Book trailer

Người trồng rừng – Một ý niệm khác về hạnh phúc

Cùng Hoàng tử bé, đây là cuốn sách bất cứ một đứa trẻ nào (và cả người lớn) cũng rất nên đọc và thực hành theo.

Published

on

Nếu ai đó hỏi đâu là điểm bắt đầu cho người trưởng thành nhìn về sinh thái, thì câu trả lời chắc hẳn là Mùa xuân vắng lặng của Rachel Carson. Tôi tình cờ biết được cuốn này thông qua một cuốn sách khác, quyển sci-fic Tam Thể của Lưu Từ Hân, trong đó tác giả đã mô tả lại quá khứ của một nhân vật thời trẻ, khi bà cùng các Hồng vệ binh đốn rừng phục vụ sản xuất. Giữa khung cảnh tang thương và nhiều mất mất như thế, một cuốn sách cấm như Mùa xuân vắng lặng lại được đọc bởi một Hồng vệ binh càng là tiếng kêu thảm thiết hơn nữa, như loài ve sầu lột xác trong đêm.

Thế nhưng cũng như trong những cuốn sách khoa học thường thức khác, các tác giả ngày nay bỏ công để nghiên cứu và đúc kết ra được những nguồn thông tin quý báu chỉ sau khi thế hệ con cháu của họ bị đe dọa. Họ thường chủ quan với thời đại mình, nhưng cảm thấy nguy hiểm cho thời đại sau. Và sự chậm trễ ấy phần nào là nguyên nhân cho những ngày môi trường mù sương, hiệu ứng nhà kính xảy ra gần đây. Liệu có thể lý luận ngược lại, khi nếu trẻ con hiểu được những vấn đề về này từ sớm hơn thì liệu ta đã có một kết cục khác, một góc nhìn khác với những gì đã, đang hoặc sẽ diễn ra trong tương lai gần? Và ở một mặt nào đó tôi tin là có – và Người trồng rừng của Jean Giono như một trải nghiệm rất đáng thử qua, vừa sinh động, gần gũi; mà lại dịu dàng và nhiều triết lý.

Điểm cuốn hút đầu tiên của cuốn sách này là nó đã dẹp tan mọi tạp âm của cuộc sống thường ngày. Không gian lão Bouffier và người lữ khách đi đến là vùng cao nguyên bán hoang mạc, nơi chỉ mọc heo hút vài khóm oải hương dạo. Trong vùng đất bị xóa trắng ấy, câu chuyện bắt đầu, dày lên và được làm nền. Trong một khoảnh khắc nào đó, tôi nghĩ, Jean Giono đã đưa người đọc về thời khởi thủy, khi Bouffier và lũ cừu của ông như thuyền Noah và muôn loài thú dời đi sau trận Đại hồng thủy – nơi trái đất đang bắt đầu lại, và cũng là nơi mọi thứ đang dần diễn ra.

Trong tác phẩm đoạt giải Pulitzer – Vòm Rừng của mình, Richard Powers đã mượn một nhân vật để tự vấn đức tin rằng: “Khi Chúa nhấn chìm mọi thứ, sinh vật duy nhất Ngài muốn mang theo là những con vật. Vậy những loài cây ở đâu sau lời sấm truyền ấy?”. Và hành trình của lão Bouffier như lời hồi đáp cho câu hỏi đó, bằng những hành động kỹ càng mà đầy yêu thương.

Với lão Bouffier, Jean Giono không cho người đọc cái nhìn của một lão đỏm dáng chỉ khi nhận ra cuộc sống của mình đang đến hồi kết thì mới cố gắng làm điều gì đó để cửa thiên đường được phần rộng mở. Mà qua quá trình gieo hạt, tìm hiểu; lão đã biết được cây phong không thể lớn lên ở nơi thiếu nước hay cây sồi mới thực sự phù hợp ở nơi đây. Và cũng trong quá trình ấy, cứ một trăm ngàn hạt giống khi ta đem gieo thì chỉ có hơn mười ngàn hạt cây nảy mầm… Tất cả tri thức ấy gợi ta nhớ đến một người thầy vĩ đại hơn, rực rỡ hơn của vấn đề sinh thái – Adold Lepold.

