Chuyện người cầm bút

Tưởng nhớ Rachel Carson – đợi chờ một Mùa Xuân không còn vắng lặng (phần 1)

Published

on

Tại một hòn đảo ở Maine, có một ngôi nhà nằm trên tảng đá sát rìa biển hệt như tổ chim đại bàng. Bên dưới mái hiên sau nhà với lan can sơn trắng là một tảng đá trơn tuột, dốc xuống bãi triều thấp lổn nhổn những rong lươn và tảo gạc hươu. Những con ốc mỡ bám vào đá. Những con vẹm tự kẹp vào nhau. Một con mòng biển đậu trên một tảng đá cỏ dại xù xì, tự rỉa lông và thoải mái nép mình, chống chọi với gió dữ dội đang băng qua mặt nước. Trong khi — trên vách đá — những cây vân sam, linh sam và bạch dương phủ đầy địa y, thở dài kẽo kẹt như những ông già vào một buổi bình minh ẩm ướt.

Ngồi bên chiếc bàn trong ngôi nhà ấy — một chiếc bàn gỗ thông chen vào góc phòng, nơi cánh cửa run rẩy theo từng cơn gió, như thể cầu xin để được mở ra, Rachel Carson viết: “Bờ biển là một lãnh địa cổ xưa”. Rất lâu trước khi Carson viết Mùa xuân vắng lặng — cuốn sách cuối cùng của bà — xuất bản năm 1962, bà đã là một nhà văn nổi tiếng: một nhà khoa học, nhà thơ của biển. Undersea (tạm dịch Dưới biển), bài tiểu luận đột phá của bà, xuất hiện trên tờ The Atlantic năm 1937. Bà băn khoăn: “Ai hiểu biết về biển cả? Không phải tôi, cũng chẳng phải bạn — với lượng tri thức giới hạn trên mặt đất — chúng ta đều không biết về bọt biển và cơn thủy triều dâng tràn qua chú cua đang ẩn mình dưới lớp rong; hoặc bài ca du dương của những cơn sóng dài, chậm rãi giữa đại dương, nơi đàn cá lang thang đi săn và bị săn, nơi những chú cá heo phá sóng để hít thở bầu không khí trên cao.” Đoạn văn mang cho người đọc cảm giác ngây ngất, chìm đắm trong cơn sóng ngôn từ, mớ hỗn độn đầy nước của loài nhuyễn thể, mang cá, giun ống, nhím biển, sinh vật phù du, đẫm nước muối, không cuống, hình cây, thăm thẳm, có gai, phóng xạ, ánh bạc và lân tinh, trong khi đây đó, “những con tôm hùm len lỏi mình trong ánh hoàng hôn bất diệt, với sự thận trọng tinh ranh.”

Mùa xuân vắng lặng không phải là một tác phẩm tầm thường: nó phát động phong trào vì môi trường; thúc đẩy việc thông qua Đạo luật Không khí sạch (1963), Đạo luật Hoang dã (1964), Chính sách Môi trường Quốc gia (1969), Đạo luật Nước sạch và Đạo luật về các loài có nguy cơ tuyệt chủng (1972); dẫn đến việc thành lập Cơ quan Bảo vệ Môi trường Mỹ (EPA) vào năm 1970. Trên thế giới, số lượng sách đạt được những thành tựu trên có thể đếm được trên đầu chi của loài sao biển. Tuy nhiên, số sách còn lại của Carson và gần như tất cả tiểu luận của bà đều liên quan đến đại dương. Việc Carson được tưởng nhớ vì một cuốn sách đề cập đến hiểm họa của thuốc trừ sâu thông dụng DDT hẳn sẽ khiến bà ngạc nhiên trong những năm tuổi trẻ, khi bà còn là một nhà nghiên cứu sinh vật biển tại Cục Thủy sản Hoa Kỳ, viết ghi chú về cá-trích-mình-dày, nghiên cứu mũi cá voi với chuyên ngành cao học về cá chình Mỹ.

Carson rất tự hào về Mùa xuân vắng lặng. Mặc dù vậy, thật đau lòng khi thấy tuyển tập vừa ra mắt Mùa xuân vắng lặng và những bài viết khác về môi trường do Sandra Steingraber (Thư viện Hoa Kỳ) biên soạn, không bao gồm bài viết nào của bà về biển cả. Steingraber phàn nàn rằng, “dù những cuốn sách về biển của Carson đôi khi ám chỉ đến các mối đe dọa môi trường, chúng không kêu gọi một hành động cụ thể nào cả”. Và vì thế, chúng bị gạt sang một bên. Tác động chính trị là thước đo kỳ lạ để đánh giá giá trị của một tác phẩm văn xuôi, khi sức mạnh của nó nằm ở kiến thức và xúc cảm kinh ngạc. Trong cuốn sách đầu tiên của mình, Under the Sea-Wind (1941) (tạm dịch Dưới làn gió biển), Carson đã viết, “Đứng ở rìa biển, cảm nhận sự lên xuống của thủy triều, cảm nhận hơi thở của làn sương mù di chuyển trên đầm lầy muối lớn, xem những con chim vút nhanh lên xuống những ngọn sóng đã vỗ vào các lục địa trong hàng ngàn năm, xem những con lươn già và những con cá trích non lao ra biển, là để biết về những điều gần như vĩnh cửu như bất kì dạng sống nào trên trái đất.” Bà không thể viết Mùa xuân vắng lặng nếu trong nhiều thập kỷ, bà không trèo xuống những tảng đá, xắn ống quần và lội xuống hồ thủy triều, suy nghĩ về tác động đổi thay giữa các sự vật, và làm thế nào, “sau hàng thiên niên kỷ, biển ngày càng mặn chát hơn do muối từ các lục địa.” Bà thích nhất đi ra ngoài vào ban đêm, với một chiếc đèn pin, xuyên qua bóng tối đặc quánh.

