Trà chiều

Cách nhìn thế giới qua lăng kính của Định luật I Newton

Published

on

Vật lý có lẽ là nỗi ám ảnh của rất nhiều thế hệ học sinh, và chắc cũng không ít bạn cho rằng nó là môn học vô vị, nhàm chán hay thậm chí là khó hiểu và đáng sợ. Nhưng theo tôi, vật lý cũng như bao môn học khác – nó có điểm thú vị của riêng nó. Mong rằng sau khi đọc bài viết, tôi có thể thay đổi chút ít cái nhìn của bạn về bộ môn này. Mà các bạn yên tâm đi, hôm nay chúng ta sẽ chẳng nói gì về tính toán cả đâu.

Vật lý là bộ môn khoa học tự nhiên chú trọng về thực nghiệm, lí thuyết và tính toán. Nhưng thông qua cơ duyên nào đó, hay vì do bản chất của ngành khoa học này là nghiên cứu về thế giới xung quanh, mà một số định luật vật lý lại tình cờ mang những ý nghĩa nhân văn sâu sắc và có thể ứng dụng vào cả đời sống xã hội của con người. Sau đây sẽ là một số bài học không ngờ đến về cuộc sống, khi bạn nhìn nhận định luật của nhà vật lý thiên tài Newton qua một lăng kính, một góc nhìn có phần khác lạ một chút.

*

Định luật I Newton:

Định luật này nói rằng, một vật nếu không chịu tác dụng của bất cứ lực nào hoặc tất cả các lực tác dụng lên vật đã tự triệt tiêu lẫn nhau (hợp lực bằng không) thì một vật đang đứng yên sẽ tiếp tục đứng yên, một vật đang chuyển động thẳng đều sẽ tiếp tục chuyển động thẳng đều.

Chỉ qua vài câu thôi, nhưng tôi vừa mô tả cho bạn một bản chất cơ bản của bản thân bạn, của tôi và của cả vũ trụ này nữa. Đó chính là mọi vật trên thế gian này đều muốn bảo toàn trạng thái hiện tại của nó.

Một viên đá nằm trên mặt đất, nếu không ai động vào nó, nếu không có gió thổi vào nó; nếu không có côn trùng, vi khuẩn, nấm mốc đến đục khoét thì viên đá đó chắc chắn sẽ nằm yên tại đó hàng triệu, hàng tỷ năm. Điều này nghe qua thì có đôi chút vô lí nhỉ? Nhiều điều kiện đến thế thì làm gì có hòn đá nào đáp ứng được, đúng không? Bạn nói cũng không hẳn sai đâu, một viên đá nằm mãi mãi ở một chỗ thì đúng là gần như không thể trong cái thế giới vận động không ngừng này của chúng ta. Nhưng liệu bạn có biết, trên cái hành tinh đầy biến động này, nơi mà qua hàng triệu năm, đáy biển cổ đại có thể bị vỏ Trái Đất đẩy lên thành ngọn núi khổng lồ cao hàng ngàn mét; nơi một vùng biển, một vùng nhiệt đới ẩm ướt khi xưa giờ lại hóa thành sa mạc Sahara rộng lớn và khô cằn, ấy thế mà vẫn tồn tại những hòn đá mong manh nằm yên và còn nguyên vẹn suốt hàng triệu năm. Đó là những hoá thạch cổ đại, những hòn đá chứa di tích của những sinh vật đã sống cách đây từ rất lâu, rất lâu rồi. Những hòn đá hoá thạch này, chúng chôn mình sâu trong đất đá, trốn tránh khỏi thế giới hiện thực đầy biến động để rồi sau hàng triệu năm, chúng vẫn chỉ là những hòn đá vô tri vô giác, suốt hàng triệu năm mà cũng chẳng đổi thay gì cả.

Bạn cũng như vậy đấy, nếu cứ sống khép mình mà trốn tránh khỏi thế giới, nếu cứ ở yên đấy chờ cơ hội đến với mình thì dù có bao lâu nữa trôi qua, bạn cũng sẽ chẳng có chút tiến bộ nào so với ngày hôm nay đâu, cũng sẽ giống như hòn hoá thạch kia mãi chẳng thay đổi được gì cả, mãi mãi cứ tiếp tục đứng yên, đứng yên và đứng yên. Như một di tích từ một quá khứ xa xăm nào đó, cứ nằm đấy mãi không chịu thay đổi.

