Phía sau trang sách

Cô gái dưới tầng hầm: Khi khuôn mặt ra khỏi vành mũ

Published

on

Southern trees bear strange fruit
Blood on the leaves and blood at the root
Black bodies swinging in the southern breeze
Strange fruit hanging from the popular trees

Dạo này cây miền Nam nảy sinh loài quả lạ
Máu vương trên lá. Máu trào về cội
Hình hài da đen đong đưa theo ngọn gió

Đây loài quả lạ trĩu cành cây dương

Nước Mỹ những ngày vừa qua đã trải qua cơn bạo loạn lớn nhất trong lịch sử về vấn đề sắc tộc. Trước đó những vụ xả súng vào người da màu hay quyền bình đẳng bị xem nhẹ trong giai tầng xã hội hiện đại dường như đã trở thành bản lề cho cách vận hành lâu đời của xã hội tưởng dân chủ nhưng không hề dân chủ này. Nếu những năm 40 của thế kỷ trước, huyền thoại nhạc jazz Billie Holiday từng ghi âm Strange Fruit – bài hát dựa trên sự thật về những người da màu bị quy kết không qua xử án bị treo cổ trên những cành cây xứ Indiana như loài quả lạ; thì Stacey Lee bằng cách tìm về lịch sử, đã xây dựng nên xã hội nước Mỹ những năm 1890 thời Hậu tái thiết đầy biến động và gian truân không chỉ với người da màu, mà còn với tổ tiên cô – những người Trung Hoa. Cô gái dưới tầng hầm là cuốn sách dễ đọc, dễ cảm; nhưng cũng đồng thời trong đó, lịch sử cả một thời kỳ vẫn đang diễn ra với những dòng chảy sắc tộc âm ỉ sục sôi.

*

Đặt cuốn sách trong bối cảnh những luồng mâu thuẫn đan chặt lẫn nhau, Stacey Lee khai phá những bất công vẫn còn tồn tại thông qua nhân vật Jo – cô gái có lý lịch phức tạp nhưng đầy đặc biệt. Nước Mỹ những năm 1890 đầy biến động khi miền Bắc mới vừa bãi bỏ thành công chế độ nô lệ trong khi miền Nam đầy truyền thống và đối nghịch vẫn trong trạng thái nửa nắm nửa buông. Ở đó, thay vì những nô lệ da đen như trước kia, nay người Trung Quốc được thuê vì những phẩm chất được cho là hơn hẳn. Nhưng dẫu cho họ là người Trung Quốc hay châu lục cách đó cả Đại Tây Dương, họ vẫn là con người, khát khao tự do, cuộc sống đầm ấm. Từ đó họ trốn chạy, dẫn đến đạo luật Xua đuổi người Trung Quốc năm 1882 và trạng thái mắc kẹt.

Những người Trung Quốc đã một lần tin và đầy hy vọng về cuộc sống ấm êm nay không thể dẫn thêm gia đình vì thứ Đạo luật vô nghĩa lý, sống co cụm thành những nhóm nhỏ, dựa vào nhau mà sống và bị coi khinh không khác gì người da đen những năm về trước và cả bây giờ. Già Gin, Jo và những người chú gốc Hoa phải sống nhờ dưới tầng hầm của xưởng in nhà Bell, vì không ai cho họ một mái nhà để thuê (chẳng hạn một người da trắng đóng sập cửa lại và nói: “Cô là loại dễ loanh quanh ở những chỗ không ra gì; vả lại, tôi cá là cô hút thuốc phiện đen”). Cho dù họ có bao dung cho thuê đi nữa, Jo và mọi người cũng không đủ tiền khi họ sống với số tiền công được trả vô cùng bèo bọt, chỉ 50 xu mỗi giờ và còn bị đuổi việc không vì một lý do cụ thể nào, dù cho cô làm tốt và nhanh gấp đôi những người da trắng khác.

*

Với Cô gái dưới tầng hầm, Stacey Lee đã chọn một nhánh nhỏ của lịch sử không phải ai cũng biết nhưng rõ ràng vô cùng quan trọng nếu xét về căn cước của bản thân cô, một tác gia gốc Hoa đi ngược về lịch sử. Trong cuốn sách này, ta bắt gặp những bất công, phân biệt đối xử tương tự những cuốn tiểu thuyết khác viết về chế độ nô lệ cách đó hai hay ba mươi năm; cùng những quy ước khi vượt mặt người da trắng là một hành vi phạm pháp sẽ bị trừng phạt mà, mức độ quan trọng tùy thuộc vào ai là người bị lừa và bị lừa đến đâu hay luật ngầm ở miền Nam quy định cách giao tiếp giữa người da đen và da trắng, trong đó người da đen không được nhìn vào mắt người da trắng. Nếu phá luật, sẽ phải chịu hậu quả, đôi khi là hậu quả khôn lường.