Từ khi rừng được tái sinh, những vấn đề khác cũng đến manh mún xếp hàng vây quanh. Từ chỗ hơn 10 căn nhà với 3 gia đình bán than, nơi người ta nhỏ nhen, bạc nhược tranh nhau mỗi lúc mỗi nơi; nay hương thơm ngào ngạt níu lấy con người từ ngay dưới chân đường cái. Rừng hay những loài cây có một sức hút thật sự mãnh liệt, nó đem nước về lại những cành trụi khô, thành nơi sinh sống cho loài thú hoang hay cả con người, và hơn hết, là một thực thể có đủ sự sống và những điều riêng còn nhiều bí ẩn.

Chính khi khu rừng lớn nhanh cũng chính là lúc con người xuất hiện trở lại. Ho đo đạc và suy tư trong mình những ý định khai thác. Với một cơ may là chiến tranh không còn tàn phá, với những con người duy tâm tin rằng Chúa đang ký thác gửi đến một rừng hạt giống… những nỗi sợ hãi dẫu cho hoang đàn cũng thành điều tốt với khu rừng ấy. Và dẫu cho hai kỳ thế chiến có đốt nó đi, người ta có xách dao rựa đến chặt nó xuống; thì lão Bouffier vẫn thế, vẫn cách xa đến muôn hàng dặm tiếp tục công việc rải hạt của mình.

Trong những khoảnh khắc của cuốn sách này, Jean Giono có đôi lần nói rằng lão Bouffier hay người lữ thứ – có thể là cả chính ông – thường hay thường kiệm lời. Nhưng thật ra tôi lại nghĩ khác. Những người du mục thuộc những bộ tộc – những Bedouin trên thảo nguyên hay bán hoang mạc, họ nhìn thời tiết để mà tận hưởng, đóan định cuộc sống. Và lão Bouffier ở đây cũng vậy. Ông im lặng vì cây cối giao tiếp với ông bằng ngôn ngữ khác, bằng niềm tri âm hay những tiếng động dẫn cho xào xạc mà ta không thể hay biết. Chỉ có thể hiểu rừng đã ở đó, từ rất lâu rồi.

Ông lão già nua mà đầy tráng kiện ấy cũng không ôm hết công trạng vào bản thân mình. Người ta có thể bảo rằng lão chí công vô tư, nhưng từ vẻ ngoài ít nói tôi lại đoán rằng, thật ra lão nghĩ trồng rừng là điều nên làm, vì không ai làm nên lão sẽ làm – như ngay câu đầu mở vào cuốn sách “muốn thấy được cá tính vĩ đại của một người, ta phải có cơ hội quan sát hành động của họ trong nhiều năm tháng. Nếu người đó có hành động vị tha và cao cả, đem lại nhiều lợi ích lớn lao rõ ràng, mà không cần một sự đền đáp nào, một con người như thế ta rất khó thể quên”. Và cũng rõ ràng ông chẳng hề biết chỗ này là đất của ai, của lão địa chủ hay đất của tổng; thế nhưng đó là việc nên làm và cần phải làm.

Với Người trồng rừng, Jean Giono bằng một câu chuyện mang vẻ thần thoại đã khắc họa được một bức tranh tuy nhỏ mà đầy sống động về mối quan hệ giữa con người và thiên nhiên. Trong đó, ông khắc họa một cách thành công nhân vật kinh điển – lão Bouffier – để vượt qua những giới hạn nhận thức thông thường; người ta có thể hiểu được đó là ý niệm, là niềm vui sống khi con người hòa mình cùng với thiên nhiên. Một trang viết đẹp và nhiều chiêm nghiệm.

Cùng Hoàng tử bé, đây là cuốn sách bất cứ một đứa trẻ nào (và cả người lớn) cũng rất nên đọc và thực hành theo.

Hết.

Chiêu Dương

*


Book trailer

Niên lịch miền gió cát bàn cách sống hòa hợp thiên nhiên

Published

on

Sách Niên lịch miền gió cát là ghi chép của Aldo Leopold - nhà sinh thái học hoang dã - về các con người tôn trọng thiên nhiên.

Aldo Leopold là nhà địa chất học, nhà môi trường học. Năm 1935, gia đình ông mua một trang trại cũ gần sông Wisconsin (Mỹ), trồng cây và cứu sống cánh đồng đã chết. Ông ghi nhận những thay đổi của sinh, thực vật trong quá trình phục hồi. Các bản thảo sau đó được tập hợp thành quyển Niên lịch miền gió cátxuất bản tháng 4/1948, một tuần sau khi tác giả mất do đau tim.