Một vật khi đã đứng yên thì nó tiếp tục đứng yên để bảo tồn cái trạng thái ù lì, bị động, lười biếng của bản thân. Vì đó là bản chất của vạn vật trên thế giới này, và cả trong vũ trụ rộng lớn bao la này. Bảo toàn trạng thái hiện tại chính là lý tưởng của vạn vật.

Nhưng khoan đã nào, liệu các bạn có đang thắc mắc, rằng nếu như mọi vật đang đứng yên đều muốn tiếp tục đứng yên, vậy thì tại sao mọi thứ xung quanh chúng ta, mọi thứ trong thế giới của chúng ta đều cứ như là đang không ngừng vận động. Bạn có đang băn khoăn về điều này không? Quả đúng là một nghịch lí phải không nào?

Sau đây là lí giải của tôi, sở dĩ mọi thứ xung quanh ta đều có vẻ đang không ngừng vận động trong khi bản chất của chúng lại là luôn muốn bảo toàn trạng thái là vì một trong hai lí do sau:

Lí do thứ nhất, trạng thái ban đầu của chúng đã là “chuyển động” nên chúng muốn tiếp tục bảo toàn trạng thái này. Một người từ lúc còn nhỏ đã siêng năng chăm chỉ, ngày nào cũng được mẹ gọi dậy thật sớm, thì đến lúc trưởng thành, người này hẳn vẫn sẽ cứ tiếp tục siêng năng chăm chỉ, ngày nào cũng sẽ dậy thật sớm như năm xưa dù không có mẹ gọi dậy nữa. Cả Trái Đất của chúng ta cũng vậy, ngày từ lúc được tạo thành nó đã chuyển động quay vòng xung quanh Mặt Trời rồi, nên đến tận ngày nay – 4,5 tỷ năm sau khi được sinh ra – Trái Đất vẫn cứ thế, vẫn còn quay quanh Mặt Trời. Trong vật lý, người ta có một tên gọi cho hiện tượng xuất hiện trong hai ví dụ trên – hiện tượng các vật muốn tiếp tục bảo toàn trạng thái hiện tại, đó là quán tính. Định luật I Newton còn được gọi là định luật quán tính, cũng chính vì lí do này.

Lí do thứ hai, trong vật lý có hai yếu tố khiến cho một vật đang đứng yên sẽ không thể tiếp tục đứng yên, một vật đang chuyển động thẳng đều sẽ không thể tiếp tục chuyển động thẳng đều, khiến cho vạn vật phải không ngừng vận động, không thể bảo toàn được trạng thái hiện tại, đó là ngoại lực và nội lực.

Nội lực là các yếu tố bên trong. Nếu muốn cuộc sống của bản thân thay đổi, nếu muốn bản thân mình cũng “vận động” không ngừng, thì dùng chính sức lực tự thân là một cách. Sử dụng chính ý chí, nghị lực và năng lực của bản thân để thay đổi cuộc sống, thay đổi thế giới của chính mình.

Việc này nói thì dễ nhưng làm thì lại rất khó, vì nếu muốn tạo ra một thay đổi thật sự, “nội lực” của bạn phải thật sự đủ mạnh. Có đủ sức mạnh ý chí từ bên trong để thay đổi đã là khó, nhưng có đủ quyết tâm để duy trì ý chí đó lại càng khó khăn hơn gấp bội phần. Sức mạnh ý chí vốn không phải là một tài nguyên vô tận, nó sẽ hao mòn dần theo năm tháng. Mỗi ngày tôi sẽ chạy bộ 10km – một lời hứa ai cũng làm được, nhưng có bao nhiêu người đủ ý chí để thực hiện điều đó được một ngày, bao nhiêu người sẽ thực hiện điều đó được ba ngày, một tuần, một tháng, một năm rồi xuyên suốt những năm tháng còn lại của cuộc đời. Ý chí không phải là thứ ai cũng có và những người có khả năng duy trì sức mạnh ý chí suốt một thời gian dài lại càng hiếm hơn.