Stacey Lee khôn ngoan khi xây dựng được đồng minh ở cuốn sách này: giữa một dòng giống đã không kiên trì mệt mỏi đấu tranh cho quyền lợi của mình – những người da đen như Robby hay Noemi; với một sắc vàng chỉ vừa chân ướt chân ráo đến Atlanta – tiểu bang miền Nam đầy những định kiến và nghi kị. Sự thân thiết và gắn bó giữa Jo và những con người chất phác da ngăm ấy như tượng trưng cho sức mạnh của thế yếu được nhân lên gấp bội, trở thành ánh sáng chói lòa chắn trước những định kiến hữu cựu vẫn còn tồn tại. Từ chính cách đối xử đã ăn sâu vào từng nếp gấp não bộ hay trong mỗi phần tử không khí, những người da trắng không theo kịp thời đại ấy tự cho mình trên hết, nhưng có lẽ họ quên mất một điều rằng khi đặt mình lên trên người khác, họ đã từ bỏ tâm tính của mình.

*

Luật lệ đối xử trên xe điện, luật bất thành văn khi người gốc Á hay da màu phải đi cửa sau, hôn nhân liên chủng tộc được coi là điều không thể… Tất cả hiện diện trong cuốn sách này như phông nền cho cách xã hội vận hành. Một điểm khác Stacey Lee đã làm rất tốt và tạo được khác biệt cho tác phẩm của mình đó là cô đã đi sâu khai phá những mặt sâu sắc và trực diện hơn, không chỉ những tảng băng nổi người ta vẫn thường hay thấy. Cách những người da trắng giàu sang coi khinh những chủng tộc khác đã quá thường tình, ở đây Stacey còn khai thác thẳm sâu hơn thế, trong chính nội tại của mối quan hệ này.

Ở đó, những người giúp việc, nấu bếp, cắt tỉa… bị chủ da trắng bóc lột công sức tưởng như là người cùng khổ với Jo hay Già Gin; nhưng không, họ cũng dữ tợn và căm ghét những chủng tộc khác như chủ của họ. Cùng xếp tận cùng dưới đáy giai cấp trong xã hội ấy, nhưng giữa họ với nhau không có một sự đồng cảm. Hình ảnh người cắt tỉa vườn ngăn không cho bà cụ vắt sữa bò sưởi ấm trên xe điện khi trời quá rét hay lão gác xe nhìn thẳng Già Gin rồi phán rằng – ông không đen cũng không trắng; tất cả tạo nên không khí xã hội ngột ngạt khi nhân quyền bị chà đạp và con người không thấu hiểu nhau, đồng cảm cùng nhau. Một xã hội vô tri không chỉ xuất hiện ở những dòng giống cúi đầu nhìn vào smartphone trong những ngày này, mà qua cánh cửa thời gian, nó cũng ở đó đã từ rất lâu những năm 1890.

Tầng lớp dưới cùng cư xử như thế là điều dễ hiểu, nhưng những tri thức, phụ nữ tiến bộ hành động ra sao? Họ vì cái cớ là những người đòi bình quyền, đòi được phiếu bầu về trong tay mình để cũng công bằng như với đàn ông; thế nhưng, để đòi được những quyền uy đấy, bắt buộc những người tham gia không phải da màu. Jo, Noemi tham gia góp sức vào trong phong trào đòi bình quyền bằng chính sự ngây ngô về ảo tưởng vô cùng đẹp đẽ, thế nhưng đáp lại những điều ấy chỉ là ánh mắt ngờ vực và cho ra rìa của những phụ nữ tự nhận tân tiến. Như câu mà Noemi một lần thốt ra: “Chúng ta cùng chung vai trò hoạt động như những phụ nữ khác, nhưng nỗi căm ghét của họ còn quan trọng hơn cả việc giành được quyền bầu cử”.

Phụ nữ da màu, phụ nữ Á Đông đã quá khổ sở vì những áp lực đè nén lên mình, khi đó vừa là vấn nạn phân biệt chủng tộc, vừa là phân biệt giới tính; họ đi tìm tiếng nói nơi những người đồng cam cộng khổ cùng trải qua ách áp bức, nhưng dội ngược vào họ chỉ là cái dửng dưng của những con người quan tâm đến bản thân nhiều hơn nhân quyền, dân quyền thuần túy. Stacey Lee vô cùng khéo léo khi dập nổi được những đối ngẫu này, mâu thuẫn lồng trong mâu thuẫn để rồi từ đó cả một xã hội nhiễu nhương hiện ra và cái nhỏ nhen, tị hiềm vẫn luôn ngự trị.