*

Tất cả các sinh vật đều được tạo ra từ biển, như Carson đã chỉ ra. Bà gọi đó là “người mẹ vĩ đại của sự sống”. Ngay cả các loài động vật có vú trên cạn, với bộ xương cứng như vôi và dòng máu mặn, cũng bắt đầu từ những bào thai bơi trong đại dương. Bản thân bà không biết bơi. Bà không thích thuyền. Trong suốt thời thơ ấu, bà chưa bao giờ ngửi thấy mùi của đại dương. “Tôi đã từng tưởng tượng biển trông như thế nào và tiếng sóng thì sẽ ra sao”.

Carson sinh năm 1907 ở phía tây Pennsylvania, gần sông Allegheny, trong một ngôi nhà gỗ hai tầng ở trang trại rộng sáu mươi bốn mẫu Anh với một vườn lê táo, một sân sau nuôi lợn, ngựa, gà và cừu, một nơi có lẽ không khác lắm với những mô tả trong đoạn mở đầu Mùa xuân vắng lặng:

Đã từng có một thị trấn ở trung tâm nước Mỹ, nơi mọi loài dường như sống hài hòa với môi trường xung quanh. Thị trấn nằm giữa những trang trại trù phú, với những cánh đồng trĩu hạt và những sườn đồi của vườn cây ăn trái, nơi vào mùa xuân, từng đám hoa trắng lững lờ trên những cánh đồng xanh. Vào mùa thu, cây sồi, cây phong và cây bạch dương thắp nên một ngọn lửa rực rỡ sắc màu trên phông nền của những cây thông. Sau đó, cáo sủa trên đồi, nai lặng lẽ băng qua cánh đồng, nửa giấu mình trong màn sương của những sớm mùa thu.

Là con út trong gia đình có ba người con, bà đã trải qua thời thơ ấu lang thang trên cánh đồng và những ngọn đồi. Mẹ bà đã dạy bà tên của các loài động thực vật. Bà đã đọc The Wind in the Willows (Gió qua rặng liễu) và những tác phẩm của Beatrix Potter. Ở tuổi lên tám, bà viết một câu chuyện về hai chú chim hồng tước tìm kiếm một ngôi nhà. “Tôi không thể nhớ nổi, ngay cả khi còn nhỏ, có lúc nào tôi không cho rằng mình sẽ trở thành một nhà văn,” bà nói. “Tôi không biết tại sao.” Những câu chuyện bà viết ở thời niên thiếu đã ghi lại những gì bà khám phá: “tổ của chim cút-mào chen chúc những trứng, tổ chim vàng anh trông như cái nôi lơ lửng trên không, tổ chim cúc cu là bộ khung với những cây gậy, và ngôi nhà phủ đầy địa y của chim ruồi.”

Và sau đó, khói bụi ngành công nghiệp than đá ở Pittsburgh đã xâm chiếm thời thơ ấu của Carson, khi cha bà bắt đầu bán dần từng tấc đất trong trang trại gia đình. Đồng cỏ biến thành cửa hàng. Đó không phải là tai họa đến từ thuốc trừ sâu, nhưng với Carson, đó là sự mất mát cho phép bà viết rõ ràng trong phần mở đầu của Mùa xuân vắng lặng, về số phận của một thị trấn Mỹ giả tưởng bị phun DDT:

Thế rồi, những triệu chứng lạ xuất hiện và mọi thứ bắt đầu thay đổi. Lời nguyền quái ác giáng xuống cộng đồng: những căn bệnh bí ẩn quét sạch đàn gà; bầy gia súc ốm dần rồi chết. Khắp nơi đều là hình bóng của thần chết. Những người nông dân nói về nhiều bệnh tật trong gia đình họ. Trong thị trấn, các bác sĩ ngày càng bối rối trước những loại bệnh tật mới xuất hiện ở các bệnh nhân. Đã có những cái chết đột ngột và không rõ nguyên nhân. Không chỉ người lớn mà ngay cả trẻ con cũng bị tấn công đột ngột khi đang chơi, rồi sau đó vài giờ thì chết.

Carson rời nhà đến Trường Cao đẳng nữ Pennsylvania để học ngành ngôn ngữ Anh. Bà từng gửi những bài thơ cho các tạp chí – Poetry, The Atlantic, Good Housekeeping, The Saturday Evening Post – và có một bộ sưu tập thư từ chối từ họ. Mẹ bà đã bán táo, gà, đồ sứ gia đình để giúp trả học phí và thường đi từ nông trại đến trường đại học mỗi cuối tuần để đánh máy giấy tờ cho con gái mình (sau này bà cũng đánh máy sách của Carson), đặc biệt là vì — giống như nhiều bà mẹ khác — bản thân bà cũng khao khát được học.

Carson, bạn bè vẫn gọi là Ray, đã dự buổi dạ hội của trường vào năm 1928, nhưng chưa từng biểu lộ hứng thú với đàn ông. Tuy nhiên, bà vô cùng say mê giáo sư sinh học của mình, Mary Scott Skinker. Bà đổi chuyên ngành và theo chân Skinker đến Woods Hole trong một dự án nghiên cứu mùa hè. Cuối cùng, bà đã nhìn thấy đại dương. Bà lùng sục trên bờ biển hàng giờ liên tục, lạc vào một thế giới mới, bị mê hoặc bởi từng sinh vật. Vào ban đêm, bà chăm chú nhìn xuống vùng nước ngoài bến tàu để xem sự kết đôi của những con giun nhiều tơ, với những sợi lông lấp lánh ánh trăng.