Vậy nên, nếu như bạn muốn dựa vào “nội lực” của bản thân để thay đổi cuộc sống của mình từ “đứng yên” sang “chuyển động” thì hãy dồn thật nhiều ý chí ngay từ lúc ban đầu, nhưng đừng dùng nó để duy trì một trạng thái “chuyển động” tạm bợ nào đó, vì khi ý chí của bạn cạn kiệt, “chuyển động” kia sẽ dừng lại và cuộc sống của bạn sẽ trở về với trạng thái đứng yên ban đầu. Việc bạn cần làm là hãy dồn thật nhiều công sức để biến trạng thái “đứng yên” của bản thân thành một “chuyển động thẳng đều”. Vì một vật chuyển động thẳng đều sẽ tiếp tục chuyển động thẳng đều, một vật đã quen với chuyển động sẽ tiếp tục chuyển động, vì nó đã có quán tính, vì quán tính của nó lúc này là một quán tính chuyển động. Có nghĩa là nếu như bạn muốn thay đổi cuộc sống của bản thân, hãy dồn thật nhiều quyết tâm để hình thành những thói quen sẽ tạo nên cuộc sống mới đó. Vì thói quen thì không cần nguồn nhiên liệu là sức mạnh ý chí để vận hành. Đây là một cuộc đua với thời gian, cuộc đua dùng ý chí để hình thành thói quen trước khi ý chí bị cạn kiệt. Một khi thói quen đã được hình thành thì bạn đã có “quán tính chuyển động”, bạn đã phần nào “chuyển động thẳng đều”, mọi thứ đã đi vào quỹ đạo. Khi ấy, hẳn là việc tiếp tục “chuyển động không ngừng” cũng sẽ dễ như việc Trái Đất dù không cần làm gì nhiều vẫn có thể quay quanh Mặt Trời suốt hàng tỷ năm.

Còn nếu bạn nghĩ bản thân sẽ không bao giờ có đủ ý chí để thay đổi (“nội lực” không đủ) thì vẫn còn một lựa chọn khác. Đó là ngoại lực – những yếu tố bên ngoài. Hãy tìm cho bản thân một ngoại lực để không ngừng nhắc nhở bản thân tiến lên phía trước, hay ít ra là một ngoại lực có thể thúc đẩy bạn mỗi khi ý chí đã bị hao mòn. Ngoại lực có thể là rất nhiều thứ, ví dụ như một người không ngừng nhắc nhở, phê bình bạn (dù sẽ có những lúc hơi phiền một chút nhưng đây là một cách vô cùng hiệu quả), một môi trường mới nơi những thách thức luôn đổ dồn về phía bạn. Còn nếu như không thể tìm được một người luôn ở cạnh và nhắc nhở bản thân thì bạn hãy trở thành người đó. Trong lúc ý chí còn đủ mạnh, hãy viết ra những việc phải làm, những thứ bạn muốn sửa đổi để tự nhắc nhở bản thân trong tương lai. Nhưng tuyệt đối phải luôn ghi nhớ rằng, bản thân trong tương lai này cũng chính là bạn chứ không phải một ai khác; việc bạn viết ra hôm nay sẽ do chính bạn thực hiện trong ngày mai, chứ không phải một đầy tớ thần kì nào đó sẽ hoàn thành mọi việc bạn giao phó.

Như đã nói ở trên, ý chí và quyết tâm là thứ sẽ hao mòn dần theo thời gian, khi đã quyết tâm thực hiện một việc lớn như thay đổi bản thân thì cuộc đua với thời gian cũng chính thức bắt đầu – cuộc đua hình thành những thói quen mới trước khi ý chí cạn kiệt. Nếu muốn có thêm chút ưu thế trong một cuộc đua như vậy, hãy tạo trước cho bản thân trong tương lai những nguồn ngoại lực để tiếp thêm sức mạnh. Hãy viết ra cho bản thân những lý do làm bạn muốn thay đổi và hãy vẽ tự vẽ ra viễn cảnh khi mà bạn đã thay đổi thành công. Để đến khi nào mỏi mệt khi lấy ra mà ngẫm lại, để nhớ xem vì sao bạn phải tiếp tục cố gắng: nếu cứ tiếp tục cuộc chiến với thời gian, với ý chí, những tương lai tốt đẹp nào sẽ chào đón bạn. Nếu những lời văn dông dài không hợp với bạn, hãy thử dùng một hình ảnh, một câu nói truyền cảm hứng, một báo thức trên điện thoại nhắc nhở bạn đi làm việc đúng giờ,… Bất cứ thứ gì cũng sẽ là một nguồn ngoại lực hiệu quả nếu nó có thể làm cho bạn gợi nhớ về động lực của bản thân để hướng đến tương lai.