*

Nhưng vẫn còn đó là những tia sáng phía cuối đường hầm. Gia đình nhà Bell là những con người ủng hộ hết mình những người có tài nhưng bị phán xét. Việc Stacey khắc họa nhân vật Jo với tính cách và hoạt động của một nhà báo, một người nằm vùng, một Quý Cô Ngọt Ngào không hẳn chỉ là trùng hợp – mà thay vào đó ẩn đằng sâu từng dòng phản hồi, từng dòng mực in cũng như căn hầm tối tăm nơi cô thường trú; phụ nữ da trắng cuối cùng rồi thì cũng bị khuấy theo những dòng tư vấn của một cô nàng Trung Quốc mà nếu ai đó phát hiện ra được, cô sẽ vĩnh viễn phải ngồi trong khám. Cô tự do, phóng khoáng và hơn ai hết hiểu mình cần gì. Nếu những người da trắng phải thông qua cô để biết phụ nữ có thể tự mời những chàng trai đến trận đua ngựa, họ cũng có thể tùy ý hủy bỏ hôn ước vì một cuộc sống tươi đẹp còn ở phía trước hay chiếc xe đạp tự do có ý nghĩ thế nào với những cô nàng thức thời… thì Jo hay Quý Cô Ngọt Ngào đã tự nhận ra rất lâu về trước, bằng chính cảm quan và những ngẫm nghĩ cho số phận mình. Họ có bộ óc, có tư duy và hơn hết có hai bàn tay lao động; họ không ăn bám như loài côn trùng sâu bọ rệp rít phá hoại mùa màng. Nhớ kỹ điều đó và nếu không nhớ, chính họ sẽ nhắc cho người da trắng phải nhớ.

Hình ảnh cuối cùng khi Jo cưỡi con Khoai Lang chiến thắng cuộc đua như khúc khải hoàn cho những đấu tranh. Chiếc mũ trao cho cô vẻ ngoài để được lộ diện. Quý Cô Ngọt Ngào trao cho cô tiếng nói để được lắng nghe. Nhưng có lẽ, điều cần nhất trong tất cả là tự do được bước ra khỏi cái bóng che khuất của vành mũ. Jo – một cô gái Trung Quốc không danh không phận, Khoai Lang – một cô ngựa non đầy khiếm khuyết phía trên đấu trường của những ngựa đực với dòng giống tuyển; thế nhưng, cả hai người họ đã đều mạnh mẽ vươn lên và giành chiến thắng mặc cho khiếm khuyết, mặc cho gốc gác. Vì sao Jo đã luôn không thắng trước người kỵ sĩ mà lại đồng hạng ở cùng một giải? Dễ thấy Stacey Lee ngầm ngụ ý rằng, người da trắng sẽ không bao giờ chịu thua và không bao giờ thừa nhận chính những khiếm khuyết của mình. Nó hằn sâu trong ADN họ, khi đúng thời cơ, chúng sẽ phát tán. Và vụ George Floyd là một ví dụ vô cùng điển hình.

Cô gái dưới tầng hầm là cuốn sách chứa nhiều bão giông, của thời đại, của đấu tranh, của con người. Bằng lối kể chuyện vô cùng mộc mạc, Stacey Lee một cách từ từ dẫn dụ người đọc vào cuốn tiểu thuyết nhịp nhàng nhưng ẩn đằng sau là những ngầm ý cho người đọc tự mình rút ra ý nghĩa chính. Vẫn như thường lệ, cuốn tiểu thuyết này vẫn không thoát khỏi những dài dòng của chuyện tình cảm, của những trường đoạn về mối quan hệ cố tạo kịch tích; nhưng đến cuối cùng khi khép lại cuốn sách, những gì lịch sử vẫn luôn hằng giữ là điều tốt đẹp và thành công nhất mà Stacey Lee đã mang đến được.

Hết.

minh.


Bài viết có liên quan


Phía sau trang sách

Trở thành phiên bản tốt hơn của chính mình với Metahuman – Siêu nhân loại

Published

on

By

Những khi nhìn lại chính bản thân mình, những điều đã hoàn thành lẫn những điều còn dở dang, nếu đâu đó trong bạn xuất hiện những suy nghĩ tiêu cực về chính mình, có lẽ tác phẩm Metahuman – Siêu nhân loại của bác sĩ Deepak Chopra sẽ giúp bạn điều chỉnh lại suy nghĩ ấy, để thấy rằng tiềm năng của con người là vô hạn.

Có bao giờ bạn tự hỏi, tại sao những phim hài lãng mạn dù lặp lại các kiểu mô típ quen thuộc về câu chuyện, nhân vật thường vẫn dễ dàng thu phục được công chúng? Trong Metahuman – Siêu nhân loại, Deepak Chopra – tác giả người Ấn Độ từng được tạp chí Time vinh danh là một trong những nhân vật có ảnh hưởng nhất ở thế kỉ 20 – đã có cách lí giải vô cùng thuyết phục dựa trên cơ chế tâm lí, ý thức về hiện thực của con người.