Carson hoàn thành bằng thạc sĩ động vật học tại Đại học Johns Hopkins và bắt đầu chương trình Tiến sĩ năm 1932. Cả gia đình chuyển đến Baltimore để sống cùng bà: mẹ bà, người cha ốm yếu, chị gái đã ly hôn và hai cô cháu gái còn rất nhỏ. Carson, người làm công ăn lương duy nhất của gia đình, đã làm trợ lý phòng thí nghiệm và giảng dạy sinh học – động vật học tại Johns Hopkins cũng như Đại học Maryland. Khi cuộc Đại Khủng Hoảng (cuộc suy thoái kinh tế 1929 – cuối những năm 1930) ngày càng nghiêm trọng, có thời gian họ phải sống dựa trên những quả táo. Cuối cùng, Carson phải rời trường cao học để nhận một công việc được trả lương cao hơn, trong bộ phận giáo dục cộng đồng của Cục Thủy sản Hoa Kỳ. Bà kiếm thêm tiền bằng cách viết báo cho tờ Baltimore Sun. Người viết tiểu sử của bà, Linda Lear, viết một cách nặng nề, rằng một bài báo của bà viết về trang trại nuôi hàu, trong khi đó “ba bài khác tiếp tục nghiên cứu về cá-trích-mình-dày.”

Cha của Carson qua đời năm 1935. Sau đó hai năm chị bà cũng mất, để lại cho Carson một người mẹ và hai cô cháu gái cần phải chăm nom. Sau đó bà đã nhận nuôi cháu trai của mình, khi cậu bé mồ côi năm bốn tuổi. Những nghĩa vụ này đôi khi khiến Carson nản lòng, nhưng người viết tiểu sử của bà thất vọng gấp đôi. Đối với Lear, tác giả của Rachel Carson: Witness for Nature (tạm dịch Rachel Carson: Chứng nhân của thiên nhiên, 1997) và biên tập viên của tuyển tập Lost Woods: The Discovered Writing of Rachel Carson (tạm dịch Khu rừng đã mất: Những ghi chép được khám phá của Rachel Carson, 1998), nghĩa vụ gia đình — cụ thể là những đứa trẻ — không gì hơn là những gánh nặng “cướp đi sự riêng tư và vắt kiệt năng lượng thể xác lẫn tinh thần.” Lear nói điều này một cách chung chung, như một cách giải thích tại sao Carson không viết nhiều hơn và tại sao ngoại trừ các bài báo cho tờ Sun, Carson chưa bao giờ nộp bản thảo đúng hạn. Nhưng quan tâm đến người khác mang lại những hiểu biết riêng. Carson nhận ra thế giới đẹp đẽ, hoang dại, bản năng và dễ bị tổn thương, mỗi bộ phận gắn liền với nhau không thể tách rời, không chỉ thông qua những nghiên cứu khoa học phi thường mà còn bằng cả đời chăm sóc người già và trẻ nhỏ, lau vầng trán người hấp hối, dỗ các cô bé mồ côi mẹ đi ngủ, hâm nóng bữa tối cho cậu nhóc cô đơn. “Gia đình” thấm đẫm trong những hiểu biết của Carson về thiên nhiên. “Động thực vật hoang dã đang suy giảm vì ngôi nhà của chúng đang bị phá hoại”, bà viết vào năm 1938, “nhưng nhà của các loài hoang dã cũng là nhà của chúng ta.” Nếu bà có ít ràng buộc gia đình hơn, bà hẳn sẽ có ít sự thấu suốt hơn.

-Còn tiếp-

ichigo lược dịch.

Bài viết gốc được thực hiện bởi Jill Lepore, đăng tại The New Yorker.

Chuyện người cầm bút

Băng: Hành trình lạc lối trong thế giới hậu tận thế

Published

on

By

Tiểu thuyết Băng của tác giả Anna Kavan là một câu chuyện giả tưởng độc đáo, kể về mối tình tay ba tuyệt vọng đan xen với bối cảnh hậu tận thế ảm đạm do thảm họa sinh thái và chính trị gây ra.

Băng không tuân theo lối kể chuyện truyền thống. Thay vào đó, Kavan sử dụng nhiều hình ảnh ẩn dụ và biểu tượng để dẫn dắt người đọc vào thế giới nội tâm của các nhân vật. Cuốn sách mang đến cho người đọc trải nghiệm đầy ám ảnh, khơi gợi những suy tư về bản chất con người và tương lai của thế giới. Để giúp độc giả hiểu rõ hơn về Băng, Bookish đã có cuộc phỏng vấn với Tâm Anh – dịch giả của quyển sách. 

Băng là một tác phẩm không viết theo lối tuyến tính thông thường. Điều này có khiến bạn gặp phải khó khăn nào trong quá trình dịch tác phẩm sang tiếng Việt không? Nếu có thì bạn đã vượt qua được bằng cách nào?