*

Khi viết ra những định luật của mình, có lẽ Newton chỉ muốn mô tả một bản chất căn nguyên của vạn vật – quán tính – việc vạn vật luôn muốn bảo toàn trạng thái hiện tại. Nhưng phải chăng vì con người chúng ta dù có phức tạp đến đâu thì cũng chỉ là một vật thể nhỏ bé trong cái vũ trụ rộng lớn này, nên từ cơ thể đến suy nghĩ, thói quen rồi đến cả hành vi cũng đều có quán tính, cũng đều muốn bảo toàn trạng thái hiện tại.

Vậy, nếu con người ta muốn thoát khỏi trạng thái “đứng yên” của bản thân, mà chỉ có hai con đường để lựa chọn – ngoại lực và nội lực, ta nên chọn con đường nào?

Nội lực là lực từ bên trong. Ngoại lực là lực đến từ bên ngoài. Nếu bạn muốn cuộc sống thường ngày buồn chán của mình thay đổi, muốn xoá bỏ các thói quen xấu, hay muốn được quyền quyết định cái phần tương lai mơ hồ phía trước thì chỉ có hai cách: một là dùng chính sức mạnh và nghị lực nơi bản thân mình; hai là vay mượn sức mạnh từ thế giới xung quanh. Nhưng dù bạn có chọn cách nào đi nữa, hay thậm chí là phối hợp sử dụng cả hai cách trên, thì cũng hãy nhớ rằng thứ mà bạn đang cố thay đổi là chính bản thân mình, là “quán tính” của bản thân. Nếu “quán tính” hiện tại của bạn vẫn còn đang đứng yên chứ chưa chuyển động thẳng đều thì sớm muộn cũng có ngày nó quay về trạng thái đứng yên đấy nhé. Nếu như đó không phải là điều bạn muốn, vậy thì hãy cố gắng mà thay đổi đi.

Hết.

Stern

*

Bài viết có liên quan



Click to comment

Viết bình luận

Your email address will not be published. Required fields are marked *

Trà chiều

Thế giới viễn tưởng độc đáo trong bốn bộ phim mang đậm tính thể nghiệm

Published

on

Thế giới của phim khoa học viễn tưởng không phải lúc nào cũng chỉ có AI, robot, hay du hành không gian mà còn vô vàn những điều đặc biệt khác có thể bạn chưa biết.

Năm 2023 vừa qua đã ghi nhận sự phát triển ngày càng mạnh mẽ của AI. Điều đó khiến cho dòng phim khoa học viễn tưởng nhận được nhiều sự quan tâm trở lại. Nhắc đến dòng phim này, người ta vẫn thường đóng khung nó với vài yếu tố tiêu biểu thường gặp như: AI, robot, du hành vũ trụ, thế giới song song… Tuy nhiên, có rất nhiều tác phẩm sci-fi kinh điển đã chứng minh điều ngược lại.

Hãy cùng Bookish khám phá những bộ phim sci-fi không thuần túy là sci-fi vì ở đó, người xem được tận hưởng bữa tiệc điện ảnh đỉnh cao với những hương vị hòa quyện mĩ mãn từ nhiều thể loại khác nhau.

Back to The Future (1985)

Sci-fi x Road Trip Comedies

Cùng với The Terminator, Back To The Future ra đời năm 1985 đã trở thành biểu tượng kinh điển của dòng phim sci-fi lấy chủ đề du hành thời gian. Đó cũng là một trong những nguyên nhân mà bộ phim này được nhắc đến nhiều lần trong Avengers: Endgame lúc cả nhóm quyết định quay về quá khứ.