Dòng phim hài lãng mạn thường kể câu chuyện về một anh chàng hay cãi nhau với một cô nàng, để rồi cuối phim anh mới nhận ra cô chính là tình yêu đích thực của đời mình. Chopra cho rằng tất cả chúng ta đều yêu thích khoảnh khắc giác ngộ của nhân vật trong phim: “Giờ tôi đã hiểu rồi. Đó là người tôi yêu.”

Chính vì thực tại ta đang sống là một thứ khó hiểu, khó nắm bắt nên ta lại càng tìm được nhiều niềm vui khi chứng kiến nhân vật có thể hiểu được một vấn đề nan giải, thấy được sự thật bấy lâu nay cứ chìm khuất trong lớp sương mờ trước mắt anh hay cô ta. Và tác phẩm Metahuman – Siêu nhân loại cũng có thể mang đến cho người đọc niềm vui tương tự khi lần lượt giải mã nhiều vấn đề về hiện thực ta đang sống.

Những giới hạn của bản thân không phải là điều tiêu cực như bạn nghĩ

Deepak Chopra

Chúng ta vẫn thường quen thuộc với quan niệm thế giới chia làm hai phần gồm: vật chất và ý thức. Từ đây, hình thành hai trường phái triết học chủ đạo là duy vật và duy lí. Nhưng trong Metahuman – Siêu nhân loại, Deepak Chopra đã định nghĩa lại về thế giới. Ông cho rằng thế giới chỉ có duy nhất một thứ là ý thức, và vật chất cũng là do ý thức tạo nên. Vật chất, hay những gì chúng ta nghĩ là rắn chắc, bền vững, khó thay đổi – bao gồm cả cơ thể, tâm trí và những tiềm năng của chúng ta – kì thực đều là do ý thức quyết định. Vì thế, chừng nào ý thức còn muốn tiếp tục điều chỉnh, chừng đó tiềm năng của con người còn vô hạn và có thể mở rộng đến khôn cùng.

Nhưng trong cuộc sống hằng ngày, giới hạn an toàn lại là thứ khiến chúng ta thấy thoải mái, đồng thời đây cũng là cơ chế để bảo vệ con người. Chopra lấy ví dụ nếu một người muốn trở thành họa sĩ, anh tham dự một lớp học mĩ thuật. Giả sử lớp học đó có thể cho anh xem hết tất thảy mọi bức tranh đã được vẽ trong lịch sử nhân loại, cảm thấu được vẻ đẹp của từng bức thì khả năng cao là sau khi học xong, anh sẽ không thể vẽ được nữa. Ở đây, chính giới hạn về hiểu biết mĩ thuật có thể lại là động lực khiến người họa sĩ muốn sáng tạo.

Như vậy, bản thân sự giới hạn không phải là một điều tiêu cực. Nó chỉ tiêu cực khi bị cố định trong một cái khuôn. Ngược lại, nếu ta biết được giới hạn nhưng vẫn có nhận thức rằng biên độ của giới hạn có thể thay đổi thì tiềm năng của con người sẽ không ngừng mở rộng.

Không chỉ quá khứ, tương lai; hiện tại cũng là thứ không thể nắm bắt

Phần lớn chúng ta có một quan niệm phổ biến rằng: “Tương lai, quá khứ là thứ chúng ta không thể nắm bắt. Tương lai thì chưa đến. Quá khứ thì đã qua. Chỉ có hiện tại là thứ duy nhất ta có thể nắm bắt được.” Quan niệm này có lẽ hợp lí đến nỗi không nhiều người trong chúng ta đặt nghi vấn về tính đúng đắn của nó, hay thử tự một lần phản biện lại.

Tuy nhiên, Deepak Chopra lại có suy nghĩ hoàn toàn khác biệt về vấn đề này. Ông cho rằng không chỉ tương lai và quá khứ, ngay cả hiện tại – mà ta nghĩ là mình đang sống trong nó – cũng là thứ khó nắm bắt. Bởi lẽ, hiện tại cũng giống như sự im lặng. Khi bạn cất lời, sự im lặng biến mất; tương tự, khi bạn có nhận thức về hiện tại dù là dưới dạng hình ảnh, cảm xúc, hay suy nghĩ, nó cũng đã biến mất ở khoảnh khắc ấy, nhường chỗ cho một hiện tại khác ở ngay sau đó. Vì vậy, nếu nói rằng thực tại là thứ có thể nắm bắt thì chẳng khác nào nói là bạn có thể biết trước suy nghĩ tiếp theo của mình.