Khó khăn lớn nhất là ban đầu chính mình cũng thấy tương đối hoang mang, không nắm bắt được câu chuyện. Đến khoảng một phần ba sách rồi nhưng mình không thực sự hiểu tác giả muốn nói về điều gì. Thật tình cờ, khoảng thời gian ấy mình tham dự một buổi giao lưu trực tuyến với dịch giả Trần Nguyên của tác phẩm Bà Dalloway. Trong phần thảo luận, dịch giả An Lý đặt một câu hỏi liên quan đến bút pháp unreliable narrator, tạm dịch là người kể chuyện không đáng tin cậy. Lần đầu tiên mình nghe thấy khái niệm này, nhưng không cần viện đến định nghĩa hay tra cứu thêm, ngay khoảnh khắc đó trong đầu mình như reo vang “Eureka!” Đây chính là cách mình tiếp cận phần còn lại của tác phẩm. Mình không còn quá áp lực chú tâm vào việc lần theo một cốt truyện mạch lạc, mà tự đặt mình vào vị trí người lắng nghe một câu chuyện mơ hồ, đứt quãng, không nhân quả, không đầu cuối của nhân vật tường thuật dường như đã đạt đến đỉnh cao của thuật thao túng tâm lý ở chỗ anh ta đánh lừa được cả chính bản thân. Từ đây, mình đọc hiểu tác phẩm dễ dàng hơn và cảm giác thoải mái hơn với việc chuyển ngữ sang tiếng Việt. Dĩ nhiên đây chỉ là cách tiếp cận tác phẩm của riêng mình, và mình chắc chắn rằng còn rất nhiều cách phân tích Băng khác không chỉ của các nhà phê bình, nghiên cứu mà của từng độc giả. Nhưng điều mình đúc kết được là người dịch cần hiểu và có cảm giác thân thuộc với tác phẩm. 

Trong bức tranh hậu tận thế mà tác giả đã khắc họa, điều gì khiến bạn cảm thấy ấn tượng nhất? Đồng thời, có điều gì khiến bạn cảm thấy gần gũi với bối cảnh hiện đại ngày nay và lo sợ rằng viễn cảnh trong Băng cũng sẽ sớm xảy đến với nhân loại không?

Mình rất thích những đoạn mô tả “băng” trong tác phẩm, đây dường như là một nhân vật còn sinh động hơn “cô gái”. Tuy nhiên hiện tượng băng tràn đi khắp nơi có lẽ trái ngược với biến đổi khí hậu ngày nay – ấm lên toàn cầu dẫn đến băng tan. Dẫu vậy, mình nghĩ chi tiết này trong sách và tình trạng biến đổi khí hậu thực tế chia sẻ nhiều điểm chung: tác động quy mô toàn cầu và sức ảnh hưởng đến mọi người, không ai tránh được, song chịu thiệt thòi nhất sẽ là những nhóm người yếu thế. Mình nghĩ tác giả cố tình chọn chi tiết ngược với thực tế để câu chuyện không bị trói buộc trong lớp nghĩa duy nhất về biến đổi khí hậu mà đa tầng nghĩa, giàu tính khái quát hơn.

Có lẽ viễn cảnh trong Băng sẽ không xảy ra, ít nhất là trong tương lai gần. Nhưng mình lo lắng rằng chúng ta sẽ không hành động kịp thời để ngăn chặn các thảm họa khí hậu mà khoa học đã cảnh báo nhiều thập kỷ qua.

Bạn tâm đắc nhất điều gì về văn phong của Anna Kavan, cũng như cách tác giả xây dựng câu chuyện?

Mình có cảm giác gắn bó và kết nối kỳ lạ với “cô gái” – nhân vật nữ được kể từ góc nhìn của người nam. Mình nghĩ ngôi kể và góc nhìn này đã khắc họa rất tốt cái theo mình cảm nhận là tính nam độc hại. Không khí vô định mất phương hướng ban đầu khiến mình chật vật về sau khi nghĩ lại, chính là điểm khiến cho tác phẩm hấp dẫn đối với mình – chỉ trong những lần đọc đi đọc lại và suy ngẫm về sau, mình mới càng hiểu hơn những điều mà trước đó chưa mảy may thoáng qua tâm trí mình.

Dịch giả Tâm Anh

Việc câu chuyện này không có một nhân vật nào được đặt tên mang lại cho bạn cảm giác gì khi dịch?

Cũng như lối kể không tuyến tính, đó là cảm giác mơ hồ mất định hướng. Và mình nghĩ đây là chủ đích của tác giả. Một người bạn của mình gần đây đọc sách cũng nói đến điểm này, và rằng bạn ấy cảm nhận như thể có hai nhân vật hóa ra chính là một (các bạn đọc sẽ rõ mình sợ tiết lộ mất).

Bạn có gặp phải những từ hoặc cụm từ nào trong bản gốc khiến bạn cân nhắc rất kỹ lưỡng khi dịch không? Ví dụ, có cụm từ hay câu văn nào có thể hiểu theo nhiều nghĩa hay không?

Có một điểm là xuyên suốt cuốn sách tác giả dùng rất nhiều tính từ “white” – trắng, tuy nhiên nếu chỉ dịch đơn thuần là “trắng” trong tiếng Việt thì đôi khi vừa không nhịp nhàng, thuận tai, lại vừa như thiếu đi nét nghĩa nào đó. Do đó trong một số trường hợp mình có cân nhắc và mượn đến một số sắc thái trắng trong tiếng Việt mà mình nghĩ là phù hợp để dịch tính từ “white”. Còn về cụm từ làm khó mình thì cũng có kha khá, đa số mình đều tham khảo nhiều từ điển Anh-Anh lẫn Anh-Việt để tìm nét nghĩa tương đương nhất. Rất nhiều chỗ tra theo từng từ đơn lẻ sẽ bị sai nghĩa, vì phải tra cứu đúng cả cụm từ (ngữ) mới ra nghĩa chính xác.