Tuy nhiên, không giống như The Terminator, Back To The Future mang màu sắc vui nhộn, hài hước của lứa tuổi học trò. Cậu học sinh tuổi teen Marty McFly ở thập niên 80 vô tình bị kéo về quá khứ trên chiếc xe cỗ máy thời gian của nhà khoa học Emmett Brown. Cậu quay trở về thập niên 50 – lúc này bố mẹ cậu cũng ở lứa tuổi học trò như cậu. Để có thể quay về hiện tại năm 80, cậu phải tìm cách hàn gắn mối quan hệ của bố mẹ, nếu không bản thân cậu cũng sẽ không tồn tại ở năm 80. Từ đó, câu chuyện nảy sinh nhiều tình huống dở khóc dở cuối. Nếu như The Terminator là sự phối trộn hoàn hảo giữa thể loại sci-fi và hành động thì Back To The Future lại là màn kết hợp ăn ý giữa thể loại sci-fi và hài hành trình. Bộ phim tốn kinh phí thực hiện là 19 triệu USD nhưng lại có doanh thu phòng vé lên đến 388 triệu USD. Chính vì thành công này mà đạo diễn Robert Zemeckis đã thực hiện hai phần tiếp theo cũng vui nhộn không kém.

Snowpiercer (2013)

Sci-fi x Dystopia

Bong Joon Ho không chỉ tạo ra những bộ phim sâu sắc về đề tài xã hội mà ông còn có khả năng làm phim khoa học viễn tưởng rất chặt chẽ, thuyết phục. Điều này thể hiện rõ nhất qua Snowpiercer. Phim dựa trên tiểu thuyết Pháp Le Transperceneige lấy đề tài hậu tận thế. Trong tương lai, sau một thí nghiệm thất bại, khí hậu toàn cầu biến đổi dẫn đến gần như toàn bộ sinh vật đều bị diệt vong, ngoại trừ một số người may mắn có mặt trên con tàu Snowpiercer chạy vòng quanh Trái đất với động cơ vĩnh cửu. Tại đây, một xã hội thu nhỏ mới lại được hình thành. Dưới bàn tay tài hoa của Bong Joon Ho, Snowpiercer cũng không đơn giản là tác phẩm sci-fi thuần túy mà ông còn lồng ghép vào nhiều thể loại khác nhau: có những phân đoạn hành động mãn nhãn, đồng thời cũng có những phân đoạn dí dỏm, và cách đặt vấn đề về giai tầng xã hội vẫn mang phong cách rất đặc trưng của Bong. 

Eternal Sunshine Of The Spotless Mind (2004)

Sci-fi x Romance

Sẽ như thế nào nếu kết hợp thể loại sci-fi với phim tình cảm? Khi đó, chúng ta sẽ có kiệt tác Eternal Sunshine Of The Spotless Mind của bộ đôi đạo diễn Michel Gondry và biên kịch Charlie Kaufman. Bộ phim sử dụng đề tài “can thiệp kí ức” để khám phá bản năng con người khi tình yêu tan vỡ. Sẽ ra sao nếu khi chia tay một ai đó, bạn có thể xóa toàn bộ những kí ức vui buồn liên quan đến họ ra khỏi tâm trí? Sau khi Joel biết được Clementine – người yêu cũ của anh đã xóa kí ức tình yêu, anh quyết định bản thân mình cũng sẽ thực hiện việc này. Nhưng khi anh khám phá được điều gì đã khiến họ gắn kết rồi lại chia xa, anh nhận ra mình vẫn còn tình cảm dành cho cô. Nếu như công nghệ trong phim là thứ hư cấu thì cảm xúc giữa hai nhân vật trong Eternal Sunshine hoàn toàn chân thực, lay động trái tim người xem, khiến ai cũng phải thổn thức.

Under The Skin (2013)

Sci-fi x Experimental film

Cuối cùng, không thể không nhắc đến bộ phim sci-fi mang tính thể nghiệm, tiên phong đáng nhớ: Under The Skin. Có rất nhiều phim lấy đề tài sinh vật ngoài hành tinh xâm nhập Trái đất, nhưng có lẽ chưa bộ phim nào kể câu chuyện thật đặc biệt nhưng lại với nhịp điệu từ tốn như Under The Skin. Scarlett Johansson trong vai sinh vật ngoài hành tinh vô danh chỉ làm đúng một công việc là đi lang thang trên một chiếc xe tải, lựa chọn những người đàn ông cô đơn làm con mồi. Bộ phim rất kiệm lời thoại, khiến người xem rợn người không chỉ bởi những hình ảnh thị giác lạ mắt mà còn bởi thứ âm nhạc cũng đầy tính thể nghiệm độc đáo của Mica Levi. Tuy nhiên, nếu chỉ tập trung vào thể nghiệm mà bỏ qua nội dung, Under The Skin đã không gây được tiếng vang lớn như thế trong cộng đồng điện ảnh. Sau tất cả, bộ phim của đạo diễn Jonathan Glazer lại khiến người xem trăn trở nhiều về thân phận làm người.

