắt, bộ phim gây ấn tượng bởi việc pha trộn nhiều đặc tính giữa các thể loại khác nhau, mang đến màu sắc mới cho dòng phim sci-fi.

The Terminator kể câu chuyện về một người máy sát thủ ra đời năm 2029, được trao nhiệm vụ quay về năm 1984 để giết người phụ nữ trẻ tên là Sarah Connor. Sarah hoàn toàn không biết rằng cuộc đời cô có ảnh hưởng đáng kể đến số phận nhân loại và cô có thể chết bất cứ lúc nào dưới sự truy sát của cỗ máy bất khả chiến bại được gọi là Kẻ Hủy Diệt. Kyle Reese cũng đến từ tương lai nhưng nhiệm vụ của anh là bảo vệ Sarah – người mẹ của thủ lĩnh tương lai.

Với cốt truyện như thế, The Terminator vừa có những pha hành động mãn nhãn, vừa có nhiều tầng suy tư phức tạp về dòng chảy của thời gian, về phương thức thay đổi một sự kiện trong quá khứ có thể dẫn đến tương lai khác biệt hoàn toàn – đây vốn là chủ đề hiếm gặp trong phim hành động ở giai đoạn đó. Ngoài ra, những bản nhạc nền tạo không khí căng thẳng của nhạc sĩ Brad Fiedel cũng góp phần lớn vào thành công của phim.

Tất cả những nhân tố đó đã khiến phim trở thành một mảnh ghép quan trọng của văn hóa đại chúng đến tận ngày nay. Câu nói “I'll be back” của nhân vật Kẻ Hủy Diệt trong phim được sử dụng phổ biến, trở thành slogan thương hiện cho chính Arnold Schwarzenegger.

Từ năm 1984 đến nay, The Terminator đã sản xuất 6 phần phim: The Terminator (1984), Terminator 2: Judgment Day (1991), Terminator 3: Rise of the Machines (2003), Terminator Salvation (2009), Terminator Genisys (2015), Terminator: Dark Fate (2019). Tất cả những phần phim này đều đạt được doanh thu khủng, riêng phần đầu tiên The Terminator đã trụ vững ở vị trí số 1 trên bảng xếp hạng phòng vé ở Mỹ trong suốt hai tuần. Năm 2008, The Terminator đã được Thư viện Quốc hội Hoa Kỳ đưa vào Viện lưu trữ phim quốc gia để bảo tồn với lí do là bộ phim “nổi bật ở phương diện văn hóa, lịch sử, và mĩ học”.                          

Blade Runner (1982)

Không may mắn như The Terminator, Blade Runner của đạo diễn Ridley Scott là một tuyệt tác có số phận khá hẩm hiu khi vừa ra đời. Tuy nhiên, qua nhiều thập kỉ với những bản dựng khác nhau, tác phẩm này đã trở thành một tượng đài lớn của thể loại sci-fi.

Dựa trên tiểu thuyết gốc Do Androids Dream Of Electric Sheep? của nhà văn Philip K. Dick, Blade Runner vẽ nên viễn cảnh ảm đạm của thế giới vào năm 2019. Khi đó, thế giới tràn ngập những replicant – người máy có hình dạng giống con người, được tạo ra với vòng đời ngắn ngủi để làm những công việc nguy hiểm phục vụ cho con người. Một nhóm replicant bất mãn trước việc này đã làm một cuộc phản loạn, quay trở về Trái Đất và giết con người. Rick Deckard, một cảnh sát đã nghỉ hưu ở Los Angeles nhận nhiệm vụ phải truy lùng và tận diệt toàn bộ nhóm replicant nổi loạn này.

Blade Runner là sự pha trộn giữa sci-fi, trinh thám và phim noir – thể loại phim hình sự tội phạm mang đậm phong cách Hollywood, thường thể hiện thái độ hoài nghi, mỉa mai. Thông qua hành trình của Rick Deckard, bộ phim đặt ra nhiều câu hỏi triết học về tính người, thế nào là một con người.