Một chia sẻ thực lòng là dịch cuốn này mình còn rất non tay nên bản dịch sau cuối trên tay độc giả hiện nay cũng có sự trợ giúp biên tập, hiệu đính của một dịch giả uy tín. Bản thân mình trong quá trình dịch đã tự học được rất nhiều và khi đối chiếu với bản thảo dịch đã biên tập lại càng học thêm được nhiều điều hơn. Mình hy vọng nhờ được biên tập kỹ lưỡng như vậy nên cuốn sách xuất bản là một bản dịch trọn vẹn, hoàn thiện, cho độc giả một trải nghiệm đọc xứng đáng.

Bạn có lời nhắn nhủ nào cho những ai muốn đọc/ sắp sửa đọc tác phẩm này không? Chẳng hạn như, trước khi đọc cần phải chuẩn bị một tâm thế ra sao để việc thưởng thức tác phẩm được diễn ra trọn vẹn nhất?

Mình nghĩ với hầu hết các tác phẩm chứ không riêng gì Băng, ta có thể cứ thế bắt đầu đọc và thả mình theo câu chuyện, nếu cần tra cứu thông tin bổ trợ thì tìm kiếm thêm sau. Tuy nhiên nếu cảm giác đọc mà hoang mang không hiểu, không nắm bắt được, mình thường sẽ tìm đến các bài viết, thường là các bình luận trên The New Yorker, The New York Times hoặc một trang gần gũi hơn, tổng hợp nhiều ý kiến như Goodreads, đọc qua một số ý chính về cách tiếp cận tác phẩm, sau đó thử áp dụng vào cuốn sách mình đang đọc. Với riêng Băng, mình nghĩ các bạn đừng quá chú trọng đến cốt truyện hay một thông điệp nào. Mình cảm giác chỉ đến khi đọc xong và ngẫm lại, đọc đi đọc lại nhiều lần nữa, trong mình mới ngờ ngợ được những gì tác giả muốn nói (với một độc giả là mình, còn với người khác có lẽ bà lại nói điều khác).

Cảm ơn Tâm Anh vì đã mang đến cho Bookish một buổi trò chuyện ý nghĩa. Chúc bạn luôn thành công và gặt hái nhiều thành tựu trong tương lai.

Đọc bài viết

Chuyện người cầm bút

Tokyo và em – Khi cánh hoa anh đào rơi: Biến mất cũng có thể là một điều rất đẹp

Published

on

By

Nhà văn Nguyễn Hoàng Mai vừa ra mắt bạn đọc tập truyện ngắn Tokyo và em – Khi cánh hoa anh đào rơi về chủ đề tình yêu và những nỗi trăn trở của người trẻ. Tác phẩm tạo nên sức hút riêng với lối văn trầm tĩnh, sâu lắng. Bookish đã có cuộc trò chuyện cùng nhà văn để giúp bạn đọc hiểu hơn về tác phẩm này.

Nguyễn Hoàng Mai là tác giả của hai tác phẩm đầy cảm xúc về tuổi trẻ: Đung đưa trên những đám mây (tiểu thuyết, 2018), Bây giờ mình đi đâu (tập truyện ngắn, 2019). Bên cạnh đó, cô còn là đồng dịch giả của tác phẩm nghiên cứu Sứ đoàn Iwakura viết về chuyến du khảo nhằm canh tân Nhật Bản thời Minh Trị, vừa được Phương Nam Book phát hành trong năm 2023.

Năm 2023 vừa qua có vẻ là một năm bội thu trong lĩnh vực văn chương với Mai. Bạn vừa ra mắt tác phẩm đồng dịch thuật là Sứ đoàn Iwakura vào tháng 7 thì đến cuối năm lại ra mắt tập truyện ngắn Tokyo và em – Khi cánh hoa anh đào rơi vào ngày có số đôi đặc biệt là 12.12. Được biết, công việc của Mai ở Nhật cũng rất bận rộn; vậy bạn thu xếp thời gian ra sao để vẫn có thể vừa làm việc vừa sáng tác với năng lượng dồi dào như thế?

Thật ra hai tác phẩm được ra mắt vào năm nay Sứ đoàn Iwakura và tập truyện ngắn Tokyo và em – Khi cánh hoa anh đào rơi đều là quả muộn của quá trình viết lách từ rất nhiều năm về trước. Việc tác phẩm ra mắt vào ngày có số đôi 12.12 tuy ngẫu nhiên nhưng trở thành điểm trùng hợp khá thú vị. Trong thời gian tôi viết Tokyo và em – Khi cánh hoa anh đào rơi có những cột mốc đều gắn với con gắn liền với con số 12. Sau này tìm hiểu thì tôi mới biết khái niệm về “con số thiên thần” (Angel Number) 1212 nhằm mục đích dẫn lối đến sự mạnh mẽ dấn thân, tiến tới sự trưởng thành trong tâm thức, để sau này khi đối mặt với những sóng gió kinh khủng nhất cũng không thể làm bản thân gục ngã.

Công việc và cuộc sống ở Nhật cũng khá nhanh và bận rộn nhưng tôi luôn tìm kiếm một khoảng trời riêng, để tự do viết nên thế giới qua những trải nghiệm của chính mình. Thực ra quá trình viết cũng là quá trình tôi tự đối mặt với cảm xúc của mình, tìm ra con đường hướng tới sự an lành, bình yên trong tâm trí.