Phản biện này có lẽ cũng là tư duy nền tảng cho khái niệm về thực tế ảo được trình bày trong sách. Thực tế mà chúng ta đang sống, ta nghĩ rằng đó là một thực tế vững chắc, được kết cấu dựa trên những nhu cầu đầu tiên về vật chất, sau đó là tinh thần – thực tế ấy, hóa ra lại không vững chắc như ta nghĩ. Rất có thể, đó chỉ là một thực tế do ý thức, nhu cầu của chúng ta tạo ra, thứ mà Chopra gọi rằng đó là thực tế ảo. Để vươn đến tầm vóc siêu nhân loại, ta phải học cách vượt qua thực tế ảo ấy, hướng đến một thực tế thật – đó chính là thứ thực tế mà tác giả gọi là siêu hiện thực.

Trong Metahuman – Siêu nhân loại, Deepak Chopra không cố gắng áp đặt độc giả phải đồng thuận quan điểm của mình. Ông luôn đưa ra nhiều ý kiến, quan điểm đối lập từ những học giả, các nguồn kiến thức khác nhau về cùng một vấn đề để người đọc có thể rộng đường tư duy, tiếp nhận nhiều luồng tư tưởng, tự lựa chọn đáp án cho những câu hỏi cá nhân của chính mình. Thông qua đó, Deepak Chopra cung cấp một cách nhìn khác về hiện thực, giúp mỗi người chúng ta xua tan lớp sương ảo ảnh do tự thân tạo ra từ những định kiến, trở thành phiên bản tốt hơn của chính mình.

Nguồn: L'Officiel

Đọc bài viết

Phía sau trang sách

Thành phố những lục địa bay: Khi Đà Lạt không là Đà Lạt

Published

on

By

Đà Lạt luôn là điểm dừng chân lí tưởng cho những tâm hồn yêu cái lạnh. Nếu không thể đến Đà Lạt ngay lúc này, quyển sách Thành phố những lục địa bay – tác phẩm viết về Đà Lạt mới nhất của nhà văn Nguyễn Vĩnh Nguyên sẽ là sự lựa chọn hoàn hảo để người đọc tận hưởng không khí Đà Lạt ngay tại nhà.

Dù tuổi thơ gắn liền với quê hương Ninh Thuận và chỉ đến Đà Lạt khi trở thành sinh viên Văn khoa Đại học Đà Lạt, Nguyễn Vĩnh Nguyên đã dành cho Đà Lạt một tình yêu tha thiết với nhiều tác phẩm ghi dấu trong lòng bạn đọc như: Đà Lạt, một thời hương xa; Đà Lạt, bên dưới sương mù; Với Đà Lạt, ai cũng là lữ khách Lần này trở lại với Thành phố những lục địa bay, anh tiếp tục viết về Đà Lạt với nhiều khám phá, tìm tòi mới trong nghệ thuật kể chuyện.

Vẻ đẹp thành phố sương mù hiện ra trong sự mơ hồ của chữ “và”

Trong lối tường thuật của Thành phố những lục địa bay, Nguyễn Vĩnh Nguyên đặt rất nhiều ý nghĩa trong chữ “và”. “Và” không chỉ là sự bao hàm giữa cái này và cái kia. “Và” còn có thể vừa mang ý nghĩa liệt kê, vừa mang ý nghĩa đồng thời. Chính vì vậy, những chi tiết nối liền bằng “và” theo cách Nguyễn Vĩnh Nguyên sử dụng cho người đọc cảm giác chúng có thể lần lượt xuất hiện, hoặc song song tồn tại. Sương mù hay chính bản thân Đà Lạt dường như đã trở thành một câu văn có cấu trúc gắn kết bởi chữ “và”. Ngay từ lời ghi chú ngắn ở đầu truyện, tác giả đã dụng công viết những câu văn có sự xuất hiện của nhiều chữ “và” để tạo ra cảm giác mơ hồ về ranh giới. Ta hãy thử khảo sát một vài trường hợp.

Có khi “và” đảm nhận nhiệm vụ liệt kê hai chức năng đồng thời tồn tại:
“Mặt nước cất giữ trong nó những bí mật bị vùi chôn và trang sức cho thành phố một vẻ mơ màng hư ảo. 

Có khi “và” là một trạng thái ở giữa như cách tác giả mô tả tầm nhìn của một người khi quan sát hồ nước chìm trong sương mù.
“Hồ, vì thế nằm giữa cái thấy và không thấy.”

Đôi khi, “và” còn mang nghĩa không hẳn là “cái này”, cũng không hẳn là “cái kia” như trong câu văn sau đây:
“Còn thi sĩ, anh là kẻ đã đến đây vào Thời đại Buồn nôn với sự thơ mộng và giả thơ mộng được vẽ vời và phóng đại.”