Niên lịch miền gió cát do Dương Mạnh Hùng chuyển ngữ. Sách Phương Nam phát hành. Ảnh: Phương Nam Book.

Sách gồm ba phần. Phần một là quan sát sinh vật thay đổi theo từng tháng tại trang trại ở Wisconsin. Phần hai là ghi chép hành trình khám phá đời sống hoang dã của ông trong 40 năm. Phần cuối là nhận định về việc bảo tồn thiên nhiên. Thông qua thể văn xuôi đậm chất hóm hỉnh kết hợp yếu tố lịch sử, khoa học, Leopold truyền tải ý nghĩa về mối liên hệ giữa con người với môi trường, hy vọng độc giả yêu, tôn trọng thiên nhiên.

Ông đề ra đạo đức môi trường tự nhiên (land ethic): "Một hành động là đúng đắn là khi hướng tới bảo tồn tính toàn vẹn, ổn định của cộng đồng sinh vật". Leopold viết: "Con người sẽ có ý thức bảo tồn khi tiếp xúc, hiểu, cảm nhận được vẻ đẹp của thiên nhiên". Khi sống gần các sinh, thực vật, mỗi người sẽ hình thành đạo đức - cơ chế tự kiểm duyệt trước khi hành động tổn hại môi trường. Con người cần khám phá, kết nối với tự nhiên để có lòng yêu thương, quan tâm thế giới tạo hóa ban tặng.

Theo Buddy Huffaker, chủ tịch của Aldo Leopold Foundation (tổ chức nâng cao ý thức bảo vệ môi trường dựa trên lý luận của Leopold): "Nhờ lập luận về đạo đức môi trường tự nhiên nên Niên lịch miền gió cát được săn đón vào năm 1970 - lần đầu tiên tổ chức Ngày Trái đất. Các ghi chép về đạo đức của tác giả được áp dụng rộng rãi và vô tình trở thành chuẩn mực ứng xử với thiên nhiên". The Boston Globe nhận định sách là "một trong những tác phẩm có tầm ảnh hưởng mạnh mẽ đến phong trào môi trường".

Aldo Leopold là nhà khoa học, nhà địa chất học, nhà triết học, nhà môi trường học người Mỹ. Ảnh: aldoleopold.

Aldo Leopold (1887-1948) trải qua thời thơ ấu tại Burlington, gần dòng sông Mississippi - nơi dấu chân của ông trải khắp các khu rừng, đồng cỏ. Leopold học lâm nghiệp tại trường dạy về rừng của Yale. Sau khi tốt nghiêp năm 1909, ông làm việc tại Cục Kiểm lâm Mỹ, đồng thời nghiên cứu sinh thái học, đề ra đạo đức môi trường tự nhiên. Năm 1933, tập sách về quản lý động vật hoang dã Game Management được xuất bản. Năm 1982, vợ và năm người con thành lập The Aldo Leopold Foundation nhằm nâng cao nhận thức bảo vệ môi trường hoang dã dựa trên di sản trí tuệ tác giả để lại.

Theo VNexpress

Đọc bài viết

Book trailer

Người đẹp ngủ mê – tiểu thuyết kinh điển về nỗi buồn

Published

on

Người đẹp ngủ mê của nhà văn Nhật Kawabata Yasunari khắc họa nỗi buồn qua những suy nghĩ về sự sống và hoài niệm.

Người đẹp ngủ mê do dịch giả Quế Sơn chuyển ngữ, tái bản trong nước cuối tháng 11. Tác phẩm xuất bản lần đầu năm 1961, dựa trên kịch bản sân khấu kabuki Những mỹ nữ, công diễn vào khoảng thế kỷ 17 ở Nhật Bản.

Bìa sách Người đẹp ngủ mê. Tác phẩm dày 160 trang, tái bản trong nước cuối tháng 11. Ảnh: Phương Nam Book
Bìa sách Người đẹp ngủ mê. Tác phẩm dày 160 trang, tái bản trong nước. Ảnh: Phương Nam Book

Tác phẩm xoay quanh năm lần ông lão Eguchi ghé thăm ngôi nhà của những trinh nữ xinh đẹp tuổi chưa đầy 20. Họ bị gây mê bằng thuốc ngủ liều cao, khỏa thân trong tình trạng ngủ say. "Nếu chỉ cần lay nhẹ mà cô gái đã thức dậy thì ngôi nhà này đâu còn gì bí ẩn nữa. Các vị khách đến đây 'giống như ngủ với một ông Bụt vô hình'. Đối với các ông già, ngủ với một người đẹp không khi nào tỉnh thức là một mối cám dỗ, một cuộc phiêu lưu, một niềm vui thú mà họ tin mình còn thực hiện được", tác giả viết.