Nhân vật Mimi đã biến mất trong tiểu thuyết Đung đưa trên những đám mây, và trong tập truyện ngắn Tokyo và em – Khi cánh hoa anh đào rơi vừa ra mắt của bạn cũng có rất nhiều nhân vật biến mất. Tại sao Mai không cho họ hiện hữu lâu hơn?

Thời gian viết tập truyện, tôi đã gặp một cô gái – có thể gọi là nàng thơ cũng được – người lúc nào cũng nói về sự biến mất của chính mình. Điều đó làm tôi suy nghĩ, ngẫu nhiên cũng đã chạm vào những điều trong tâm tư của chính tôi. Một người lúc nào cũng suy nghĩ sự biến mất có lẽ luôn luôn chiêm nghiệm về sự tồn tại của mình. Có lẽ họ là những người mà đã nếm trải quá nhiều về sự vô thường trong kiếp người, và cảm giác mất mát lần lượt những thứ quan trọng trong đời.

Nhân vật người mẫu Mộc Anh mang nhiều mâu thuẫn, vừa dự cảm được vừa rất sợ sự biến mất. Nhân vật tôi đã cho cô ấy thấy biến mất cũng có thể rất đẹp, không cần phải quá sợ hãi, vì cô ấy luôn có người một người hiểu mình ở bên cạnh. Biến mất cũng có thể hiểu về cách hình dung đến cái chết. Hành trình sống của mỗi người là hành trình đi về cái chết. Nghe có vẻ bi quan nhưng có lẽ, ai cũng phải đối mặt với cái chết – sự thật này – dù sớm hay muộn. Suy nghĩ về thời gian sống còn lại, giúp người ta có thể sống một cách đam mê, dũng cảm, chân thành hơn.

Vì biết chắc một ngày nào đó, mình sẽ biến mất nên có thể sống một cách rực rỡ. Mộc Anh là một nhân vật luôn phải đấu tranh giữa những cám dỗ cuộc sống phồn hoa, nhưng một ngày cô ấy đã thức tỉnh tìm đến Tokyo – vùng đất mà cô tin mình có thể được chữa lành. Thời khắc những cánh hoa anh đào rơi trở thành điều kỳ diệu, một khoảnh khắc cũng có thể trở nên vĩnh hằng trong tâm trí những người trẻ mơ mộng ấy.

Những truyện ngắn trong Tokyo và em – Khi cánh hoa anh đào rơi lấy bối cảnh trải dài khắp các tỉnh thành ở nước Nhật. Bạn đã thực sự đi qua hết những địa điểm đề cập trong sách hay có nơi nào bạn chưa kịp đến và chỉ viết dựa trên sự hứng thú, nghiên cứu về nơi đó không? Trong các địa danh được đề cập trong sách, đâu là những nơi để lại cho Mai nhiều ấn tượng và kỉ niệm sâu sắc nhất?

Nhật Bản là quốc đảo có hình thể trải dài từ Bắc xuống Nam, gần giống như dáng hình của đất nước Việt Nam mình. Mỗi tỉnh thành của xứ sở này lại có những đặc sản riêng, màu sắc thiên nhiên, văn hóa lễ hội riêng biệt. Mỗi tỉnh thành như một nét vẽ, mảng màu kỳ diệu, hài hòa trong bức tranh tổng thể. Khi viết Tokyo và em – Khi cánh hoa anh đào rơi, tôi đã có một chút tham vọng, muốn độc giả chỉ qua những trang sách, những con chữ, vẫn có thể cảm nhận bằng giác quan, hình dung nên những câu chuyện, cảnh sắc, trải nghiệm về những nơi chốn tôi từng đặt chân đến.

Trong những tỉnh thành đó, để lại ấn tượng sâu đậm nhất có lẽ là Tokyo và Kyoto, hai thành phố có vẻ đối lập như những tấm gương phản chiếu cho nhau về lịch sử, văn hóa, phong cảnh, tính cách con người. Nơi chứa đựng nhiều kỷ niệm mang màu sắc cá nhân nhất là Tokyo sôi động, nhiệt huyết, nơi tôi đã trải qua hơn 7 năm tuổi trẻ của chính mình. Nơi lưu giữ một phần trái tim, tâm hồn tôi lại là Kyoto trầm mặc, có khả năng thấm sâu vào lòng người như hơi rượu sake ngày mưa, như những trang sách tuyệt đẹp trong tiểu thuyết Cố Đô của Kawabata Yasunari.

Ở tập truyện ngắn lần này, Mai thể hiện sự trưởng thành khá rõ trong lối viết ở cách chọn bối cảnh và những nghiên cứu kĩ lưỡng về nghề nghiệp của nhân vật được thể hiện qua các chi tiết trong truyện. Bên cạnh đó, Tokyo và em – Khi cánh hoa anh đào rơi còn có sự đa dạng về sắc thái tình yêu và những xu hướng tính dục khác nhau, không chỉ đơn thuần là tình yêu giữa hai người khác giới như nhiều tác phẩm khác trên thị trường hiện nay. Tại sao bạn lại có sự lựa chọn này?

Thông qua chủ đề khá nhạy cảm của giới trẻ là tình dục và giới tính, tôi đã muốn khắc họa sâu hơn gương mặt muôn vẻ của Tình yêu và Thanh Xuân Tuổi trẻ những ngọt ngào, mới mẻ, mơ mộng, đầy khát khao khám phá thế giới.