Hoàng Đức Nhiên

Đọc bài viết

Trà chiều

The Terminator & Blade Runner: Hai tượng đài điện ảnh độc đáo của thập niên 80

Published

on

Cùng ra mắt vào thập niên 80, The Terminator (1984) và Blade Runner (1982) đều là hai kiệt tác điện ảnh độc đáo, góp phần rất lớn trong việc tạo ra diện mạo mới cho thể loại sci-fi.

Bài viết này sẽ dẫn dắt bạn khám phá những vấn đề khác nhau được đặt ra trong hai phim: từ những dòng suy tư về mối liên hệ nhân quả giữa hành động và thời gian trong The Terminator đến không gian đô thị đậm chất noir và những truy vấn về bản chất con người trong Blade Runner.

The Terminator (1984)

The Terminator là bước đột phá ngoạn mục trong sự nghiệp điện ảnh của đạo diễn James Cameron. Vào thời điểm ra mắt, bộ phim gây ấn tượng bởi việc pha trộn nhiều đặc tính giữa các thể loại khác nhau, mang đến màu sắc mới cho dòng phim sci-fi.

The Terminator kể câu chuyện về một người máy sát thủ ra đời năm 2029, được trao nhiệm vụ quay về năm 1984 để giết người phụ nữ trẻ tên là Sarah Connor. Sarah hoàn toàn không biết rằng cuộc đời cô có ảnh hưởng đáng kể đến số phận nhân loại và cô có thể chết bất cứ lúc nào dưới sự truy sát của cỗ máy bất khả chiến bại được gọi là Kẻ Hủy Diệt. Kyle Reese cũng đến từ tương lai nhưng nhiệm vụ của anh là bảo vệ Sarah – người mẹ của thủ lĩnh tương lai.

Với cốt truyện như thế, The Terminator vừa có những pha hành động mãn nhãn, vừa có nhiều tầng suy tư phức tạp về dòng chảy của thời gian, về phương thức thay đổi một sự kiện trong quá khứ có thể dẫn đến tương lai khác biệt hoàn toàn – đây vốn là chủ đề hiếm gặp trong phim hành động ở giai đoạn đó. Ngoài ra, những bản nhạc nền tạo không khí căng thẳng của nhạc sĩ Brad Fiedel cũng góp phần lớn vào thành công của phim.

Tất cả những nhân tố đó đã khiến phim trở thành một mảnh ghép quan trọng của văn hóa đại chúng đến tận ngày nay. Câu nói “I'll be back” của nhân vật Kẻ Hủy Diệt trong phim được sử dụng phổ biến, trở thành slogan thương hiện cho chính Arnold Schwarzenegger.

Từ năm 1984 đến nay, The Terminator đã sản xuất 6 phần phim: The Terminator (1984), Terminator 2: Judgment Day (1991), Terminator 3: Rise of the Machines (2003), Terminator Salvation (2009), Terminator Genisys (2015), Terminator: Dark Fate (2019). Tất cả những phần phim này đều đạt được doanh thu khủng, riêng phần đầu tiên The Terminator đã trụ vững ở vị trí số 1 trên bảng xếp hạng phòng vé ở Mỹ trong suốt hai tuần. Năm 2008, The Terminator đã được Thư viện Quốc hội Hoa Kỳ đưa vào Viện lưu trữ phim quốc gia để bảo tồn với lí do là bộ phim “nổi bật ở phương diện văn hóa, lịch sử, và mĩ học”.                          

Blade Runner (1982)

Không may mắn như The Terminator, Blade Runner của đạo diễn Ridley Scott là một tuyệt tác có số phận khá hẩm hiu khi vừa ra đời. Tuy nhiên, qua nhiều thập kỉ với những bản dựng khác nhau, tác phẩm này đã trở thành một tượng đài lớn của thể loại sci-fi.