Nhưng không chỉ sâu sắc về nội dung, Blade Runner còn là bữa tiệc chiêu đãi về thị giác qua cách bộ phim thể hiện không gian đô thị tương lai với những màn hình quảng cáo lớn, đèn neon luôn lấp lánh và đường phố lúc nào cũng nhộn nhịp. Cảm hứng thị giác của phim kết hợp từ những bức tranh cổ điển của danh họa Edward Hopper và các khu phố với những tòa nhà chọc trời ở Hong Kong. Sự kết hợp này đã tạo nên không gian thị giác ấn tượng của phim khi con người bị nhấn chìm trong công nghệ. Mĩ thuật của phim tạo ảnh hưởng lớn đến cách xây dựng không gian cho những phim sci-fi hay hành động của Hollywood ra đời sau đó như: The Matrix (1999), bộ ba Dark Knight (2005 – 2012) của đạo diễn Christopher Nolan, Ghost in the Shell (2017)…

Ngày nay, Blade Runner đã có một chỗ đứng không thể thay thế trong dòng phim sci-fi với nhiều ảnh hưởng mang tính định hình về mĩ thuật, tư duy về cách kể chuyện và nhân vật. Blade Runner 2049 – phần tiếp theo của phim ra đời vào năm 2017, đúng 35 năm kể từ phần đầu tiên đã không làm người hâm mộ thất vọng với điểm số trên Rotten Tomatoes lên đến 88%.

Hoàng Đức Nhiên

Đọc bài viết

Trà chiều

Hai tác phẩm định hình dấu ấn cá nhân của đạo diễn James Cameron và Christopher Nolan

Published

on

Đạo diễn James Cameron và đạo diễn Christopher Nolan đều là những cá nhân kiệt xuất trong ngành điện ảnh với nhiều bộ phim kinh điển vừa đạt được doanh thu khủng, vừa có giá trị nghệ thuật cao.

Tuy nhiên, khi nhắc đến hai vị đạo diễn tài danh này, có hai tác phẩm đặc biệt mà người hâm mộ điện ảnh không thể nào bỏ lỡ.Hãy cùng Bookish khám phá những dấu ấn đặc trưng cá nhân của đạo diễn James Cameron trong Avatar và của đạo diễn Christopher Nolan trong Inception.  

Avatar (2009)

Năm 2009, bộ phim sci-fi Avatar của đạo diễn James Cameron ra đời đã tạo nên bước ngoặt lớn cho sự phát triển công nghệ điện ảnh. Lần đầu tiên, cả thế giới được xem một bộ phim 3D. Kĩ thuật thị giác đột phá đã khiến trải nghiệm của phim cực kì sống động.

Vào năm 2154, nguồn tài nguyên Trái đất trở nên cạn kiệt dưới sự khai thác của con người dẫn đến khủng hoảng năng lượng. Lúc bấy giờ, tập đoàn RDA đang khai thác unobtanium – một loại khoáng sản có giá trị tại Pandora, một hành tinh tươi tốt mang sự sống giống Trái Đất nhưng lại có bầu khí quyển độc hại cho con người. Pandora là nơi sinh sống của người Na'vi da xanh, có hình dáng và trí óc giống con người. Để tìm hiểu về người Navi và sinh quyển ở Pandora, các nhà khoa học sử dụng cơ thể người lai Na’vi gọi là các Avatar, được hoạt động thông qua liên kết thần kinh với những người có kiểu gen phù hợp. Jake Sully là một cựu lính thủy quân được giao nhiệm vụ trà trộn vào hành tinh Pandora. Quá trình thực hiện nhiệm vụ đã khiến anh bị giằng xé giữa việc tuân theo mệnh lệnh hay bảo vệ xứ sở mà anh đã trót xem là quê nhà.