Như vậy ở đây, Đà Lạt hiện ra là một thành phố vừa thơ mộng, vừa không hẳn thơ mộng. Chính vì không có tính chất nào vẹn toàn thuộc về chủ thể – chủ thể ở đây có thể hiểu là cả một thành phố –  nên mới cần có nhiều chữ “và”. “Và” như một phương thức để khẳng định thành phố luôn mang trong mình từng tính chất đã được liệt kê, nhưng đồng thời cũng không hoàn toàn nắm giữ trọn vẹn bất kì tính chất nào. Chính vì lẽ đó, tác giả đã đưa ra nhận định chung về hình ảnh Đà Lạt được tái hiện trong Thành phố những lục địa bay là: “Đà Lạt chính là Đà Lạt. Nhưng Đà Lạt cũng không là Đà Lạt.”  

Trò chơi giữa có và không khiến người đọc say mê

Những chuỗi truyện trong Thành phố những lục địa bay cho người đọc thấy một điều rằng: Sự thật và giai thoại luôn đan xen lẫn nhau về cùng một đối tượng. Ở tác phẩm này, hồ nước chính là khởi nguồn cho mọi sự nhòa lẫn, bất phân định về ranh giới.

Có lẽ, tác giả chọn hồ làm đối tượng để khởi đầu tác phẩm cũng vì hồ là thứ có thể phản chiếu như gương, tạo ra phiên bản thứ hai của thế giới, tạo ra lằn ranh giữa thực và ảo. Hiểu theo cách đó, ta có thể thấy rằng hồ cũng có nhiệm vụ tương tự như chức năng ngữ pháp của chữ “và” trong cấu trúc câu. Nếu “và” là cầu nối trên câu chữ thì “hồ” chính là một phóng chiếu sang hình ảnh của “và”, là sự gắn kết giữa những miền “thực” và “ảo” trong tác phẩm. Và vì vậy, với tác giả, hồ là: “Một thứ nước đôi, không chắc hư cấu, cũng chẳng hiện thực.” 

Hầu hết những con người xuất hiện trong tác phẩm đều vô danh, họ chỉ được gọi bằng các chức danh nghề nghiệp như: thi sĩ, nhà nhân học, quy hoạch gia, chàng nhạc sĩ, nhà thám hiểm, ngài khâm sứ, đan sĩ, hoàng đế, nhà biên khảo, nhà văn… Bằng cách đó, con người hòa vào những địa danh vốn cũng không được đặt tên riêng trong tác phẩm như: Hồ, Suối, Thác, Đồi, con đập…

Giữa những mơ hồ về thân phận của con người và nơi chốn, nước – một “nhân vật” vô danh khác trong tác phẩm – lại nổi lên như một đối tượng dẫn lối cho tất cả mọi thứ. “Nước đã xuyên qua vách ngăn của da thịt, để con người trở nên trong suốt và tự do.” Có lẽ vì thẩm thấu được mọi thứ nên nước dường như là phương tiện duy nhất có thể xuyên qua vách ngăn phân định giữa thực và ảo được tạo ra bởi những lớp sương mù – vốn cũng là thứ thoát thai từ nước mà thành.

Và theo dòng chảy của nước, trò chơi giữa có và không trong Thành phố những lục địa bay cứ thế diễn ra khoan thai, chậm rãi, nhưng nhiều day dứt. Tuy nhiên, dẫu có nhiều màn sương mơ hồ được giăng ra, người đọc cũng sẽ khó mà hoặc thậm chí là không muốn thoát ra khỏi thứ khiến mình đang băn khoăn ấy. Bởi lẽ, bằng chính việc không chối bỏ sự mơ hồ, dần dần ta sẽ nhìn rõ được mọi thứ. Thành phố những lục địa bay chính là một cái nhìn thấu suốt về Đà Lạt giống như thế.

Nguồn: L'Officiel

Đọc bài viết

Phía sau trang sách

Tiếng Kiều đồng vọng: Thế giới như một khoảng không chật hẹp

Published

on

By

Sự tổn thương sẽ mang lại những tia lấp lánh cho con người trưởng thành dường như chưa bao giờ là bài học cũ kĩ. Tiểu thuyết Tiếng Kiều đồng vọng (tên cũ Mưa ở kiếp sau) của Đoàn Minh Phượng chính là tiếng vọng đến từ một cuộc đời như thế.