Về tình yêu, tôi đã luôn hiểu đó là khái niệm diệu kỳ bắt nguồn từ bên trong vẫn luôn ở đấy, nguồn sống bao trùm, tràn ngập thế giới này. Tình yêu luôn thuần khiết, mang năng lượng chữa lành vượt qua những ranh giới như: giới tính, vật chất, tuổi tác, khoảng cách địa lý v.v... Tôi đã nghĩ như vậy, muốn đem thông điệp đó vào tác phẩm của mình. Chúng ta luôn có vô vàn tình yêu trong trái tim mình. Chúng ta có bản năng yêu thương, có thể cho đi tình yêu vô điều kiện miễn là trước tiên chúng ta biết chấp nhận và yêu thương bản thân vô điều kiện. Sau khi trải qua những tháng năm tuổi trẻ ở cả Việt Nam và xứ sở Mặt Trời Mọc, tôi đã suy nghĩ, chiêm nghiệm như vậy.

Sau tập truyện ngắn Tokyo và em – Khi cánh hoa anh đào rơi, trong năm 2024, Mai có ấp ủ những dự định sáng tác mới nào không?

Giai đoạn này, tôi vẫn đang dành thời gian lắng đọng, trau chuốt lại bản thảo tiểu thuyết viết từ năm 21 tuổi. Cùng với đó là dự án kết hợp cùng một ca sĩ nhạc sĩ Gen Z viết cuốn sách về âm nhạc đường phố với bối cảnh là những khu ổ chuột Sài Gòn, một câu chuyện rất thật, khắc họa những nhân vật trẻ, cá tính, nhiều vấp ngã nhưng luôn biết cách đứng lên đầy mạnh mẽ. Với tập truyện này tôi muốn thể nghiệm một chút thay đổi trong phong cách viết, gai góc, hài hước, gần gũi hơn nhưng nếu có thể chạm sâu vào trái tim những người trẻ, gieo trong họ một câu chuyện truyền cảm hứng về sự nỗ lực không ngừng nghỉ, rằng đừng bao giờ ngừng tin tưởng vào bản thân, đừng bao giờ dập tắt ngọn lửa đam mê khi còn trẻ.

Tận sâu trong tôi vẫn còn nhiều nguồn cảm hứng sáng tác, muốn viết thêm về Tokyo, kể những câu chuyện theo những cách khác nhau, nhưng có lẽ theo một tâm thế tỉnh thức hơn.

Cảm ơn Mai đã dành thời gian trò chuyện với Bookish, chúc bạn có một hành trình thật rực rỡ trong năm mới.

Đọc bài viết

Chuyện người cầm bút

Hạ Nhiên: Dịch “Trái tim thông tuệ” đã truyền cho tôi nhiều cảm hứng sống

Published

on

Trái tim thông tuệ (do Phương Nam Book phát hành) của tác giả Jack Kornfield là một tác phẩm đặc sắc khi ứng dụng tâm lý học Phật giáo để hướng dẫn người đọc cách tự chữa lành. Được nhiều bạn đọc đón nhận, tác phẩm đã tái bản lần thứ nhất vào năm 2023.

Để giúp độc giả hiểu rõ hơn về Trái tim thông tuệ, Bookish đã có cuộc phỏng vấn với dịch giả Hạ Nhiên về quá trình chuyển ngữ tác phẩm này.

Trái tim thông tuệ là góc nhìn của Jack Kornfiled – một tác giả phương Tây nổi tiếng – về tâm lý học Phật giáo của phương Đông. Có quan điểm nào của tác giả khiến bạn thấy thú vị vì đó là góc nhìn của người phương Tây về phương Đông không?

Thực ra, cuốn sách là sự kết hợp góc nhìn của cả Đông lẫn Tây. Jack Kornfield là tiến sĩ chuyên ngành tâm lý học và phương pháp trị liệu phương Tây. Đồng thời, nhiều năm tu tập ở các tu viện châu Á đã giúp ông thấm nhuần những giáo lý Phật giáo căn bản và thu về những trải nghiệm tâm linh quý giá. Ông cố gắng giải thích những kinh điển nhà Phật cho người dân phương Tây bằng cách thức gần gũi, dễ hiểu; dùng những quan điểm và thực hành Phật giáo này để khắc phục hạn chế của tâm lý học lâm sàng vốn tập trung vào bệnh lý và chữa trị bằng thuốc men, giúp chúng ta nhìn xuyên qua lớp vỏ tối tăm bên ngoài của những triệu chứng và tìm về bản chất thiêng liêng, cao đẹp của mình, bằng cách nâng cao hiểu biết, thực hành và rèn luyện nội tâm. Sự kết hợp ấy không chỉ giải quyết nhu cầu giúp người gặp khó khăn tâm lý trở lại bình thường, mà còn hơn cả thế, giúp họ thấu hiểu và nuôi dưỡng tiềm năng phát triển cao nhất của mình và góp phần thay đổi cuộc sống xung quanh.

Hạ Nhiên

Phân đoạn nào khiến bạn tâm đắc nhất khi dịch Trái tim thông tuệ? Bạn có thể chia sẻ lí do tại sao bạn thích phân đoạn đó không?

Có một câu trong sách mình rất thích và từng in ra dán ở bàn làm việc một thời gian dài. Đó là câu Ta thấy ngươi, Mara (nguyên văn: I see you, Mara). Ở đầu chương 14, tác giả kể lại quá trình học cách thấu hiểu, làm lành với nỗi sợ hãi và cơn giận của mình, những nỗi đau đã tích tụ trong ông suốt thời thơ ấu sống với người cha bạo hành. Từ trải nghiệm cá nhân sâu sắc ấy, ông viết:

“Tôi khám phá ra rằng tất cả chúng ta đều có bên trong mình một ngài thẩm phán và bồi thẩm đoàn nội tâm, Bức Màn Sắt và cảnh sát. Bên trong chúng ta cũng có Taliban và những chốn lưu vong. Đôi khi tôi cảm thấy mình như Đức Phật ngồi dưới gốc cây bồ đề, khi Ngài đối mặt với ma quỷ bên trong chính mình trong hình dạng của Mara.”