Dựa trên tiểu thuyết gốc Do Androids Dream Of Electric Sheep? của nhà văn Philip K. Dick, Blade Runner vẽ nên viễn cảnh ảm đạm của thế giới vào năm 2019. Khi đó, thế giới tràn ngập những replicant – người máy có hình dạng giống con người, được tạo ra với vòng đời ngắn ngủi để làm những công việc nguy hiểm phục vụ cho con người. Một nhóm replicant bất mãn trước việc này đã làm một cuộc phản loạn, quay trở về Trái Đất và giết con người. Rick Deckard, một cảnh sát đã nghỉ hưu ở Los Angeles nhận nhiệm vụ phải truy lùng và tận diệt toàn bộ nhóm replicant nổi loạn này.

Blade Runner là sự pha trộn giữa sci-fi, trinh thám và phim noir – thể loại phim hình sự tội phạm mang đậm phong cách Hollywood, thường thể hiện thái độ hoài nghi, mỉa mai. Thông qua hành trình của Rick Deckard, bộ phim đặt ra nhiều câu hỏi triết học về tính người, thế nào là một con người.

Nhưng không chỉ sâu sắc về nội dung, Blade Runner còn là bữa tiệc chiêu đãi về thị giác qua cách bộ phim thể hiện không gian đô thị tương lai với những màn hình quảng cáo lớn, đèn neon luôn lấp lánh và đường phố lúc nào cũng nhộn nhịp. Cảm hứng thị giác của phim kết hợp từ những bức tranh cổ điển của danh họa Edward Hopper và các khu phố với những tòa nhà chọc trời ở Hong Kong. Sự kết hợp này đã tạo nên không gian thị giác ấn tượng của phim khi con người bị nhấn chìm trong công nghệ. Mĩ thuật của phim tạo ảnh hưởng lớn đến cách xây dựng không gian cho những phim sci-fi hay hành động của Hollywood ra đời sau đó như: The Matrix (1999), bộ ba Dark Knight (2005 – 2012) của đạo diễn Christopher Nolan, Ghost in the Shell (2017)…

Ngày nay, Blade Runner đã có một chỗ đứng không thể thay thế trong dòng phim sci-fi với nhiều ảnh hưởng mang tính định hình về mĩ thuật, tư duy về cách kể chuyện và nhân vật. Blade Runner 2049 – phần tiếp theo của phim ra đời vào năm 2017, đúng 35 năm kể từ phần đầu tiên đã không làm người hâm mộ thất vọng với điểm số trên Rotten Tomatoes lên đến 88%.

Hoàng Đức Nhiên

Đọc bài viết

Trà chiều

Hai tác phẩm định hình dấu ấn cá nhân của đạo diễn James Cameron và Christopher Nolan

Published

on

Đạo diễn James Cameron và đạo diễn Christopher Nolan đều là những cá nhân kiệt xuất trong ngành điện ảnh với nhiều bộ phim kinh điển vừa đạt được doanh thu khủng, vừa có giá trị nghệ thuật cao.

Tuy nhiên, khi nhắc đến hai vị đạo diễn tài danh này, có hai tác phẩm đặc biệt mà người hâm mộ điện ảnh không thể nào bỏ lỡ.Hãy cùng Bookish khám phá những dấu ấn đặc trưng cá nhân của đạo diễn James Cameron trong Avatar và của đạo diễn Christopher Nolan trong Inception.  

Avatar (2009)

Năm 2009, bộ phim sci-fi Avatar của đạo diễn James Cameron ra đời đã tạo nên bước ngoặt lớn cho sự phát triển công nghệ điện ảnh. Lần đầu tiên, cả thế giới được xem một bộ phim 3D. Kĩ thuật thị giác đột phá đã khiến trải nghiệm của phim cực kì sống động.

Vào năm 2154, nguồn tài nguyên Trái đất trở nên cạn kiệt dưới sự khai thác của con người dẫn đến khủng hoảng năng lượng. Lúc bấy giờ, tập đoàn RDA đang khai thác unobtanium – một loại khoáng sản có giá trị tại Pandora, một hành tinh tươi tốt mang sự sống giống Trái Đất nhưng lại có bầu khí quyển độc hại cho con người. Pandora là nơi sinh sống của người Na'vi da xanh, có hình dáng và trí óc giống con người. Để tìm hiểu về người Navi và sinh quyển ở Pandora, các nhà khoa học sử dụng cơ thể người lai Na’vi gọi là các Avatar, được hoạt động thông qua liên kết thần kinh với những người có kiểu gen phù hợp. Jake Sully là một cựu lính thủy quân được giao nhiệm vụ trà trộn vào hành tinh Pandora. Quá trình thực hiện nhiệm vụ đã khiến anh bị giằng xé giữa việc tuân theo mệnh lệnh hay bảo vệ xứ sở mà anh đã trót xem là quê nhà.