Mỗi chương là một lần Eguchi đến ngôi nhà ngủ cùng cô gái khác nhau. Khi màn đêm buông xuống, nhiều tiếng động kết hợp tạo nên bản nhạc của thiên nhiên, con người. Hơi thở của những cô gái, cộng với tiếng gió thổi qua mái nhà và âm thanh sóng biển đập vào vách đá. Từ đó, Eguchi hồi tưởng quá khứ, nhớ về những người đàn bà đi qua đời ông.

Tác giả lấy những hoài niệm để ẩn dụ cho sự tiếc nuối vẻ đẹp văn hóa Nhật Bản. Kỷ niệm tái hiện qua không gian, hình ảnh thiên nhiên xung quanh ngôi nhà của các mỹ nữ. Việc ngủ cạnh những cô gái khiến Eguchi khám phá nhiều cung bậc cảm xúc, đồng thời nhận ra sự cô đơn của mình. "Một nỗi cô đơn buồn bã trào lên. Nhưng hơn cả nỗi cô đơn hay nỗi buồn rầu, chính là nỗi cô chiếc tuyệt vọng của tuổi già như thể đông lạnh hẳn trong ông", Kawabata viết.

Tác phẩm không chỉ tràn ngập những mỹ từ, như "bàn tay mịn và đẹp, mái tóc trinh trắng, đôi má ửng đỏ, cổ và vai trông tươi và trẻ", mà còn suy tưởng về quy luật của thời gian, sự sống và cái chết, nỗi hoài niệm quá khứ, khao khát tương lai. Đời sống xã hội mang nhiều tổn thương, khiến con người dễ rơi vào tâm trạng cô đơn, tiếc nhớ những tháng ngày quá khứ.

Bìa trong của tác phẩm Người đẹp ngủ mê năm 2023. Ảnh: Phương Nam Book
Bìa trong của tác phẩm Người đẹp ngủ mê năm 2023. Ảnh: Phương Nam Book

Càng về cuối, Kawabata càng đào sâu ký ức của nhân vật chính, nhằm giúp Eguchi tìm lại được cảm xúc thuần túy nhất. Eguchi tin những lão già như mình, khi có dịp trú ngụ tại ngôi nhà của các mỹ nữ, không chỉ nhìn lại thời trai trẻ mà cố quên đi những việc tiêu cực xảy ra trong cuộc đời. Từ khía cạnh này, Eguchi liên tưởng những người đẹp ngủ mê là hiện thân của thần tiên trong các truyền thuyết.

"Cô gái ngủ mê man như chết nhưng thời gian sinh tồn của nàng đâu có ngưng chảy, vậy nàng có giữ được thời gian đó không hay là nó chảy tuột vào một vực sâu không đáy? Nàng không phải là một búp bê sống, vì không thể có búp bê sống trên thế gian này; nàng được biến thành một đồ chơi sống, để các cụ già đã mất năng lực đàn ông không bị cảm thấy xấu hổ. Không, không phải một đồ chơi: đối với các cụ, nàng chính là cuộc sống. Một cuộc sống người ta có thể sờ mó được, một cách tự tin", Kawabata nhận định.

Trong một số tác phẩm, Kawabata thường lồng ghép quan điểm của mình để gợi nhớ cuộc sống mồ côi và những khó khăn thời trẻ tuổi trẻ. Đồng thời, nhà văn để lại nhiều khoảng trống để độc giả tự khám phá. Bằng sự khéo léo biến hóa ngôn từ, Kawabata dẫn dắt người đọc qua nhiều tình huống, tạo nên cảm nhận khác nhau khi đọc tác phẩm.

Tác phẩm được giới chuyên môn và nhiều độc giả đánh giá cao. Năm 1968, Người đẹp ngủ mê giúp Kawabata Yasunari trở thành tiểu thuyết gia người Nhật đầu tiên đoạt giải Nobel Văn học. Đại diện Viện Hàn lâm Thụy Điển nhận xét: "Tác giả tôn vinh cái đẹp hư ảo, đồng thời khắc họa nỗi buồn hiện hữu trong đời sống thiên nhiên và định mệnh con người".