Đạo diễn James Cameron đã mất đến 15 năm để thực hiện Avatar từ lúc bộ phimcòn là ý tưởng năm 1994 cho đến khi ra đời năm 2009. Sở dĩ bộ phim mất nhiều thời gian như vậy là do Cameron không chỉ trau chuốt về mặt nghệ thuật mà còn cả kĩ thuật: từ công đoạn làm việc với chuyên gia ngôn ngữ để tạo ra tiếng Na’vi với hơn 1000 từ, cho đến việc tạo ra kĩ thuật 3D. Sự kì công này khiến Avatar chiều lòng được cả khán giả đại chúng lẫn giới hàn lâm. Avatar luônđứng đầu danh sách phim ăn khách nhất mọi thời đại với doanh thu lên đến 2,7 tỉ USD, và chỉ bị Avengers: Endgame vượt mặt vào năm 2019 sau suốt 10 năm thống trị bảng vàng.            

Avatar 3 dự kiến sẽ ra mắt vào năm 2025, tiếp tục hứa hẹn mang đến những thành tích khủng trong tương lai. 

James Cameron

Inception (2010)

Hầu như những bộ phim của đạo diễn Christopher Nolan đều có các yếu tố như: du hành thời gian, tìm hiểu bản chất thế giới… khiến người xem vừa rối não lẫn rối lòng. Và Inception chính là một tác phẩm hội tụ đủ các yếu tố làm nên thương hiệu Nolan, trở thành một tượng đài khó quên trong lòng người hâm mộ.

Inception là một trải nghiệm điện ảnh đáng nhớ khi Nolan cố gắng hình tượng hóa kiến trúc tư duy của con người, biến tiềm thức trở thành không gian vật lí cho các hoạt động đánh cắp được diễn ra. Bộ phim kể về một tên trộm có khả năng đi vào giấc mơ của người khác. Dom Cobb không trộm gì cả, anh chỉ trộm ý niệm. Bằng việc thâm nhập vào tiềm thức của đối tượng, anh có thể lấy thông tin mà đến cả những tay hacker sừng sỏ nhất cũng không thể làm được. Trong thế giới điệp viên, Cobb là vũ khí tối thượng. Nhưng kể cả vũ khí cũng có nhược điểm, khi Cobb gần như mất tất cả mọi thứ, anh được giao một nhiệm vụ cuối cùng để chuộc lỗi. Lần này, Cobb không gặt lấy ý niệm, anh gieo nó. Liệu anh và đồng đội có thành công?

Christopher Nolan

Inception có một kịch bản hoàn hảo, từng thế giới giấc mơ xuất hiện trong phim vừa chính xác, tinh tế, đôi khi lại hài hước. Thời gian là chủ đề yêu thích của Nolan và ông luôn tìm được cách thể nghiệm thú vị, có thể thấy rõ điều này qua cả phim InterstellarDunkirk. Nhưng trong Inception, thời gian không chỉ là chủ đề mà còn là công cụ kể chuyện khi tái hiện lại hoàn hảo nỗi ám ảnh của kẻ cắp giấc mơ. Từ đó, bộ phim đặt ra nhiều câu hỏi hóc búa: liệu rằng ta có đang sống trong thời gian thực, khi nào thì một giấc mơ trở thành thực tế, khi nào thì thực tế hóa ra lại chỉ là một giấc mơ, ta đang thức hay còn mơ?

Thông qua Inception, Nolan lồng ghép rất nhiều khái niệm về sự logic giấc mơ, đảo ngược các nguyên tắc vật lí, cho thấy những thực tại có thể vỡ vụn ra sao… Tất cả hòa quyện vào nhau, tạo thành một tác phẩm sci-fi tâm lí đỉnh cao mà có lẽ nhiều thập kỉ sau, vẫn còn khiến người ta trầm trồ.

Hoàng Đức Nhiên

Đọc bài viết

Cafe sáng