Đạo diễn James Cameron đã mất đến 15 năm để thực hiện Avatar từ lúc bộ phimcòn là ý tưởng năm 1994 cho đến khi ra đời năm 2009. Sở dĩ bộ phim mất nhiều thời gian như vậy là do Cameron không chỉ trau chuốt về mặt nghệ thuật mà còn cả kĩ thuật: từ công đoạn làm việc với chuyên gia ngôn ngữ để tạo ra tiếng Na’vi với hơn 1000 từ, cho đến việc tạo ra kĩ thuật 3D. Sự kì công này khiến Avatar chiều lòng được cả khán giả đại chúng lẫn giới hàn lâm. Avatar luônđứng đầu danh sách phim ăn khách nhất mọi thời đại với doanh thu lên đến 2,7 tỉ USD, và chỉ bị Avengers: Endgame vượt mặt vào năm 2019 sau suốt 10 năm thống trị bảng vàng.            

Avatar 3 dự kiến sẽ ra mắt vào năm 2025, tiếp tục hứa hẹn mang đến những thành tích khủng trong tương lai. 

James Cameron

Inception (2010)

Hầu như những bộ phim của đạo diễn Christopher Nolan đều có các yếu tố như: du hành thời gian, tìm hiểu bản chất thế giới… khiến người xem vừa rối não lẫn rối lòng. Và Inception chính là một tác phẩm hội tụ đủ các yếu tố làm nên thương hiệu Nolan, trở thành một tượng đài khó quên trong lòng người hâm mộ.

Inception là một trải nghiệm điện ảnh đáng nhớ khi Nolan cố gắng hình tượng hóa kiến trúc tư duy của con người, biến tiềm thức trở thành không gian vật lí cho các hoạt động đánh cắp được diễn ra. Bộ phim kể về một tên trộm có khả năng đi vào giấc mơ của người khác. Dom Cobb không trộm gì cả, anh chỉ trộm ý niệm. Bằng việc thâm nhập vào tiềm thức của đối tượng, anh có thể lấy thông tin mà đến cả những tay hacker sừng sỏ nhất cũng không thể làm được. Trong thế giới điệp viên, Cobb là vũ khí tối thượng. Nhưng kể cả vũ khí cũng có nhược điểm, khi Cobb gần như mất tất cả mọi thứ, anh được giao một nhiệm vụ cuối cùng để chuộc lỗi. Lần này, Cobb không gặt lấy ý niệm, anh gieo nó. Liệu anh và đồng đội có thành công?

Christopher Nolan

Inception có một kịch bản hoàn hảo, từng thế giới giấc mơ xuất hiện trong phim vừa chính xác, tinh tế, đôi khi lại hài hước. Thời gian là chủ đề yêu thích của Nolan và ông luôn tìm được cách thể nghiệm thú vị, có thể thấy rõ điều này qua cả phim InterstellarDunkirk. Nhưng trong Inception, thời gian không chỉ là chủ đề mà còn là công cụ kể chuyện khi tái hiện lại hoàn hảo nỗi ám ảnh của kẻ cắp giấc mơ. Từ đó, bộ phim đặt ra nhiều câu hỏi hóc búa: liệu rằng ta có đang sống trong thời gian thực, khi nào thì một giấc mơ trở thành thực tế, khi nào thì thực tế hóa ra lại chỉ là một giấc mơ, ta đang thức hay còn mơ?

Thông qua Inception, Nolan lồng ghép rất nhiều khái niệm về sự logic giấc mơ, đảo ngược các nguyên tắc vật lí, cho thấy những thực tại có thể vỡ vụn ra sao… Tất cả hòa quyện vào nhau, tạo thành một tác phẩm sci-fi tâm lí đỉnh cao mà có lẽ nhiều thập kỉ sau, vẫn còn khiến người ta trầm trồ.

Hoàng Đức Nhiên

Đọc bài viết

Cafe sáng