Trên trang đánh giá sách Goodreads, độc giả Jim Fonseca viết: "Những dòng văn mở đầu câu chuyện góp phần che đậy nỗi khao khát và ký ức tình yêu trong quá khứ của nhân vật. Tác phẩm có chút kinh dị nhưng hấp dẫn, khắc sâu vào tâm trí tôi".

Nhà văn Kawabata Yasunari. Ảnh: Estate of Yousuf Karsh
Nhà văn Kawabata Yasunari. Ảnh: Estate of Yousuf Karsh

Kawabata Yasunari (1899-1972) sinh ra ở Osaka, mồ côi năm lên hai tuổi. Từ đó, ông và người chị ruột sống cùng ông bà ngoại và gia đình người dì. Qua thời gian, những sáng tác văn chương, tiểu luận mỹ học và phê bình văn học của Kawabata vẫn luôn hấp dẫn nhiều nhà nghiên cứu văn học khắp thế giới, do phản ánh nhiều phương diện văn hóa và đề cao tinh thần người Nhật. Nhiều tác phẩm của Kawabata từng xuất bản trong nước, gồm: Đẹp và buồnHồTiếng núiXứ tuyếtBồ công anh.

Theo Vnexpress

Đọc bài viết

Book trailer

Quán thiền trong Đường xưa mây trắng của Thiền sư Thích Nhất Hạnh

Published

on

Đường xưa mây trắng là tác phẩm của Thiền sư Thích Nhất Hạnh. Cuốn sách kể về cuộc đời Đức Phật, mà ai đọc vào cũng cảm nhận được điều hay lẽ phải. Giáo lý nhà Phật được tác giả phân tích dễ hiểu, dễ nắm bắt.

Thầy Thích Nhất Hạnh (tên khai sinh Nguyễn Xuân Bảo, sinh năm 1926, tại Huế). Ông là Thiền sư nổi tiếng người Việt Nam. Ông hiện là nhà sư có ảnh hưởng lớn đến Phật giáo trên toàn thế giới. Không những là nhà tu hành, Thích Nhất Hạnh còn hiện diện là một nhà văn, nhà thơ, nhà khảo cứu. Đến nay, ông đã viết được hơn 100 cuốn sách.

Hầu như tác phẩm nào của ông cũng gây được sự chú ý không chỉ ở những người theo Phật giáo, mà ở nhiều độc giả, ở mọi lứa tuổi, ngành nghề, tôn giáo khác. Tác phẩm Đường xưa mây trắng của Thầy Thích Nhất Hạnh có thể được coi như là một cuốn tiểu thuyết về cuộc đời Đức Phật, mà trong sách, tác giả gọi là Bụt. Bụt là phiên âm từ âm Buddha trong tiếng Phạn.

Quán thiền trong Đường xưa mây trắng của Thiền sư Thích Nhất Hạnh
Tác phẩm Đường xưa mây trắng - Thiền sư Thích Nhất Hạnh

Cuộc đời Đức Phật được kể qua con mắt của chú bé chăn trâu Svasti, sau xuất gia, trở thành một vị đệ tử của Phật. Svasti từng cúng dường cỏ bồ đề cho cho Đức Phật suốt 49 ngày trước khi thành đạo. Đây có thể là góc nhìn khác lạ của tác giả so với nhiều người kể về Đức Phật.

Qua đôi mắt đứa trẻ, mọi sự vật, sự việc sẽ được kể chân thật, hồn nhiên, không có gì phải giấu diếm. Đức Phật hiện diện lên trước hết, không phải là một thần linh, mà là một con người giản dị, có cuộc sống và mơ ước như bao người. Mơ ước của Đức Phật là làm lợi cho muôn loài.

Thiền sư Thích Nhất Hạnh

Tác phẩm Đường xưa mây trắng được chia làm 81 chương, trong mỗi chương là những cảnh xưa, người xưa được hiện diện lên sống động. Giáo lý nhà Phật được nói dễ hiểu, gọn gàng. Những tập tục của người xuất gia xưa, hay cách quán thiền cũng được tác giả lồng ghép vào khéo léo.

Câu chuyện diễn ra tự nhiên, không có một gượng ép nào. Tác giả cho thấy sức tưởng tượng thiên tài của mình, người đọc có thể tưởng rằng, tác giả phải là người sống bên cạnh Đức Phật mới có thể viết tỉ mỉ, lý thú như vậy, nếu như không đọc tên người viết.