Tiếp đó, Jack Kornfield kể lại tích Đức Phật chiến thắng Mara trước khi thành đạo. Để ngăn cản Đức Phật thực hiện mục tiêu này, Mara đã lần lượt mang đến các thử thách cho Ngài, từ những người phụ nữ xinh đẹp nhất đến đội quân ma quỷ hung tợn. Mỗi lần như thế, Đức Phật chỉ ngồi im bất động, an trú trong tình yêu thương và lòng từ bi sâu sắc. Ngài nói “Ta thấy ngươi, Mara”, và mọi gươm đao biến thành cánh hoa rơi rụng dưới chân Ngài.

“Cuối cùng, Mara tấn công Đức Phật bằng sự nghi ngờ: ‘Ngươi nghĩ ngươi là ai? Ngươi có quyền gì để ngồi đây và tìm về giác ngộ?’. Lúc này, Đức Phật đặt một tay lên mặt đất và nói, ‘Đất là chứng nhân của ta’. Và với cử chỉ này của Ngài, nữ thần đất đã xuất hiện và làm chứng cho sự kiên nhẫn, cống hiến, tính trung thực, lòng từ bi, sự rộng lượng và trí huệ mà Đức Phật đã chuẩn bị nhiều đời kiếp để giác ngộ vào đêm nay. Từ mái tóc của nàng tuôn ra cơn lũ lụt cuốn trôi đi quân đội của Mara.”

Khi dịch nội dung này mình đã rất xúc động, đồng cảm và được truyền cảm hứng. Mình nhìn thấy bản thân trong đó, từng yếu ớt, bối rối trong sợ hãi và buồn giận, nhưng đồng thời cũng tiềm ẩn một năng lực vô cùng mạnh mẽ – quyền tự do lựa chọn để vượt lên ngoại cảnh và đạt được bình yên trong tâm hồn.   

Hạ Nhiên

Trong quá trình dịch tác phẩm Trái tim thông tuệ, bạn có gặp phải khó khăn nào khi chuyển ngữ không? Bạn đã vượt qua bằng cách nào?

Vào thời điểm đó, Trái tim thông tuệ là cuốn sách nặng ký với mình, vì sách dày và đề tài tâm linh xa lạ đối với một người trẻ. Do đó, mình đã gặp không ít khó khăn trong việc tra cứu, diễn đạt và theo dõi xuyên suốt cả tác phẩm để đảm bảo tính thống nhất. Mình đã làm việc tập trung, nhiều giờ liền mỗi ngày. May mắn sao, nội dung sách lôi cuốn khiến mình quên đi mệt mỏi. Một điều đặc biệt nữa là mình đã thực hành rất nhiều bài tập trong sách. Việc này giúp mình hiểu sâu hơn tinh thần, thông điệp mà tác giả gửi gắm, cũng như tự kiểm chứng hiệu quả của các bài thực hành. Nó thật sự có hiệu quả đối với mình.

Mỗi người sẽ có một định nghĩa khác nhau về “trái tim thông tuệ”. Định nghĩa về “trái tim thông tuệ” của bạn là như thế nào? Định nghĩa đó có thay đổi gì so với trước và sau khi bạn dịch xong Trái tim thông tuệ không?

Trước khi dịch Trái tim thông tuệ, dù chưa có một khái niệm cụ thể nào, mình vẫn luôn cảm nhận được tiếng nói của trái tim. Trái tim là người bạn tốt, cổ động viên nhiệt thành và người tư vấn thông thái cho mình khi cần. Cuốn sách đã giúp mình củng cố cảm nhận này và đúc kết được rằng, trái tim thông tuệ là một trái tim hiền hòa, sáng tỏ về bản thân, cuộc sống và tràn đầy yêu thương. Mang trong mình một trái tim thông tuệ không có nghĩa là bạn yếu đuối, mà ngược lại, vô cùng mạnh mẽ, cởi mở và tự do. 

Khi biết tin Trái tim thông tuệ được tái bản, bạn có những suy nghĩ và cảm xúc như thế nào?

Mình rất hạnh phúc, biết ơn bạn đọc đã yêu quý tác phẩm. Đồng thời, mình cũng cảm ơn đội ngũ Phương Nam đã nỗ lực để cuốn sách tiếp tục được lưu hành. Trái tim thông tuệ đã giúp ích cho mình rất nhiều, và mình mong rằng nó cũng sẽ mang lại lợi lạc cho những ai đang cần đến.  

Thời gian tới, Hạ Nhiên có dự định tiếp tục dịch sách không? Bạn có thể chia sẻ những dự định sắp tới của mình trên con đường dịch thuật không?

Dịch thuật là một công việc ý nghĩa, đòi hỏi cả tâm lẫn tầm. Mình muốn dành thời gian để đọc và trau dồi nhiều hơn, để có thể mang lại những bản dịch giá trị cho mọi người trong tương lai.

Cảm ơn Hạ Nhiên vì đã dành thời gian cho một cuộc chia sẻ sâu với Bookish. Chúc bạn luôn có thật nhiều sức khỏe, thành công, hạnh phúc trên con đường tương lai.

Đọc bài viết

Cafe sáng