Tiếng Kiều đồng vọng kể về cuộc đời của Mai. Mai sinh ra và lớn lên với mẹ Liên ở Hà Nội. Từ nhỏ, cô không biết cha mình là ai và luôn mong muốn được gặp cha. Cơ hội cuối cùng cũng đến khi dì Lan – em gái của Liên từ Huế vào Hà Nội thăm hai mẹ con đã tiết lộ cho Mai địa chỉ của cha Mai ở Sài Gòn. Từ đây, Mai phải lựa chọn rời xa tổ ấm để lên nơi phồn hoa đô thị nhiều cạm bẫy dối trá với ước vọng được đón nhận tình yêu thương từ cha mà bấy lâu cô thiếu thốn.

Trưởng thành từ sự tổn thương

Ảnh: Facebook Tao Đàn

Thông qua hành trình tìm cha của Mai, ta còn thấy xuất hiện một hành trình khác, cũng quan trọng không kém: hành trình tìm lại bản ngã của chính cô - một người luôn bị mắc kẹt trong những câu hỏi thuộc về quá khứ. Có lẽ, khi người ta bắt đầu học cách đưa ra câu trả lời cho những nghi vấn trớ trêu mà số phận đặt ra, dù tiếng vọng cuối cùng chưa hẳn là một đáp án tiệm cận nhất với sự thật thì rốt cuộc, ta cũng dần tiến đến sự trưởng thành bản ngã - thời khắc cái tôi cá nhân phải tự phá vỡ vỏ trứng bảo bọc an toàn tưởng chừng vững chắc như một thành trì nhưng hóa ra lại chỉ mong manh như một làn sương dệt từ những mơ hồ bất quyết. Chỉ khi thành trì ấy sụp đổ, làn sương ấy lùi lại phía sau con người vừa bước ra từ sự tổn thương, chính khi ấy ta mới có thể nhìn rõ hơn thế giới với trọn vẹn hương sắc của nó. Tiếng Kiều đồng vọng chính là tiếng vọng đến từ một cuộc đời như thế. Sự tổn thương sẽ mang lại những tia lấp lánh cho con người trưởng thành dường như chưa bao giờ là bài học cũ kĩ.

Nội dung cơ bản của Tiếng Kiều đồng vọng có nhiều yếu tố tương tự với bộ phim Hạt mưa rơi bao lâu do Đoàn Minh Phượng làm đạo diễn và biên kịch, sản xuất năm 2005. Cả hai người con trong tác phẩm này đều không rõ cha mình là ai, đều tự thân tìm hiểu câu chuyện quá khứ vì cùng có người mẹ trung thành tuyệt đối với sự im lặng. “Những kỷ niệm khác nằm trong niềm im lặng của mẹ tôi, niềm im lặng dài hai mươi hai năm, dài bằng đời tôi và nửa đời của mẹ.” Mai đã từng cảm thán như thế về sự im lặng của mẹ. Im lặng là một từ khóa quan trọng, được lặp lại nhiều lần trong Tiếng Kiều đồng vọng. Bản thân Hạt mưa rơi bao lâu cũng có tên phim trong tiếng Anh là Bride of Silence. Như vậy, có thể thấy rằng, sự im lặng hay thân phận của người phụ nữ bị mất tiếng nói trong xã hội là chủ đề có sức ám ảnh lớn với tác giả Đoàn Minh Phượng. Khi những người con sống dưới cái bóng im lặng của người mẹ, họ càng có thôi thúc mạnh mẽ hơn trong việc đi tìm câu trả lời cho một quá khứ bất minh. Thoát khỏi sự im lặng, tự cất lên tiếng nói cho chính mình – đó là một trong những bước đầu tiên để trưởng thành, như cách Mai đã dứt khoát nói với mẹ vào ngày cô rời đi rằng: "Con hai mươi hai tuổi, con trưởng thành đã bốn năm rồi mẹ."

Nước bao bọc kí ức để tiếng nói được cất lên

Ảnh: Facebook Tao Đàn

Mưa ở kiếp sau (tên cũ của Tiếng Kiều đồng vọng) là một tiêu đề gợi hình; trong khi đó, Tiếng Kiều đồng vọng lại là một tiêu đề gợi âm. Thử tìm cách lí giải sự thay đổi này, ta sẽ nhận ra một số điều thú vị.

Ở phần mở đầu tác phẩm, Đoàn Minh Phượng có trích dẫn lời bài hát Within you, Without you của nhóm The Beatles do George Harrison sáng tác với phần lời như sau:

“Ngày sẽ đến khi em nhận ra chúng ta đều là nước.
Cuộc đời trôi bên trong em và bên ngoài em...”

Câu gốc bài này trong tiếng Anh là:

“And the time will come when you see we're all one.
And life flows on within you and without you.”

Thông qua đó, có thể thấy tác giả đã có dụng ý khi thay “one” bằng “nước”. Nước rõ ràng là một hình ảnh rất quan trọng với Đoàn Minh Phượng trong tác phẩm này vì bản thân “mưa” ở tiêu đề cũ cũng là một yếu tố thuộc nước. Vậy dưới ngòi bút của tác giả, nước mang ý nghĩa gì?