Tâm sự về cuốn sách này, Thiền sư Thích Nhất Hạnh từng viết: “Tôi còn nhớ là tôi đã viết Đường xưa mây trắng ở trong cái quán của Xóm Thượng. Hồi đó chưa có lò sưởi trung ương, trong phòng chỉ có một cái lò sưởi đốt củi thôi và trời rất lạnh. Tay phải tôi viết còn tay trái thì đưa ra hơ trên lò sưởi. Tôi đã viết những chương của Đường xưa mây trắng với rất nhiều hạnh phúc.

Thỉnh thoảng tôi đứng dậy pha trà để uống. Mỗi ngày viết mấy giờ cũng như được ngồi uống trà với đức Thế Tôn. Và tôi biết trước người đọc sẽ rất có hạnh phúc vì khi viết mình cũng đang có rất nhiều hạnh phúc. Viết Đường Xưa Mây Trắng không phải là một lao động mệt nhọc mà là cả một niềm vui lớn. Đó là một quá trình khám phá. Có những đoạn tôi cho là khó viết, như đoạn Bụt độ cho ba anh em ông Ca Diếp.

Tài liệu thường nói là Bụt độ ba anh em đó nhờ thần thông của Ngài, nhưng khi viết thì tôi đã không để cho Bụt dùng thần thông mà cứ để Bụt sử dụng từ bi và trí tuệ của Ngài để độ ba ông ấy. Bụt có rất nhiều trí tuệ, rất nhiều từ bi, tại sao Bụt không dùng mà lại phải dùng thần thông? Và tôi có một niềm tin rất vững chắc là mình sẽ viết được chương đó. Chương này là một trong những chương khó nhất của Đường Xưa Mây Trắng nhưng cuối cùng tôi đã thành công. Chương khó thứ hai là chương nói về cuộc trở về của Bụt để thăm gia đình. Ngài đã thành Phật rồi, Ngài đã thành bậc toàn giác rồi, nhưng về thăm gia đình thì Ngài vẫn còn là một đứa con của cha, của mẹ, vẫn là một người anh của các em.

Viết như thế nào để Bụt vẫn còn giữ lại được tính người của Ngài. Cũng nhờ niềm tin đó mà tôi thành công. Quý vị đọc lại, sẽ thấy Bụt về thăm nhà rất tự nhiên. Cách Ngài nắm tay vua cha đi từ ngoài vào, cách Ngài đối xử với em gái, cách Ngài đối xử với Yasodhara và Rahula, rất tự nhiên. Tôi có cảm tưởng là có chư Tổ gia hộ nên tôi mới viết như vậy được. Trong Đường Xưa Mây Trắng chúng ta khám phá ra Bụt là một con người chứ không phải là một vị thần linh”.

Một trích dẫn hay trong tác phẩm Đường xưa mây trắng - Thiền sư Thích Nhất Hạnh

Đường xưa mây trắng được biết đến là cuốn sách đã bán được nhiều triệu bản, được dịch ra hơn 20 tiếng trên thế giới. Sau khi đọc được cuốn sách này, nhà tỉ phú Ấn Độ Bhupendra Kuman Modi đã quyết định tài trợ 120 triệu USD để các nhà làm sản xuất dựa theo Đường Xưa Mây Trắng dựng thành phim.

Qua cuốn sách Đường xưa mây trắng, thầy Thích Nhất Hạnh đã vẽ lại phần nào khung cảnh xưa: “Trong bóng me im mát vị khất sĩ Svastika đang thực tập phép quán niệm hơi thở. Chú ngồi trong tư thế hoa sen. Từ hơn một tiếng đồng hồ, chú đã ngồi thực tập như thế một cách chăm chú. Đó đây trong tu viện Trúc Lâm, hàng trăm vị khất sĩ cũng đang ngồi thực tập thiền quán, hoặc trong bóng tre, hoặc tron những chiếc am lá nhỏ đựng rải rác khắp nơi trong tu viện, xen lẫn giữa những bụi tre xanh tươi và khỏe mạnh”.

Đọc cuốn sách này, chúng ta học được nhiều điều hay của Đức Phật, đó là cách nói chuyện, cách hành động, cách lý giải cuộc sống. Và đặc biệt, là cách quán thiền, cách tĩnh tâm trước những biến động của đời người.

Theo báo Pháp luật

Đọc bài viết

Cafe sáng