“Một câu chuyện không có lời giống như một cơn mưa không có giọt nước từ trời. Tôi sẽ đi tìm lời cho những gì tôi biết.”

Như vậy, nước trong tác phẩm này tượng trưng cho “lời,” cho kí ức – là điều Mai luôn tìm kiếm, đồng thời cũng là điều bao bọc Mai như cách cô ví von: “Tôi còn là loài cá đầu to nằm còng queo trong lòng đại dương chật hẹp, trong bụng của người mẹ chửa hoang.” Vì “sự im lặng” của mẹ Mai là nguồn cơn khởi phát cho hành trình của Mai nên có thể xem như “nước” – một  hiện thân của “lời” – chính là đích đến, đồng thời là phương tiện để Mai hiện thực hóa mục tiêu của mình.

Do đó, so với Mưa ở kiếp sau, Tiếng Kiều đồng vọng là một tiêu đề thể hiện sự chuyển biến tích cực. Mai không còn chờ “mưa”/ “lời giải đáp” ở kiếp sau nữa, cô tìm nó ngay trong kiếp này để cất lên thành một tiếng vọng, phá tan sự im lặng của mẹ cô, của những phận nữ nhi bị mất đi tiếng nói ở thế hệ trước.

Một giọng văn mềm mại nhưng ngầm cuộn sóng bên trong

Tiếng Kiều đồng vọng vẫn kể chuyện theo lối tuyến tính, nhưng khi trình bày các sự kiện diễn ra trong cái khuôn đó, Đoàn Minh Phượng vẫn cho phép dòng tự sự của nhân vật chảy miên man tự do, đi đi về về giữa quá khứ và hiện tại. Chính vì thế, dòng chảy tâm thức của nhân vật tuy được giọng văn mềm mại dẫn dắt nhưng vẫn ngầm cuộn sóng bên trong bởi lẽ chỉ cần rẽ qua một bước ngoặt nhỏ, sự kiện đau lòng nào đó trong quá khứ lại đột ngột ập đến; hoặc ngược lại, khi đang đắm chìm trong hồi tưởng êm đềm, bất thình lình hiện thực phũ phàng xâm chiếm và hủy hoại ta. Người đọc như bước đi trong mê cung, chỉ có thể tri nhận thế giới như một khoảng không chật hẹp trước mắt, không thể biết điều gì sẽ chờ đợi mình trong ngã rẽ kế tiếp.

Ở một thế giới mơ hồ thì những cái tên - vốn dĩ là phép định danh chống lại sự mơ hồ - càng được Đoàn Minh Phượng dụng công để có thể hòa quyện trong bầu không khí hư ảo. Ta có thể thấy tác giả không vội vàng giới thiệu tên họ, lai lịch đầy đủ của nhân vật ngay từ đầu theo lối kể chuyện tiểu sử quen thuộc. Nhân vật hiện lên thoạt tiên với những tâm tư, cuộc sống ập ngay trước mắt độc giả. Những thông tin bên lề sẽ đến sau. Mãi đến chương bốn, trong đoạn đối thoại với mẹ, người đọc mới biết nhân vật chính tên Mai. Nếu để ý kĩ, ta sẽ thấy hầu như những nhân vật trong truyện đều có tên gắn với một loài hoa: Mai, Liên, Lan, Quỳnh... Và Chi - một nhân vật đặc biệt trong tác phẩm này thì tên cô lại có nghĩa là “cành”, không phải là loài hoa đích thực mà có thể là cành cho bất cứ loài hoa nào.  

Những giấc mơ cũng là một yếu tố quan trọng trong Tiếng Kiều đồng vọng. Thông qua đó, Đoàn Minh Phượng xây dựng một thế giới tổn thương, quái lạ với những buổi tiệc kì dị của giới nhà giàu, có phần nào đó mang không khí tương đồng buổi tiệc của hội kín quí tộc mà Stanley Kubrick đã đặc tả rất kĩ lưỡng trong phim Eye Wide Shut (1999).

Sống trong thế giới hiện đại, những cô Kiều dưới ánh sáng thị thành dường như không còn giữ nổi tâm trí tỉnh táo. Họ hồ như đều có chung một dòng máu điên loạn và chỉ biết lặng nhìn dòng chảy ấy trôi qua nhiều kiếp người. Vì vậy, tiếng kêu của họ có thể không đứt ruột như người xưa do nỗ lực chôn vùi cảm xúc, nhưng lại trở thành những tiếng vọng được cộng hưởng vào nhau nên còn mãi ngân nga rất lâu sau khi Tiếng Kiều đồng vọng đã kết thúc.

Đọc bài viết

Cafe sáng